Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Cẩm Giàng - Sông Gấm


Mảnh đất này có cách đây gần bốn trăm năm, trong thư tịch cổ gọi là Cẩm Giang (sông Gấm), rồi sau vì tránh tên huý của chúa Trịnh Giang mà đổi, gọi chệch thành Cẩm Giàng. Phía bắc thị trấn là ngã ba sông, mềm mại nh­­ư dải lụa. Đây là chỗ giao thoa hai vùng văn hoá quan họ Kinh Bắc và vùng văn hoá hào hiệp, khoa cử xứ Đông. Từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 đất này thuộc xã Kim Quan, tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giàng.


Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838) lỵ sở huyện Cẩm Giàng từ thôn Trữ La chuyển về khu đất phía đông bắc thôn Kim Quan cùng xã. Thế là  Kim Quan thành danh giá, thành thủ phủ Cẩm Giàng, có  huyện đường đông vui sầm uất. Vì thế, chẳng bao lâu ở cái đất đồng bằng, có ngã ba sông, hình thành phố lẻ, chợ nhỏ, thu hút dân các vùng về đây lập nghiệp. Từ khi có cầu Cẩm Giàng, ga xe lửa thì đất lỵ sở ngày càng có giá, việc đi lại buôn bán càng tấp nập. Khoảng năm 1925 xảy ra  mâu thuẫn về đất cát, quyền lợi của nhân dân và hương lý sở tại, và để giải quyết mâu thuẫn đó, ở đây đã lập ra khu vực hành chính riêng,  tách làng thành phố(tức phố thuộc làng). Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng phải đến tháng 4 năm 1946 xã Kim Giang mới được thành lập. Khu phố có huyện lỵ đóng nằm trên địa bàn xã Kim Giang. Hơn chục năm sau, ngày 19 tháng 9 năm 1958 Uỷ ban hành chính liên khu 3 quyết định thành lập thị trấn Cẩm Giàng trên cơ sở phố huyện cũ. Vậy là thị trấn Cẩm Giàng trở thành một trong 19 đơn vị cơ sở hành chính của huyện Cẩm Giàng- một huyện nổi tiếng về hiếu học và khoa bảng.

         

Thị trấn Cẩm Giàng có chiều dài gần một nghìn mét, nằm dọc tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng. Dấu hiệu nhận ra cái phố huyện bé nhỏ này là cây cầu sắt dài 35 mét, bắc trên sông Cẩm Giàng từ năm 1901.
Không chỉ  là vựa lúa, là trung tâm kinh tế của huyện, miền đất ấy còn là nơi giao thông thuận lợi, trên bến d­­ưới thuyền, có mối giao thương với các huyện Bình Giang, Mỹ Hào( Hưng Yên), Lang Tài, Gia Bình ( Kinh Bắc). Ga Cẩm Giàng là cái gạch nối giữa Hải Phòng và Hà Nội. Đ­ư­­ờng bộ, đ­­ường sắt, đường thuỷ đi các tỉnh bạn dễ dàng, bán buôn trao đổi với các vùng  tiện lợi, nên dân tứ chiếng về đây lập c­­ư, coi là đất lành cò đậu. Từ đời này qua đời khác, họ sinh sôi nẩy nở, làm ăn buôn bán rồi thành người Cẩm Giàng, chứ chẳng mấy ai quê gốc, trừ rất ít người từ xó lân cận dịch chuyển về. Đất chật, như­­ng thị trấn hội đủ yếu tố thiên nhiên, con ng­­ười và không gian văn hoá, nó tiêu biểu cho cả một vựng quê có truyền thống khoa bảng từ đời xưa.

          Sử sách nước ta còn ghi, năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông có ông Lê Văn Thịnh, người Kinh Bắc đã khai khoa cho sĩ tử nước nhà. Lại đến năm 1086, ông Mạc Hiển Tích, quê Nam Sách là người mở khoa cho cỏc nho sĩ xứ Đông. Phải gần 100 năm sau (năm 1185), ông Bùi Quốc Khái, quê Ngọc Liên là người   mở đầu cho khoa cử trên đất Cẩm Giàng . Ông Khái học  tài, như­ng không chịu đi thi. Khi 44 tuổi mới ra ứng thí, đỗ hội nguyên, làm quan đến chức Đô ngự sử d­ưới thời vua Lý Cao Tông. Khi triều đình đổ nát, gian thần lộng hành, ông treo ấn từ quan, xuất gia đầu Phật, thọ 93 tuổi. Dân chúng thờ ông ở chùa Thiên Niên gần hồ Tây, và đặt bài vị thờ ở đình làng Trinh Sài – Hà Nội.

Khoa thi 1246- Thiên ứng Chính Bình 15, triều Trần có lệ lấy Tam khôi, thì ông Phạm Văn Tuấn, xã Cẩm Vũ đỗ Bảng nhãn. Đây là vị tam khôi đầu tiên ở Xứ Đông  xư­a. Cẩm Giàng có nhiều ngư­ời cùng đỗ trong một khoa thi. Đó là khoa  năm 1484 triều vua Lê Thánh Tông có tới 5 ngư­ời đỗ Hoàng giáp và Tiến sĩ. Ngoài ra chư­­a kể cú khoa thi tới  ba, bốn ngư­ời cùng đỗ. Xã Cẩm Sơn  có 11 vị tiến sĩ, hoặc xã Ngọc Liên có 8 tiến sĩ đều là niềm tự hào của quê hư­ơng.
Theo Văn chỉ Cẩm Giàng, thì từ khoa năm 1185, khi có vị tiến sĩ đầu tiên, cho đến khoa 1754, trải dài 569 năm, qua 44 khoa thi dư­ới các triều đại,  có 59 vị đại khoa, chiếm 1,97% tiến sĩ cả n­ước. Khoa thi 1754, niên hiệu Cảnh H­ưng 15- Lê Hiển Tông, ông Nguyễn Điệu Huyễn, xã Ngọc Liên là ngư­ời đỗ tiến sĩ cuối cùng trên đất Cẩm Giàng.
     Từ năm 1655 ở đây có Văn chỉ, ghi tên các nhà khoa bảng trong  huyện. Năm 1920, trường Kiêm bị là trường học đầu tiên duy nhất thành lập, cho học sinh cả huyện đến học tập.
     Có phải phong thổ Cẩm Giàng đã tạo ra gần sáu chục đại khoa thời trước, trong đó thôn Kim Quan (sau này tách ra thành một phần thuộc đất thị trấn) có 6 tiến sĩ,  để đời sau đã sinh ra tài năng văn học trong một gia đình có ba anh em ruột là các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam? Cả ba người đều là người sáng lập, trụ cột của Tự lực văn đoàn, một tổ chức văn chương nổi tiếng trên văn đàn nước nhà từ những năm ba mươi thế kỷ trước.

Phố huyện Cẩm Giàng.
     Sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta, thực dân Pháp bỏ cấp phủ. Tri phủ  đóng ở huyện nào thì trực tiếp cai trị huyện ấy.
     Cẩm Giang ngày xưa, bây giờ gọi Cẩm Giàng, có một phố huyện nhỏ, lại nghèo cách tỉnh lỵ Hải Dương chừng hơn chục cây số theo đường chim bay, còn về Hà Nội lại tròn bốn mươi cây số. Ở đây có đường đá về tỉnh lỵ Hải Dương, đường về thị trấn Sặt, đường liên tỉnh sang tận Lang Tài , Bắc Ninh lân cận. Vì thế phố huyện tuy nhỏ hẹp nhưng cũng là nơi thông thoáng với ngoài. Đó là chưa kể đầu phố còn có dòng sông, một thời thuyền mắm muối từ xứ Nghệ, Hà Tĩnh lần ra tận đây trao đổi hàng hoá rồi ra đi.. Phố huyện thời ấy lèo tèo mấy căn nhà gạch, còn lại mấy chục căn nhà tranh tre nứa lá nằm sát con đường sắt Hà Nội - Hải Dương. Bốn chung quanh là cánh đồng quê, và xa tít là những luỹ tre xanh ngắt bao bọc lấy làng xóm ngàn đời lam lũ nắng mưa.

Ga Cẩm Giàng là món quà vô giá đối với cái phố huyện nửa cổ nửa kim này. Tuy chỉ là chiếc ga xép, lại bị ép chặt bởi đoạn đường sắt chạy qua, không thể phình ra được… nhưng phố huyện tự hãnh diện vượt lên trước các làng xã xung quanh. Không chỉ tự hào là đất huyện lỵ, là nơi giao lưu buôn bán khu vực, còn là chỗ tụ tập tinh hoa của vùng. Những tin tức, chuyện lạ gần xa khắp nước được ùa vào cái phố nhỏ này thường qua mồm khách đi tàu. Chuyện chính trị, quốc gia, quốc tế theo con tàu mỗi ngày lên xuống Hải Phòng, Hà Nội rồi gửi lại chỉ cần một ít lâu dần cũng thành nhiều. Thành ra có người bảo con gái phố huyện khôn ngoan và thạo giỏi  hơn, đẹp hơn con gái làng khác. Vậy mà ga Cẩm Giàng chỉ lèo tèo vài chiếc quán dựng tạm bợ, hai bên trồng rào găng. Đến mùa, găng chín đỏ hấp dẫn bọn trẻ con nhà nghèo, nhưng chẳng mấy đứa dám ăn, bởi nó có mùi vị hắc đáng sợ. Đêm đêm,  những khi có chuyến tàu ngược xuôi, thì hình như có một bàn tay vô hình đánh thức, phố ga choàng tỉnh dậy  rộn rã ào ạt lên chốc lát. Tiếng bánh xe sắt nghiến đường ray xa dần, thì đêm đen lại lọt thỏm vào cảnh vắng vẻ, buồn thiu.
     Tiếng là huyện lỵ giữa một vùng đồng bằng, nhưng bấy giờ nó chỉ sang hơn làng quê khác nhờ cái chợ và mấy hiệu bán hàng của Hoa kiều, ông hai Phóng, tư Vầy, bà năm Tầu. Cuối phố có lối rẽ  xuống bến đò sông Sen, hai bên xanh biếc những dặng tre. Người đi qua lối này đều ngó vào cổng huyện màu xám, có hai người lính lệ đứng gác như hai con tốt đỏ trong bộ quân tam cúc, nhưng vẫn phảng phất của chút uy quyền của một chính phủ bù nhìn cho Pháp . Những ngày nắng còn đỡ, chỉ cần mưa một ngày đêm, cả phố huyện sũng nước và nhầy nhụa bùn như thể ruộng bừa chuẩn bị cấy. Và cái phổ ga càng ảm đạm, buồn thiu, thấp thoáng vài con người lầm lũi, tan vào các con đường nhỏ, rồi mất hút trong các luỹ tre xanh.
Bài thơ của Nguyễn Duy Huệ, ông giáo về hưu, từng sống những năm trên đất này, tuy mới  chấm phá nhưng vẫn gợi lên nét sinh hoạt khá sinh động nơi phố huyện Cẩm Giàng:
Bạn cũ giờ này sống nơi đâu?
Có còn nhớ buổi  tắm chân cầu
V­ườn chùa hái ổi ai trèo nữa
Lỗ đáo sân ga bỏ đã lâu.


Nhà th­ương ông ký ngồi xem truyện

Ngõ cụt thằng tây huýt sáo mồm
Im bặt sân trư­ờng ông đốc nói
Buồn thiu mẹ ốm đã m­ươi hôm...

Chuồn chuồn bay thấp cơn m­ưa tới
Cá nổi ao nghè lá rụng them
Hành khất quẩn quanh quầy thuốc bắc
Cụ già dắt cháu bư­ớc qua thềm.

Cổng chợ cò cư­a ông xẩm hát
Cửa quan cậu ấm đứng tồng ngồng
Trong nhà cụ chánh lau khăn áo
Tới dự phiên chầu buổi nghị đông.


Chính cái phố huyện bé nhỏ, buồn thiu ấy là nơi chôn rau cắt rốn của một dòng họ mà sau này sinh ra những nhà văn nổi tiếng trên văn đàn nước nhà: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, từng làm trụ cột  Tự Lực văn đoàn những năm 1930 –1945 ở nước
     Nhưng cũng ít người biết những nhà văn ấy nguồn gốc họ Nguyễn Tường. 



Khúc Hà Linh.

1 nhận xét:

  1. Bài viết thú vị!
    Hóa ra Cẩm Giàng chính là do đọc trại Cẩm Giang ( sông Gấm) vì kiêng húy!

    Trả lờiXóa