Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2024

Chương Bảy. MỘT LIÊN MINH GẦN GŨI HƠN BAO GIỜ HẾT? CHÂU ÂU

 

CHIA RẼ

Tác giả  Tim Marshall

Chương Bảy. MỘT LIÊN MINH GẦN GŨI HƠN BAO GIỜ HẾT? CHÂU ÂU

“Ngày nay, không bức tường nào có thể chia rẽ những cuộc khủng hoảng nhân đạo hay nhân quyền ở một vùng của thế giới với những cuộc khủng hoảng an ninh quốc gia ở một vùng khác. Những gì bắt đầu bằng thất bại trong việc gìn giữ phẩm giá của một cuộc đời sẽ thường xuyên kết thúc với một thảm họa cho cả nhiều quốc gia.”

- Kofi Annan

Vào một sáng sớm xám xịt năm 1979, tôi lên một chuyến tàu lửa quân sự ở Tây Đức đi qua Đông Đức tới ga Charlottenburg ở phần Berlin thuộc Tây Đức[1], trước kia là thủ đô của nước Đức thống nhất. Tới lúc đó, bức tường Berlin đã mọc lên được mười tám năm và nó tỏ ra là một thành phần lâu bền trong cuộc sống của chúng tôi, một vấn đề sẽ khiến chúng tôi chia tách vĩnh viễn. Có vẻ không có bất kỳ triển vọng nào để sống khác đi - hiện tại được cố định trong bê tông, dây thép gai, thuộc về một cuộc xung đột đe dọa sẽ phân chia đủ số nguyên tử giết chết tất cả chúng ta.

Là một thành viên tại ngũ của Không quân Hoàng gia Anh, tôi có căn cước quân đội và bởi thế không cần hộ chiếu cho hành trình đặc biệt này. Ở biên giới, chúng tôi dùng tại một nhà ga có hàng rào dây thép gai và một tháp canh. Những lính gác biên giới Liên Xô kiệm lời, không biết cười, lên toa xe lửa và kiểm tra giấy tờ của chúng tôi trong khi cảnh sát giao thông Đông Đức, “TraPos”, dùng chó nghiệp vụ kiểm tra bên dưới các toa xe. Đầu máy và nhân viên toa xe của phe tư bản bị thay thế bằng phiên bản tốt đẹp của phe cộng sản, và sau khoảng hai tiếng đồng hồ, chúng tôi lại bình bịch đi vào hành lang quân sự nối Tây Đức với Tây Berlin.

Người dân tập trung tại Bức tường Berlin khi nó bắt đầu bị phá bỏ vào tháng Mười một năm 1989.

Những cánh cửa toa xe đã bị khóa bằng dây xích từ bên ngoài và cửa sổ bị niêm phong khi chúng tôi tiến vào thế giới tồi tàn, ảm đạm, u ám trong đó thực tại có vẻ như là một màu xám vĩnh viễn. Chúng tôi bị cấm đứng lên khi chiếc xe lửa dừng ở những nhà ga và bị cấm nói chuyện với mọi sĩ quan hay thường dân Đông Đức hay Liên Xô. Suốt chiều dài của hành lang khoảng 232 kilômét đó vây kín bởi hàng rào dây thép cao, rải rác các tòa tháp canh có bổ sung đèn pha và lính gác với súng máy. Đằng sau những hàng rào là các “vùng bắn bỏ” để trống, tạo ra tầm ngắm trống trải trong trường hợp có người đủ can đảm - hay ngu ngốc - tìm cách vượt qua biên giới. Sau một hành trình lanh canh, hết ngừng lại chạy, kéo dài bốn tiếng, chúng tôi vào Berlin và hướng về biểu tượng của sự chia rẽ ý thức hệ lớn nhất thế kỷ 20. Đây là một bức tường thành phố không giống ở bất kỳ đâu - được xây lên không phải để ngăn cản những kẻ xâm nhập, mà để giữ mọi người lại bên trong.

Khi thế hệ của tôi lớn lên, bài toán chia thật đơn giản: chỉ có “bọn họ” và “chúng tôi”. Đó là một thế giới hai cực, tương đối dễ hiểu. “Họ” sống đằng sau “Bức màn sắt” trong một vùng đất xa lạ nơi nếu một công dân muốn đi từ thành phố này sang thành phố khác - lấy ví dụ, từ St. Petersburg tới Moscow - họ phải xin phép.

Ngày nay hầu hết dân châu Âu coi ý tưởng tự do đi lại là chuyện đương nhiên. Nhưng cách đây chưa lâu, đi xuyên qua lục địa là điều bị giới hạn nghiêm ngặt. Trong Chiến tranh lạnh, để vượt qua những đường biên giới ở Tây Âu, bạn phải có hộ chiếu, nhưng đó là chuyện thường tình. Vượt qua Bức màn sắt vào Đông Âu, hồi đó, đòi hỏi phải có hộ chiếu, thủ tục giấy tờ và kiểm tra an ninh, và được thực hiện với ý thức rằng mỗi chuyển động của bạn đều sẽ bị theo dõi. Bức màn sắt và bức tường Berlin là những lời nhắc nhở hữu hình nghiêm khắc rằng một châu lục với lịch sử chung, những nền văn hóa liên kết nội tại và những tuyến đường thương mại lâu đời đã bị chia cắt hoàn toàn bởi ý thức hệ và chính trị của các siêu cường.

Sau Thế chiến II, khi những người thắng trận cộng sản và tư bản đánh giá nhau dọc theo sự chia rẽ mới này, hệ thống kinh tế Liên Xô đã nhanh chóng làm các công dân của nó thất vọng. Chỉ cần nhìn ra cửa sổ hay sang bên kia đường, người dân bình thường ở phía đông có thể thấy công cuộc tái thiết thành công ngoạn mục của Tây Đức. Truyền hình Tây Đức phủ sóng gần như toàn bộ Đông Đức, mang theo những hình ảnh về một xã hội tiêu dùng đang sinh sôi nảy nở vào từng căn nhà người dân bình thường. Dân Đông Đức thậm chí nói đùa rằng những vùng xa nhất về phía đông, ngoài tầm với của sóng vô tuyến Tây Đức, là vùng “Thung lũng không ai biết gì”. Mỗi ngày mà người dân có thể chứng kiến sự tiến bộ đều là một đòn giáng mạnh vào ý tưởng rằng hệ thống Liên Xô là ưu việt. Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức cầm quyền đã tự hào vào năm 1958 rằng nhiệm vụ chủ yếu của họ là vượt qua Tây Đức trong tiêu thụ hàng tiêu dùng trong vòng hai năm. Điều này không xảy ra, nhưng Liên bang Xô Viết quả đã dẫn trước trong cuộc đua lên vũ trụ, một câu giễu nhại phổ biến ở Đông Đức với khẩu hiệu cộng sản của thời bấy giờ là, “Ohne Butter, ohne Sahne, auf dem Mond die rote Fahne” (“Không có bơ, không có kem, nhưng trên mặt trăng cờ đỏ bay phần phật”).

Trước khi bức tường mọc lên, rất nhiều người Đông Berlin đã lựa chọn di cư sang vùng phía tây, để làm việc hoặc để sống lâu dài, tới mức nền kinh tế Đông Đức rơi vào tình trạng bị đe dọa nghiêm trọng. Khoảng hai triệu người đã bỏ phiếu bằng chân trong thập niên trước đó, và dòng người tiếp tục tăng lên. Từ tháng Một năm 1960 tới cuối tháng Bảy năm 1961, thêm 330.000 người nữa đã di chuyển sang phía tây. Đông Đức đang đánh mất lực lượng lao động và sự khả tín của họ.

Vào nửa đêm ngày 13 tháng Tám, với sự chấp thuận của Moscow, quân đội Đông Đức bắt đầu xây tường ngăn cách để chia đôi một trong những thành phố thủ đô lớn nhất thế giới. Nhà chức trách ở một phía gọi đó là Antifaschistischer Schutzumall (tường thành bảo vệ chống phát xít), những người ở phía bên kia gọi đó là “bức tường tủi hổ”. Trong vài năm đầu nó chỉ gồm vài vạt tường, và chủ yếu là những con phố bị ngăn lại, những cửa sổ bị che lại và những dãy hàng rào dây thép gai. Nhưng trong một thập niên, một bức tường bê tông đã mọc lên với những tháp canh, boong ke, hàng rào điện, chó nghiệp vụ, các khu vực nổ súng tự động và hàng trăm lính gác vũ trang.

Ở phần phía đông, người ta bị cấm lại gần bức tường, nhưng bên phía tây ta có thể đi tới những con đường kết thúc nơi bức tường được xây và chạm vào sự điên rồ logic của việc chia rẽ dân tộc Đức và các dân tộc châu Âu. Ở phía này, sự hài hước đen của những năm chiến tranh lạnh có thể được vẽ lại bằng cách phun sơn lên tường. Tôi nhớ hai ví dụ những bức vẽ trên tường, đều bằng tiếng Anh: “Hãy nhảy qua bức tường và vào đảng”, và “Cảnh cáo! Khu vực huấn luyện nhảy cao của Đông Đức”. Trên thực tế không ai nhảy qua được bức tường, nhưng hàng chục nghìn người đã thử những cách khác để vượt biên từ đông sang tây,và ít nhất 140 người đã bị giết trong nỗ lực đó, dù một số nhà nghiên cứu cho rằng con số cao hơn nhiều. Những đường hầm có vẻ là con đường thoát rõ ràng nhất, nhưng còn có những nỗ lực đáng nhớ và thành công khác.

Chỉ bốn tháng sau khi bức tường mọc lên, tài xế xe lửa hai mươi tám tuổi Harry Deterling đã hướng chuyến xe lửa chở khách anh đang lái vào bức tường, tăng tốc lực và lao qua nó. Không hề ngẫu nhiên khi sáu thành viên gia đình anh có mặt trong số hành khách. Hai năm sau, Horst Klein, một nghệ sĩ nhào lộn, để ý thấy có một dây thép không sử dụng vắt qua đường biên giới. Ở độ cao hơn 18 mét phía trên các lính gác tuần tra bên dưới, anh dùng tay đu từng chút một sang Tây Berlin. Có lẽ cuộc đào thoát táo bạo và thông minh nhất là vào năm 1979. Hans Strelczyk và Gunter Wetzel sử dụng kiến thức cơ khí của họ để chế tạo một hệ thống khí cầu hơi nóng thô sơ sử dụng xi lanh propane. Vợ họ đã làm khí cầu bằng vải toan và khăn trải giường. Tập hợp bốn đứa con lại (và đã thử trước hướng gió), họ bay lên độ cao hơn 2.400 mét và vài dặm sang phía tây để đến với tự do.

Dẫu vậy, bức tường, tính theo lý do tồn tại của nó, có thể được gọi là một thành công. Không thể biết bao nhiêu người đã vượt biên thành công, nhưng ước tính con số đó chỉ vào khoảng 5.000; cuộc ra đi hàng loạt đã bị chặn lại. Nền kinh tế Đông Đức bắt đầu ổn định sau khi lực lượng lao động của họ đã bị cầm tù, và vào giữa những năm 1960, nhà nước đã kiểm soát được thương mại và tiền tệ của nó và có thể vận hành nó, cùng với phần còn lại của các nhà nước chư hầu của đế quốc Nga.

Tuy nhiên, dân Đông Đức đã không có lựa chọn, và hầu hết họ biết điều đó. Họ mắc kẹt đằng sau một bức tường đã giam hãm về mặt thể chất và tinh thần một vài thế hệ. Không lâu sau khi nó mọc lên, các nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần bắt đầu sử dụng cụm từ “căn bệnh bức tường” (Mauerkrankheit). Theo lý thuyết, ranh giới đó đã tạo ra một hội chứng trong đó một số người nghĩ họ bị giam cầm, điều tới lượt nó dẫn tới những rối loạn tâm lý và hành vi như tâm thần phân liệt, nghiện rượu, trầm cảm và thậm chí là tự sát. Nhà phân tâm học người Thụy Sĩ Carl Jung[2] có quan điểm rộng hơn, lập luận rằng Bức màn sắt có nghĩa là châu Âu nói chung đã “bị phân tách như một người loạn thần kinh”. Tất nhiên, đằng nào cũng có một mức độ bệnh tật tâm thần trong dân chúng, nhưng cũng khó tin được rằng bức tường không có vai trò gì.

      Bản đồ châu Âu thời Chiến tranh lạnh (1947–89) bị chia cắt bởi Bức màn sắt.

Các nước thuộc khối Warszawa ở phía đông của Bức màn sắt được tô màu đỏ. Thành viên khối NATO về phía bên trái được tô màu xanh. Các nước trung lập về quân sự được tô màu xám. Nam Tư (tô xanh lá), dù là một nước cộng sản, vẫn độc lập với Khối phía đông. Tương tự, nước Albania cộng sản mâu thuẫn với Liên Xô vào đầu thập niên 1960, và nghiêng về phía Trung Quốc sau khi Trung-Xô chia rẽ.

Với những người chúng tôi ở phương Tây, phương Đông là “phía bên kia” - đằng sau Bức màn sắt. Một vài thế hệ những nhà tư duy và học giả tin rằng hệ thống của Đông Đức ưu việt hơn so với ở phương Tây cả về kinh tế và đạo đức. Khi điều rõ rành rành hiện ra với họ vào năm 1989, đã thật khó, và vẫn còn khó, để một số người thừa nhận rằng lòng tin cả một đời người là dựa trên đống đổ nát của một hệ thống nhà tù khổng lồ. Với phần còn lại chúng tôi, chúng tôi không đi “xe lửa liên vận” trong các kỳ nghỉ hè để thăm Budapest, Dresden và Warsaw[3], hay có các chuyến thăm cuối tuần tới Prague hay Tallinn. Hầu hết chúng tôi ở độ tuổi ba mươi trước khi chúng tôi gặp bất kỳ ai từ “phía bên kia” vì thật khó tới được đó - và gần như là bất khả để họ tới được “đây”. Nhiều người đằng sau Bức màn sắt sống trong một hệ thống mà họ cần giấy phép mới được đi từ thành phố này sang thành phố khác ngay trong nước họ, chứ đừng nói vượt qua biên giới quốc tế sang phương Tây. Trong hai mươi tám năm, mọi chuyện cứ như thế. Và rồi bỗng nhiên, nó không như thế nữa.

Vào năm 1985, Mikhail Gorbachev đã trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ từ ông bắt đầu nới lỏng những xiềng xích với đời sống người dân. Từ “perestroika” bắt đầu được sử dụng, có nghĩa là “tái cấu trúc”, nhưng cũng ngụ ý “lắng nghe”. Trong khuôn khổ này là ý tưởng-glasnost”, hay mở cửa. Theo hàng nghìn cách nhỏ lẻ, xã hội và chính trị mở ra và mọi người lắng nghe nhau. Tới cuối mùa xuân năm 1989, ý tưởng đó đã lan rộng tới mức Hungary, đằng sau Bức màn sắt, bắt đầu dỡ bỏ một phần hàng rào biên giới của họ với Áo. Mùa hè đó, hàng nghìn người Đông Đức đã quyết định đi nghỉ hè ở Hungary.

Tới tháng Tám, hàng trăm gia đình Đông Đức đã cắm trại ngay bên ngoài lãnh sự quán Tây Đức ở Budapest, và hàng trăm gia đình nữa đã tị nạn ở sân Nhà thờ Gia đình Thánh linh, tất cả dưới cặp mắt theo dõi của các sĩ quan Cơ quan Mật vụ Đông Đức - Stasi. Tin đồn lan đi về một cuộc “picnic toàn châu Âu” sẽ được tổ chức ở biên giới với Áo, và người dân bỗng nhiên di chuyển. Tới cuối buổi chiều ngày 19 tháng Tám, hàng trăm người đã tập hợp gần một cánh cửa gỗ, hàng chục người nữa đi về phía đó, và rồi hàng trăm người thực sự chạy qua lỗ hổng, một số người khóc vì vui mừng, một số người cười to, và một số người đơn giản là tiếp tục chạy, không thể tin được là họ đã thực sự băng qua biên giới. Ba tuần sau, Hungary mở cửa hoàn toàn các điểm cửa khẩu và 60.000 người đã tràn qua. Thủ tướng Đức, Helmut Kohl, sau này nói, “Chính ở Hungary, hòn đá đầu tiên đã được dỡ khỏi bức tường Berlin.”

Vào mùa thu, đã có những cuộc biểu tình chống chính phủ quy mô lớn ở Đông Đức. Vào tháng Mười, nhà lãnh đạo bị căm ghét Erich Honecker từ chức và bị thay thế bởi nhân vật chỉ ít bị ghét hơn một chút Egon Krenz. Không có sự hướng dẫn từ những ông chủ Nga, bộ chính trị đã ra quyết định chính sách một cách hấp tấp. Họ quyết định để dân Đông Berlin đăng ký thị thực du lịch để sang thăm Tây Đức. Đó là một quy trình hẳn có thể quản lý được, và nhà chức trách cộng sản hẳn có thể kéo dài thời gian và tính toán những cách kiểm soát tình hình, nhưng một trong những chi tiết nhỏ có khả năng thay đổi lịch sử đã diễn ra. Người chịu trách nhiệm tuyên bố quyết định về thị thực vào ngày 9 tháng Mười một là Bộ trưởng Tuyên truyền, Günter Schabowski. Ông vừa đi nghỉ về, đã không tham dự cuộc họp quyết định chính sách đó, và không biết gì về những chi tiết của quy trình, vốn bao gồm thông báo với các tư lệnh biên phòng vào ngày hôm sau để họ có thể theo lệnh. Khi ông được hỏi “Bao giờ các quy định mới bắt đầu?” ông lưỡng lự, rồi đáp,“Theo tôi biết thì ngay lập tức, ngay bây giờ.” Đã có hàng nghìn người Đông Berlin ở bức tường lúc đó rồi; trong vài giờ, đã có hàng chục nghìn người ở cả hai phía.

Ban đầu các lính gác Đông Đức không cho ai qua hết, nhưng rồi, giữa những bối rối, họ đóng mộc cho vài hộ chiếu và rồi lùi lại để cho đám đông lao lên. Những khung cảnh này, mà một năm trước không ai đoán được, thật đáng kinh ngạc. Người Tây và Đông Đức ôm chầm lấy nhau, những chai sâm panh được bật, và những “kẻ đục tường”, những người Đông và Tây Đức bình thường, trèo lên trên bức tường với cây đục, búa và rìu, và bắt đầu san phẳng ranh giới lớn đó. Từ được dùng cho buổi tối đó là wahnsinnig - sững sờ.

Đó là một ngày cuồng loạn, đầy cảm xúc cho mọi người dân châu Âu. Tôi đang sống ở Paris lúc đó và khoảng ba mươi sáu tiếng sau đã thấy một chiếc xe Trabant Đông Berlin mòn vẹt, với bốn người Đông Berlin trẻ tuổi trong đó, ì ạch trên đại lộ Champs-Élysées. Với đường biên giới đã mở, họ quyết định điều đầu tiên họ muốn thấy là Kinh đô Ánh sáng, và đã lái xe gần như không nghỉ để tới đó. Suốt dọc đại lộ lớn đó, dân Paris ngừng lại để hoan hô những láng giềng người Đức của họ và cả một thời đại mới.

Hai nước Đức đã thống nhất về mặt chính trị vào năm 1990, sau 45 năm chia cắt. Vào năm 1989, Willy Brandt, cựu Thủ tướng Tây Đức, đã nói: “Giờ những gì thuộc về nhau sẽ tăng trưởng cùng nhau.” Câu đó được cho là để chỉ nước Đức, dù thực ra ông đang nói về châu Âu nói chung.

Vậy là một nước Đức thống nhất ư? Một châu Âu thống nhất ư? Tới một mức độ nào đó thì đúng vậy. Vẫn còn sự chia cắt mà những cây đục và búa không thể phá hủy được - “bức tường trong đầu”. Bức tường đó không chỉ ngăn mọi người đi lại, nó đã tạo ra những hố sâu - về kinh tế, chính trị và xã hội - những hố sâu sẽ tỏ ra còn khó vượt qua hơn đường ranh vật chất. Vậy là, sau những giọt nước mắt vui mừng và những tuyên bố về tình anh em, chặng đường tái thống nhất gian khó bắt đầu. Đây không phải là sự sáp nhập của những quốc gia bình đẳng. Vào năm 1990, Đông Đức có dân số 16,1 triệu người, Tây Đức 63,7 triệu, và nền kinh tế Tây Đức lớn hơn nhiều so với Đông Đức. Hệ thống dân chủ tư bản của phương tây bắt đầu hủy diệt cỗ máy Cộng sản được trang bị sự ủy nhiệm qua những cuộc bầu cử thống nhất, trong đó Đảng Cộng sản cũ ở Đông Đức bị đè bẹp.

Tất cả những nước lớn đều có khác biệt về văn hóa vùng miền, nhưng đây là một nước lớn trong đó người dân không hề có liên hệ gì với nhau và sống dưới những hệ thống khác nhau. Lấy ví dụ, ở Tây Đức, lòng tin vào Chúa và việc đi lễ nhà thờ đang giảm từ từ, trong khi ở Đông Đức, nó đã trở thành một di tích quá khứ. Người Đông Đức có thể chối bỏ chủ nghĩa cộng sản, nhưng điều đó không có nghĩa là họ được chuẩn bị cho những khía cạnh khắc nghiệt hơn, ích kỷ hơn của chủ nghĩa tư bản. Ở phía bên kia, nhiều người Tây Đức có thể chào đón sự thống nhất, nhưng nhanh chóng bắt đầu kêu ca về phí tổn tài chính của việc hấp thu một nền kinh tế thất bại và một dân chúng cần được “giáo dục lại” những cách thức của thế giới hiện đại.

Tất cả cô đặc lại thành một phiên bản Đức “chúng ta và bọn họ” - Ossis (dân miền Đông) và Wessis (dân miền Tây). Các cuộc thăm dò ý kiến vào năm 2004 thấy rằng cứ tám người Đông Đức thì một người hoài nhớ những ngày cũ trước khi bức tường sụp đổ, và vào năm 1999, nhiều người Đông Đức vẫn nói về cảm giác bị sĩ nhục vì mất việc làm, vì những chương trình tái đào tạo bắt buộc và những khó khăn của họ trong việc hòa nhập với hệ thống và nền văn hóa tiêu dùng mới. Thậm chí vào năm 2015, một nghiên cứu của Viện Dân số và Phát triển Berlin kết luận rằng ít nhất một nửa người Đức vẫn cảm thấy sự khác biệt về cả khía cạnh kinh tế và văn hóa. Những khu vực miền đông vẫn còn được gọi là “những bang mới”, vốn là một lời nhắc nhở rằng với một số người, Đông Đức gia nhập Tây Đức, chứ không phải hai thực thể nhất trí hợp nhất với nhau.

Bất chấp khoản đầu tư hơn hai nghìn tỉ đô la Mỹ, các vùng miền đông vẫn nghèo hơn miền tây, và vào cuối năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp là 12% trăm, gấp đôi so với miền tây. Đó không phải là một câu chuyện thất bại: vùng này đã trở nên giàu có và hiệu quả hơn nhiều so với trước kia - Dresden, Leipzig và các thành phố khác đang phát triển, mức sống đã tăng lên - nhưng hơn một phần tư thế kỷ sau khi thống nhất, sự chia rẽ vẫn còn. Trong hai mươi thành phố phồn thịnh nhất của nước Đức, Jena là thành phố duy nhất ở miền đông vào được danh sách. Điều đó không chỉ vì lương ở Đông Đức thấp hơn; mà cũng bởi, do hệ thống cộng sản, tỷ lệ sở hữu bất động sản rất thấp. Khi thống nhất, mọi khoản tiết kiệm người dân có được chuyển đổi với tỷ giá hai mark Đông Đức sang một mark Tây Đức.

Vào năm 2010, các nhà xã hội học ở Đại học Bielefeld thấy rằng bất chấp bao gồm khoảng 20% dân số, không tới 5% những người mà họ xác định là “tinh hoa” trong chính trị, kinh doanh và truyền thông là người Đông Đức, mặc dù trình độ giáo dục ở đó cao hơn, nhất là toán và khoa học - một phần nhờ vào mức đầu tư cao vào các trường học kể từ khi thống nhất. Khoảng cách về giáo dục đó bản thân nó có nghĩa là những người sáng láng nhất từ các vùng miền đông sang miền tây để tìm những việc làm được trả lương cao nhất. Với việc phụ nữ đạt được trình độ giáo dục cao hơn nam giới, tỷ lệ phụ nữ trẻ so với nam giới đã giảm xuống ở Đông Đức, đồng thời tỷ lệ sinh ở đó cũng giảm. Mối quan hệ lâu dài và hôn nhân giữa người Đông và Tây Đức một thời là khác thường, nhưng giờ đã bắt đầu xuất hiện. Dẫu vậy, đa số mối quan hệ này là giữa đàn ông miền tây và phụ nữ miền đông; việc các quan hệ đó còn lâu mới là bình thường được thể hiện qua biệt danh cho một cặp Ossi/Wessi - “Wossis”. Tất cả những điều đó đã góp phần vào dân số suy giảm ở miền đông nước Đức, dù tỷ lệ đó đã chậm lại. Một số tin tức cho rằng sự suy giảm đã ngưng lại, một phần nhờ vào thành công của những thành phố như Dresden và Leipzig (“thành phố ngầu nhất nước Đức”), mặc dù điều này diễn ra với cái giá là những người trẻ đổ xô ra từ vùng nông thôn.

Cũng có những khác biệt vùng miền về văn hóa: cả thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng đều có vai trò trong bản sắc Đức hậu thống nhất. Hai mươi lăm năm trước, người Đông Đức đã tràn vào những cửa hàng bán quần jean Levi’s, máy quay video và sô cô la chất lượng cao. Nhưng việc tiêu thụ các sản phẩm “mới” một lần nữa nhấn mạnh sự thống trị của miền tây trong mối quan hệ chung mới. Rất ít sản phẩm Đông Đức vào được các siêu thị ở Tây Đức, và chiếc xe hơi ì ạch, phì phò“Trabbie” trở thành đề tài cho chuyện tiếu lâm khắp châu Âu. Những trò đùa về xe Trabant giờ đã biến mất (cũng như nhiều nhà máy sản xuất hàng hóa miền đông cũ), và những khác biệt văn hóa và vùng miền trở nên ít tính chính trị hơn khi năm tháng trôi đi, nhưng ngay cả vào năm 2010, báo chí vẫn ồn ào khi Thủ tướng Merkel, một Ossi, được hỏi về đồ ăn bà thích nhất và đã chọn một loại xúp thịt và dưa muối Đông Đức có gốc Nga tên là solyanka. Qua thời gian, những đồ ăn bản xứ như solyanka và dưa chuột Spreewald sẽ đơn giản trở thành một yếu tố của bản sắc ẩm thực vùng miền, và sẽ không còn những âm vang chính trị gắn với nó. Sẽ không còn sự trở lại khi những màu sắc Ostalgie (một sự pha trộn giữa hai từ “hoài niệm” và “phương Đông” [4] phai nhạt.

Những chia rẽ ở nước Đức hiện đại còn lâu mới gay gắt như đã từng trong chiến tranh lạnh, và một số là do các yếu tố trước khi có sự chia rẽ cộng sản/tư bản. Tuy nhiên, vẫn có thể thấy được những đường nét của bức tường và Bức màn sắt - và có thể cảm nhận những điều đó. Ta có thể thấy những tàn tích vật chất dọc theo đường Bernauer Strasse, ở đường Niederkirchnerstrasse, cạnh Bundestag, tòa nhà quốc hội ở Berlin, và ở Bảo tàng Bức tường nằm tại nơi từng là chốt kiểm soát Charlie. Ở khu chợ cóc, ta thậm chí có thể mua được một mảng tường “được đục ra từ bức tường vào buổi tối nổi tiếng năm 1989 đó”, dù khả năng nó là mảng tường thật rất thấp, bởi số lượng mảng tường bán ra, nếu đúng là thật, đã biến bức tường đó thành một trong những kiến trúc lớn nhất thế giới từng được dựng lên. Dẫu thế nào, ta vẫn có thể đưa về nhà một biểu tượng xám xịt bé nhỏ của lịch sử, của những đau thương con người, của sự chia rẽ chính trị tối thượng trong thế kỷ 20 đã chia rẽ châu Âu theo cách có vẻ không thể tưởng tượng được với nhiều người ngày nay.

* * *

Lẽ ra phải tràn đầy niềm vui và tình yêu sau khi bức tường Berlin sụp đổ, và chúng ta đã cảm thấy được thống nhất thực sự. Cảm giác đó giờ đang mờ nhạt đi - thật nhanh chóng.

Sau khi bức tường sụp đổ, mọi thứ thay đổi nhanh chóng. Khi dân Đông Âu gia nhập trở lại và nước Đức được thống nhất, sự nhất trí chính trị là tương lai thuộc về một châu Âu thống nhất, không biên giới với một đồng tiền chung duy nhất, trong đó quốc gia nhà nước sẽ dần tàn lụi. Liên bang EU[5] này sẽ tương tác với các khối lớn khác trong một thế giới toàn cầu hóa ngự trị bởi những hiệp định thương mại lớn. Con người, hàng hóa, dịch vụ và tiền bạc đều sẽ có thể di chuyển tự do giữa các quốc gia thành viên.

Những người cha sáng lập của EU đã giúp tái thiết một châu Âu tan hoang và chia rẽ sau Thế chiến II, dựa trên việc khôi phục sự thịnh vượng ở các quốc gia nhà nước trong một khu vực thương mại chung, mà vì vậy ban đầu được gọi là Cộng đồng Kinh tế châu Âu. Những hậu bối của họ đón nhận tầm nhìn rằng các nhà nước châu Âu có thể được xây dựng thành một quốc gia duy nhất gắn kết với nhau bởi ý thức hệ. Đó là một khao khát cao cả có nguồn gốc từ mong muốn chấm dứt 2.000 năm các bộ lạc châu Âu đã chinh chiến liên tục với nhau. Vào những năm 1990, Nam Tư phát hiện muộn màng rằng họ đã không dập được những mồi lửa của chủ nghĩa dân tộc Balkan dưới tấm khăn phủ chủ nghĩa xã hội Slav và chứng kiến cả đất nước bị thiêu trụi, những ai tìm kiếm một siêu nhà nước châu Âu coi Nam Tư là bằng chứng chính xác cho lý do dự án EU phải thành công. Tuy nhiên, hàng loạt các chi tiết nhỏ và một vài yếu tố quy mô lớn, tác động lớn đã cho thấy những vấn đề trong hệ thống đó.

Khi cộng đồng các quốc gia nhà nước này bắt đầu biến đổi thành một liên minh các nhà nước thành viên vào những năm 1980, ngày càng nhiều quyền lực được chuyển cho Brussels trong một sự thoái lui của chủ quyền mà không phải ai cũng ủng hộ. Qua năm tháng, các quốc gia đã kêu gọi độc lập nhiều hơn và khả năng ra quyết định vì lợi ích tốt nhất của người dân nước họ về ngân sách, pháp luật, các quy định thương mại, vân vân. Họ không muốn bị chỉ đạo bởi một quyền lực tập trung ở Brussels. Và những chỉ thị từ EU sau đó đã dẫn tới các vấn đề kinh tế nghiêm trọng ở một số nước. Đạo luật châu Âu duy nhất vào năm 1986 thiết lập một thị trường duy nhất, và một đồng tiền duy nhất, đồng euro, được hình thành năm 1999. Tuy nhiên, đã không có một chính sách tài khóa hay tài chính duy nhất đồng thời, cũng không có sự linh hoạt trong hệ thống đồng euro để hấp thu những cú sốc tài chính khu vực. Vào thời tốt lành, người ta ít có xu hướng nghi ngờ sự khôn ngoan của việc tạo ra hệ thống phụ thuộc vào nhau này. Tuy nhiên hiện giờ, đồng euro đôi khi gặp khó khăn trong việc đứng vững trên các thị trường thế giới, và có thể biến động một cách đáng báo động, khó có thể là một yếu tố hấp dẫn với những ứng viên xin gia nhập EU; và đã có những kẻ chiến thắng và thất bại về mặt tài chính. Hy Lạp chẳng hạn, gánh chịu tình trạng thất nghiệp kinh khủng ở người trẻ, một phần vì những chính sách kinh tế áp đặt lên họ từ Berlin và Brussels.

EU cũng đối mặt với thách thức đoàn kết Đông và Tây Âu, sau khi mở rộng vào năm 2004 để kết nạp một số nước Đông Âu. Tự do đi lại là một trong những lý tưởng của EU, cho người châu Âu quyền được sống, làm việc và đi lại khắp các nước thành viên. Ý đồ là để vừa tạo điều kiện cho sự tăng trưởng khắp châu Âu, vừa khuyến khích sự hội nhập dân chúng châu Âu. Đó là một lý tưởng nhiều người đón nhận, việc đi lại khắp châu lục vốn là bất khả chỉ vài thập niên trước, nhất là tới những nơi trước đó nằm sau Bức màn sắt. Theo một số cách, điều đó làm giảm cảm nhận về “kẻ khác” vốn đã lan rộng trong thời chiến tranh lạnh. Nhưng giống như nước Đức đã trải qua một tác động lâu dài từ bức tường Berlin, vẫn có nhiều khác biệt giữa Tây và Đông. Các nước như Hungary, Ba Lan và Bulgaria đã phải chịu những hạn chế đi lại và sự mất quyền lợi kinh tế giống như Đông Đức, và nền kinh tế của họ bị đảo lộn nghiêm trọng vì sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Dẫu có tiến bộ, nhưng nhiều nước nghèo nhất EU là những nước một thời thuộc khối Đông Âu.

Liên Minh châu Âu đã mở rộng hơn kể từ ngày đầu thành lập.

Khi các quốc gia phía đông được tích hợp vào EU, GDP đầu người ở những nước như Anh và Pháp cao gấp gần sáu lần so với ở Ba Lan. Bất chấp điều đó, nhiều người trong giới chính trị ở các nước Tây Âu đánh giá thấp một cách nghiêm trọng việc bao nhiêu người có thể sang phương tây để tìm việc làm và không được chuẩn bị khi vài triệu người đã làm thế. Có một thực tế kinh tế là họ cần người lao động nhập cư, và thường là cho những công việc mà một số dân bản địa không chịu làm. Tuy nhiên, logic kinh tế học chắc nịch đó không phải lúc nào cũng hiệu quả khi thuyết phục một thợ nước, một thợ xây hay một tài xế taxi người Pháp, Hà Lan hay Anh về lợi ích với đất nước của lao động nhập cư khi họ phải cạnh tranh với những người mới tới để có việc làm, nhà ở và chăm sóc y tế. Khi quá nhiều di dân kinh tế bắt đầu di chuyển từ những nước nghèo ở châu Âu sang các nước giàu, người ta bắt đầu kêu ca về dòng lao động nhập cư Đông Âu và nghi ngờ lợi ích của việc tự do đi lại. Có thể cảm thấy điều này mạnh nhất ở Anh với sự vươn lên của UKIP[6], và cuối cùng đã góp phần vào cuộc bỏ phiếu Brexit.

Thêm vào sự bất mãn gia tăng đó là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và những cắt giảm tiếp nối của chính phủ với chi tiêu và đầu tư xã hội khắp Liên minh. Trong khi các ngân hàng đang suy sụp, người dân đóng thuế ở mỗi quốc gia nhà nước phải dọn dẹp đống hỗn loạn. Với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và nhập cư tăng lên qua một vùng không còn biên giới, những điểm yếu của hệ thống bắt đầu lộ ra. Các nước Scandinavia đã gặp nhau để thảo luận về khả năng một Liên minh Phương Bắc trong trường hợp EU sụp đổ. Nhóm Visegrad (Slovakia, Cộng hòa Czech, Ba Lan và Hungary) đang ngày càng trở thành một mặt trận thống nhất chống lại Brussels. “Nỗ lực” cho “Một châu Âu” bị thách thức bởi Brexit, bởi những phong trào ly khai ở Scotland, Bỉ, Ý và Tây Ban Nha, và bởi sự nổi lên của các đảng nghi ngờ châu Âu ở gần như tất cả các nước. Giai đoạn cuối năm 2017 với cuộc khủng hoảng ở Catalonia khiến điều này được chú ý rất nhiều, nhấn mạnh những căng thẳng hiện hữu khi có một vài dân tộc ở trong một nhà nước.

Ý tưởng “Một châu Âu” vẫn còn nhiều người ủng hộ. Người nổi bật nhất trong số đó là Tổng thống Macron của Pháp, người đã vạch ra kế hoạch để trao lại nhiều chủ quyền hạn trong EU và quan trọng là đề xuất một vị bộ trưởng tài chính cho tất cả các nước. Ông Macron có vẻ nghĩ rằng vị trí “Người lãnh đạo thế giới tự do” đang trống chỗ và đặt mình vào vị thế đó, nhất là sau thành tích nghèo nàn của Thủ tướng Merkel trong cuộc bầu cử năm 2017. Tuy nhiên, với những người khác, giấc mơ châu Âu của ông là một cơn ác mộng. Chỉ vài nước là nghe theo những ý tưởng của ông, và ngay cả Đức cũng thận trọng bởi họ lo lắng sẽ phải chi trả cho mọi vấn đề kinh tế trước mắt.

Những người tin tưởng thật sự sẽ ủng hộ dự án châu Âu dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, những người dân tộc chủ nghĩa hăng hái sẽ luôn chống lại nó, nhưng những người theo thuyết bất khả tri sẽ chỉ ủng hộ nó nếu nó có lợi cho họ - và những bộ phận rộng lớn các cử tri châu Âu bắt đầu cảm thấy rằng nó không còn tác dụng nữa. Không có sự phồn thịnh về kinh tế để gắn kết họ, và với sự ủng hộ suy giảm cho một hệ thống thất bại, mức độ chủ nghĩa dân tộc tăng lên không còn có thể bị đè nén hay phớt lờ nữa.

EU chưa bao giờ thực sự thành công trong việc thay thế quốc gia nhà nước trong trái tim hầu hết người châu Âu. Có thể tranh luận rằng những người sáng lập nó đã hành động quá nhanh, quá kiêu ngạo, khi tin rằng việc tạo ra châu Âu sẽ dẫn tới một dân chúng với bản sắc châu Âu trên hết, còn quốc gia nhà nước đứng thứ hai. Vào năm 1861, một trong những người tiên phong của công cuộc thống nhất nước Ý, Massimo d’Azeglio, đã nói, “Chúng ta đã tạo ra nước Ý; giờ chúng ta phải tạo ra người Ý.” Ngay cả điều đó cũng đầy thách thức, và trên một số khía cạnh vẫn là điều đang diễn ra, điều này đúng ngay cả ở nơi mà các vùng đã có một tôn giáo, lịch sử và, ở mức độ nào đó, địa lý chung. Để tạo ra EU và khu vực dùng đồng euro và rồi bắt tay vào tạo ra người châu Âu là một dự án tuyệt đối khó khăn hơn, trong đó những mối bận tâm, nhu cầu và ưu tiên rất khác nhau của Phần Lan và Hungary phải chen chúc với những thứ đó của Hy Lạp và Bồ Đào Nha.

Nhiều học giả thích tranh luận rằng chủ nghĩa dân tộc là một “cấu trúc sai lạc” vì nó dựa trên “những cộng đồng tưởng tượng”, nhưng chẳng có gì sai lạc về cảm xúc của con người liên quan tới bản sắc dân tộc của họ, và “tưởng tượng” không có nghĩa là không tồn tại. Người Palestine chẳng hạn, qua ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa, đã phát triển một cảm nhận về bản sắc mạnh mẽ và như thể tin tưởng rằng họ là một dân tộc, và là một dân tộc xứng đáng có một nhà nước. Ít học giả thách thức diễn giải đó, vậy mà về mặt học thuật, họ lại tiếp tục lập luận rằng chủ nghĩa dân tộc đã lỗi thời, thậm chí là sơ khai. Về vấn đề sau họ có thể đúng, nhưng phớt lờ thực tế của chủ nghĩa dân tộc, vốn có thể thấy trên toàn thế giới, là ngớ ngẩn. Một số học giả, nhà trí thức và những bộ phận truyền thông, doanh nghiệp và chính trị coi họ là đã được giải phóng khỏi chủ nghĩa dân tộc. Vào năm 2016, chủ tịch Ủy ban châu Âu, Jean-Claude Juncker, đã mô tả các đường biên giới quốc gia là “phát minh tồi tệ nhất trong lịch sử”. Ông có thể có lý, nhưng lên án nó thẳng thừng không nhiều khả năng giúp ông giành được sự chấp thuận của những người dân tộc chủ nghĩa với ý tưởng của ông về một siêu nhà nước châu Âu.

Tầng lớp tinh hoa mới, mà ông Juncker là một ví dụ điển hình, không có vẻ thực sự hiểu chủ nghĩa dân tộc và bác bỏ nó quá nhanh. Như sử gia quá cố Tony Judt viết vào năm 1996, trong khi miễn cưỡng lập luận rằng mối liên kết cứ mãi gần gũi hơn giữa người châu Âu là bất khả, “Chúng ta nên công nhận thực tế các dân tộc và quốc gia, và xét đến loại rủi ro mà khi bị phớt lờ sẽ trở thành nguồn gốc phiếu bầu cho những người theo chủ nghĩa dân tộc độc hại.”

Đó là những gì đã xảy ra. Khi các quốc gia trải qua thay đổi nhanh chóng vì nhập cư, những thái độ với người nhập cư đã cứng rắn hơn, và sự ủng hộ cho các đảng dân tộc chủ nghĩa độc hại đã tăng lên. Áp lực của thách thức mới nhất này, cùng với thực tế là EU đang vật lộn để đoàn kết các thành viên của nó, những nước vốn vẫn đang giận dữ vì tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, đã làm trầm trọng thêm những rạn nứt vốn bắt đầu xuất hiện trong tòa lâu đài EU từ Baltic tới Địa Trung Hải, và đang đe dọa giấc mơ châu Âu. Những hàng rào, những bức tường và những sự chia rẽ giờ là một phần của đời sống châu Âu.

Cuộc khủng hoảng nhập cư lớn dần từ năm 2011, đạt tới đỉnh điểm vào năm 2015. Đầu tiên hầu hết các nhà lãnh đạo châu Âu đều chào đón người nhập cư, nhưng vào lúc ngày càng nhiều người tị nạn đổ sang, rõ ràng là EU không được chuẩn bị để đối phó với số lượng lớn như thế - hơn một triệu người chỉ trong năm 2015 - và ngày càng nhiều người đang trở nên ngày càng miễn cưỡng làm như thế. Khi thái độ bắt đầu thay đổi, những đường biên giới nhất định trong EU bắt đầu siết chặt lại lần nữa, khi nhiều nước tìm cách giành lại sự kiểm soát với số lượng người nhập cư vượt qua biên giới nước họ.

Không liên quan tới cuộc khủng hoảng nhập cư, một nước Nga trỗi dậy trở lại cũng đóng vai trò trong sự gia tăng của các lằn ranh ở châu lục. Sau khi Nga sáp nhập Crimea, Ukraine bắt đầu xây dựng các pháo đài phòng thủ dọc theo biên giới miền đông của họ. Vào năm 2015, Estonia và Latvia bắt đầu xây lên những hàng rào ở biên giới của họ với Nga và vào năm 2017, Lithuania, vốn đã áp dụng lại chế độ nghĩa vụ quân sự vì những hành động của Nga, làm theo. Cả ba nước biết việc các thành viên NATO đồng minh của họ bảo vệ cho họ là khó khăn ra sao. Việc xây hàng rào không thật sự là một rào chắn vật lý với một cuộc xâm lược từ Nga, một chiếc xe tăng đơn giản sẽ đi thẳng qua chúng, nhưng sự phân định lãnh thổ là một phản ứng mang tính tâm lý với Moscow. Nó nói rằng “chúng tôi đã sẵn sàng tự vệ” và khiến quân đội Nga đang tập trận khó “vô tình” đi lạc vào một trong các nước Baltic này hơn.

Tất cả đều quan ngại về hành lang Suwalki, còn được gọi là khoảng trống Suwalki. Đó là một dải đất rộng khoảng hơn 100 kilômét ở Ba Lan kết nối vùng lãnh thổ tách rời của Nga, Kaliningrad, với đồng minh của Moscow - Belarus. Quân đội Nga được phép đi qua Lithuania ở vùng nằm dọc theo hành lang này để tiếp viện cho những căn cứ đáng sợ của họ ở Kaliningrad. Trong tình huống có xung đột, Nga có thể dễ dàng khép chặt khoảng trống đó và như thế cắt rời hoàn toàn các nước Baltic với các đồng minh NATO còn lại của họ. Tình thế phức tạp bởi thực tế là vùng Suwalki từng một thời thuộc Lithuania và những căng thẳng giữa Ba Lan và Lithuania vẫn còn. Tuy nhiên, chính mối đe dọa được cảm nhận từ Nga mới giải thích tại sao nó trở thành một trong những vùng biên giới nguy hiểm nhất và được phòng vệ nhiều nhất ở châu Âu.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng nhập cư là lý do lớn khiến cho châu Âu giờ cũng có những ranh giới vật lý dọc theo các đường biên giới quốc gia dài tương đương với thời chiến tranh lạnh. Tình hình đó bắt đầu dọc theo chính những đường biên giới của EU. Đã có những hàng rào và bức tường ở một vài chỗ, chẳng hạn như các vùng lãnh thổ tách rời của Tây Ban Nha nằm trong Morocco là Melilla và Ceuta - một mẩu của châu Phi mà Tây Ban Nha giả vờ là của Tây Ban Nha. Ở Melilla, như với nhiều rào chắn, hàng rào hai lớp cao khoảng 6 mét này thủng lỗ chỗ. Vào đầu năm 2018, ít nhất hai trăm người nhập cư châu Phi đã tràn qua hàng rào, một số tuyệt vọng tới mức họ tấn công các sĩ quan cảnh sát đang tìm cách ngăn họ lại. Phần lớn sau đó bị bắt và bị đưa tới một trung tâm giam giữ người nhập cư, nhưng hàng nghìn người đã tới được Tây Ban Nha qua đường này trong vài năm qua.

Một trong những rào chắn đầu tiên mọc lên vào năm 2011 là một hàng rào có dây thép nhọn dọc theo biên giới Hy Lạp với Thổ Nhĩ Kỳ nhằm ngăn người nhập cư và tị nạn từ vùng Trung Đông và châu Phi rộng lớn hơn lọt vào. Tới năm 2015, Bulgaria tiếp bước.

Tuy nhiên, những ranh giới ở biên giới tại các điểm vào này đã không ngăn được làn sóng mới người nhập cư tràn tới. Những con đường nhập cư có xu hướng thay đổi - nhiều người lựa chọn con đường vượt biển nguy hiểm từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Hy Lạp chẳng hạn - và dù một thỏa thuận năm 2016 giữa EU và Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm việc Thổ Nhĩ Kỳ đồng ý nhận lại số lượng lớn những người nhập cư này, nhiều người vẫn tìm được đường tới EU. Đáp lại, một số chốt kiểm soát và hàng rào biên giới đã bắt đầu xuất hiện dọc theo biên giới giữa chính các nước EU.

Hungary là một trong những nước đầu tiên, hai mươi năm sau khi các hàng rào chiến tranh lạnh bị phá bỏ, những rào chắn mới bắt đầu mọc lên. Họ bắt đầu xây một hàng rào, đầu tiên là dọc theo biên giới với Serbia, rồi một hàng rào với Croatia, kết thúc với hơn 480 kilômét hàng rào dây thép nhọn nhằm ngăn chặn con người. Trong mùa hè năm 2015, nhiều nghìn người nhập cư đã vượt biên vào Hungary mỗi ngày; tới năm 2017, con số đó đã giảm xuống gần như bằng không. Chính quyền Hungary là một trong những chính quyền lớn tiếng nhất chống nhập cư và chống các kế hoạch của EU hòng tái định cư cho những người đó. Thủ tướng Viktor Orbán công bố tổ chức trưng cầu dân ý vào năm 2016 về việc người Hungary có muốn EU có quyền chỉ đạo hạn ngạch nhập cư hay không. Một đa số lớn bỏ phiếu đồng thuận với chính quyền, dù số cử tri đi bỏ phiếu thấp. Dẫu vậy, đa số dân chúng quả có vẻ thông cảm với quan điểm này: theo một cuộc thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew, 76% người Hungary nghĩ rằng người tị nạn sẽ làm tăng các biến cố khủng bố và 82% nhìn nhận họ là một gánh nặng cho đất nước, lấy mất việc làm và phúc lợi xã hội. Chính quyền Hungary tiếp tục thúc đẩy nghị trình của họ, đánh vào nỗi sợ của người dân với những mối đe dọa từ nước ngoài và tập trung vào những mối đe dọa của nhập cư liên quan tới khủng bố và sự lan ra của đạo Hồi, và siết chặt chính sách nhập cư của họ hơn nữa. Dù Hungary đã bị chỉ trích nhiều vì thái độ và chính sách của họ với người nhập cư, họ đã không bị EU áp các lệnh trừng phạt và Thủ tướng Hungary vẫn rất được lòng dân; ông Orbán đã giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử năm 2018 với một đa số phiếu rõ ràng nữa.

Còn có điều có vẻ là một sự chia rẽ về văn hóa đang mở ra giữa các nước EU phía đông và phía tây. Như chúng ta đã thấy, ở một số nước phía đông EU, dân chúng, và các chính trị gia họ bầu ra, hiện phản đối nhập cư công khai hơn nhiều so với những người đồng cấp phương tây của họ. Orbán chẳng hạn, đưa ra những tuyên bố chống nhập cư công khai ở mức đã có thể chấm dứt sự nghiệp của một chính trị gia phương tây. Một trong những khác biệt lớn nhất là nhiều chính trị gia cảnh hữu ở phía đông đặt cuộc tranh luận chính trị về nhập cư trong bối cảnh văn hóa, chứ không phải kinh tế. Điều quen thuộc là nghe họ tuyên bố rằng nước họ có nền văn hóa Kitô giáo, và bởi thế sẽ là sai trái khi mở cửa cho tất cả những người từ các xã hội không phải Kitô giáo. Một số người ủng hộ quan điểm này thất kinh vì cách Tây Âu đã trở thành đa sắc tộc và đa văn hóa, và đã quyết định rằng điều đó sẽ không xảy ra ở nước họ. Trong việc này, họ đã phản đối mạnh mẽ những giá trị của EU. Đây là một vấn đề nghiêm trọng với tổ chức, đe dọa chia rẽ nó theo những lằn ranh địa lý.

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, một số quốc gia khác - cả ở phía đông và phía tây - đã theo bước ví dụ của Hungary, và nhiều điểm kiểm soát biên giới “tạm thời” đã mọc lên, bao gồm bên trong khu vực Schengen “không biên giới”. Slovenia đã dựng lên một hàng rào dọc theo biên giới của họ với Croatia; Macedonia với Hy Lạp; Áo trên những điểm vượt biên đông đúc nhất của họ với Slovenia và Ý; và đang có những kế hoạch để xây dựng một bức tường ở Calais nhằm ngăn người nhập cư vượt eo biển Anh. Ở phía bắc, Na Uy đã xây một hàng rào dọc theo biên giới của họ với Nga, và Thụy Điển bắt đầu hạn chế dòng người nhập cư vào thành phố Malmö qua cầu Öresund nối với Đan Mạch. Dọc theo những bức tường và hàng rào đó, các nước khác đã bắt đầu siết chặt biên giới của họ bằng các biện pháp mạnh tay hơn. Những biện pháp này chủ yếu được sắp xếp để hạn chế sự di chuyển của người nhập cư và tị nạn không phải châu Âu đã xoay xở vào được EU qua những đường biên giới ít an ninh hơn - và làn sóng các cuộc tấn công khủng bố trong những năm gần đây đã giúp ý tưởng về sự kiểm tra được nhiều người chấp nhận hơn. Tuy nhiên, chính sự hiện diện của những ranh giới này vẫn có tác động và đe dọa một trong những lý tưởng cơ bản đằng sau EU.

Các rào chắn cũng có tác động nghiêm trọng lên những nước mà di dân hiện đang mắc kẹt ở đó - nhất là những nơi mà họ vẫn tiếp tục đến. Hy Lạp chẳng hạn, có hàng chục nghìn người giờ mắc kẹt trên những trại ngoài đảo mà không biết đi đâu, khiến các nguồn lực bị kéo căng. Với cuộc khủng hoảng nhập cư ảnh hưởng tới một số nước nhiều hơn những nước khác, và một số nước từ chối chia sẻ gánh nặng, quan hệ giữa các nước thành viên càng bị thử thách hơn nữa.

Dẫu vậy, số lớn dân châu Âu quả có quan điểm tích cực về nhập cư và hài lòng chào đón những người mới tới đất nước họ. Nhiều người cảm thấy phương Tây có nghĩa vụ đạo đức giúp đỡ những người trốn chạy bạo lực và truy bức, trong khi những người khác ủng hộ lập luận do nhiều chính trị gia, kinh tế gia và nhà lãnh đạo kinh doanh đưa ra, rằng các nước châu Âu thực ra cần người nhập cư: bởi dân số đang già hóa và tỷ lệ sinh thấp, một số nước - Đức chẳng hạn, nơi tuổi trung bình là 46,8 - đối mặt với sự suy giảm dân số và bởi thế cần người nhập cư để đảm bảo một nền kinh tế lành mạnh trong tương lại. Nhưng mặc dù các chính quyền liên tục cố gắng giải thích điều này, người dân có xu hướng dựa cảm xúc của họ trên tình hình hiện tại, không phải trên một vấn đề mơ hồ trong tương lai, và số người ủng hộ nhập cư đang giảm xuống. Bởi thế những cuộc thăm dò dư luận như của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2014 thấy rằng 86% người Hy Lạp và 80% người Ý muốn cho ít người nhập cư hơn vào nước họ. Cuộc thăm dò được tiến hành khi cuộc khủng hoảng nhập cư đang tăng lên, nhưng hơn một năm trước khi nó đạt đỉnh vào năm 2015. Còn về việc muốn có thêm người nhập cư? Chỉ 1% người Hy Lạp và 14% người Đức được hỏi ý kiến cảm thấy như thế.

Nhiều nhà lãnh đạo EU có vẻ đã không được chuẩn bị cho phản ứng ngược chống nhập cư. Điều này bắt nguồn từ một số lý do, khi người ta bắt đầu nhìn thấy và cảm thấy tác động lên đời sống của họ vì quá nhiều người mới tới. Khắp châu lục đã có, và vẫn có, sự phân kỳ rõ ràng trong khía cạnh này theo trình độ giáo dục. Số lượng người không có giáo dục đại học muốn giảm nhập cư nhiều hơn hẳn, và điều này nhiều khả năng liên hệ với thực tế là họ thường cạnh tranh với người nhập cư bên trong và bên ngoài EU cho các công việc trả lương thấp. Nhiều người thuộc loại này đặc biệt không thích bị nói rằng họ là những người mù quáng vì cảm thấy bất an với quy mô và tốc độ của những thay đổi họ đang thấy xung quanh họ; sự đánh đồng giữa thiếu giáo dục và mù quáng bị nhìn nhận là xúc phạm họ gấp bội.

Sự gia tăng các sự cố khủng bố khắp châu Âu đã khiến người ta liên hệ chủ nghĩa khủng bố với mức độ nhập cư cao. Người ta sợ rằng những kẻ khủng bố đang vào EU đóng giả làm người tị nạn và xin tị nạn, và sau đó có thể đi lại thoải mái giữa các nước châu Âu. Một số những kẻ tấn công trong các vụ tấn công tháng Mười một năm 2015 ở Paris đã vào qua các kênh nhập cư, nhưng trên thực tế hầu hết các vụ tấn công là do các công dân EU thực hiện.

Một số người còn cảm thấy một mối đe dọa với dịch vụ công của họ, lo lắng rằng họ không thể thích nghi với gánh nặng tăng thêm, và điều này cũng gắn với một cảm nhận về sự công bằng. Hãy tưởng tượng việc đang ở trong phòng đợi của một bác sĩ phẫu thuật, ở Hungary hay Pháp chẳng hạn, trong đó một số đáng kể những người xung quanh bạn không sinh ra ở quốc gia đó. Bạn có thể rất muốn những người đó được chữa trị, nhưng bạn cũng có thể nghĩ rằng bạn đã chi trả cho hệ thống y tế nhiều thập kỷ trong khi người cạnh bạn thì không. Bạn đợi tới lượt của mình càng lâu, thì càng nhiều khả năng bạn nghĩ điều đó là không công bằng. Đấy có thể là những bản năng cơ bản, nhưng là khả đoán. Tất nhiên, hệ thống EU được lập nên để đảm bảo sự công bằng chừng nào mà các quốc gia thành viên còn chịu chi trả, và công dân mọi quốc gia thành viên đều có thể hưởng lợi dù họ ở nước nào. Nhưng nếu người trong phòng đợi đó thậm chí không phải là dân một nước EU, thì cảm nhận bất công, với một số người, càng mạnh mẽ.

Khắp EU, các nhà lãnh đạo đang tìm kiếm những cách thức quản lý mức độ nhập cư và bất mãn trong dân chúng. Vào năm 2016, Đan Mạch giới thiệu một đạo luật theo đó những người xin tị nạn tới nước này mang theo tiền mặt và trang sức chỉ được giữ lại số tài sản giá trị 10.000 kroner (khoảng 1.000 bảng); và bất cứ thứ gì nhiều hơn thế sẽ được dùng để đóng góp vào chi phí “bảo dưỡng cơ bản, y tế và chỗ ở”. Những món đồ vật mang tính cảm xúc cao như nhẫn cưới được loại trừ sau khi người ta so sánh việc đó với cách mà Đức Quốc xã đối xử với người Do Thái. Một số bang ở Đức và Thụy Sĩ đã bắt đầu, một cách lặng lẽ, đưa ra các biện pháp tương tự, dù cách làm đó ít lan rộng hơn: Thụy Sĩ chẳng hạn, mới ghi nhận 112 vụ tịch thu tài sản, trong số 45.000 người tị nạn đã tới vào năm 2015.

Không mấy người nghi ngờ rằng ở Đan Mạch, biện pháp này, và các biện pháp khác cùng trong dự luật đó, được đưa ra để trấn an nỗi lo ngày càng tăng về số lượng người tị nạn gia tăng, chi phí chăm lo cho họ, và rất có thể là để làm nản lòng người tị nạn muốn tới đó. Chính quyền cũng phải để mắt tới sự ủng hộ gia tăng dành cho các nhóm cực hữu. Tuy nhiên, điều bị bỏ qua là thực tế rằng chính pháp luật Đan Mạch yêu cầu người Đan Mạch thất nghiệp và không có bảo hiểm phải bán các tài sản trên một mức giá trị nhất định trước khi họ được phép nhận sự hỗ trợ từ nhà nước. Đã chào đón 21.000 người xin tị nạn vào năm 2015, các chính trị gia ngày càng khó tuyên truyền ý tưởng từ thiện với một nền văn hóa ăn sâu nguyên lý Scandinavia về sự bình quân xã hội. Người Đan Mạch đang nhận nhiều người xin tị nạn hơn Pháp, bất chấp việc có dân số chỉ bằng một phần mười hai - và dù có những chỉ trích với các quy định mới này từ chính trong Đan Mạch, điều khiến nhiều người khó chịu là sự chỉ trích cho rằng các biện pháp đó là phân biệt chủng tộc, và so sánh với chế độ Quốc xã.

Cũng có một số người quan ngại về việc những người mới tới không chia sẻ “các giá trị châu Âu”. Những điều đó thật khó định nghĩa, nhưng hầu hết mọi người sẽ nhất trí rằng các nước EU có những ý tưởng giống nhau về tự do cá nhân: bình đẳng giới, bình đẳng trong tình dục, tự do tôn giáo và tự do ngôn luận. Dòng người từ các nền văn hóa khác nơi những điều này không phải là tiêu chuẩn có thể khiến nhiều người cảm thấy các giá trị của chính họ đang bị đe dọa. Khắp các nước EU, những cuộc chiến tranh văn hóa đã nổ ra liên quan đến ý tưởng chủ nghĩa đa văn hóa và các giá trị. Lấy ví dụ, liệu sự phân tách về giới có được phép ở những định chế giáo dục bậc cao? Liệu việc mặc một bộ burka kín mít có tương thích với ý tưởng Pháp về laicité - tách rời tôn giáo khỏi đời sống công cộng? Phải tuyên án như thế nào với tội cắt xẻo bộ phận sinh dục nữ nếu một số công dân lại coi đó là một tiêu chuẩn văn hóa? Liệu tự do ngôn luận có bao gồm cho phép phát tán những niềm tin như việc lên án một số nhóm người cụ thể là những sinh vật tồi tệ nhất”, lấy ví dụ là những người Do Thái và Kitô giáo được mô tả trong kinh Koran? Hay liệu trong các vấn đề tôn giáo, một phụ nữ không thể “có quyền hành với một người đàn ông; cô ta phải im lặng”, như Tân Ước đã dạy?

Châu Âu giờ là quê hương của mọi người từ khắp nơi trên thế giới. Họ đã đón nhận hàng trăm nghìn người Việt Nam vào cuối những năm 1970 và những năm 1980, một số lượng lớn người Trung Quốc và Ấn Độ đã tới, và có những cộng đồng Mỹ Latin ở thủ đô hầu hết các nước. Họ là một phần của sự pha trộn châu Âu mới mà mọi người đều đang thích nghi, nhưng những điều chỉnh khó khăn nhất có vẻ là giữa những người không phải Hồi giáo và Hồi giáo. Có nhiều lý do, nhưng một thứ có vẻ nổi lên thường xuyên là cảm nhận rằng người Hồi giáo đã sang với số lượng quá lớn, áp đảo dân chúng địa phương.

Người Hồi giáo ở châu Âu thực ra chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong dân chúng khắp EU. Nghiên cứu sâu nhất trước cuộc khủng hoảng nhập cư/tị nạn vừa rồi là của Trung tâm Nghiên cứu Pew vào năm 2010. Họ thấy rằng ở EU, dân số Hồi giáo đông nhất là ở Đức (4,8 triệu) và Pháp (4,7 triệu). Những con số này chiếm 5,8% và 7,5% dân số tương ứng với từng nước. Ở Anh là 2,9 triệu (4,8%), Thụy Điển 430.000 (4,6%) và Hy Lạp 610.000 (5,3%). Những con số này đang tăng lên - đã có một mức tăng ổn định 1% mỗi thập niên trong vòng ba mươi năm qua, nên trong khi 6% dân số EU (13 triệu người) là người Hồi giáo vào năm 2010, con số đó dự kiến sẽ tăng (trước làn sóng lớn vào năm 2015) lên 8% vào năm 2030. Nhưng những con số đó vẫn thấp hơn nhiều so với nhiều người vẫn tin.

Sự cảm nhận sai đó có thể vì một số lý do: lấy ví dụ, một số đại diện của những cộng đồng Hồi giáo (thường là tự xưng) lớn tiếng hơn nhiều về các vấn đề tôn giáo so với các cộng đồng khác, và bởi thế được chú ý hơn nhiều trên truyền thông. Tuy nhiên, yếu tố lớn hơn có lẽ là có sự tập trung cao độ dễ thấy về sắc tộc ở các trung tâm đô thị. Khoảng 20% dân chúng ở Stockholm là Hồi giáo,13% Amsterdam, 15% ở Brussels, và 12% ở Cologne. Sẽ thật dễ khiến nhiều người cho rằng những gì họ thấy xung quanh họ trong đời sống thường nhật cũng là giống như trên cả nước. Lấy ví dụ, một báo cáo của chính quyền Anh vào cuối năm 2016 thấy rằng trong những vùng người Hồi giáo áp đảo ở các thành phố miền bắc như Bradford, bản thân người Hồi giáo nghĩ rằng ở Anh có hơn 50% là Hồi giáo.

Cuộc thăm dò tiến hành vào năm 2010 cũng cho thấy có sự chia rẽ rõ ràng giữa Tây Âu và Nam và Đông Âu về thái độ với người Hồi giáo. Ở miền nam và miền đông, thái độ tiêu cực áp đảo, lấy ví dụ 72% người Hungary có quan điểm tiêu cực với người Hồi giáo, tương tự là 69% người Ý, 66% người Ba Lan và 65% người Hy Lạp. Khi chúng ta di chuyển về phía bắc và phía tây, những đa số lớn đánh giá tích cực về người Hồi giáo. Ở Anh, “chỉ” 28% người trả lời có thái độ tiêu cực; ở Đức là 29%.

Tuy nhiên, ở một số vùng của Tây Âu, cảm xúc chống Hồi giáo có vẻ đang gia tăng. Sự lo lắng của dư luận về Hồi giáo có lẽ cao nhất ở Pháp. Trong cuộc thăm dò dư luận vào năm 2010 chẳng hạn, chỉ 29% có thái độ tiêu cực với Hồi giáo, nhưng từ đó tới nay tỷ lệ đó đã tăng ổn định, điều có thể liên hệ với cả làn sóng tấn công khủng bố mà Pháp phải hứng chịu và tình trạng nhập cư gia tăng. Một cuộc thăm dò của Ipsos đăng trên Le Monde tựa đề “Những rạn nứt của Pháp 2017” thấy rằng 60% người được hỏi “tin rằng đạo Hồi không tương thích với những giá trị của Cộng hòa Pháp”. Về vấn đề nhập cư, 65% nói có quá nhiều người nước ngoài ở Pháp. Về điểm này có sự chia rẽ về thái độ mang tính chính trị rõ ràng - 95% các cử tri bỏ phiếu cho Mặt trận Dân tộc đồng ý với điều đó so với 46% những người xã hội chủ nghĩa. Vài tháng trước, Tổng thống khi đó, François Hollande, là một trong 46% đó. Trong một cuốn sách tựa đề A President Shouldn’t Saw That[7], ông được trích dẫn nói rằng, “Tôi nghĩ có quá nhiều người mới đến, những người nhập cư lẽ ra không nên ở đây.” Ông cũng thừa nhận rằng Pháp có “vấn đề với đạo Hồi… Không ai nghi ngờ điều đó”.

Pháp chắc chắn là có vấn đề với việc hội nhập. Hiện giờ có những vùng rộng lớn các thị trấn và thành phố Pháp nơi người Hồi giáo áp đảo. Các khu này có xu hướng nằm ở rìa những vùng đô thị và gần như luôn là những vùng nghèo nhất trong thành phố. Chúng ta từng trải qua chuyện này trước kia. Thay một vài từ trong tiểu luận đặc sắc dưới đây năm 1928 trên tạp chí Foreign Affairs của Charles Lambert, và có thể hình dung nó được viết ra vào năm 2018:

Những người nước ngoài di cư tới Pháp có xu hướng nhóm lại với nhau, và chắc chắn các tỉnh của chúng ta đã trở thành những trung tâm thực sự của thuyết phục hồi lãnh thổ. Một vài ngôi làng ở tỉnh Nord tràn ngập toàn những người Ba Lan đã mang theo cùng vợ, con cái, những linh mục và hiệu trưởng của họ. Người nhập cư từ Ba Lan chiếm 20% dân số Lens, 40% dân số Courrières, 68% dân số Ostricourt. Ba mươi nghìn người Ý đã định cư ở vùng tây nam. Cuộc chinh phục các tỉnh biên giới của chúng ta bằng một tiến trình thâm nhập đang diễn ra một cách có hệ thống. Ở quận Riviera, gần một phần ba toàn bộ dân số là người nước ngoài, trong khi tỷ lệ đó lên tới gần một nửa ở Nice.

Những cộng đồng này rốt cuộc đã bị đồng hóa, và điều này rất có thể sẽ xảy ra lần nữa với dân chúng Hồi giáo đang tăng lên. Tuy nhiên, có những khác biệt - những khác biệt đúng với trải nghiệm của châu Âu nói chung về các làn sóng người nhập cư mới nhất. Trước hết, nếu chúng ta thừa nhận rằng sự phân biệt chủng tộc vẫn còn hiện hữu khắp châu lục, thì màu da của hầu hết người Hồi giáo châu Âu có thể níu chân họ, cả về mặt xã hội và kinh tế. Thứ hai, không giống các cộng đồng Ba Lan và Ý hồi những năm 1920, có những tiếng nói trong các cộng đồng Hồi giáo nói với họ rằng nơi họ đã đến là đáng ghê tởm và cần chống lại nơi đó. Những kẻ rao giảng hận thù này, thường dẫn giải một thế giới quan tôn giáo cực đoan, có thể không đại diện cho số đông, nhưng trong những cộng đồng mà đức tin đóng một vai trò trung tâm, họ có một diễn đàn và ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với những kẻ cực hữu da trắng cùng hội cùng thuyền. Các cộng đồng nhập cư thường gặp khó khăn trong việc ổn định cuộc sống ở môi trường không quen thuộc và nhận được sự chấp thuận của dân chúng bản xứ, và cuộc tranh đấu này thêm phức tạp nếu một số “lãnh đạo” trong cộng đồng của họ nói với họ hãy đón nhận sự chia rẽ.

* * *

Một thập niên trước, đảng cực hữu duy nhất của châu Âu mà hầu hết mọi người có thể nêu tên (không tính việc người dân của một nước cụ thể biết tên một đảng cực hữu ở nước đó) có lẽ là Mặt trận Dân tộc của Pháp. Giờ thì có tới vài đảng quen thuộc khắp châu Âu, trong đó có Bình minh Vàng (Hy Lạp), Đảng Dân chủ Thụy Điển, Đảng vì Tự do (Hà Lan), Đảng Tự do (Áo) và Jobbik (Hungary). Phần lớn các đảng dân tộc cực đoan này chống lại sự hội nhập EU, nhưng một tín điều trọng tâm với tất cả họ là nỗi sợ Hồi giáo, và điều này rõ ràng là một lực lượng thúc đẩy với nhiều người ủng hộ họ. Những người dân tộc chủ nghĩa lập luận rằng họ đơn giản chống lại Hồi giáo trong hình thức Hồi giáo cực đoan mang tính chính trị, nhưng những người dân tộc cực đoan thường xuyên vượt qua lằn ranh đó đi tới chỗ bài Hồi giáo thẳng thừng và căm ghét người theo đạo Hồi.

Khi Angela Merkel mở cánh của nước Đức cho di dân và người tị nạn vào năm 2015 - rất nhiều người là từ các nước Hồi giáo chiếm đa số ở Trung Đông và châu Phi - bà đã bị những nhà lãnh đạo EU khác chỉ trích, rõ rồi, nhưng bà cũng bắt đầu đối mặt với sự chống đối ngày càng tăng từ chính nước Đức. Nói thế không có nghĩa là nước Đức thiếu chào đón. Quốc gia đó đã hết sức nỗ lực để có chỗ cho những người mới tới, và hàng nghìn người bình thường đã tình nguyện hỗ trợ trong các trung tâm tị nạn, cũng như đưa ra rất nhiều sự trợ giúp bao gồm dạy tiếng và dạy nghề. Dẫu vậy, khi ngày càng nhiều di dân tới, vấn đề nảy sinh bởi người ta bắt đầu thấy được quy mô của nhiệm vụ phía trước trong việc tạo ra một xã hội dung hợp. Chỉ trong năm 2015, gần một triệu công dân không phải EU đã tới Đức; phần lớn là người Syria, rồi người Afghanistan, Iraq, Iran và Eritrea. Người Đức chưa từng trải qua sự di chuyển con người ở quy mô như thế kể từ cuối Thế chiến II.

Một trong những vấn đề đầu tiên là khi mọi người tới, họ có xu hướng đổ về những khu vực mà các cộng đồng cùng sắc tộc với họ đã sống ổn định, điều có thể dẫn tới vấn đề với việc hội nhập và có thể thay đổi nhanh chóng đặc điểm nhân khẩu học và văn hóa của một số vùng nhất định. Như Văn phòng Liên bang về Nhập cư và Tị nạn nhận xét, “Người tị nạn muốn tới những nơi mà họ tìm thấy người giống mình: người Pakistan muốn tới vùng Rhine-Main, người Afghanistan chuyển tới Hamburg, người Syria tới Berlin. Nhưng ở những vùng dân cư đông đúc, nhà ở khó tìm và giá thuê cao. Những khu ổ chuột mọc lên nhanh chóng.”

Vào lúc làn sóng thiện chí ban đầu từ dư luận đã hạ xuống, cũng bởi các sự cố như nhiều vụ tấn công tình dục ở Cologne vào đêm trước năm mới 2015, phần lớn được quy cho dân nhập cư (dù nhà nước không truy tố ai), đã có sự gia tăng ổn định bạo lực trên khắp nước Đức. Vào năm 2015, có hơn 1.000 vụ tấn công vào các trung tâm tị nạn. Đó là ở đỉnh cao của cuộc khủng hoảng nhập cư, nhưng vào năm 2016, khi số người tới đã giảm mạnh xuống dưới 300.000 bởi một thỏa thuận với Thổ Nhĩ Kỳ để giảm dòng người đổ qua biển Aegean, số sự cố vẫn là tương tự.

Ở Đức, những đường nét của bức tường Berlin và Bức màn sắt vẫn còn để lại dấu vết trong những vấn đề nghiêm trọng hơn thực phẩm và giọng nói, và điều này đặc biệt đúng khi nói về nhập cư. Thái độ với người nhập cư tiêu cực hơn nhiều khi ta vượt qua sông Elbe. Nói một cách đơn giản, có nhiều người nhập cư ở tây Đức hơn là đông Đức (trừ Berlin), bởi một hệ thống hạn ngạch được sử dụng để phân bổ người tị nạn và xin tị nạn khắp cả nước; bởi các bang miền đông nghèo hơn và thưa dân hơn, họ nhận ít người mới đến hơn. Trong cả hai năm 2015 và 2016, ba bang miền tây, Bavaria, Bắc Rhine Westphalia và Baden Württemberg, đã nhận gần 50% người nhập cư/tị nạn. Ngược lại, vào năm 2015, Saxony-Anhalt nhận 2,8%, Mecklenburg-Vorpommern 2% và Brandenburg 3,1%. Nhưng bất chấp điều đó, có xu hướng diễn ra nhiều cuộc tấn công vũ lực vào người nhập cư ở miền đông hơn. Cơ quan tình báo nội địa Đức (BV) công bố một báo cáo năm 2016 cho biết ở các bang miền tây, có trung bình 10,5 vụ tấn công cực đoan trên một triệu người. Ở bang miền đông Saxony, con số đó tăng lên 49,6 vụ, ở Brandenburg lên 51,9, và ở Mecklenburg Vorpommern là 58,7. Ba vùng này cũng là nơi có những nhóm tân Quốc xã có tổ chức lớn nhất nước.

Vào năm 2016, báo cáo thường niên của chính phủ Đức về “Tình trạng thống nhất của nước Đức” lưu ý không chỉ tác động với những người bị phân biệt đối xử, mà, theo Iris Gleicke của Bộ Các vấn đề Kinh tế và Năng lượng Liên bang, cả những khó khăn nhằm bảo đảm “sự hòa hợp xã hội ở đông Đức” đang gây ra “mối đe dọa rất nghiêm trọng với sự phát triển kinh tế” của các bang miền đông. Bà cũng lưu ý: “phần lớn dân đông Đức không bài ngoại hay không phải là những người cực hữu”. Người Đức rất cẩn trọng với các dẫn giải lịch sử, nhưng quy mô của các vụ tấn công đã khiến Gleicke gợi lại ký ức những năm 1930 và lực lượng Áo nâu của Hitler: “Những người Đức ở miền đông chúng ta phải tự đảm nhiệm vấn đề và quyết định xem liệu chúng ta muốn bảo vệ các thành phố và làng mạc của mình hay để mặc chúng cho cơn ác mộng màu nâu. Xã hội không được quyền ngoảnh mặt khi người ta bị tấn công hay các khu trú ẩn của người tị nạn bị đốt.” Những bình luận như thế vang vọng sâu xa trong tâm lý Đức, nhưng ngày càng có nhiều người không muốn những sai lầm quá khứ của đất nước quy định cảm xúc của họ, hay những gì họ được và không được quyền nói. Điều đó đưa chúng ta tới tổ chức Người châu Âu Yêu nước chống Hồi giáo hóa phương Tây (PEGIDA) và Đảng Giải pháp khác cho nước Đức (AfD).

Ngay từ năm 2014, các thành viên PEGIDA đã tuần hành ở Dresden và các thành phố miền đông khác. Sự thù địch công khai của họ đặt họ ra khỏi dòng chính trị chủ lưu, nhưng tới đầu năm 2015, họ thu hút được những đám đông lớn và đã lan ra khắp đất nước. Một cuộc biểu tình ở Leipzig đã thu hút 30.000 người, 20.000 người nữa xuống đường ở Munich, 19.000 ở Hanover và 10.000 ở Dresden. Như đã xảy ra quá thường xuyên khi chính trị chuyển từ bên lề sang một nhóm xã hội rộng hơn, nhiều tiếng la hét hiệu triệu nghe được ở các cuộc biểu tình ban đầu vang lên trên những khán đài sân bóng đá. Một ví dụ đáng chú ý là những cổ động viên “Ultra” của Dynamo Dresden, nhóm đã nói tới cụm từ Lügenpresse (“báo chí dối trá”) trước Tổng thống Trump ít ra là một năm. Từ những khán đài của Dresden, tiếng la ó lan xuống đường phố. Những đám đông cảm thấy nhà chức trách, bắt tay với truyền thông, không nói cho họ biết sự thật về nhập cư.

Tới đầu mùa hè, sự ủng hộ cho đảng này đã giảm xuống, bởi một kết hợp của “sự mệt mỏi vì biểu tình” và hàng loạt vụ bê bối liên quan tới các lãnh đạo PEGIDA, bao gồm một vụ có mặt người sáng lập phong trào, Lutz Bachmann, đã được chụp ảnh tạo dáng như Hitler. Nhưng những tình cảm nền tảng cho nó không biến mất, và khi cuộc khủng hoảng nhập cư lên tới đỉnh điểm vào mùa hè năm 2015, những tình cảm đó đã trở lại, tạo ra không gian chính trị cho một phiên bản PEGIDA “dễ chấp nhận” hơn - và đó là AfD, giống với UKIP mà có thêm chất kích thích.

Đảng AfD thực ra thành lập từ năm 2013,nhưng khi đó họ tập trung vào việc vận động chống đồng euro. Khi cuộc khủng hoảng nhập cư bắt đầu gia tăng, họ chuyển sự chú ý sang nhập cư và hình thành những mối liên hệ với PEGIDA. Tới mùa hè 2016, khi PEGIDA lung lay, họ ở vị thế rất tốt để tiếp quản phong trào cực hữu lớn nhất. Họ nhanh chóng lớn mạnh về cả số thành viên và sự hiện diện ở các nghị viện bang. Hồi chuông cảnh báo thực sự bắt đầu vang lên khi họ về nhì trong cuộc bầu cử ở Mecklenburg-Vorpommern, nhận 21% số phiếu và bỏ lại Đảng CDU của Thủ tướng Merkel về thứ ba. Tới cuộc tổng tuyển cử vào cuối năm 2017, họ đã được tổ chức tốt và đủ uy tín để vào Bundestag[7] với số lượng lớn. Đó là lần đầu tiên phe cực hữu xuất hiện ở đấy kể từ đầu những năm 1960. Dù đảng của Angela Merkel giành được tỷ lệ phiếu cao nhất, AfD đã có những bước tiến lớn, đặc biệt là ở miền đông đất nước, khi về thứ ba trong cuộc tổng tuyển cử. Trọng tâm chính trị của châu Âu đang lung lay.

Những chính sách của AfD bao gồm chối bỏ khu vực Schengen và tạo ra những điểm kiểm soát biên giới lâu dài ở cả mức độ quốc gia và EU. Họ ủng hộ tăng cường kiểm tra người xin tị nạn và nói ở Đức không có chỗ cho các thực hành tín ngưỡng và đức tin Hồi giáo nếu những điều đó trái với “nền tảng xã hội tự do dân chủ, pháp luật của chúng ta và những cơ sở nhân văn cùng cơ sở Do Thái-Kitô giáo của nền văn hóa chúng ta”, theo tuyên ngôn của đảng. Mềm hóa lập trường này, họ quả chấp nhận người Hồi giáo có thể là “những thành viên giá trị của xã hội”, nhưng lập luận rằng chủ nghĩa đa văn hóa sẽ không có tác dụng. Họ cũng chống lại đồng euro, vận động để thiết lập lại đồng mark Đức, và muốn quyền lực trở lại với quốc gia nhà nước.

Tất cả những ý tưởng này vang vọng khắp châu lục. Những rạn nứt vùng miền và chính trị chúng ta thấy ở Đức đang mở ra ở tất cả những nơi khác. Trong cuộc tổng tuyển cử ở Hà Lan vào tháng Ba năm 2017, Đảng vì Tự do cực hữu đã trở thành đảng lớn thứ hai. Vào tháng Năm, Marine Le Pen của Mặt trận Dân tộc vào vòng hai cuộc bầu cử Tổng thống Pháp và giành được 33,9% số phiếu, gần gấp đôi so với cha bà Jean-Marie vào năm 2002. Đảng Tự do của Áo cũng nhận được sự ủng hộ gia tăng, về thứ ba trong cuộc bầu cử tháng Mười năm 2017. Vào mùa hè 2018, cuộc bầu cử ở Slovenia dân tới việc phe cực hữu giành được tỷ lệ phiếu lớn nhất. Ngay cả Thủ tướng Merkel cũng chuyển mạnh sang phía hữu trong chiến dịch tranh cử năm 2017, khi bà tìm cách ngăn chặn sự gia tăng của phe cực hữu. Có một sự thật về những nền dân chủ tự do: những nền dân chủ nào không thể đè bẹp các phong trào phản dân chủ trong nước cần phải tìm cách khác để xử lý chúng. Với một số bộ phận của truyền thông châu Âu, đã có sự tự mãn khác thường về những kết quả bầu cử đó. Câu chuyện được kể từ góc độ là châu Âu đẩy lùi những ý tưởng cực đoan: nhưng việc tăng gấp đôi số phiếu, như trong trường hợp Le Pen, chắc chắn không có vẻ gì cho thấy Mặt trận Dân tộc đang bị đẩy lùi.

Ngay từ năm 2014, những nhấn mạnh vào vấn đề nhập cư đã khiến Thủ tướng Hungary, Viktor Orbán, nói rằng ông muốn tạo ra một nền dân chủ phi tự do”. Đằng sau cụm từ này là ý tưởng rằng các chính sách và giá trị tự do có thể bị bác bỏ bởi một cử tri đoàn bỏ phiếu cho một đảng dân tộc chủ nghĩa chống đối những giá trị đó, nhưng đất nước vẫn là một nền dân chủ. Chính quyền Ba Lan được bầu lên vào năm 2015 có quan điểm tương tự. Ý thức hệ này đi ngược với những lý tưởng của EU, và là một trong những sự chia rẽ gia tăng đe dọa làm tan tác cả liên minh. Như Viện Brookings tuyên bố trong một báo cáo về nhập cư: “Cuộc khủng hoảng đã làm lung lay nền chính trị của toàn bộ châu Âu lục địa, khuấy động các hệ thống chính trị ở từng nước và đe dọa sự đoàn kết của toàn EU.”

Đó là một thách thức mang tính nền tảng với một châu Âu chia rẽ. Vấn đề không chỉ là nhập cư, vấn đề cũng là kinh tế, thương mại, chủ quyền và chủ nghĩa tự do nói chung. Nhưng khi mà chúng ta thích nghi với những thực tế mới của cuộc di dân hàng loạt và sự cần thiết về mặt đạo đức đón nhận những người tị nạn, chúng ta không được quên những giá trị cốt lõi. Nếu chúng ta quên, chúng ta có thể đẩy mọi người châu Âu trong tương lai, từ mọi xuất thân, tới chỗ sống trong một xã hội mang tính đàn áp hơn so với hiện tại. Cần nhớ rằng hầu hết những ai tới châu Âu đang cố gắng thoát khỏi những chế độ độc tài đã làm họ thất vọng. Chúng ta cần xử lý chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, quản lý nhập cư quy mô lớn và chăm lo cho những người tị nạn, nhưng theo cách không làm xói mòn những giá trị tự do và các hệ thống pháp trị.

Những luật pháp, giá trị và hệ thống đó là những gì rốt cuộc đã chữa lành cuộc ly tán lớn gần đây nhất ở châu Âu, cuộc ly tán phát triển sau năm 1945. Giờ những sự chia rẽ, mới và cũ, đang xuất hiện lại lần nữa. Vài năm sắp tới sẽ cho thấy liệu chúng ta có thể tạo ra một ngôi nhà châu Âu an toàn hay không, hay sẽ thụt lùi vào một tương lai đầy chia rẽ.

 

Chú thích.

[1] Trong thời kỳ chia cắt Tây Đức-Đông Đức, thành phố Berlin nằm trong Đông Đức, cho nên để đi từ Tây Đức tới được Tây Berlin (do đồng minh phương Tây kiểm soát), tác giả phải đi qua lãnh thổ Đông Đức. Bức tường trong chương này chính là bức tường chia cắt Đông Berlin và Tây Berlin. (BT)

[2] Carl Jung (1875-1961), nhà phân tâm học, bác sĩ tâm lý lỗi lạc người Thụy Sĩ. Ông cũng là một nghệ sĩ và tác giả lớn. (ND)

[3] Tên các thành phố Đông Âu, tức là ở bên kia “Bức màn sắt”. (BT)

[4] Tiếng Anh là “nostalgia” và “East”, còn tiếng Đức là “Nostalgie” và “Osten”. (ND)

[5] Tức “European Union”: “Liên minh châu Âu”. (ND)

[6] Tức “UK Independence Party”: “Đảng Độc lập Vương quốc Anh”, một đảng chính trị dân túy cảnh hữu, nghi ngờ Liên minh châu Âu. SKIP dẫn đầu nỗ lực đưa nước Anh ra khỏi Liên minh châu Âu, được hiện thực hóa sau cuộc trưng cầu dân ý năm 2016, tức sự kiện Brexit. (ND)

[7] Tức Quốc hội Liên bang Đức.

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét