CÁ DIẾC
Con cá diếc trông gần giống như cá chép, nhưng nhỏ hơn.
Cá chép mỗi khi kho, nấu… thường phải cắt ra làm nhiều khúc (quê tôi gọi là xắt khúc). Chép nhỏ thì xắt đôi, chép to thì xắt ba, xắt tư. Cá diếc thường chỉ bằng ba, bốn đầu ngón tay. Hiếm có con nào to bằng bàn tay - to bằng bàn tay được gọi là diếc cụ.
Những cái ao ở làng tôi, nếu có nuôi cá thì người ta chỉ thả cá trắm, cá chép, cá trôi, cá mè. Còn những loài khác như con diếc, con thiểu, con mại, con thòng đong, lân cấn, hay mấy thứ cá đen như cá quả, cá sộp, cá trê, cá rô… thì không ai thả, nhưng không hiểu sao ao nào cũng sẵn. Người lớn bảo chúng tự sinh ra từ đất, từ nước.
Xưa hay bị mắng: Con Rô cũng tiếc, con Diếc cũng muốn.
Cá Diếc kho. |
-----
Cá diếc còn có tên khác là Tức ngư, phụ ngư. Ăn cá diếc có lợi cho kiện tỳ, lợi thấp, khai vị, hạ khí thông nhũ, thanh nhiệt giải độc. Dùng cho các trường hợp suy nhược, mỏi mệt ăn kém, tiêu chảy, kiết lỵ, phù, đại tiểu tiện xuất huyết. Lưu ý không dùng cá diếc khi mắc chứng bệnh có urê huyết cao hoặc hôn mê gan không nên ăn cá diếc. Ngoài ra cá diếc còn có công dụng phòng và chữa một số bệnh khác như: Cá diếc nấu với rau má mơ (rau má họ), ăn hàng ngày chữa đau gan vàng da; Cá diếc nấu với nấm hương làm tăng tiết sữa cần cho phụ nữ sau sinh; Cá diếc bỏ ruột, cho ít phèn chua (cục nhỏ), đốt tồn tính, tán mịn. Ngày uống 10g chia 2 lần. Chữa trẻ em bị phù, kiết lỵ ra máu; Cá diếc làm sạch, cho lá chè non vào đầy bụng, nướng chín. Ăn cả cá và lá chè. Chữa bệnh đái tháo đường (thể uống nước nhiều). . .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét