Mảnh đất này có cách đây gần bốn trăm năm, trong thư tịch cổ gọi là Cẩm Giang (sông
Gấm), rồi sau vì tránh tên huý của chúa Trịnh Giang mà đổi, gọi chệch thành Cẩm
Giàng. Phía bắc thị trấn là ngã ba sông, mềm mại như dải lụa. Đây là chỗ giao
thoa hai vùng văn hoá quan họ Kinh Bắc và vùng văn hoá hào hiệp, khoa cử xứ
Đông. Từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 đất này thuộc xã Kim Quan, tổng Kim
Quan, huyện Cẩm Giàng.
Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838) lỵ sở huyện Cẩm Giàng từ thôn Trữ La chuyển về
khu đất phía đông bắc thôn Kim Quan cùng xã. Thế là Kim Quan thành danh
giá, thành thủ phủ Cẩm Giàng, có huyện đường đông vui sầm uất. Vì thế, chẳng
bao lâu ở cái đất đồng bằng, có ngã ba sông, hình thành phố lẻ, chợ nhỏ, thu
hút dân các vùng về đây lập nghiệp. Từ khi có cầu Cẩm Giàng, ga xe lửa thì đất
lỵ sở ngày càng có giá, việc đi lại buôn bán càng tấp nập. Khoảng năm 1925 xảy
ra mâu thuẫn về đất cát, quyền lợi của nhân dân và hương lý sở tại, và để
giải quyết mâu thuẫn đó, ở đây đã lập ra khu vực hành chính riêng, tách
làng thành phố(tức phố thuộc làng). Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng phải
đến tháng 4 năm 1946 xã Kim Giang mới được thành lập. Khu phố có huyện lỵ đóng
nằm trên địa bàn xã Kim Giang. Hơn chục năm sau, ngày 19 tháng 9 năm 1958 Uỷ
ban hành chính liên khu 3 quyết định thành lập thị trấn Cẩm Giàng trên cơ sở phố
huyện cũ. Vậy là thị trấn Cẩm Giàng trở thành một trong 19 đơn vị cơ sở hành
chính của huyện Cẩm Giàng- một huyện nổi tiếng về hiếu học và khoa bảng.
Thị trấn Cẩm Giàng có chiều dài gần một nghìn mét, nằm dọc
tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng. Dấu hiệu nhận ra cái phố huyện bé nhỏ này là
cây cầu sắt dài 35 mét, bắc trên sông Cẩm Giàng từ năm 1901.
Không chỉ
là vựa lúa, là trung tâm kinh tế của huyện, miền đất ấy còn là nơi giao thông
thuận lợi, trên bến dưới thuyền, có mối giao thương với các huyện Bình Giang,
Mỹ Hào( Hưng Yên), Lang Tài, Gia Bình ( Kinh Bắc). Ga Cẩm Giàng là cái gạch nối
giữa Hải Phòng và Hà Nội. Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ đi các tỉnh bạn
dễ dàng, bán buôn trao đổi với các vùng tiện lợi, nên dân tứ chiếng về
đây lập cư, coi là đất lành cò đậu. Từ đời này qua đời khác, họ sinh sôi nẩy
nở, làm ăn buôn bán rồi thành người Cẩm Giàng, chứ chẳng mấy ai quê gốc, trừ rất
ít người từ xó lân cận dịch chuyển về. Đất chật, nhưng thị trấn hội đủ yếu tố
thiên nhiên, con người và không gian văn hoá, nó tiêu biểu cho cả một vựng
quê có truyền thống khoa bảng từ đời xưa.
Sử sách nước ta còn ghi, năm 1075 dưới triều
Lý Nhân Tông có ông Lê Văn Thịnh, người Kinh Bắc đã khai khoa cho sĩ tử nước
nhà. Lại đến năm 1086, ông Mạc Hiển Tích, quê Nam Sách là người mở khoa cho cỏc
nho sĩ xứ Đông. Phải gần 100 năm sau (năm 1185), ông Bùi Quốc Khái, quê Ngọc
Liên là người mở đầu cho khoa cử trên đất Cẩm Giàng . Ông Khái học
tài, nhưng không chịu đi thi. Khi 44 tuổi mới ra ứng thí, đỗ hội nguyên, làm
quan đến chức Đô ngự sử dưới thời vua Lý Cao Tông. Khi triều đình đổ nát, gian
thần lộng hành, ông treo ấn từ quan, xuất gia đầu Phật, thọ 93 tuổi. Dân chúng
thờ ông ở chùa Thiên Niên gần hồ Tây, và đặt bài vị thờ ở đình làng Trinh Sài –
Hà Nội.
Khoa thi
1246- Thiên ứng Chính Bình 15, triều Trần có lệ lấy Tam khôi, thì ông Phạm Văn
Tuấn, xã Cẩm Vũ đỗ Bảng nhãn. Đây là vị tam khôi đầu tiên ở Xứ Đông xưa.
Cẩm Giàng có nhiều người cùng đỗ trong một khoa thi. Đó là khoa năm 1484
triều vua Lê Thánh Tông có tới 5 người đỗ Hoàng giáp và Tiến sĩ. Ngoài ra chưa
kể cú khoa thi tới ba, bốn người cùng đỗ. Xã Cẩm Sơn có 11 vị tiến
sĩ, hoặc xã Ngọc Liên có 8 tiến sĩ đều là niềm tự hào của quê hương.
Theo Văn chỉ
Cẩm Giàng, thì từ khoa năm 1185, khi có vị tiến sĩ đầu tiên, cho đến khoa 1754,
trải dài 569 năm, qua 44 khoa thi dưới các triều đại, có 59 vị đại khoa,
chiếm 1,97% tiến sĩ cả nước. Khoa thi 1754, niên hiệu Cảnh Hưng 15- Lê Hiển
Tông, ông Nguyễn Điệu Huyễn, xã Ngọc Liên là người đỗ tiến sĩ cuối cùng trên đất
Cẩm Giàng.
Từ năm 1655 ở đây có Văn chỉ, ghi tên các nhà khoa bảng trong huyện.
Năm 1920, trường Kiêm bị là trường học đầu tiên duy nhất thành lập, cho học
sinh cả huyện đến học tập.
Có phải phong thổ Cẩm Giàng đã tạo ra gần sáu chục đại khoa thời trước,
trong đó thôn Kim Quan (sau này tách ra thành một phần thuộc đất thị trấn) có 6
tiến sĩ, để đời sau đã sinh ra tài năng văn học trong một gia đình có ba
anh em ruột là các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam? Cả ba người đều là
người sáng lập, trụ cột của Tự lực văn đoàn, một tổ chức văn chương nổi tiếng
trên văn đàn nước nhà từ những năm ba mươi thế kỷ trước.
Phố huyện Cẩm
Giàng.
Sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta, thực dân Pháp bỏ cấp phủ.
Tri phủ đóng ở huyện nào thì trực tiếp cai trị huyện ấy.
Cẩm Giang ngày xưa, bây giờ gọi Cẩm Giàng, có một phố huyện nhỏ, lại
nghèo cách tỉnh lỵ Hải Dương chừng hơn chục cây số theo đường chim bay, còn về
Hà Nội lại tròn bốn mươi cây số. Ở đây có đường đá về tỉnh lỵ Hải Dương, đường
về thị trấn Sặt, đường liên tỉnh sang tận Lang Tài , Bắc Ninh lân cận. Vì thế
phố huyện tuy nhỏ hẹp nhưng cũng là nơi thông thoáng với ngoài. Đó là chưa kể đầu
phố còn có dòng sông, một thời thuyền mắm muối từ xứ Nghệ, Hà Tĩnh lần ra tận
đây trao đổi hàng hoá rồi ra đi.. Phố huyện thời ấy lèo tèo mấy căn nhà gạch,
còn lại mấy chục căn nhà tranh tre nứa lá nằm sát con đường sắt Hà Nội - Hải
Dương. Bốn chung quanh là cánh đồng quê, và xa tít là những luỹ tre xanh ngắt
bao bọc lấy làng xóm ngàn đời lam lũ nắng mưa.
Ga Cẩm Giàng là món quà vô giá đối với cái phố huyện nửa cổ nửa kim này.
Tuy chỉ là chiếc ga xép, lại bị ép chặt bởi đoạn đường sắt chạy qua, không thể
phình ra được… nhưng phố huyện tự hãnh diện vượt lên trước các làng xã xung
quanh. Không chỉ tự hào là đất huyện lỵ, là nơi giao lưu buôn bán khu vực, còn
là chỗ tụ tập tinh hoa của vùng. Những tin tức, chuyện lạ gần xa khắp nước được
ùa vào cái phố nhỏ này thường qua mồm khách đi tàu. Chuyện chính trị, quốc gia,
quốc tế theo con tàu mỗi ngày lên xuống Hải Phòng, Hà Nội rồi gửi lại chỉ cần một
ít lâu dần cũng thành nhiều. Thành ra có người bảo con gái phố huyện khôn ngoan
và thạo giỏi hơn, đẹp hơn con gái làng khác. Vậy mà ga Cẩm Giàng chỉ lèo
tèo vài chiếc quán dựng tạm bợ, hai bên trồng rào găng. Đến mùa, găng chín đỏ hấp
dẫn bọn trẻ con nhà nghèo, nhưng chẳng mấy đứa dám ăn, bởi nó có mùi vị hắc
đáng sợ. Đêm đêm, những khi có chuyến tàu ngược xuôi, thì hình như có một
bàn tay vô hình đánh thức, phố ga choàng tỉnh dậy rộn rã ào ạt lên chốc
lát. Tiếng bánh xe sắt nghiến đường ray xa dần, thì đêm đen lại lọt thỏm vào cảnh
vắng vẻ, buồn thiu.
Tiếng là huyện lỵ giữa một vùng đồng bằng, nhưng bấy giờ nó chỉ sang hơn
làng quê khác nhờ cái chợ và mấy hiệu bán hàng của Hoa kiều, ông hai Phóng, tư
Vầy, bà năm Tầu. Cuối phố có lối rẽ xuống bến đò sông Sen, hai bên xanh
biếc những dặng tre. Người đi qua lối này đều ngó vào cổng huyện màu xám, có
hai người lính lệ đứng gác như hai con tốt đỏ trong bộ quân tam cúc, nhưng vẫn
phảng phất của chút uy quyền của một chính phủ bù nhìn cho Pháp . Những ngày nắng
còn đỡ, chỉ cần mưa một ngày đêm, cả phố huyện sũng nước và nhầy nhụa bùn như
thể ruộng bừa chuẩn bị cấy. Và cái phổ ga càng ảm đạm, buồn thiu, thấp thoáng
vài con người lầm lũi, tan vào các con đường nhỏ, rồi mất hút trong các luỹ tre
xanh.
Bài thơ của
Nguyễn Duy Huệ, ông giáo về hưu, từng sống những năm trên đất này, tuy mới
chấm phá nhưng vẫn gợi lên nét sinh hoạt khá sinh động nơi phố huyện Cẩm Giàng:
Bạn
cũ giờ này sống nơi đâu?
Có
còn nhớ buổi tắm chân cầu
Vườn
chùa hái ổi ai trèo nữa
Lỗ
đáo sân ga bỏ đã lâu.
Nhà thương ông ký ngồi xem truyện
Ngõ
cụt thằng tây huýt sáo mồm
Im
bặt sân trường ông đốc nói
Buồn
thiu mẹ ốm đã mươi hôm...
Chuồn
chuồn bay thấp cơn mưa tới
Cá
nổi ao nghè lá rụng them
Hành
khất quẩn quanh quầy thuốc bắc
Cụ
già dắt cháu bước qua thềm.
Cổng
chợ cò cưa ông xẩm hát
Cửa
quan cậu ấm đứng tồng ngồng
Trong
nhà cụ chánh lau khăn áo
Tới
dự phiên chầu buổi nghị đông.
Chính cái phố
huyện bé nhỏ, buồn thiu ấy là nơi chôn rau cắt rốn của một dòng họ mà sau này
sinh ra những nhà văn nổi tiếng trên văn đàn nước nhà: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch
Lam, từng làm trụ cột Tự Lực văn đoàn những năm 1930 –1945 ở nước
Nhưng cũng ít người biết những nhà văn ấy nguồn gốc họ Nguyễn Tường.
Khúc Hà Linh.
Bài viết thú vị!
Trả lờiXóaHóa ra Cẩm Giàng chính là do đọc trại Cẩm Giang ( sông Gấm) vì kiêng húy!