Thứ Tư, 17 tháng 1, 2024

QUYỂN 121 NHO LÂM LIỆT TRUYỆN

 

SỬ KÝ II. LIỆT TRUYỆN (QUYỂN HẠ)

Phạm Văn Ánh dịch

QUYỂN 121 

NHO LÂM LIỆT TRUYỆN


Thái sử công bàn rằngTa đọc quy định về khảo hạch, đến chỗ nói về việc khích lệ, mở đường cho người học làm quan, chưa từng không buông sách mà than. Nói: Ôi chao! Xét lẽ, nhà Chu suy yếu mà thơ “Quan thư”[1] xuất hiện, Chu U vương, Chu Lệ vương suy vi mà lễ nhạc hỏng nát, chư hầu hoành hành, chính lệnh do nước mạnh ban ra[2]. Cho nên Khổng tử đau xót vì vương đạo bị phế bỏ còn tà đạo lại dấy lên, thế mới chỉnh lý biên định Thi, Thư, sửa sang lễ nhạc. Khổng tử sang Tề nghe nhạc Thiều[3], ba tháng không biết mùi thịt. Từ nước Vệ trở về Lỗ, rồi sau đính chính lại nhạc, “Nhã” “Tụng” [4] đều được đặt đúng vị trí. Đương thời hỗn loạn, ô trọc, không ai có thể dùng được, do đó Trọng Ni thuyết phục hơn bảy mươi vua mà không ai thi hành, mới nói: “Nếu có ai dùng ta, chỉ cần đầy năm thôi.” Phía tây đi săn, bắt được con lân[5], Khổng tử nói: “Đạo ta cùng rồi.” [6] Cho nên ghi chép lịch sử, làm sách Xuân thu[7], đặng thể hiện vương pháp của thiên tử. Dùng văn từ thâm sâu mà ý nghĩa rộng lớn, học giả đời sau nhiều người truyền nhau chép lại.

Từ sau khi Khổng tử mất, bảy mươi học trò xuất sắc chia nhau du thuyết chư hầu, lớn thì làm sư phó, khanh tướng; nhỏ thì kết giao sĩ đại phu, có người ẩn cư không xuất hiện. Cho nên Tử Lộ ở Vệ, Tử Trương ở Trần, Đạm Đài Tử Vũ ở Sở, Tử Hạ ở Tây Hà, Tử Cống trọn đời ở Tề. Như các vị Điện Tử Phương, Đoàn Can Mộc, Ngô Khởi, Cầm Hoạt Ly, đều theo học những người như Tử Hạ, làm thầy vua chư hầu. Bấy giờ, chỉ riêng Ngụy Văn hầu thích học Nho gia. Về sau, nho học dần suy, đến Tần Thủy hoàng, thiên hạ trong cảnh các nước thôn tính lẫn nhau, nho thuật bị truất, nhưng ở khoảng nước Tề và nước Lỗ, người đi học vẫn không bỏ. Đến thời Tề Uy vương, Tề Tuyên vương, những người như Mạnh tử, Tuấn Khanh, đều noi sự nghiệp của phu tử mà phát huy thêm, dùng học vấn để hiển danh ở đời.

Đến cuối thời Tần, đốt sách Thi, Thư, chôn sống nho sĩ, Lục nghệ từ đó bị tàn khuyết. Trần Thiệp xưng vương, các nho sinh nước Lỗ giữ lễ khí[8] của họ Khổng về theo Trần vương. Thế rồi Khổng Giáp làm quan Bác sĩ cho Trần Thiệp, rốt cuộc chết cùng Thiệp. Trần Thiệp khởi lên từ kẻ thất phu, cầm đầu bọn người tụ tập như ngói[9] bị đày đi làm lính thú, xưng vương ở Sở được dăm bữa nửa tháng, chưa đầy nửa năm rốt cuộc bị diệt, sự nghiệp của Trần Thiệp quá mịt mờ nông cạn, nhưng đám nho sinh lại mang lễ khí của Khổng tử đến nương mình làm bề tôi, tại sao vậy? Vì nhà Tần đốt kinh điển của họ, họ tích oán muốn thông qua Trần vương để phát tiết nỗi phẫn uất.

Tới khi Cao hoàng đế giết Hạng Tịch, cất quân bao vây nước Lỗ, các nho sĩ trong nước Lỗ hãy còn giảng tập lễ nhạc, tiếng đàn ca không dứt, há chẳng phải giáo hóa của thánh nhân còn sót lại, là nước ham thích lễ nhạc ư? Trước đây, Khổng tử ở Trần, nói: “Về thôi! Về thôi! Các môn sinh ở quê ta có chí lớn nhưng viển vông, có văn thái rõ ràng nhưng không biết chế ước bản thân.” Xét lẽ, khoảng nước Tề nước Lỗ, đối với văn chương học vấn, vốn giữ từ xưa đến nay, đó là tính trời vậy. Cho nên nhà Hán hưng khởi, sau đó chư nho mới được nghiên cứu kinh thuật, giảng tập các lễ đại xạ, hương ẩm[10]. Thúc Tôn Thông chế tác lễ nghi cho nhà Hán, nhân đó được làm Thái thường, các học trò cùng chế định lễ nghi, đều được tuyển chọn trước tiên, thế rồi ai nấy đều cảm khái về sự hưng khởi của nho học. Nhưng do còn có can qua, bình định bốn biển, nên chưa rảnh để quan tâm việc ở trường học. Thời Hiếu Huệ đế, Lã hậu, công khanh đều là bề tôi dựa vào võ lực để lập công. Thời Hiếu Văn đế, trưng dụng rộng rãi, còn Hiếu Văn đế vốn thích thuyết Hình danh[11]. Đến Hiếu Cảnh đế, không trọng dụng nhà nho, còn Đậu thái hậu lại thích đạo Hoàng-Lão, cho nên các bác sĩ có đủ vị trí chờ được hỏi đến, nhưng chưa ai được tiến dụng[12].

Đến đương kim hoàng thượng lên ngôi, bọn Triệu Oản, Vương Tang hiểu rõ nho học, hoàng thượng cũng hướng về nho thuật, thế nên chiêu tập kẻ sĩ phường chính, hiền năng, giỏi văn chương học vấn. Từ đó về sau, giảng Thi ở Lỗ thì có Thân Bồi công, ở Tề thì có Viên Cố sinh, ở Yên thì có Hàn thái phó. Giảng Thượng thư, vốn gốc từ Phục Sinh ở Tế Nam. Giảng Lễ, vốn gốc Cao Đường Sinh nước Lỗ. Giảng Dịch, vốn gốc từ Điền Sinh ở Truy Xuyên. Giảng Xuân thu ở Tề và Lỗ thì gốc từ Hồ Vô Sinh, ở Triệu thì gốc từ Đổng Trọng Thư. Đến khi Đậu thái hậu băng hà, Vũ An hầu Điền Phần làm Thừa tướng, bãi truất bách gia như đạo Hoàng-Lão, thuyết Hình danh, đón mời mấy trăm nhà nho, rồi Công Tôn Hoằng nhờ giỏi Xuân thu, từ bình dân áo trắng lên làm tam công[13] của thiên tử, được phong Bình Tân hầu. Kẻ đi học trong thiên hạ tựa rạp theo gió thổi[14].


Công Tôn Hoằng

Công Tôn Hoằng là học quan, lo sợ sự trì trệ của đạo học, bèn đề nghị rằng:

“Thừa tướng Ngự sử nói: Thánh chế viết: 'Từng nghe: Dẫn dắt dân dùng lễ, cảm hóa dân bằng nhạc. Hôn nhân là luân lý lớn của người sống trong nhà[15]. Nay, lễ nhạc băng hoại, trẫm rất lo lắng. Cho nên mời khắp kẻ sĩ chính trực, hiểu biết rộng trong thiên hạ, đều lên triều đường. Lệnh cho quan phụ trách lễ khuyến khích việc học, giảng giải nghị bàn, mở rộng kiến thức, chấn hưng lễ nghi, lấy đó là việc làm trước tiên của thiên hạ. Thái thường bàn nghị, cùng các bác sĩ đệ tử[16], đề cao sự giáo hóa nơi hương lý[17], để mở rộng người hiền tài.' Thần kính cẩn cùng bọn Thái thường là Tang, Bác sĩ[18] là Bình bàn nghị rằng: Nghe nói đạo thời Tam đại, ở các hương lý có chỗ dạy học, nhà Hạ gọi là Hiệu, nhà Ân gọi là Tự, nhà Chu gọi là Tường. Khuyến khích làm thiện, khiến họ được vinh hiển chốn triều đình; răn chưng điều ác, bằng cách tăng thêm hình phạt. Cho nên thi hành giáo hóa, trước tiên phải thực hiện từ kinh đô, từ trong ra ngoài. Nay bệ hạ tỏ rõ đức cao tột bậc, thi triển chính trị khai sáng, phối cùng trời đất, gốc nhân luân, khuyến khích việc học, sửa sang lễ chế, sùng chuộng giáo hóa, khích lệ hiền năng, để cảm hóa bốn phương, là gốc của thái bình vậy. Thời xưa, chính giáo chưa hài hòa, lễ nghi không đầy đủ, xin dựa các quan cũ để chấn hưng. Cho phép quan Bác sĩ lập năm mươi Bác sĩ đệ tử, miễn trừ lao dịch. Quan Thái thường chọn con em trong dân mười tám tuổi trở lên, dáng vẻ dung mạo đoan chính, bổ làm Bác sĩ đệ tử. Các quận, quốc, huyện, đạo, ấp, có ai hiếu học, tôn kính bậc trưởng thượng, tuân thủ nghiêm chính giáo, hòa thuận với hương lý, ra vào không làm trái điều đã được học, các chức Huyện lệnh, tướng của chư hầu, Huyện trưởng, Huyền thừa báo lên danh sách quan hàng hai nghìn thạch, cẩn trọng khảo xét quan hàng hai nghìn thạch, người nào đích đáng, cùng viên lại phụ trách thống kê lên quan Thái thường, sung vào cho thụ nghiệp như đệ tử. Mỗi năm thi một lần, có thể thông hiểu một kinh trở lên, bổ vào vị trí phụ trách văn học còn thiếu; xuất sắc có thể bổ làm Lang trung, Thái thường lập danh sách rồi tấu lên. Nếu ai có tài vượt bậc, lập tức báo danh. Ai không chịu học hoặc tài năng thấp kém, không thể thông nổi một kinh, liền bãi truất ngay, rồi trừng trị quan lại tiến cử người không xứng chức vị. Thần kính cẩn xét các chiếu thư luật lệnh bệ hạ ban xuống, biện biệt rõ quan hệ giữa đạo trời việc người, thông suốt nghĩa lý cổ kim, văn chương tao nhã chính đáng, lời dạy sâu xa thâm hậu, thi ân trạch rất hoàn mỹ. Thần, kẻ tiểu lại kiến văn nông cạn, không thể suy sét sâu sắc để phát dương, không có cách nào hiểu dụ rõ ràng xuống dưới. Các quan phụ trách về lễ, quan Chưởng cố[19], nhờ văn chương học vấn, lễ nghĩa làm quan, nhưng thăng tiến chậm. Xin tuyển chọn quan viên trật từ hàng hai trăm thạch trở lên, cho đến viên lại trật trăm thạch tinh thông một kinh trở lên, bổ làm Tả hữu nội sử, Tốt lại cho quan Đại hành; hàng trật trăm thạch trở xuống, bổ làm Tốt lại cho quan Thái thú ở quận. Mỗi quận chọn hai người, quận vùng biên chọn một người. Trước hết chọn người giảng nhiều kinh điển, nếu không đủ số, sẽ chọn Chưởng cố bổ làm thuộc hạ của quan trật hai nghìn thạch, chọn chức Văn học chưởng cố bổ làm quan thuộc các quận, bổ đủ số người. Xin ghi việc này vào quy định khảo hạch học quan. Việc khác vẫn theo luật lệnh.”

Thánh chế phê: “Được.” Từ đấy trở đi, Công khanh đại phu cùng sĩ lại phần nhiều đều là nho sĩ văn chương văn chất đầy đủ.


Thân Công

Thân Công người nước Lỗ. Cao tổ qua nước Lỗ, Thân Công lấy thân phận học trò theo thầy vào yết kiến Cao tổ tại nam cung nước Lỗ. Thời Lã thái hậu, Thân Công du học Trường An, học chung thầy với Lưu Dĩnh. Thế rồi Dĩnh làm Sở vương, cho Thân Công làm thầy của thái tử Lưu Mậu. Mậu không thích học, ghét Thân Công. Đến khi Sở vương Dĩnh chết, Mậu lên làm Sở vương, cấm cố Thân Công. Thân Công nhục nhã về việc đó, trở về nước Lỗ, dạy học ở nhà, trọn đời không ra khỏi cổng, lại tuyệt giao tân khách, chỉ khi nào có lệnh vua triệu mới đi. Đệ tử từ phương xa đến theo học có hơn trăm người. [21]

Lan Lăng Vương là Tang sau khi thụ giáo Kinh Thi, phụng sự Hiếu Cảnh đế, làm Thái tử thiếu phó, bị bãi chức, bỏ đi. Đương kim hoàng thượng mới lên ngôi, Tang bèn dâng thư xin làm Túc vệ, được thăng dần, trong một năm lên làm Trung lang lệnh. Triệu Oản người nước Đại cũng từng học Kinh Thi chỗ Thân Công, Oản làm đến Ngự sử đại phu. Oản và Tang thỉnh cầu với Thiên tử, muốn dựng Minh đường[22] để triệu tập chư hầu vào chầu, nhưng không làm được, bèn nói với thầy là Thân Công. Thế là Thiên tử sai sử dụng một bó lụa[23] và ngọc bạch làm lễ vật, chuẩn bị xe tứ mã thật êm để nghinh đón Thân Công, hai học trò ngồi xe nhỏ đi theo. Đến nơi, bái kiến thiên tử. Thiên tử hỏi về việc trị loạn, Thân Công bấy giờ đã hơn tám mươi tuổi, già cả, đáp rằng: “Người làm chính trị không cốt ở nhiều lời, cốt ra sức làm như thế nào thôi.” Bấy giờ thiên tử đang thích văn từ, nghe Thân Công đáp như vậy, yên lặng không nói. Nhưng đã trót vời đến nên cho làm Thái trung đại phu, cho ở công quán của Lỗ vương tại kinh thành, bàn nghị việc dựng Minh đường. Thái hoàng Đậu thái hậu[24] thích đạo Hoàng-Lão, không thích nho thuật, tìm được lỗi của Triệu Oản, Vương Tang để trách với hoàng thượng hoàng thượng nhân đấy bỏ ý định dựng Minh đường, giao Triệu Oản và Vương Tang cho pháp quan xử trí, sau cả hai đều tự sát. Thân Công cũng ốm, từ chức trở về, được mấy năm thì chết.

Học trò của Thần Công hơn chục người làm bác sĩ, Khổng An Quốc làm đến chức Thái thú Lâm Hoài, Chu Bá làm đến Nội sử Giao Tây, Hạ Khoan làm đến Nội sử Thành Dương, Lỗ Tứ người huyện Đãng làm đến chức Thái thú Đông Hải, Mậu Sinh ở Lan Lăng làm Nội sử Trường Sa, Từ Yến làm Trung úy Giao Tây, Khuyết Môn Khánh Kỵ người đất Trâu làm Nội sử Giao Đông. Họ cai trị quan dân đều tiết tháo thanh liêm, được khen là hiếu học. Đệ tử của các học quan phẩm hạnh tuy không được trọn vẹn, nhưng hàng trăm người làm đến đại phu, Lang trung, Chưởng cố. Họ giảng Kinh Thi tuy khác nhau, nhưng phần lớn đều lấy gốc Thân Công.


Viên Cố sinh

Thái phó của Thanh Hà vương là Viên Cố sinh, người nước Tề, nhà nghiên cứu Kinh Thi, thời Hiếu Cảnh đế được làm Bác sĩ. Cùng Hoàng Sinh tranh luận trước mặt Cảnh đế. Hoàng Sinh nói: “Thành Thang, Vũ vương không nhận mệnh trời, mà giết vua của mình.” Viên Cố sinh nói: “Không phải thế. Xét lẽ, Kiệt, Trụ tàn ngược dâm loạn, lòng thiên hạ đều hướng về Thành Thang, Vũ vương; Thành Thang, Vũ vương thể theo tâm nguyện của thiên hạ mà diệt Kiệt, Trụ, dân của Kiệt, Trụ không cần sai sử mà đều theo Thang, Vũ; Thang, Vũ bất đắc dĩ mà lên ngôi, không phải là nhận mệnh trời ư?” Hoàng Sinh nói: “Mũ tuy nát, ắt đội trên đầu; dép tuy mới, ắt đi dưới chân. Sao vậy? Đó là sự phân chia trên dưới. Nay Kiệt, Trụ tuy vô đạo, nhưng là quân thượng; Thang, Vũ dẫu là thánh, vẫn là bề tôi dưới. Xét, chúa có lỗi lầm, bề tôi không thể dùng lời ngay thẳng giúp chúa sửa lỗi đặng tôn thiên tử, trái lại nhân lỗi đó mà giết chúa, rồi thay mà quay mặt về hướng nam[25], không giết vua thì là gì?” Viên Cố sinh đáp: “Cứ lời ông nói, vậy Cao đế thay nhà Tần lên ngôi thiên tử, là sai chăng?” Thế rồi Cảnh đế nói: “Ăn thịt mà không ăn gan ngựa, không phải do không biết vị; người bàn luận học vấn mà không nói việc Thang, Vũ nhận mệnh trời, đó không phải ngu.” Rồi dừng cuộc tranh luận. Sau đó kẻ học không ai dám nói rõ việc Thang Vũ nhận mệnh trời, đuổi giết Kiệt, Trụ nữa.

Đậu thái hậu thích sách Lão tử, triệu Viên Cố sinh đến hỏi về sách Lão tử. Viên Cổ sinh đáp: “Đó là lời của đám hạ nhân trong nhà nói thôi.” Thái hậu giận hỏi: “Làm thế nào mới có sách của quan quản giám tội nhân?” [26] Bèn sai Viên Cố sinh vào chuồng giết lợn. Cảnh đế biết Thái hậu giận, còn Viên Cố sinh nói thẳng, không có tội, bèn mượn binh khí sắc nhọn của Viên Cố sinh, vào chuồng đâm lợn, đâm đúng tim, một nhát, lợn liền ngã ngay. Thái hậu không nói gì, không viện được cớ gì để bắt tội, liền tha cho. Được một thời gian, Cảnh đế cho Cố là người ngay thẳng, thanh liêm, phong làm Thái phó cho Thanh Hà vương. Lâu sau, Cố ốm nên miễn quan.

Đương kim hoàng thượng mới lên ngôi, lấy danh nghĩa dùng người hiền lương trưng dụng Cố. Các nho sinh hay a dua phần nhiều ganh ghét hủy báng Cố, nói: “Cố già rồi.” Liền bị bãi miễn cho về. Bấy giờ Cố đã hơn chín mươi tuổi. Lúc Cố được trưng dụng, Công Tôn Hoằng người đất Tiết cũng được trưng dụng, Hoằng liếc mắt nhìn Cố. Cố nói: “Công Tôn tiên sinh, hãy chuộng dùng chính học để dâng lời, chớ dùng cái học cong vạy a dua theo thói đời!” Từ đó về sau, giảng Kinh Thi ở Tề đều gốc ở Viên Cố sinh vậy. Những người Tề nhờ Kinh Thi mà được hiển quý, đều là học trò của Cố.


Hàn Anh

Hàn sinh người nước Yên. Thời Hiếu Văn đế, làm Bác sĩ. Thời Cảnh đế, làm Thái phó cho Thường Sơn vương. Hàn sinh phát huy ý nghĩa của Kinh Thi, rồi làm phần nội ngoại truyện gồm mấy vạn lời, biện giải rất khác so với cách hiểu Kinh Thi ở Tề và Lỗ, nhưng chung quy ý nghĩa chỉ là một. Phí sinh ở Hoài Nam theo học Hàn Anh. Từ đó về sau, người giảng luận Kinh Thi ở Yên và Triệu đều từ Hàn sinh. Cháu nội Hàn sinh là Thương, nay làm Bác sĩ.


Phục Thắng, Nghệ Khoan

Phục sinh người ở Tế Nam, trước từng làm quan Bác sĩ nhà Tần. Thời Hiếu Văn đế, triều đình muốn tìm người thông tường Thượng thư, thiên hạ không có ai. Nghe nói Phục sinh tinh thông, muốn triệu đến. Bấy giờ Phục sinh đã hơn chín mươi tuổi, già yếu, không thể đi được, liền hạ chiếu cho Thái thường sai viên Chưởng cố là Triều Thố đến thụ giáo. Thời nhà Tần đốt sách, Phục sinh giấu sách trong bức vách. Về sau binh hỏa khắp nơi, phải lưu vong. Nhà Hán bình định thiên hạ, Phục sinh tìm lại sách, bị mất mấy chục thiên, chỉ còn hai mươi chín thiên, liền đem sách đó truyền dạy ở vùng Tề và Lỗ. Từ đó kẻ học đều có thể bàn luận về Thượng thư, các bậc đại sư ở phía đông Hào Sơn không ai không tham khảo Thượng thư để giảng dạy.

Phục sinh dạy Trương sinh và Âu Dương sinh ở Tế Nam, Âu Dương sinh dạy Nghề Khoan người ở Thiên Thặng. Sau khi Nghệ Khoan tinh thông Thượng thư, dùng văn học tham gia thi quận, đến thụ nghiệp quan Bác sĩ, theo học Khổng An Quốc[27]. Nghệ Khoan nhà nghèo, không có của cải chi dùng, hay làm đầu bếp cho các học trò khác, lại thường lẻn ra làm mướn, để lo cái ăn cái mặc. Khi đi thường mang kinh sách, lúc nghỉ thì tụng đọc, ôn luyện. Dựa vào thứ bậc trong khảo thí, được bổ làm Đình úy sử. Bấy giờ Trương Thang đang chuộng nho học, cho làm Tấu nghiệt duyện[28], dựa vào phép cổ để thẩm bàn, phán quyết đại án khó xử lý, Trương Thang nhân đó sủng ái Khoan. Khoan là người ôn hòa thiện lương, thanh liêm, sáng láng, biết tự ước thúc, lại giỏi viết thư, thư tấu, thông tuệ văn chương, nhưng miệng lại không sao diễn đạt được rõ ràng. Thang cho là bậc trưởng giả, nhiều lần khen ngợi. Đến khi Thang làm Ngự sử đại phu, lấy Nghề Khoan làm thuộc quan, tiến cử lên thiên tử. Thiên tử triệu kiến hỏi han, rất thích Khoan. Trương Thang chết được sáu năm, Nghệ Khoan lên đến Ngự sử đại phu. Được chín năm, chết khi đang tại chức. Khoan ở ngôi tam công, ôn hòa thiện lương thuận theo ý của hoàng thượng, khéo xử lý công việc nên được giữ chức lâu, nhưng không khuyên can giúp vua sửa lỗi. Với việc quan, thuộc quan dưới quyền coi thường Nghệ Khoan, không dốc sức vì ông ta. Trương sinh cũng làm Bác sĩ. Còn cháu nội của Phục sinh nhờ tinh thông Thượng thư nên được trưng dụng, lại không thể phát huy Thượng thư một cách sáng rõ.

Từ đó về sau, Chu Bá, Khổng An Quốc nước Lỗ, Giả Gia ở Lạc Dương đều thông tường nội dung Thượng thư. Họ Khổng có Thượng thư cổ văn[29], còn An Quốc dùng văn tự ngày nay để đọc Thượng thư[30], nhân đó sáng lập ra học phái riêng. Thượng thư thất truyền tìm lại được hơn mười thiên, đại để từ đó, số thiên Thượng thư ngày một tăng thêm.


Cao Đường Sinh

Nhiều học giả giảng bàn Kinh Lễ, nhưng Cao Đường Sinh nước Lỗ là gần với bản gốc nhất. Kinh Lễ vốn có từ Khổng tử, nhưng kinh này không đầy đủ, đến khi nhà Tần đốt sách, sách thất tán càng nhiều, đến nay chỉ có bản Sĩ lễ[31], Cao Đường Sinh Có thể giảng sách này.


Bọn Từ Sinh

Còn Từ Sinh nước Lỗ, giỏi diễn tập lễ nghi. Thời Hiếu Văn đế, Từ Sinh nhờ giỏi diễn tập lễ nghi, được làm Lễ quan đại phu. Truyền từ con đến cháu là Từ Diên, Từ Tương. Tương, trời sinh ra đã giỏi diễn tập lễ nghi, nhưng không thông hiểu Kinh Lễ; Diên giỏi Kinh Lễ, nhưng chưa thực tinh tường. Tương nhờ giỏi diễn tập lễ nghi, nhà Hán phong làm Lễ quan đại phu, thăng đến Nội sử Quảng Lăng. Diên cùng đệ tử họ Từ là Công Hộ Mãn Ý, Hoàn Sinh, Thiện Thứ, đều từng làm Lễ quan đại phu nhà Hán. Còn Hà Khâu, Tiêu Phấn nhờ giỏi Kinh Lễ nên được làm Thái thú Hoài Dương. Về sau, người giỏi giảng luận Kinh Lễ và diễn tập lễ nghi, đều gốc họ Từ vậy.


Bọn Thương Cù

Từ Thương Cù nước Lỗ được học Dịch từ Khổng tử, Khổng tử chết, Thương Cù truyền Kinh Dịch, được sáu đời đến Điền Hà người Tề, tự Tử Trang, rồi nhà Hán hưng khởi. Điền Hà truyền cho Vương Đồng Tử Trọng người Đông Vũ, Tử Trọng truyền cho Dương Hà người Truy Xuyên, Hà nhờ tinh thông Dịch, năm đầu niên hiệu Nguyên Quang được trưng dụng, làm quan đến chức Trung đại phu. Tức Mặc Thành người nước Tề nhờ tinh thông Dịch nên làm đến Quốc tướng Thành Dương. Mạnh Đãn người Quảng Xuyên nhờ Dịch nên được làm thái tử môn đại phu. Chu Ba người nước Lỗ, Hành Hồ người đất Cử, Chủ Phụ Yển người Lâm Truy, đều nhờ tinh thông Kinh Dịch làm quan đến trật hai nghìn thạch. Nhưng nói về Kinh Dịch vốn là từ Dương Hà.


Đổng Trọng Thư

Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên, nhà nghiên cứu sách Xuân thu, được làm Bác sĩ thời Hiếu Cảnh đế. Đổng Trọng Thư buông màn dạy học, học trò vào học lâu hay mau theo thứ tự truyền thụ cho nhau, có học trò chưa từng thấy mặt thầy. Đại để ba năm Đổng Trọng Thư không ra ngoài vườn, chuyên tâm đến thế đấy. Tiến, lui, dung mạo, cử chỉ, không hợp lễ không làm, học giả đều tôn kính ông như thầy. Đương kim hoàng thượng lên ngôi, Đổng Trọng Thư làm Giang Đô tướng. Dựa theo biến hóa của các việc tai dị trong sách Xuân thu để suy nghiệm sự rối loạn của âm dương, nên cầu mưa thì đóng hết các sự vật mang tính dương, mở cho khí âm ra, cầu tạnh mưa thì làm ngược lại. Thi hành trong một nước, chưa từng không đạt kết quả như ý. Giữa chừng bị phế làm Trung đại phu, ở nhà, viết sách Tai dị chi ký [Ghi chép về việc tai dị]. Bấy giờ miếu Cao tổ ở Liêu Đông bị hỏa tai, Chủ Phụ Yển ghét Đổng Trọng Thư, đem sách của Thư tâu lên thiên tử. Thiên tử triệu các nho sinh cho xem sách ấy, thấy có nội dung chỉ trích, chúng thích. Học trò Đổng Trọng Thư là Lã Bộ Thư không biết sách đó của thầy mình, cho là của hạng hạ ngu. Thế rồi giao Đổng Trọng Thư cho pháp quan, xử đáng tội chết, thiên tử hạ chiếu xá miễn. Từ đấy Đổng Trọng Thư không dám nói về việc tại dị nữa.

 


Đổng Trọng Thư là người liêm khiết, chính trực. Bấy giờ đang chinh phạt Tứ di bên ngoài, Công Tôn Hoằng nghiên cứu sách Xuân thu không bằng Đổng Trọng Thư, nhưng Hoằng theo thế tục xử lý công việc, ngôi vị đến công khanh. Đổng Trọng Thư cho Hoằng là hạng a dua. Hoằng ghét Thư, bèn nói với hoàng thượng: “Riêng có Đổng Trọng Thư có thể sai đi làm Tướng quốc cho Giao Tây vương được.” [32] Giao Tây vương vốn nghe nói Đổng Trọng Thư có đức hạnh, cũng đãi ngộ tốt. Đổng Trọng Thư sợ lâu ngày mắc tội, cáo ốm từ chức về nhà. Đến lúc chết, cũng không chăm lo sản nghiệp, lấy nghiên cứu học vấn và viết sách làm công việc. Cho nên khi nhà Hán hứng khởi đến đời thứ năm, chỉ có Đổng Trọng Thư là nổi danh nhờ sách Xuân thu, ông truyền thụ cho Công Dương thị[33].


Hồ Vô Sinh

Hồ Vô Sinh, người nước Tề. Thời Hiếu Cảnh để làm Bác sĩ, vì tuổi già nên về dạy học. Người bàn sách Xuân thu ở Tề phần lớn học từ Hồ Vô Sinh, Công Tôn Hoằng cũng học rất nhiều từ ông.


Giang Sinh

Giang Sinh ở Hà Khưu nghiên cứu sách Xuân thu[34] của Cốc Lương. Từ Công Tôn Hoằng được trọng dụng, từng tập trung so sánh nghĩa lý các bản, cuối cùng theo cách giải thích của Đổng Trọng Thư.


Chử Đại, Ân Trung, Lã Bộ Thư

Học trò của Trọng Thư, người được thỏa chí thành danh có Chử Đại ở Lan Lăng, Ân Trung ở Quảng Xuyên, Lã Bộ Thư ở đất Ôn. Chử Đại làm đến tướng nước Lương. Bộ Thư làm đến Trưởng sử, cầm phù tiết đi sứ xử lý việc ngục tụng ở Hoài Nam, tự quyết đoán với chư hầu, không báo triều đình, dùng nghĩa lý sách Xuân thu để xử án chính đáng, thiên tử đều cho là phải. Học trò người thông đạt làm đến đại phu; người làm quan Lang, Yết giả, Chưởng cố có đến hàng trăm người. Còn con, cháu của Đổng Trọng Thư đều nhờ học hành, làm đến đại quan.

 

Chú thích.

[1] Tức bài “Quan thư" trong phần "Chu Nam" của Kinh Thi. Phần này vốn thuộc dân gian, song đến đầu thời Hán, học giả truyền thụ Kinh Thi cho đây là phần do các đại thần nhà Chu làm ra để chỉ trích thói dâm dật, thích hưởng lạc của Chu Khang vương.

[2] Theo quan điểm của Khổng tử: "Thiên hạ có đạo thì lễ nhạc chinh phạt xuất phát từ thiên tử; thiên hạ vô đạo thì lễ nhạc chính lệnh xuất phát từ chư hầu" (Luận ngữ - Quý thị).

[3] Nhạc Thiều: tương truyền là khúc nhạc của thời Đế Thuấn, tụng ca đức tốt của Đế Thuấn, được Khổng tử cho là tận thiện tận mỹ.

[4] Nhã, Tụng: đều là các phần trong Kinh Thi.

[5] Chỉ việc người ở ngoại thành phía đông nước Lỗ đi săn bắt được con lân vào năm Lỗ Ai công thứ 14 (năm 481 Tr.CN).

[6] Lân là vật tượng trưng cho điềm lành, đời thịnh. Đương thời là đời loạn, chính sự rối ren, nhưng lân lại xuất hiện để rồi bị người ta săn được. Khổng tử cho là điềm gở.

[7] Xuân thu: là cuốn sử biên niên của nước Lỗ do Khổng tử trước tác, trong đó thể hiện tinh thần chính danh, ngụ ý khen, chê. Sau, sách này được nhà nho coi là kinh điển.

[8] Chỉ các vật dụng dùng trong các nghi thức tế tự, tang ma...

[9] Ý nói tụ tập nhất thời nhưng dễ tan rã.

[10] Đại xạ: chỉ việc tế từ trước khi cử hành nghi lễ bắn cung thời Chu. 

[11] Hương ẩm: lễ uống rượu ở quê. Bậc hương học thời cổ, ba năm thì học xong, qua sát hạch để chọn người có đức hạnh và tài năng, tiến cử lên vua, trước khi đi, trong hương làm lễ để tiễn chân, nghi lễ đó gọi là "hương ẩm".

[12] Hình danh: học phái thuộc hệ thống pháp gia thời tiên Tần, nhân vật tiêu biểu là Thân Bất Hại.

[13] Ba chức quan lớn nhất trong triều đình nhà Hán là Thừa tướng, Thái úy và Ngự sử đại phu.

[14] Ý nói nho học đến lúc này thành phong khí của thời đại, người đi học cứ thế học theo.

[15] Chỉ mối quan hệ giữa chồng và vợ trong gia đình.

[16] Các nho sinh do các quan Bác sĩ đào tạo, nhằm truyền thừa, phát huy kinh điển nho gia.

[17] Tức địa phương. Theo quy định thời Chu thì hai mươi lăm nhà là một lý, một vạn hai nghìn năm trăm nhà là một hương.

[18]. Bác Sĩ: học quan thời cổ. Đời Hán, quan Bác sĩ phụ trách việc nghiên cứu, giảng dạy các kinh điển nho gia.

[19] Chức quan thời Hán, phụ trách lễ nhạc.

[20] Huấn: phần giải thích nghĩa chữ của kinh điển.

[21] Truyện: phần phát huy văn nghĩa kinh điển.

[22] Nhà để làm chỗ thiên tử tuyên dương chính giáo, cũng là nơi tiến hành các điển lễ lớn của triều đình như tế tự, khánh hạ, chọn kẻ sĩ…

[23] Nguyên là "thúc bạch". Năm xấp lụa là một "thúc".

[24] Tức bà nội của thiên tử.

[25] Ý nói lên làm vua.

[26] Câu này châm biếm sách vở nho gia, coi đó như sách về hình pháp của quan coi việc ngục tụng.

[27]. Khổng An Quốc: người Khúc Phụ, nước Lỗ, tinh thông kinh học, là cháu đời thứ mười của Khổng tử.

[28] Thuộc quan, phụ trách việc trình báo tội án.

[29] Thượng thư cổ văn viết bằng chữ cổ trước thời Tần-Hán. Bản do Phục sinh truyền thụ dưới thời Hán là bản kim văn, viết bằng Lệ thư. Hai bản này có một số điểm như câu chữ, số thiên... không tương đồng. Tương truyền dưới thời Hán, khi phá vách nhà Khổng tử, phát hiện bản Thượng thư cổ văn gồm bốn mươi lăm thiên, so với bản hai mươi chín thiên do Phục sinh truyền thụ, nhiều hơn mười sáu thiên.

[30] Do bản cổ văn Thượng thư viết theo lối chữ cổ, người đương thời không đọc hiểu được, Khổng An Quốc bèn dùng chữ Lệ thư thông dụng đương thời để viết lại, đồng thời thêm một số giải thích, mở đầu cho phái Cổ văn Thượng thư.

[31]. Sĩ lễ: cũng gọi là sách Nghi lễ, bảo tồn được một phần nội dung Kinh Lễ của thời Tiên Tần.

[32] Giao Tây vương là Lưu Đoan tính tình độc ác, hay làm loạn, nhiều bề tôi nhà Hán được phái đến làm Tướng quốc hoặc phụ tá từng bị giết, hoặc làm bị thương. Do đó, Công Tôn Hoằng đẩy Đổng Trọng Thư đến phò tá Giao Tây vương, ý muốn mượn tay Giao Tây vương giết đi.

[33] Tức bản Xuân thu Công Dương truyện của Công Dương Cao người nước Tề thời Chiến quốc.

[34] Tức bản Xuân thu Cốc Lương truyện.

                                                                           

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét