CHIA RẼ
Tác giả Tim Marshall
Chương
Bốn. NHỮNG LẰN RANH TRÊN CÁT TRUNG ĐÔNG
“Hãy
lựa chọn một nhà lãnh đạo sẽ đầu tư vào việc xây dựng những cây cầu,
chứ
không phải những bức tường.
Những
cuốn sách, chứ không phải vũ khí.
Đạo
đức, chứ không phải băng hoại.”
- Suzy Kassem, Rise
Up and Salute the Sun: The Writings of Suzy Kassem
Chủ nghĩa toàn vẹn Ả Rập đã va phải một
bức tường. Thực ra, nó đã va phải nhiều bức tường, hàng rào, và những chia rẽ.
Giấc mơ về một liên hiệp các nước nói tiếng Ả Rập từ Đại Tây Dương tới biển Ả Rập
chưa bao giờ là thực tế, và điều đó giờ đã bộc lộ trên thực địa bởi sự xuất hiện
của hàng loạt những biên giới cứng khắp vùng này. Nhiều lằn ranh trên cát, do
các cường quốc thuộc địa vẽ ra, có những bức tường lớn xây trên đó, nhấn mạnh sự
chia rẽ sâu sắc của chính trị và văn hóa Ả Rập thế kỷ 21.
Nhưng những bức tường không chỉ hiện
diện trên các đường biên giới. Có những bức tường nhỏ khắp Trung Đông. Mỗi bức
tường là một bằng chứng về bạo lực khủng bố giờ đã lan tràn trong khu vực. Ta
có thể thấy chúng ở Baghdad, Damascus, Amman, Sana’a, Beirut, Cairo, Riyadh -
thật ra, ở gần như mọi thành phố thủ đô. Đó là những rào cản bằng bê tông và những
bức tường ngăn bom mọc lên xung quanh các đại sứ quán, những trụ sở từ thiện,
các tổ chức quốc tế, các đồn cảnh sát, các doanh trại quân đội, các tòa nhà
chính phủ, các khu nhà ở, nhà thờ, khách sạn và thậm chí là bao quanh toàn bộ một
khu dân cư.
Ở một bên là đời sống bình thường, xe
hơi bóp còi, những người bán hàng rong với hàng hóa của họ, khách bộ hành làm
việc của mình ở một thành phố thủ đô nhộn nhịp, ở bên kia là một phiên bản của
cuộc sống bình thường, với các nhân viên văn phòng, các quan chức chính phủ,
công chức, nhà ngoại giao. Cả họ nữa cũng đang làm công việc thường nhật của họ,
nhưng với ý thức rằng nếu không có những khối bê tông bên ngoài cửa sổ của họ,
những lính gác ở lối vào các khu dinh thự, và có thể là một chốt kiểm tra an
ninh ở cuối đường, bất kỳ lúc nào một chiếc xe tải chở bom cũng có thể đánh sập
tòa nhà của họ, hay một nhóm khủng bố có thể xông vào nơi làm việc của họ.
Đó không hề là một mối đe dọa vu vơ.
Danh sách những cuộc tấn công trước khi các bức tường được dựng lên rất dài. Đã
có hơn 150 vụ ở vùng Trung Đông mở rộng trong thế kỷ này, bao gồm các khu phức
hợp ở Riyadh nơi công nhân nước ngoài trú ngụ, những khách sạn khắp tỉnh Sinai
của Ai Cập và ở Amman của Jordan; các cơ sở dầu khí ở Yemen và Algeria; các nhà
thờ ở Baghdad; lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Benghazi; bảo tàng Bardo ở Tunis; và tòa
nhà Quốc hội Iran và điện thờ của Ayatollah Khomeini.
Những bức tường này mọc lên ở các khu
trung tâm đô thị có nguy cơ cao, nhằm phản ứng lại nhiều cuộc tấn công như thế.
Khuôn mẫu cho kiểu xây dựng tường này là “vùng Xanh” [Green Zone] ở Baghdad,
nơi hàng rào được xây lên sau cuộc xâm lược Iraq năm 2003 nhằm bảo vệ “chính
quyền lâm thời” do Mỹ chỉ đạo trong những năm hậu Saddam. Bao gồm một vùng rộng
lớn ở trung tâm Baghdad, vây quanh vùng Xanh là những mảng bê tông khổng lồ, giống
với những gì chúng ta thấy ở khu vực có tường bao ở Bờ Tây. Trong trong bán
kính vùng Xanh, người ta từng quen với việc nghe thấy tiếng nổ từ các phát hỏa
tiễn bắn cầu vồng đưa hỏa tiễn rơi vào bên trong ranh giới, nhưng một âm thanh
quen thuộc hơn là tiếng uỳnh mờ đục xa xôi của một vụ nổ do đánh bom xe hay tấn
công liều chết gây thương vong lớn ở bên ngoài, một lời nhắc nhở liên tục về việc
cuộc sống có thể ra sao với những người Iraq bình thường và với quân đội Mỹ ở
ngoài thế giới thực.
Một số những con đường chính từ sân
bay xuống vùng xanh được chắn bằng các mảng bê tông trong một cố gắng ngăn chặn
các vụ đánh bom ven đường. Khi mối đe dọa tăng lên, những khối bê tông ở các
con đường phụ cũng mở rộng ra. Chúng trở nên phổ biến tới mức quân đội có những
tên gọi chính thức cho các kiểu bê tông khác nhau. Chúng được đặt tên theo các
bang của Hoa Kỳ: một khối “Colorado” là kích thước trung bình, cao 1,83m và nặng
3,5 tấn, “Texas” là khối lớn, cao 2,03m và nặng 6 tấn, và “Alaska” 3,66m và 7 tấn[1].
Có chi phí, cả bằng máu và bằng tiền, cho những bức tường đó. Các rào chắn như
thế chắc chắn cứu được các sinh mạng, nhưng còn lâu mới là hoàn hảo khi đối mặt
những vụ đánh bom “nổ lõm” ven đường, vốn tính toán để lực vụ nổ đi theo một hướng
nhất định và có thể xuyên qua một số bức tường. Và mỗi khối bê tông tiêu tốn
hơn 600 đô la Mỹ. Nhân số đó lên hàng nghìn khối và tám năm chiếm đóng - chi
phí tài chính lên tới hàng tỉ đô la.
Dẫu vậy, các bức tường trở thành một
phần của việc chiến đấu trong một cuộc chiến tranh đô thị, và xây chúng là một
phần cố hữu của việc hoạch định quân sự của Mỹ. Các binh sĩ trở nên thành thạo
những kỹ năng cần thiết và có thể dựng lên hơn một trăm khối chỉ trong một đêm,
đôi khi dưới làn đạn. Khi mà căng thẳng tôn giáo giữa dân chúng người Sunni và
Shia tăng lên, và bị cố tình kích động hơn nữa qua các tay súng dân quân ở cả
hai phía, nguyên những khu dân cư bắt đầu được dựng tường. Bê tông cứu mạng người,
làm giảm khả năng các tay súng Sunni và Shia tấn công thường dân và công nhân
nước ngoài, nhưng mỗi tấm bê tông giống như một bia mộ và đóng vai trò đó trong
việc chôn vùi ý tưởng rằng lật đổ Saddam sẽ dẫn tới một nước Iraq ổn định.
Thay vì thế, cuộc xâm lược Iraq góp phần
gây bất ổn với một số nước, làm tăng lên ý thức hệ Hồi giáo bạo lực, và rốt cuộc
là tạo ra một không gian vô pháp mênh mông mà từ đó bạo lực tuôn đi mọi hướng.
Những cuộc nổi loạn Ả Rập theo sau đó, vốn bắt đầu vào năm 2011 ở Tunisia, Ai Cập
và Libya (mà nhiều người đã gọi sai là Mùa xuân Ả Rập, với hy vọng rằng nó sẽ dẫn
tới cải cách quy mô lớn khắp vùng này) hẳn đằng nào cũng xảy ra - chúng ta
không bao giờ biết được, nhưng khi chúng quả xảy ra thì mỗi nước đều có một
nhóm then chốt các tay súng jihad được huấn luyện ở Iraq.
Nhiều người từng tin rằng giải quyết vấn
đề Israel - Palestine sẽ dẫn tới sự ổn định lớn hơn trong vùng rộng lớn hơn
này, nhưng lý thuyết đó đã tan tành bởi những náo loạn ở thế giới Ả Rập vài năm
qua. Giờ, với những cuộc xung đột ở Iraq, Libya, Syria, Ai Cập và Yemen, chúng
ta đã thấy rằng sự bất ổn khắp vùng này liên quan rất ít tới tình hình ở thành
phố Gaza, Ramallah, Tel Aviv và Haifa.
* * *
Vào năm 2014, chỉ 5% dân số toàn cầu sống
ở thế giới Ả Rập, nhưng họ hứng chịu 45% các cuộc tấn công khủng bố trên toàn
thế giới, 68% những vụ tử vong liên quan tới xung đột, và là nơi có 58% người tị
nạn toàn cầu. Ở một số quốc gia, toàn bộ đất nước đã sụp đổ, ở những nước khác,
các rạn nứt đang xuất hiện; và có những nước mà sự chia rẽ đã được che giấu dưới
bề mặt và có thể xuất hiện trở lại bất cứ khi nào. Những cuộc chiến tranh và nổi
dậy đã bóc trần những rạn nứt lớn trong các nước mà người Ả Rập chiếm đa số. Vẫn
còn lại cảm nhận về sự đoàn kết Ả Rập, họ chia sẻ một không gian, một ngôn ngữ
và ở mức độ nào đó, một tôn giáo, nhưng triển vọng về sự hợp nhất toàn Ả Rập vẫn
là một giấc mơ xa vời.
Tôn giáo là một trong những yếu tố gây
chia rẽ lớn nhất. Vào năm 2004, Vua Abdullah của Jordan đã nghĩ ra một cụm từ
gây tranh cãi khi nói về một “lưỡi liềm Shia”. Ý ông là sự mở rộng ảnh hưởng của
Iran, mở ra một vòng cung từ thủ đô Shia của Iran, là Tehran, sang thủ đô Iraq
giờ do người Shia nắm áp đảo, là Baghdad, tới Damascus ở Syria, nơi gia đình
Assad đang cai trị có nguồn gốc từ một hệ phái Shia (Alawi), và kết thúc ở căn
cứ địa Shia của Hezbollah ở nam Beirut thuộc Lebanon. Đây là thứ ngôn ngữ hết sức
khác thường ở một vùng mà mọi người có biết những căng thẳng hệ phái từng tồn tại,
nhưng không muốn nhấn mạnh tới chúng. Tuy nhiên, Vua Abdullah ý thức được những
rủi ro mà sự chia rẽ hệ phái gây ra. Trong một bài phỏng vấn trên báo vào năm
2007, bốn năm trước khi chiến tranh nổ ra ở Syria, ông đã đưa ra cảnh báo tiên
tri về những gì sắp tới: “Nếu sự phân liệt hệ phái sâu sắc hơn và lan rộng, tác
động hủy diệt sẽ phản ánh lên tất cả mọi người. Nó sẽ nuôi dưỡng sự chia rẽ,
phân cực và chủ nghĩa Cô lập. Vùng đất của chúng ta sẽ chìm đắm trong một cuộc
xung đột mà kết quả là không thể biết trước.”
Sự chia rẽ Sunni/Shia trong nội bộ đạo
Hồi đã tồn tại từ thế kỷ 7, và bởi thế cũng lâu đời gần như chính tôn giáo này
vậy. Sự ly giáo là do tranh cãi về việc ai sẽ lãnh đạo Hồi giáo sau cái chết của
Muhammad vào năm 632. Những “Shi’at Ali” hay những “người theo phe Ali” là những
người giờ chúng ta gọi là Shia. Họ cho rằng quyền lãnh đạo phải dành cho gia
đình của Muhammad và ủng hộ em họ và con rể của ông, Ali ibn Abi Talib, làm
caliph. Những người mà giờ chúng ta gọi là Sunni không đồng ý với điều đó, cho
rằng quyền lãnh đạo phải được trao cho những người có học trong cộng đồng, và họ
ủng hộ Abu Bakr, một bạn đồng hành của nhà tiên tri. Phe “Sunni” hay “con đường”
của Muhammad cuối cùng chiến thắng sau khi giết chết một con trai của Ali,
Hussein, trong trận Karbala (680) ở vùng nay là Iraq, và phần lớn người Hồi
giáo, khoảng 85%, hiện là người Sunni.
Kể từ khi sự ly giáo diễn ra, mỗi truyền
thống này cho rằng truyền thống kia không phải là con đường Hồi giáo đích thực;
người Shia chẳng hạn, chỉ công nhận các lãnh đạo tôn giáo nói rằng họ bắt nguồn
từ Nhà tiên tri qua Ali và Hussein. Tua nhanh 1.400 năm sau, và sự khác biệt đó
giờ bộc lộ qua những điểm rất nhỏ, nhưng với những người có đức tin thì lại rất
quan trọng, nhằm phân biệt hệ phái này so với hệ phái kia.
Những khác biệt này đều không phải là
luật theo Koran, nhưng giống như ở mọi nơi khác trên thế giới, khi các thế kỷ
trôi qua và các cộng đồng tụ họp với nhau trong những khu vực phân cách, những
khác biệt xuất hiện - và những khác biệt nhỏ trong đời sống hằng ngày có thể lớn
lên khi đó là chuyện chính trị. Những cái tên đặt cho các đứa con gần như không
có gì khác ở phía này hay phía kia, nhưng có những sự tổng quát hóa có thể chỉ
ra được. Lấy ví dụ, khó có khả năng một người tên Yazid lại là người Shia, do
Yazid được cho là người đã giết Hussein. Ở một số nước, cách một người ăn mặc
hay bộ râu của một người đàn ông sẽ cho biết rằng họ là Sunni hay Shia, và khi
bạn vào nhà của những gia đình tôn giáo, bạn có thể thấy các bức tranh và bích
chương chỉ ra họ theo hệ phái nào. Những giáo sĩ Sunni và Shia có trang phục
khác nhau - việc một giáo sĩ Sunni đội một chiếc khăn choàng đen là điều bất
thường, nhưng không phải không thể xảy ra. Cách thức cầu nguyện cũng khác nhau:
người Sunni có xu hướng khoanh tay lại những khi thực hành nghi lễ, trong khi
người Shia để cánh tay bên hông.
Phần lớn người Ả Rập là người Sunni,
nhưng người Shia là đa số ở Iran, Iraq và Bahrain, và họ tạo thành thiểu số
đáng kể ở Lebanon, Yemen, Kuwait và Saudi Arabia, nơi họ tập trung ở miền đông
đất nước. Điều đoàn kết họ - lòng tin vào Năm trụ cột của đạo Hồi[2] -
thường là đủ để họ cùng tồn tại hòa bình, nhưng những ai thấy họ là thiểu số
đôi khi quả có than phiền rằng họ bị phân biệt đối xử, không được làm việc cho
chính quyền và bị loại khỏi các khía cạnh khác của đời sống công cộng. Và đã
luôn có những giai đoạn căng thẳng thỉnh thoảng dẫn tới những đợt bùng phát bạo
lực kéo dài cả ở cấp địa phương và khu vực. Chúng ta đang sống qua chính một đợt
bùng phát như thế hiện giờ.
Trong thời Saddam, Iraq do thiểu số
người Sunni cai trị, nhưng sau khi ông bị lật đổ, các nhóm Shia trở nên hùng mạnh
hơn; các nhóm phiến quân ở cả hai phía đã tiến hành nhiều vụ đánh bom và bắn giết
để thúc đẩy các mục đích chính trị của họ. Iraq là nước hứng chịu nhiều đợt tấn
công khủng bố nhất thế giới - gần 3.000 vụ vào năm 2016, với hơn 9.000 người
thiệt mạng - Nhà nước Hồi giáo (IS) chịu trách nhiệm cho những vụ tồi tệ nhất.
Có nguồn gốc từ Iraq sau cuộc xâm lược năm 2003 của Hoa Kỳ, IS trở thành một
trong những tổ chức khủng bố khét tiếng và lan rộng nhất, mở rộng sự hiện diện
của chúng khắp Trung Đông, bao gồm Syria, Libya, Yemen và Ai Cập. Phần lớn các
chính phủ trong vùng ý thức rằng IS có thể xâm nhập và gây bất ổn ở những vùng
khác với các quan điểm cực đoan và những hành động bạo lực của chúng, và quyết
tâm ngăn chặn điều đó xảy ra.
Tỉ lệ dân mỗi nước theo đạo Hồi.
Ở Yemen, nội chiến nổ ra vào năm 2005
giữa lực lượng người Houthi Shia nổi dậy và chính phủ do người Sunni đứng đầu,
với Iran ủng hộ những người Houthi trong khi Saudi Arabia và các nước khác ủng
hộ các nhóm Sunni; cả IS và Al Qaeda cũng đã tham gia tích cực vào cuộc xung đột.
Bạo lực tăng mạnh và lan ra khắp đất nước này sau năm 2015, khiến hàng nghìn
người thiệt mạng và ba triệu người mất nhà cửa. Tới tháng Mười một năm 2017,
tình hình được UNICEF mô tả là “cuộc khủng hoảng nhân đạo tồi tệ nhất thế giới”,
thêm phần tệ hại bởi nạn đói lan rộng và những đợt bùng phát dịch tả.
Phân bố của các nhánh Sunni và Shia.
Syria bị chia rẽ chủ yếu theo các lằn
ranh hệ phái và sắc tộc: Sunni, Shia, Alawi, Kurd, Kitô giáo, Druze, vân vân.
Cha của Tổng thống Assad, Hafez, đã gắn kết đất nước lại với nhau dưới một nền
độc tài thế tục tàn bạo, nhưng một khi bạo lực bắt đầu vào năm 2011, những xiềng
xích đó nhanh chóng tan vỡ. Cuộc nội chiến Syria là một trong những cuộc xung đột
bạo lực và phức tạp nhất thế giới, với rất nhiều tay chơi tham gia. Cuộc chiến
Syria đã bắt đầu từ một cuộc nổi loạn chống lại Tổng thống Assad, nhưng ngay từ
năm 2013 đã trở thành một cuộc chiến tranh ủy nhiệm của các cường quốc nước
ngoài. Iran ủng hộ chế độ Assad, trong khi Saudi Arabia ủng hộ một số nhóm
Sunni nổi dậy. IS lại một lần nữa có một vai trò lớn trong cuộc xung đột, dù tới
cuối năm 2017 đã mất gần như toàn bộ lãnh thổ trước đó chúng giành được cả ở
Syria và Iraq. Tới cuối năm 2018, Nga, Iran, Anh, Pháp, Saudi Arabia, UAE, Thổ
Nhĩ Kỳ, Israel, Iran, Hezbollah và những tay chơi khác đều đã can dự. Sự chia rẽ
giữa Iran và Israel, Thổ Nhĩ Kỳ và người Kurd, Nga và phương Tây, Shia và Sunni
ở Trung Đông, tất cả đều bộc lộ trên chiến trường của một quốc gia nhà nước giờ
đã hoang tàn. Tất cả các bên đều đã phạm tội ác; chính quyền thậm chí bị cáo buộc
sử dụng vũ khí hóa học nhắm vào chính người dân của họ. Kết quả của bạo lực lan
rộng là hàng triệu người đã mất nhà cửa ở trong nước, và hàng triệu người đã chạy
trốn để tị nạn.
Những cuộc xung đột đó và các cuộc
xung đột khác Trung Đông còn có những nguyên nhân sâu xa khác, nhưng không có
cách nào thoát khỏi thực tế là tôn giáo đóng một vai trò lớn trong những sự
chia rẽ ngày càng sâu sắc. Và sự chia rẽ giữa người Sunni và Shia giờ lớn hơn
bao giờ hết trong nhiều thế kỷ. Điều này một phần bị thúc đẩy bởi chính trị của
các nhà nước: mối kình địch gay gắt trong vùng giữa người Sunni ở Saudi Arabia
và Shia ở Iran đã làm trầm trọng thêm vấn đề khi cả hai đều muốn mở rộng ảnh hưởng.
Sự khác biệt giữa họ cũng là vì sắc tộc, một là Ả Rập, một đa số là Ba Tư, và
vì mối kình địch quen thuộc giữa các nhà nước hùng mạnh, nhưng rõ ràng là có
khía cạnh hệ phái trong thứ ngôn ngữ mà cả hai phía sử dụng. Người Sunni cứng rắn
giờ đang nói về “safawi” - tên tiếng Ả Rập dùng để chỉ triều đại Ba Tư (Iran)
Safavid, vốn từng đối đầu với đế quốc Ottoman Sunni. Cả hai đều muốn là cường
quốc dẫn dắt của các nước Hồi giáo; họ có chính sách kinh tế xung đột nhau, lấy
ví dụ trong sản xuất và bán dầu, và như chúng ta thấy, họ chọn những phe đối lập
trong các cuộc xung đột mang tính tôn giáo nổ ra ở những nước khác trong vùng.
Cả hai đã cáo buộc nhau ủng hộ các nhóm khủng bố và hoạt động của các nhóm này.
Đáp lại, khắp Trung Đông và Bắc Phi, thời đại chia rẽ này đang nhường bước cho
thời đại của những bức tường.
Saudi Arabia đã xây hàng trăm dặm hàng
rào dọc theo các biên giới phía bắc và phía nam của họ, Kuwait đã xây hàng rào ở
biên giới, và Jordan đã pháo đài hóa biên giới với Syria, xây lên một trong những
hàng rào công nghệ cao nhất thế giới; về hướng bắc, những người Thổ Nhĩ Kỳ cũng
đã xây một bức tường cao hơn 3 mét và dày hơn 2 mét dọc theo biên giới của họ với
Syria, trong khi những hỗn loạn ở Libya đã khiến Tunisia và Ai Cập xây lên những
hàng rào dọc theo các đường biên giới của họ.
Việc xây hàng rào ở Jordan là ấn tượng
nhất về mặt công nghệ, ngay cả khi những lý do để xây là rất đáng buồn. Những
cuộc chiến tại Syria ở phía bắc và Iraq phía đông đã khiến hàng trăm nghìn người
tị nạn tràn vào nước này. Vương quốc Hashemite[3] bắt đầu dựng
lên những tuyến phòng vệ của họ vào năm 2008, ý thức rằng bạo lực và hỗn loạn ở
Iraq có thể lan ra. Điều này diễn ra ba năm trước khi cuộc chiến Syria bùng nổ,
nhưng ngay cả khi đó, sự bất ổn và gia tăng khủng bố quốc tế ở vùng này đã lôi
kéo chính quyền Obama cung cấp hỗ trợ cho đồng minh của họ rồi. Ban đầu sáng kiến
này thật khiêm nhường, với các kế hoạch xây những tháp canh dọc một dải biên giới
với Syria ở một khu vực nhạy cảm dài khoảng 48 kilômét thường được bọn buôn lậu
sử dụng. Vào lúc Syria chìm trong hỗn loạn và IS đe dọa đưa khủng bố vào
Jordan, dự án đó mở rộng, và chi phí cho nó cũng thế. Jordan có 95% dân số là
người Sunni và IS có ý định thúc đẩy những niềm tin cực đoan của chúng ở một quốc
gia mong manh và sùng đạo.
Chính quyền Washington đã chi tiền cho
“Chương trình an ninh biên giới Jordan” từ Cơ quan Giảm thiểu Đe dọa Quốc phòng
của Lầu Năm Góc (DTRA), công ty Raytheon đã được trao phần lớn gói thầu. Giờ đã
có một hàng rào an ninh công nghệ cao dài khoảng 257 kilômét dọc theo biên giới
với Syria. Nó có các tháp canh, máy quay quan sát ban đêm và cảm biến mặt đất
có thể phát hiện chuyển động ở cách 8 kilômét cả hai phía của đường biên giới.
Một cấu trúc tương tự che phủ khoảng 185 kilômét biên giới với Iraq. Trang web
của DTRA nói thế giới “hoàn toàn có thể rất đáng sợ và lưu ý việc sử dụng vũ
khí hủy diệt hàng loạt cả ở Syria và Iraq. Nỗ lực của họ ở khu hàng rào, họ
nói, “là một ví dụ tuyệt vời về cách chúng tôi đang làm thế giới an toàn hơn
trước các vũ khí hủy diệt hàng loạt”.
Điều họ không nói là rào chắn đó cũng
giúp các binh sĩ quân đội Mỹ ở Jordan an toàn hơn. Chính thức thì chỉ có vài chục
binh sĩ Hoa Kỳ đóng ở Jordan; trên thực tế, thường xuyên có tới ít nhất vài
trăm, nhưng họ làm việc chủ yếu khuất tầm mắt trong các căn cứ quân sự của
Jordan. Con số thấp hư cấu này có thể được chấp nhận trong các tài liệu chính
thức chừng nào các binh sĩ được triển khai” chứ không phải “đồn trú” tại quốc
gia này. Jordan có thể là một đồng minh của Mỹ, nhưng chính quyền không muốn bị
nhìn nhận là quá gần gũi với siêu cường này để tránh thổi bùng lên cảm xúc chống
Mỹ trong thiểu số dân chúng được coi là những người Hồi giáo cực đoan.
Những hàng rào biên giới được người
Saudi xây lên thậm chí còn dài hơn, và đắt đỏ hơn, so với ở Jordan, nhưng chúng
cũng được xây lên với sự hỗ trợ của Mỹ. Dự án Biên giới phía bắc chạy dọc hơn
885 kilômét biên giới với Iraq. Nó có một hàng rào ba lớp, một rào cát khổng lồ,
32 “trạm phản ứng nhanh” kết nối với bảy trung tâm chỉ huy và kiểm soát, tất cả
được hỗ trợ bởi 240 xe phản ứng nhanh.
Quan hệ giữa Saudi Arabia và Iraq là
không dễ dàng. Nhiều người Iraq cho rằng Saudi Arabia có trách nhiệm trong việc
xuất khẩu một lối diễn giải quá gay gắt của Hồi giáo Sunni và bởi thế giúp tạo
ra IS, tổ chức đã gây quá nhiều đổ máu ở đất nước họ; và kể từ khi Saddam
Hussein bị lật đổ, một nước Iraq mà người Shia áp đảo đã trở nên ngày càng gần
gũi với Iran. Tuy nhiên, vào năm 2017, trong một nỗ lực để lôi kéo Iraq rời xa
Iran, Riyadh đã khởi động một chiến dịch thu hút và thậm chí mời các chính trị
gia nổi bật của Iraq sang thăm Saudi Arabia. Mối quan hệ giữa hai nước đã cải
thiện trong những năm gần đây, nhưng hiện giờ thì Iraq đang gắn bó thân mật hơn
với Iran.
Ở phía nam, Saudi Arabia đã dựng lên
hàng rào một phần biên giới với Yemen. Dự án này đã bắt đầu vào năm 2003, và giống
như với kế hoạch ban đầu của Jordan cho hàng rào với Syria, lúc đầu được thiết
kế để giảm việc đưa lậu vũ khí, và người, từ nước Yemen nghèo khổ sang Saudi
Arabia giàu hơn nhiều. Lúc đầu người Saudi tập trung vào việc ngăn cản xe cộ bằng
cách đặt những túi cát và khối bê tông ở những điểm vượt biên giới thuộc địa
hình đồi núi tây nam. Tuy nhiên, vào năm 2009, sau khi lực lượng nổi dậy người
Houthi Shia từ Yemen mở một cuộc tấn công qua bên kia biên giới và giết chết
hai lính gác Saudi, Riyadh đã tán thành việc xây dựng hàng rào với những cảm ứng
điện tử nhằm ngăn số người vượt biên bằng cách đi bộ qua dọc theo một tuyến
biên giới dài khoảng 161 kilômét. Chiến dịch quân sự của người Houthi nhắm vào
việc giành quyền tự trị lớn hơn ở Yemen, nhưng thỉnh thoảng nó tràn vào tỉnh
Jizan của Saudi Arabia, khiến người Saudi quay sang chống lại họ. Sự thù địch
tăng lên một khi người Saudi nhìn nhận rằng kình địch chính của họ trong khu vực,
Iran, đang hỗ trợ những người Houthi.
Khi cuộc nội chiến Yemen nổ ra, Al
Qaeda đã có thể củng cố vị thế của họ ở đấy và sử dụng nước này làm bàn đạp để
đưa người vào Saudi Arabia. Nên giờ Saudi Arabia có một bộ ba vấn đề gồm các
tay súng Houthi Shia và những cuộc tấn công qua biên giới, người nhập cư bất hợp
pháp và Al Qaeda, vốn thề sẽ lật đổ gia đình hoàng gia Saudi, tất cả đều gây ra
sức ép lên biên giới phía nam; nên hàng rào được cho là càng cần thiết hơn nữa.
Hàng rào này vẫn để hở hàng trăm dặm biên giới ở vùng sa mạc về phía đông,
nhưng ở đây khoảng cách là quá lớn, và điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt, tới
mức tránh né được các đoàn tuần tra còn khó hơn và có ít vụ vượt biên hơn.
Ngoài những vấn đề dọc theo biên giới,
Saudi Arabia cũng ý thức về mối đe dọa chia rẽ nội bộ. Dù đất nước chủ yếu là
người Sunni, với người Shia chiếm cùng lắm là 15% một dân số 33 triệu người,
thiểu số đó chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền đông, nơi có phần lớn các mỏ dầu
của Saudi Arabia. Các tỉnh đông người Shia đang trở nên bất an: họ nói rằng các
cộng đồng của họ không được đầu tư đúng mức và bị loại trừ khỏi đời sống quốc
gia - những cáo buộc mà chính quyền phủ nhận. Bởi nguồn gốc gây rắc rối tiềm
tàng này, cùng tình trạng bất ổn đang diễn ra ở Yemen và những rạn nứt ở Iraq,
Saudi Arabia không có tâm trạng nào mà cân nhắc dỡ bỏ những rào chắn họ đã lập
nên và liên tục tìm cách cải thiện chúng.
Kuwait cũng quyết tâm duy trì một vùng
đệm giữa họ và Iraq, bất chấp việc lật đổ Saddam Hussein vào năm 2003, bởi hai
nước có một lịch sử xung đột lâu dài. Kuwait được thành lập là một vương quốc Hồi
giáo theo hiệp ước Anh-Ottoman năm 1913, nhưng các chính quyền Iraq chưa bao giờ
chấp nhận những gì về cơ bản là biên giới do Anh vẽ và đã nhiều lần tuyên bố quốc
gia giàu dầu mỏ này là tỉnh thứ mười chín của họ.
Các lực lượng Iraq đã xâm lược Kuwait
vào năm 1990, nhưng bị liên quân do Hoa Kỳ dẫn đầu đẩy lui. Kuwait sau đó đã dựng
lên, theo nghĩa đen, một lằn ranh trên cát giữa hai nước. Rào chắn lùi sâu vào
hơn 9,6 kilômét này bao gồm ba bức tường cát song song mọc lên dọc theo toàn
tuyến biên giới. Một số phần có dây thép gai ở trên và những hào chống tăng
phía trước chúng. Rào chắn là để ngăn người Iraq, nhưng vào năm 2003, trong cuộc
xâm lược Iraq tiếp theo do Hoa Kỳ chỉ huy, nó trở thành một chướng ngại mà người
Mỹ phải vượt qua mới vào được. Đó là một chiến dịch lớn đòi hỏi phải đồng thời
phá vỡ bức tường cát ở một số điểm và với một tốc độ mà lực lượng phòng thủ của
Iraq không thể tấn công những đoàn xe nối đuôi nhau từng chiếc một và cản trở
cuộc tiến quân. Người Mỹ đã làm được và 10.000 xe cộ đã đi qua, cuối cùng tới
thẳng Baghdad.
Năm sau đó, Iraq có thể không còn là một
mối đe dọa chiến lược với Kuwait, nhưng người Kuwait vẫn muốn một rào chắn mới,
tốt hơn. Dưới sự giám sát về pháp lý của Liên Hợp Quốc, một địa điểm được hai
phía nhất trí và một hàng rào dài 217 kilômét đã được dựng lên từ thị trấn biên
giới của Iraq Umm Qasr dọc theo tam giác biên giới chung nơi Iraq, Kuwait và
Saudi Arabia gặp nhau. Giống như nhiều nước khác ở Trung Đông, Kuwait đang cố gắng
tự bảo vệ mình trước sự lan tràn bạo lực ở Iraq, và cũng ngàn người nhập cư bất
hợp pháp tràn vào nền kinh tế giàu có hơn nhiều của họ.
Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ lo ngại hơn về
mối đe dọa từ Syria và vào tháng Sáu năm 2018 đã xây xong một bức tường bê tông
dọc theo phần lớn biên giới. Nó được bổ trợ bằng các con hào, một hệ thống đèn
pha, tháp canh, các khí cầu do thám, máy quét hình ảnh nhiệt, radar, một hệ thống
xác định mục tiêu và những xe thiết giáp nhỏ Cobra II chạy dọc theo bức tường,
xe có máy quay lắp trên cần cẩu để nhìn qua tường. Đã đứng về phía phe đối lập chống
Assad và có vai trò tích cực trong cuộc xung đột, Thổ Nhĩ Kỳ giờ cố ngăn người
tị nạn và những kẻ khủng bố từ Syria. Nhưng Thổ Nhĩ Kỳ có một mối lo khác trong
cuộc xung đột Syria, và đó là sức mạnh gia tăng của các nhóm người Kurd tham
gia vào cuộc xung đột đó.
* * *
Khi chúng ta nói về Trung Đông, chúng
ta thường nghĩ tới “người Ả Rập” như thể hai khái niệm này có thể thay thế cho
nhau, hay chỉ là một, trong khi thực ra vùng này là nơi cư ngụ của rất nhiều
dân tộc, tôn giáo, hệ phái và ngôn ngữ, với những nhóm thiểu số như người Kurd,
người Druze, người Yazidi[4] và Chaldea[5].
Người Kurd là nhóm thiểu số lớn nhất,
có khoảng 30 triệu người ở Trung Đông. Các ước tính khác nhau, nhưng cho rằng
có khoảng 2 triệu ở Syria, 6 triệu ở Iraq, 6 triệu ở Iran và 15 triệu ở Thổ Nhĩ
Kỳ. Người ta thường nói đó là dân tộc lớn nhất trên thế giới không có một quốc
gia, dù những sự chia nhỏ dân tộc ở trên lại bị chia rẽ thêm nữa thành khoảng một
trăm bộ lạc gắn bó với những hệ phái tôn giáo khác nhau và nói nhiều thứ ngôn
ngữ, tới lượt chúng lại phân chia thành các phương ngữ và bảng chữ cái hay hệ
thống chữ viết khác nhau.
Chắc chắn là có một phong trào để tạo
ra một quốc gia nhà nước Kurdistan, nhưng bởi những khác biệt của họ, vị trí địa
lý của họ, và sự phản đối của các quốc gia hiện hữu, người Kurd khó có khả năng
thống nhất thành một nhà nước. Iran, Iraq, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ đều có dân số lớn
người Kurd và sẽ không để họ tìm kiếm sự thống nhất với nhau hay trở thành những
nhà nước mini. Hoa Kỳ, vốn có đôi chút thông cảm với người Kurd, khó có khả
năng giúp họ - nhất là bởi Thổ Nhĩ Kỳ, giờ đang chiến đấu với người Kurd cả ở
Iraq và Syria, là một thành viên NATO giống Mỹ. Người Kurd luôn bị lật lọng.
Cuộc trưng cầu dân ý với kết quả không
mang tính ràng buộc vào năm 2017 ở vùng Kurdistan thuộc Iraq, ủng hộ độc lập,
được cho là một bước tiến tới giấc mơ lớn của người Kurd, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ và
Iran sẽ không cho phép một quốc gia Kurdistan thống nhất bao gồm dù chỉ một tấc
lãnh thổ của họ. Ở Iraq, chính quyền trung ương đáp lại lá phiếu đòi độc lập bằng
cách đưa quân đội tới chiếm thành phố dầu mỏ Kirkuk do người Kurd kiểm soát,
truyền đi thông điệp là cả kế hoạch độc lập lẫn sự mở rộng những vùng lãnh thổ
mà theo truyền thống do người Kurd chiếm ưu thế đều là không được phép. Bản
thân người Kurd ở Iraq cũng tách thành hai nhóm bộ lạc với những nứt rạn tương
tự tại các vùng khác. Trong khi đó, người Kurd phải chịu đựng sự phân biệt đối
xử ở chính các quốc gia mà họ bị chia cắt ra. Những người Kurd ở Iraq có ký ức
đặc biệt tồi tệ về Đảng Baath “xã hội chủ nghĩa” của Saddam Hussein. Họ đã dùng
hơi ngạt giết hàng nghìn người Kurd trong chiến dịch quân sự Anfal tàn bạo vào
những năm 1980, và giết hàng nghìn người nữa trong thập kỷ sau đó.
Sự độc tài tàn bạo này không phải là
khác thường với các chính quyền khắp Trung Đông, và nhiều dân tộc - không chỉ
người Kurd - đã nhận lãnh hậu quả.
Điều gì đã sai với thế giới Ả Rập? Gần như là mọi thứ. Người ta đã thử những giải pháp gì? Gần như là mọi thứ.
Có nhiều lý do dẫn tới vấn đề. Lấy ví dụ, tôn giáo đã gây ra những rạn nứt
lớn, như chúng ta đã thấy. Chủ nghĩa thực dân dẫn tới sự tạo dựng các quốc gia
nhà nước mà đường biên giới phớt lờ những phân chia văn hóa truyền thống - những
dân tộc một thời từng nghĩ họ là khác biệt, và đã được cai quản khác biệt, giờ
được trông đợi tuyên thệ trung thành với một thực thể mà một số người cảm thấy
họ có ít điều chung, trong khi những dân tộc khác trước đó đã tự xác định là một
cộng đồng đơn lẻ nay bị chia ra. Địa lý của vùng này khiến hầu hết các lãnh thổ
không có nhiều tài nguyên thiên nhiên, và không phải nơi nào được trời phú -
hay bị nguyền rủa, tùy theo quan điểm của bạn - nguồn dầu mỏ cũng chia sẻ lợi
ích từ nó một cách công bằng. Những của cải có được ở đó có vẻ thường bị giới
tinh hoa phung phí hết, và bởi thế sự nghèo đói lan tràn và nhìn chung là thiếu
tiến bộ về kinh tế và xã hội.
“Báo cáo phát triển con người Ả Rập 2002”, do một nhóm học giả Ả Rập hàng đầu
chấp bút, đúng đầu là nhà thống kê người Ai Cập Nader Fergany và do Chương
trình Phát triển Liên Hợp Quốc tài trợ, đã tổng kết tốt nhất tình hình hai mươi
hai nước Ả Rập. Báo cáo lưu ý rằng trình độ giáo dục và tuổi thọ kỳ vọng tăng
lên, và tỷ lệ tử vong trẻ em giảm, nhưng đó là toàn bộ những điểm tích cực. Các
tác giả đã loại khỏi những thống kê của họ một phương pháp đo đếm thành công
truyền thống, “thu nhập đầu người”, trên cơ sở sự giàu có về nhiên liệu cực lớn
của một số ít nước, có điều chảy xuống chỉ cho một ít người, làm các con số lệch
lạc. Họ sau đó bổ sung mức độ tiếp cận internet và những mức độ quyền tự do để
tạo ra “Chỉ số phát triển con người thay thế”. Trong một câu sắc bén, họ đã kết
luận rằng “vùng này giàu hơn mức phát triển của nó”.
Cụ thể, họ nhấn mạnh điều mà họ gọi là “Ba điểm thiếu hụt” đang níu chân
khu vực: trước hết, vì vùng này thiếu những quyền tự do nhất định, thế giới Ả Rập
đã không thể bắt kịp tri thức toàn cầu về khoa học, tư duy chính trị và tôn
giáo so sánh. Số sách vở dịch từ các ngôn ngữ khác tiếng Ả Rập có thể tiếp cận
được trong toàn vùng là tương đối ít. Thứ hai, và có liên quan với điều đó, là
thất bại trong việc đón nhận những phát triển về viễn thông để phát tán những
tri thức đã có. Thứ ba, sự tham gia của phụ nữ vào chính trị và việc làm vào loại
thấp nhất thế giới.
Việc thiếu các quyền dân sự và tự do ngôn luận cùng tình trạng kiểm duyệt
trắng trợn thể hiện ở hầu hết các nước Ả Rập tới lượt nó có nghĩa là, bất chấp
chi tiêu tương đối vào giáo dục, tiền bạc bị sử dụng sai mục đích và các kết quả
thật nghèo nàn. Báo cáo nói rằng trong một ngàn năm qua, có ít sách được dịch
sang tiếng Ả Rập hơn so với số sách dịch sang tiếng Tây Ban Nha ở Tây Ban Nha
chỉ trong một năm. Sử dụng internet hạn chế ở mức chỉ 0,6% dân chúng.
Một thế hệ các trí thức và chính trị gia Ả Rập cấp tiến đã coi bản báo cáo
là một lời kêu gọi thức tỉnh,nhưng những người cấp tiến là thiểu số trong thế
giới Ả Rập và số người ở những vị trí quyền hành để đưa tới sự thay đổi tích cực
là không đủ. Sau gần hai mươi năm, việc sử dụng internet đã tăng lên, nhưng sự
đàn áp tiếp tục. Tới năm 2016, theo “Báo cáo phát triển Ả Rập” của Liên Hợp Quốc,
tỷ lệ người sử dụng internet đã tăng rất mạnh lên trên 50%, nhưng xét tổng thể,
ba điểm thiếu hụt vẫn đang kềm bước khu vực. Các chế độ Ả Rập vẫn đàn áp không
thương tiếc bất đồng chính kiến, các quyền tự do cá nhân vẫn bị ngăn cấm, nhiều
ý tưởng của thế giới bên ngoài tiếp tục không được chào đón, và mười một nước Ả
Rập đang rơi vào trong xung đột nội bộ.
Nhiều người Ả Rập thế tục đổ các vấn đề
và sự thiếu tự do cho điều đôi khi được gọi là “sự khép kín của tâm trí Ả Rập”.
Điều này là để chỉ việc chấm dứt thực hành “ijtihad”. Dịch thẳng từ đó theo
nghĩa đen là “nỗ lực”, nhưng nó liên quan tới việc diễn dịch các vấn đề tôn
giáo không được nói tới một cách chính xác trong kinh Koran hay Hadith - ghi
chép về những gì Nhà tiên tri Muhammad đã làm và nói. Trong vài thế kỷ, bất cứ
học giả Hồi giáo có học thức nào cũng có thể tự nảy ra tư duy sáng tạo đối với
các câu hỏi tôn giáo, nhưng vào cuối thời đế quốc Hồi giáo Sunni Abbasid
(750-1258), người ta tuyên bố rằng cánh cửa ijtihad đã đóng lại. Giờ không được
phép nghi ngờ giới luật và những diễn giải do những người vĩ đại của các thế hệ
trước đặt ra nữa.
Người ta cho rằng “sự khép kín” này đã
níu chân thế giới Ả Rập, và trong thời hiện đại đã trở thành một trong những điểm
chia rẽ lớn trong các xã hội Ả Rập giữa những ai tìm kiếm cải cách và những ai
bám chặt lấy truyền thống. Nếu lý thuyết này đúng, nó sẽ giúp giải thích tại
sao các nền văn hóa khác, vốn chia sẻ cùng sự thiếu tự do và thiếu nhân quyền,
đã xoay xở phát triển được và thách thức các nước phương Tây về mặt công nghệ
và tiến bộ kinh tế; có thể nghĩ tới Singapore và Trung Quốc.
Chắc chắn là nền văn hóa Ả Rập hết sức
tôn trọng truyền thống và quyền hành, và ít cởi mở hơn với thay đổi so với nhiều
vùng khác. Một người có vẻ đang cố gắng thay đổi điều đó là vị tân thái tử của
Saudi Arabia, Mohammed bin Salman (thường được gọi là MMS). Trong một kế hoạch
có vẻ đã được suy xét cẩn trọng, Vua Saudi Arabia, Salman bin Abdulaziz al
Saud, đã trao ngôi vị hoàng thái tử và rất nhiều quyền lực đi kèm cho người con
trai ba mươi hai tuổi của ông. Cả hai người có vẻ kết luận rằng vương quốc sẽ
không sống sót được với nền tảng kinh tế và những tiêu chuẩn xã hội hiện tại.
Vào năm 2018, luật cho phép phụ nữ lái xe và đi xem bóng đá được thông qua, và
lần đầu tiên cho phép mở các rạp phim. Một số người chỉ trích ở các nước phương
Tây chế nhạo những động thái này là quá cẩn trọng. Nhưng khi chế nhạo thế, họ
đã cho thấy họ không hiểu những biện pháp này có tính chất đảo lộn ra sao, nhất
là trong việc gửi đi một thông điệp cho giới lãnh đạo tôn giáo đầy quyền lực rằng
thời đại của họ đang từ từ kết thúc. Họ cũng có vẻ không biết rằng ngay cả những
biện pháp “cẩn trọng” đó cũng có nguy cơ bị phản đối, có thể là bằng bạo lực.
Những tin đồn thổi về một cuộc đảo chính được lên kế hoạch chống lại nhà Saud
đã lan khắp vùng Vịnh suốt năm.
Vị hoàng thái tử của Saudi cũng ra mắt
mô hình kinh tế Tầm nhìn 2030 của ông, đa dạng hóa nền kinh tế, tránh sự phụ
thuộc vào nhiên liệu. Một phần của việc này là cuộc cải cách gây nhiều tranh
cãi cho phép phụ nữ lái xe khi ông nhận ra rằng một nền kinh tế hiện đại không
thể phớt lờ 50% lực lượng lao động của nó. Ông tiếp nối điều đó với một cuộc
thanh trừng những kẻ có đầu óc cứng rắn. Hoàng thái tử, cùng các đồng minh ở
vùng Vịnh như hoàng thái tử Abu Dhabi, Mohammed bin Zayed Al Nahyan, đang cố gắng
phá vỡ những trói buộc của truyền thống, nhưng biết rằng ông phải cẩn trọng.
Trong những việc này, các vị hoàng thái tử chủ yếu nhận được sự ủng hộ từ những
thế hệ trẻ hơn trong xã hội của họ.
Về mặt chính trị, người Ả Rập đã thử
nghiệm chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội giả mạo, và họ đã được chứng kiến
những nhà lãnh đạo mạnh tay. Cuộc sống dưới sự cai trị của những người jihad
trong hình thức IS là một hệ thống thất bại khác, trong khi một số khác sống dưới
quyền lực cha truyền con nối của các gia đình hoàng tộc. Trong tất cả những chế
độ này, chế độ cuối cùng có xu hướng ổn định nhất và, dù xuất phát từ một cơ sở
thấp tới đáng kinh ngạc, lại tương đối ôn hòa, nhưng không hệ thống nào mà người
Ả Rập thử nghiệm cho tới giờ thành công trong việc đoàn kết họ thành một quốc
gia nhà nước thành công, hòa bình, hay một khu vực đoàn kết, bất chấp yếu tố thống
nhất về ngôn ngữ.
Giấc mơ lớn về một đại Ả Rập thống nhất
rõ ràng trong những tuyên ngôn của cuộc nổi dậy Ả Rập 1916[6]. Nhưng nó vẫn chỉ
là một giấc mơ, và những chia rẽ giữa các dân tộc Ả Rập khiến nó gần như chắc
chắn không bao giờ thành hiện thực. Giáo sư người Ả Rập Fawaz Gerges công nhận
rằng viễn cảnh u ám: “Hết lần này tới lần khác, những nhà cai trị Ả Rập đã đấu
đá với nhau giành ảnh hưởng và quyền lực và thường xuyên can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau… những mối kình địch quyết liệt này đã gây suy yếu cho hệ thống
nhà nước Ả Rập và đã gây ra hỗn loạn và nội chiến. Hệ thống đã đổ vỡ.”
Không có một nền tảng dân chủ vững chắc
để dựng xây, các quốc gia nhà nước Ả Rập đã thất bại trong việc giành được lòng
tin của đa số dân chúng. Như báo cáo năm 2016 của Liên Hợp Quốc đã nói, “Những
người trẻ thấm thía một cảm giác cố hữu bị phân biệt đối xử và bị loại trừ”, do
đó dẫn tới “cam kết của họ yếu đi trong việc bảo vệ những định chế của chính
quyền”.
Chúng ta đã chứng kiến những rạn nứt
xuất hiện trong tòa lâu đài Liên minh châu Âu, và ở đó chúng đang dẫn tới sự
rút lui một phần vào chủ nghĩa dân tộc. Sự khác biệt ở Trung Đông là người Ả Rập
ít gắn bó hơn với khái niệm quốc gia nhà nước, và chưa hoàn toàn đón nhận những
ý tưởng về tự do cá nhân; bởi thế, khi các định chế chính quyền tan vỡ, nhiều
người rút lui vào những định chế tiền thân của quốc gia nhà nước - tôn giáo, sắc
tộc và bộ lạc.
Khi mà người Sunni, người Shia và các
bộ lạc và sắc tộc khác rút ra sau những bức tường hữu hình và tâm lý của họ, và
quốc gia nhà nước yếu đi, tôn giáo mang tới cho họ sự tự trọng, bản sắc và cảm
giác chắc chắn. Trên cơ sở đó, những người Hồi giáo cực đoan có thể xây dựng một
thế giới quan theo đó chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc hay thậm chí là bản
thân quốc gia nhà nước cũng chỉ là một chứng ung thư, và đạo Hồi là câu trả lời.
Họ xây dựng những lằn ranh ý thức hệ xung quanh họ, những lằn ranh trở nên cao
tới mức những người đằng sau đó không còn nhìn thấy bên ngoài nữa. Như thế, bị
cầm tù trong tâm trí hẹp hòi, một số người nhìn nhận “kẻ khác” là “đồ tà giáo”,
một kẻ “không có đức tin”, hay một “safawi”, từ dùng để chỉ triều đại Safavid
theo Shia ở Ba Tư (1501-1736), và bởi thế chỉ đáng bị trấn áp hay giết chết. Một
số còn đi xa hơn, bước vào những địa hạt cao hơn của các thuyết âm mưu và hoang
tưởng, sử dụng cụm từ cực đoan hơn nhiều “Sahiyyu-Safawi” (Phục quốc Do
Thái-Safavid), vốn cho rằng có một âm mưu hiểm độc Israel/Iran chống lại thế giới
Hồi giáo Sunni. Một khi ta đã đi xa như thế, nhiều người sẽ thấy thật khó trở lại.
Một lời giải thích cho điều này là sự
nghèo đói và giáo dục yếu kém. Cả hai yếu tố này không thể bị phớt lờ, tuy
nhiên, hai yếu tố này được gán cho tầm quan trọng quá nhiều, dẫn tới lòng tin rằng
nếu ta loại bỏ nghèo đói và cải thiện giáo dục, ta sẽ loại bỏ được tư tưởng Hồi
giáo cực đoan. Điều này đã không tính đến số lượng lớn những người jihad là những
người học cao, mà hàng ngũ cứ tăng lên mỗi năm bởi các sinh viên tốt nghiệp đại
học, nhất là những người học ngành kỹ sư. Điều đó cũng không giải thích được tại
sao một số ý thức hệ bạo lực nhất xuất phát từ quốc gia giàu nhất trong vùng -
Saudi Arabia. Không nghi ngờ gì nữa, mức sống tốt hơn và giáo dục thế tục chất
lượng cao hơn là một phần của giải pháp, nhưng thật trớ trêu, thêm một bức tường
nữa là cần thiết ở đây, bức tường được xây lên trong những xã hội hiện đại
thành công nhất - đó là bức tường giữa tôn giáo và chính trị.
Vì đạo Hồi bao trùm mọi đường hướng của
cuộc sống, nhiều người thực hành tôn giáo này thấy khó mà loại trừ tôn giáo và
sắc tộc khỏi chính trị. Không có gì trong kinh Koran đại loại giống như những lời
gắn với Jesus - “Hãy trả lại cho Caesar những gì của Caesar; và cho Chúa những
gì của Chúa.” Không có sự ngắt kết nối này, giáo luật có xu hướng làm nền tảng
và thậm chí áp đảo luật pháp thế tục, và tôn giáo hay hệ phái ngự trị sẽ bảo đảm
rằng phiên bản tôn giáo và pháp luật của họ là phiên bản phải được tuân thủ.
Ngược lại, ở châu Âu, sự hình thành và
tổ chức của các đảng chính trị chỉ theo những lằn ranh sắc tộc hay tôn giáo về
cơ bản đã bị loại bỏ. Hầu hết các đảng chính trị thu hút sự ủng hộ khắp các bộ
phận rộng lớn và đa dạng trong xã hội, và tôn giáo không có vai trò nhiều trong
chính quyền và việc quyết định chính sách.
Tuy nhiên, ở Trung Đông, những ký ức về
“chính trị thế tục” là những ký ức về sự cai trị độc tài - các Đảng Baath của
Syria và Iraq là những ví dụ. Cả hai giả vờ là các đảng xã hội chủ nghĩa thế tục
đứng trên những chia rẽ sắc tộc và tôn giáo, nhưng cả hai đàn áp tàn bạo dân
chúng của mình. Điều này đã khiến một số người đánh mất lòng tin vào khả năng
các đảng thế tục có thể bảo vệ lợi ích của họ, và vì thế quay sang đảng ủng hộ
cho tôn giáo của họ.
Hiện giờ thì các nước và dân tộc Ả Rập
vẫn bị chia rẽ và tàn phá bởi xung đột, cả trong và ngoài nước. Người Saudi và
Iran tiếp tục cuộc chiến địa chính trị trong khu vực, điều mà khi tới tầm mức địa
phương lại thể hiện qua sự chia rẽ lâu đời Shia/Sunni, điều tới lượt nó cũng thể
hiện trong các cuộc xung đột bên ngoài biên giới của chính họ. Nên nhiều cuộc
xung đột trong cả vùng - như cuộc chiến ở Iraq - đã cho phép những rạn nứt
tương tự nổi lên, với bạo lực và chủ nghĩa cực đoan kéo theo lan ra khắp những
đường biên giới. Mắc kẹt trong hỗn loạn là các cộng đồng thiểu số như người
Kitô giáo, người Yazidi và Druze.
Giấc mơ về sự thống nhất toàn Ả Rập đã
trở thành cơn ác mộng của sự chia rẽ toàn Ả Rập. Một khi những con quỷ dữ hệ
phái tôn giáo này được thả ra, sự nghi kỵ và sợ hãi với “kẻ khác” sẽ mất nhiều
năm, đôi khi là nhiều thế hệ, mới có thể đảo ngược. Mảnh vải chắp vá của các quốc
gia nhà nước như Syria đã bị xé tan tành, và mô thức thiết kế cho bất kỳ các
nhà nước tương lai nào vẫn chưa rõ ràng. Có một thế hệ người Ả Rập trẻ tuổi có
học ở đô thị đang tìm cách bỏ lại sự chia rẽ sau lưng, nhưng sức mạnh của lịch
sử đã níu chân họ.
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat[7] đã
nói những lời sau trong một bài phát biểu ở Knesset, Israel vào năm 1977, về cuộc
xung đột Ả Rập-Israel; nhưng hơn bốn mươi năm sau, chúng vẫn đúng, trên khắp
vùng này: “Dẫu vậy, vẫn còn một bức tường khác. Bức tường này tạo ra một rào cản
tâm lý giữa chúng ta; rào cản của sự nghi kỵ; rào cản của sự chối bỏ; rào cản của
nỗi sợ, của sự lừa gạt; rào cản của ảo giác mà chúng ta không hề có bất kỳ hành
động, việc làm hay quyết định nào để thay đổi.”
Chú thích.
[1] Alaska là bang có diện tích lớn nhất
nước Mỹ, Texas thứ hai, và Colorado thứ tám. (ND)
[2] “Năm
trụ cột của Hồi giáo” là những yêu cầu cơ bản với một tín đồ: sự tuyên xưng đức
tin (“Không có Thượng đế nào khác ngoài Allah”); cầu nguyện (năm lần một ngày,
quay mặt hướng về Mecca); bố thí, nhịn ăn (tháng chay Ramadan); và hành hương
(ít nhất một lần trong đời phải hành hướng tới thánh địa Mecca). (ND)
[3] Tên
gọi đầy đủ của Jordan là Vương quốc Hashemite Jordan. Hashemite là dòng họ
hoàng tộc cai trị Jordan từ năm 1921 đến nay. (ND)
[4] Một
nhóm thiểu số người Kurd theo một tôn giáo riêng là sự kết hợp của Hỏa giáo, Hồi
giáo, Kitô giáo và Do Thái giáo. Hiện có khoảng nửa triệu tới 1,2 triệu người
Yazidi, chủ yếu tập trung ở Iraq. (ND)
[5] Người
Chaldea là hậu duệ của người Assyria, theo Kitô giáo phương Đông (Chính thống
giáo), hiện có hơn 600.000 người, tập trung ở Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ. (ND)
[6] Cuộc
nổi dậy của người Ả Rập khắp Trung Đông và bán đảo Ả Rập chống lại sự cai trị của
Đế chế Ottoman, do vị Sharif của Mecca, Hussein bin Ali, khởi phát vào năm
1916, và kết thúc năm 1918, thường được coi là một phần của Thế chiến I. (ND)
[7] Anwar
Sadat (1918-1981), Tổng thống thứ ba của Ai Cập, từ 1970 tới 1981. Ông bị ám
sát và chết khi đang tại chức. (ND)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét