Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Em ơi! "Một, Chạp, Giêng, Hai" đến rồi đó. Phúc Lộc Thọ ... đơi ... !!!

壽          祿          
Tam đa Phúc Lộc Thọ đều là người Hán, sinh ra ở Trung Nguyên và đều làm quan to ở ba triều đại khác nhau. 

Ông Lộc, một quan tham chuyên ăn của đút.
Ông Thọ lại là vị quan thực dụng, xu nịnh vua để được ban thưởng lấy tiền mua gái đẹp.
Chỉ có Ông Phúc thanh liêm, ngay thẳng, con cháu đề huề, nhưng mà nghèo.
  
 Người Hoa Hạ thâm thuý. Họ khéo xếp ba vị quan to, ba tính cách khác nhau, ở ba triều đại khác nhau để răn đời: Đừng tham lam, đừng làm mọi cách để có được cả ba Phúc, Lộc, Thọ. Trên đời này không ai được, ai mất tất cả!
                  
Tượng ba vị này, thường được người ta đặt ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách, trên nóc tủ, có nhà còn làm cả bàn thờ rõ đẹp để thờ, cầu mong gia đình được "Tam đa". Nghĩ sao ở Nhật có TAM HẦU.
                                 
Xin được mở lòng miễn tội, gia chủ blog này chưa thờ ba ông. Nhưng nhờ Ơn Trên, nhà vẫn có nhiều mảnh ấm chén do các cháu nhỡ tay (có bát vỡ là nhà có Phúc, cổ nhân dạy vậy), cây sung góc vườn, thân già, hàng hàng chùm quả (có Lộc) và ông bà nhà cháu, tuổi hưu vẫn ăn uống được mới khổ chứ, vẫn sáng sáng quét sân, tối dạy cháu học đều đều... (kể như là được Thọ vậy).

Còn đây, hầu chuyện về ba ông "Phúc Lộc Thọ".
Đọc rồi, xin đừng cười 'miệng hình chữ nhật'. Tích xưa của người Hoa Hạ, phương Bắc, họ chiếm cả Giang Nam và còn định đồng hóa hết người tộc Việt. Thâm lắm!
Hãy cứ thờ đi, thờ đi mà có lộc văn, lộc hóa Trung Nguyên.

Bóng cau vườn nhà trong nắng thu phai.
Ông Phúc.
Ông này là Quách Tử Nghi, Thừa tướng đời Đường. Là quan to, được vua ban ruộng hàng trăm mẫu, nhưng ông lại đem chia bớt cho kẻ nghèo, suốt cuộc đời liêm trung, ngay thẳng. Không vì vinh hoa, phú quý mà mất nhân cách con người.
Cụ bà và cụ ông bằng tuổi nhau, hai cụ năm 83 tuổi đã có cháu ngũ đại nam tử.
Phúc to, phúc dày lắm lắm! Bởi thế cụ mới bế thằng bé, cháu ngũ đại, giữa đời, đứng giữa trời, nói to lên rằng: 'Nhờ giời, nhờ phúc ấm tổ tiên, ta được thế này, còn mong gì hơn nữa'. Cụ cười một hơi rồi 'hạc giá vân du'.
Cụ bà ra ôm lấy cụ ông và chít nội, than rằng: 'Tôi cùng tuổi, Phúc cũng đủ đầy, dày sâu, huống sao chẳng đi cùng'…
Dứt lời cụ bà cũng về cõi lạc. Con cháu hợp táng cho hai cụ. Vậy là, họ sống có nhau, chết cũng ở bên nhau. Hạnh phúc nào bằng. Về sau, cụ ông được người đời đặt tên là “Ông Phúc”.

Sung đâu đã già. Lộc vườn nhà ta đó.
Ông Lộc.
Tên ông là Đậu Từ Quân, sinh ở Giang Tây, đời Thục Hán, là Thừa tướng nhà Tấn. Nhưng là một quan tham. Tham lắm. Có biết bao nhiêu vàng bạc, châu báu, là của đút lót của những kẻ nịnh thần, mua quan, bán tước, chạy tội ..., dâng cho. Trong nhà Từ Quân, của nả chất cao như núi.
Vì tham, ăn nhiều của đút, bợ đỡ, biếu xén quan trên nên khi tuổi đã cao mà ông ta vẫn chưa về hưu, vẫn cố giữ bằng được cái ghế của mình để ăn bổng, ăn lộc, ăn của đút, rồi lại mang đi hối lộ. Đậu Từ Quân là điển hình cho thói 'tham quyền cố vị' của quan chức mọi thời.
Tới năm tám mươi tuổi mà vẫn chưa có đích tôn, quá lo nghĩ, buồn rầu,  ông đã sinh bệnh, ốm liệt giường (chắc là tai biến mạch máu não!?). Ông nằm đến thối thịt, nát da, hôi khẳn đến mức con cái không dám đến gần. Đến khi chết, Đậu Tử Quân không nhắm được mắt, ngửa mặt mà than 'Lộc của ta để cho ai đây? Ai giữ ấm chân nhang cho tổ tiên, cho bản thân ta?'. Rồi người "đi".
Người đời sau gọi Đậu Tử Quân là “Ông Lộc”. Tượng, tranh vẽ ông thường đội mũ quan. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, "lộc" phát âm gần với lục", tay cầm "cái như ý" hoặc thường có một con hươu đứng bên cạnh (hươu cũng được phát âm giống "lộc"). Ông là Thần Tài, người buôn bán hay thờ riêng ông này, nhưng trông bệ rạc lắm, thờ góc nhà, đủ đầy phẩm vật, lại được hút thuốc lá cắm vào que tăm khói lơ phơ. Hại cho sức khỏe lắm!

Nét cười như Mùa Thu tỏa nắng
Ông Thọ.
Ông là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng đời nhà Hán. Ông thích lộc của vua ban và ham mê gái đẹp. Người ta đồ rằng, trong dinh của Đông Phương Sóc, gái đẹp nhiều đến mức chẳng kém gì cung nữ của nhà vua.
Đông Phương Sóc cho rằng thọ là nhờ lấy âm dưỡng dương.
Có đồng liêu khuyên: 'Ông làm quan đầu triều mà không biết tìm lời phải, ý hay can gián nhà vua, chỉ biết nịnh vua để lấy thưởng thì làm quan để làm gì'. Ông vuốt râu bạc, cười khà: 'Làm quan không lấy thưởng thì tội gì mà làm quan'
Đông Phương Sóc thọ tới 125 tuổi (đời sau mới gọi “Ông Thọ”). Khi cụ chết thì con không còn, cháu cũng đã hết cơm, hết gạo, nên chắt phải làm ma, phải thay cha, thay ông, chở cụ nội. Vậy thì, làm quan như to Đông Phương Sóc, thọ như vậy phỏng là cực lắm ru?Hình ảnh Ông Thọ là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm quả đào, bên cạnh thường có thêm con hạc.
          
Theo wikipedia. Ảnh vanthekt.
           
Nhớ H. là HU có nói: " ... có ba ông tam đa", thôi không kể nữa, "nhạy cảm" và "bức xúc" lắm. (ghi chú: "nhạy cảm" và "bức xúc" là từ 'trực nhật' của hội nghị bây giờ).
                               
Tam hầu
PS. Tượng TAM HẦU.
Hình như ba tên này không làm quan, không biết có làm "nhân dân"?. Ở Nhật, tích này nhắc ta
muốn định tâm cần phải ngăn chặn nghiệp từ 6 căn (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý) và tác động của 6 trần (hình tường, âm thanh, hương, vị, rờ mó chạm xúc, suy tư) thông qua 6 căn ấy. Tiếng Nhât: Không thấy, không nghe, không nói - “Mi-zaru, kika-zaru, iwazaru”. Nên khi mua tượng, bạn chú ý nét "tĩnh", ví như con hai tay bịt mồm, phải kín cả mũi...
                        
                                     


Nghe Secret Garden, ta bỏ lo toan vụn vặt thường ngày, thả mình vào những giấc mơ, những giấc mơ xa! Đó là lúc những điệu nhạc du dương nâng cánh tâm hồn, bay đi vào ánh trăng đêm rời rợi, mượt mà, đằm thắm.

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Chim Yến bay

Ảnh blog Hải Yến
Chim yến bay
Cánh của mắt ta nhìn
Cánh của lời ta gọi
Cánh của lòng ta nhớ em ...     
...
Bay qua, bay đi chim yến nhỏ
Từng tuổi thơ tìm dấu chân
Trên cánh đồng em nghiêng nón
Lúa dậy thì hương trẻ và hoàng hôn ...                                      
Bay qua bay đi ...




Bài hát
Chim Yến bay 
Sáng tác: Nguyên Nhung
Thơ: Lê Thị Mây

              

Ngày cát lợi

Ngày Nhà Giáo Việt Nam, năm nay là "ngày đẹp",
đẹp tự nhiên chứ không  "ăn theo" ...

Ngày 20112011.

Thầy đồ dạy học
Thầy đồ, đầu TK XX
Bác Hồ trồng cây
  Công viên Thống Nhất 11/1/1960.
Kỳ thi hương xưa
Thầy Chu Văn An (1292-1370),
"Vạn thế sư biểu".



Thầy Ngô Thúc Lanh (sinh 1923),
"Người thầy của ngành Toán SP",
Thân sinh bạn tôi. Ngô Trung Việt.

Thầy dạy tôi "ĐS tuyến tính".
Thầy Nguyễn Văn Mậu,
nhà toán học đầu ngành,
  HD tôi làm "Toán tử đại số".



Cả một đời tôi, ...
           dạy vài "tương đối".
Nhóm topology 1972 C3 ĐHSP Hanoi
Từ phải, đứng. Đào Văn Kính, Phạm Văn Thế
Ngồi, từ phải. Dương Lương Sơn, Ngô Văn Chiến
Tháng Tư 1972, tạm biệt "không gian", tôi nhập ngũ.
... Sự tôn kính ồn ào, đẫm lệ ở xứ ta nhiều khi lại chính là cái vỏ vờ vĩnh để che lấp đi cái khổ sở của ngành giáo dục, cái chật vật nhọc nhằn, nhiều khi đành chịu cả nhục, của đời sống của các thày cô.

ĐƯƠNG NHÂN BẤT NHƯỢNG Ư SƯ !

Luận  ngữ  là cuốn sách số một, sách cái của đạo Nho. Trong đoạn 35 của chương Vệ Linh Công, học trò từng ghi lại một lời dạy của Khổng Tử: Đương nhân bất nhượng ư sư  (làm điều nhân thì dẫu thầy mình, mình cũng không nhường.)
      Đạo Nho thường được miêu tả là hay đưa ra những lễ nghi nghiêm khắc, những ràng buộc tuyệt đối. Sư (thầy học)  là một trong ba ngôi bề trên (quân sư phụ) mà người ta phải phục tùng vô điều kiện.
      Vậy mà ở đây, Khổng Tử lại giả định cho người ta một khả năng “nổi loạn” với nghĩa có những việc không nhường thầy. Tại sao vậy ?
      Để trả lời câu hỏi này, trước tiên cần nói qua về khái niệm nhân. Đây không phải chữ nhân là người. Mà chữ nhân này trong ký tự gồm chữ nhân đứng và chữ nhị, để chỉ quan hệ hai người, và mở rộng là quan hệ người với người nói chung.
      Thông thường ở ta, các bậc trí giả chỉ xem nhân như nhân từ nhân ái, tức yêu người thương người. Còn theo cách giải thích của các nhà nghiên cứu Nho giáo Trung quốc hiện nay, thì nhân trong câu trên nghĩa là “cái đạo lý khiến cho con người trở thành người”.
      ( Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê khi dịch Luận ngữ đã chú thích “nhân là điều ai cũng nên làm, hết sức mà làm“, tức những việc lớn ở đời, cũng đã khá gần với cách hiểu hiện đại nói trên).
     Nhưng hãy trở lại với cái ý tổng quát trong câu Đương nhân bất nhượng ư sư. Ở đây có ẩn một quan niệm về giáo dục cũng như về lễ nghĩa. Tự nó giáo dục không phải là mục đích. Sở dĩ việc học quan trọng vì nhờ nó người ta có thể hoàn thiện mình để mang mình ra giúp đời.
     Và quan hệ thầy trò không phải là những quy định xã hội ép chặt từng cá nhân vào một chỗ cố định, càng không phải là những giới hạn ràng buộc người ta trong hành động.
      Quay trở lại với tình hình giáo dục Việt Nam.
       Được tiếng là theo Nho giáo, nhưng một quan niệm về chữ nhân như trên với ta rất ít được nhắc tới.
       Khi bàn về giáo dục và ông thầy, câu đầu tiên mà người ta nhắc nhau là Nhất tự vi sư bán tự vi sư.     
      Đằng sau lối nói số học “nửa chữ cũng là thầy “, người nói ngầm đe người nghe rằng ở đây có những giới hạn, và giới hạn này là tuyệt đối.
      Tôi đã là thầy anh một lần thì mãi mãi là thầy anh, không bao giờ anh vượt được tôi cả.
      Rộng ra mà nói, lớp hậu sinh phải biết yên phận trong những gì quá khứ đã vất vả chiếm lĩnh. Và sẽ vĩnh viễn là cái trật tự đã hình thành, người đi sau cứ phải theo đó mà đi, đừng tính chuyện làm khác.
       Từ góc độ của một người từng đi học và khi ra đời sống với những người làm nghề chữ nghĩa, tôi đọc được ở đây cái lời cảnh cáo ngầm như vậy.
      Có thể Nhất tự vi sư bán tự vi sư  cần thiết cho những học trò lười biếng ngỗ ngược. Thế nhưng đối với lớp hậu sinh có chí khí có tài năng và nghị lực thì là cả một bước ngăn trở.
      Khổ một nỗi là cái tinh thần nệ cổ này, từ ngành giáo dục đang trở thành một kiểu tư duy của người mình, một nguyên lý chi phối cả xã hội.
     Nhân danh lễ nghĩa, người ta hạn chế khao khát sáng tạo của lớp trẻ.
     Đáng lẽ phải lo đào tạo cho được một lớp trẻ ngày một khá hơn- con hơn cha là nhà có phúc -- thì người ta lấy lớp già ra làm cái trần, làm giới hạn, làm chân trời của họ.
     Đáng lẽ phải lo trung thành với tương lai thì người ta chỉ biết kêu gọi trung thành thụ động với quá khứ.
     Tại sao lại thịnh hành một lối nghĩ như vậy? Chỉ có thể hiểu được điều này nếu nhìn thẳng vào thực trạng non kém của nghề thầy giáo suốt thời trung đại và còn kéo đến tận ngày nay.
     Phan Kế Bính trong Việt nam phong tục (1915) đã nói tới cái tình trạng “mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ để hồ khẩu“ (hồ ở đây  vốn có nghĩ là keo dính; từ cổ hồ khẩu có nghĩa kiếm sống).
      Đám thầy này rất hay vòi vĩnh “nào khi nhà thầy có giỗ nào khi thầy lấy vợ” việc gì cũng lôi đồng môn (tức đám học trò và kéo theo là phụ huynh gia đình họ) ra bắt gánh vác.
      Đã có tình trạng ăn bám (được Phan Kế Bính gọi là cái mọt của thiên hạ),  thì tự nhiên có sự huyênh hoang lên mặt. Người ta thích nhắc đi nhắc lại rằng mình là khuôn vàng thước ngọc. Chữ lễ theo nghĩa tốt đẹp của đạo Nho bị tầm thường hóa, biến thành sợi dây ràng buộc và che giấu cho sự trì trệ.    
      Tình trạng này đến nay vẫn đang được tiếp tục và có lúc trở nên kỳ quặc quá quắt nữa.
      Một nền giáo dục tốt đẹp thường có những ông thầy lớn, niềm tự hào chủ yếu của họ là đào tạo được những học trò tài giỏi hơn mình. Chính là ở chỗ vượt thầy mà người đi sau thể hiện sự tôn trọng cao nhất đối với thầy, và tiến bộ xã hội nhờ đó mà được đẩy tới.
      Nhưng ở ta, khi vào dịp thân tình, tôi hỏi một vài giáo sư đầu ngành khoa học xã hội rằng ông có đào tạo được người học trò nào hơn mình không thì các ông đều lúng túng. Thông thường các ông cho rằng đòi hỏi như thế là quá cao, trước mắt phải chấp nhận hoàn cảnh Việt Nam đã.
      Câu chuyện khi tới chỗ ấy tôi đành lảng và lạy trời tha lỗi, mạo muội đoán thêm rằng trong thâm tâm, hình như vấn đề này không có trong đầu óc các vị nữa.
     Cũng như trong đầu óc các vị không hề có chuyện đương nhân bất nhượng ư sư!