SỬ KÝ II. LIỆT TRUYỆN (QUYỂN HẠ)
Phạm Văn Ánh dịch
QUYỂN 115
TRIỀU TIÊN LIỆT TRUYỆN
Triều Tiên vương tên là Mãn[1], người nước Yên
xưa. Từ thời nước Yên còn thịnh trị, từng chiếm lấy Chân Phan và Triều Tiên, đặt
quan lại, xây thành trì phòng vệ biên ải. Tần diệt Yên, các đất này quy thuộc,
trở thành vùng ngoại biên quận Liêu Đông. Nhà Hán hưng khởi, cho là vùng xa khó
giữ, lại sửa biên ải cũ ở Liêu Đông, đến Bái Thủy, lấy làm ranh giới, thuộc nước
Yên. Yên vương Lư Oản làm phản, trốn vào Hung Nô, Mãn phải lưu vong, tụ tập bè
đảng hơn nghìn người, búi tóc chuy kế, mặc trang phục man di, chạy ra biên tái
phía đông, vượt sông Bái Thủy, sống ở vùng đất phía trên và dưới các thành lũy
vốn hoang vắng thời Tần, dần dần nô dịch, khiến người man di ở Chân Phan, Triều
Tiên cho đến bách tính lưu vong nước Yên, Tề cũ quy thuộc, lên làm vua, đóng đô
ở Vương Hiểm.
Đến thời Hiếu Huệ đế, Cao hậu, thiên hạ mới yên định,
Thái thú Liêu Đông ước định cho Mãn làm bề tôi cõi ngoài, bảo vệ man di ở ngoài
quan ải, không để họ trộm cướp ở vùng biên; các tộc trưởng man di muốn vào triều
kiến thiên tử, không được ngăn cấm. Ước định được báo lên, Hoàng thượng chấp
thuận, vì thể Mãn được binh quyền, của cải, xâm chiếm và hàng phục các thành ấp
nhỏ lân cận, Chân Phan, Lâm Đồn đều đến hàng phục, [khiến đất của Mãn] rộng đến
mấy nghìn dặm vuông.
Mãn truyền cho con, đến cháu nội Hữu Cừ, chiêu dụ được rất
nhiều lưu dân nhà Hán, lại chưa từng vào chầu; các nước bên cạnh Chân Phan định
dâng thư, triều kiến thiên tử, nhưng vì cách trở không đến được. Năm Nguyên
Phong thứ hai, nhà Hán sai Thiệp Hà đến trách lỗi và hiểu dụ Hữu Cừ, nhưng rốt
cuộc vẫn không chịu vâng chiếu. Hà đi đến đầu địa giới, tới Bái Thủy, sai người
đánh xe giết Tỳ vương Triều Tiên đi tiễn Hà là Trường, kíp vượt sông, phóng vào
biên ải, rồi về báo với thiên tử rằng mình đã “giết tướng Triều Tiên”. Hoàng
thượng cho Hà có danh tiếng tốt, không hỏi đến, phong Hà làm Đô úy vùng phía
đông quận Liêu Đông. Triều Tiên oán Hà, phát binh đánh úp, giết chết Hà.
Thiên tử chiêu mộ tội nhân đi đánh Triều Tiên. Mùa thu
năm ấy, sai Lâu thuyền tướng quân Dương Bốc xuất phát từ Tề, theo biển Bột Hải,
quân có năm vạn; Tả tướng quân Tuân Trệ đem quân ra Liêu Đông, thảo phạt Hữu Cừ.
Hữu Cừ phát binh giữ chỗ hiểm chống cự. Tên lính của Tả tướng quân tên là Đa chỉ
huy quân Liêu Đông tiến đánh địch trước, thua trận, quân tan vỡ, Đa cũng bỏ trốn,
phạm pháp, bị chém. Lâu thuyền tướng quân đem bảy nghìn quân Tề đến Vương Hiểm.
Hữu Cừ dựa thành chống giữ, dò xét thấy quân của Lâu thuyền ít, liền ra thành
giao chiến, quân của Lâu thuyền tướng quân thua chạy. Tướng quân Dương Bộc bị mất
quân, trốn trong núi hơn chục ngày, dần dần tìm thu lại các quân sĩ tản mác, tụ
hợp. Tả tướng quân đánh cánh quân phía tây Bái Thủy của Triều Tiên, chưa thể
đánh phá từ trước mặt địch.
Thiên tử cho rằng hai tướng đều chưa thủ thắng, bèn sai Vệ
Sơn dựa vào uy tín trong quân sang hiểu dụ Hữu Cừ. Hữu Cừ gặp sứ giả, dập đầu tạ
tội: “Xin đầu hàng, chỉ sợ hai tướng lừa gạt rồi giết thần; nay thấy
phù tiết xác tín, thần xin hàng phục.” Rồi sai Thái tử vào triều tạ tội,
dâng năm nghìn con ngựa cùng quân lương. Hơn vạn người Triều Tiên đều cầm binh
khí, đang sắp vượt Bái Thủy, sứ giả và Tả tướng quân ngờ họ gây biến, bảo Thái
tử đã hàng phục, nên sai người không được cầm vũ khí. Thái tử cũng ngờ sứ giả
và Tả tướng quân gian dối rồi giết mình, liền không chịu vượt Bái Thủy, lại dẫn
quân về. Vệ Sơn về báo với thiên tử, thiên tử giết Sơn.
Tả tướng quân phá được quân trên Bái Thủy, bèn tiến quân,
đến dưới thành, bao vây phía tây bắc. Lâu thuyền cũng đến hội quân, đóng ở phía
nam thành. Hữu Cừ liền giữ thành thật vững, mấy tháng [quân Hán] vẫn chưa đánh
hạ được.
Tả tướng quân vốn làm Thị trung, được sủng, chỉ huy quân
Yên, Đại, hung tợn, thừa thắng, quân phần nhiều sinh kiêu. Lâu thuyền tướng
quân chỉ huy quân Tề, vượt biển, vốn đã nhiều người thua chạy; trước tiên giao
chiến với Hữu Cừ, bị khốn, chịu nhục, mất quân, sĩ tốt đều sợ, tướng quân hổ thẹn,
khi bao vây Hữu Cừ, thường giữ khoan hòa. Tả tướng quân tấn công gắt gao, đại
thần Triều Tiên bèn ngầm phái người đến ước hàng riêng với Lâu thuyền tướng
quân, qua lại bàn định, vẫn chưa chịu quyết. Tả tưởng quân nhiều lần cùng Lâu
thuyền tướng quân hẹn kỳ tấn công, Lâu thuyền muốn mau chóng ước định, không được;
Tả tướng quân cũng sai người tìm thời cơ để hàng phục Triều Tiên, Triều Tiên
không chịu, trong lòng đã quy phụ Lâu thuyền, vì thế hai tướng không phục nhau.
Tả tướng quân có ý cho Lâu thuyền tướng quân trước có tội để mất quân, nay có
giao du riêng với Triều Tiên mà họ không chịu hàng, nghi ngờ Lâu thuyền tướng
quân âm mưu tạo phản, nhưng chưa dám tố cáo. Thiên tử cho rằng, tướng lĩnh vô
năng, trước đã phái Vệ Sơn đi du hàng Hữu Cừ, Hữu Cừ sai Thái tử vào chầu, Vệ
Sơn không biết quyết đoán, cùng Tả tướng quân tính kế đều sai, rốt cuộc làm hỏng
ước định. Nay hai tướng vây thành, lại khác ý nhau, cho nên dùng dằng mãi chưa
xong. Sai Thái thú Tế Nam là Công Tôn Toại đến chấn chỉnh họ, nếu tiện thì được
tùy nghi hành sự. Toại đến, Tả tướng quân nói: “Đáng lẽ hạ được Triều
Tiên lâu rồi, không hạ được là có nguyên do.” Nói Lâu thuyền tướng
quân nhiều lần ước hẹn mà không đến, bèn đem ý mình nghĩ nói với Toại, rằng: “Nay
đã như thế mà không bắt lấy, e sẽ thành nguy hại lớn, không chỉ riêng quân Lâu
thuyền tướng quân, e sẽ hợp với Triều Tiên, tiêu diệt quân ta.” Toại
cũng cho là phải, rồi dùng phù tiết triệu Lâu thuyền tướng quân vào quân doanh
Tả tướng quân bàn kế, lập tức sai thuộc hạ dưới trướng Tả tướng quân bắt Lâu
thuyền tướng quân, thu hết quân, rồi báo cho thiên tử. Thiên tử giết Toại.
Tả tướng quân đã gộp hai cánh quân, tức tốc tấn công Triều
Tiên. Tướng quốc Triều Tiên là Lộ Nhân, Tướng quốc Hàn Âm, Tướng quốc Ni Khê là
Tham, cùng tướng quân Vương Hiệp bàn mưu rằng: “Ban đầu định hàng Lâu
thuyền, nay Lâu thuyền bị bắt, một mình Tả tướng quân chỉ huy hai cánh quân,
đánh càng rát, sợ không thể đối địch được, đại vương lại không chịu hàng.” Âm,
Hiệp, Lộ Nhân đều trốn sang hàng nhà Hán. Lộ Nhân chết trên đường đi. Mùa hạ
năm Nguyên Phong thứ ba, Tướng quốc Ni Khê là Tham bèn sai người giết Triều
Tiên vương Hữu Cừ rồi đến hàng. Thành Vương Hiểm vẫn chưa bị hạ, cho nên đại thần
của Hữu Cừ là Thành Tỵ vẫn làm phản, tấn công các quan lại khác. Tả tướng quân
sai con của Hữu Cừ là Trường Giang, con trai Tướng quốc Lộ Nhân là Tối dụ bảo
dân chúng, giết Thành Tỵ, vì thế bình định được Triều Tiên, lập thành bốn quận.
Phong cho Tham làm Hoạch Thanh hầu, phong Âm làm Địch Tư hầu, phong Hiệp làm
Bình Châu hầu, Trường Giang làm Cơ hầu. Tối vì cha chết, có nhiều công lao, được
làm Ôn Dương hầu.
Tả tướng quân bị triệu đến, nhân vì ganh ghét tranh công,
làm trái kế hoạch, bị chém ngoài chợ. Lâu thuyền tướng quân cũng vì đem quân đến
Liệt Khẩu, đáng lẽ phải đợi quân của Tả tướng quân, nhưng tự ý tiến đánh trước,
tổn thất nhiều quân, đáng tội chết, được chuộc tội làm dân thường.
Thái sử công bàn rằng: Hữu Cừ cậy thành kiên cố, nước
bị tuyệt tự. Thiệp Hà lừa dối để được công, phát binh đầu tiên. Lâu thuyền tướng
quân hẹp hòi, gặp phải nguy nan lầm lỗi. Hối hận vì mất Phiên Ngung, rồi trái lại
bị nghi ngờ. Tuân Trệ tranh công, cùng loại đều bị giết. Hai quân đều chịu nhục,
tướng cầm quân không ai được phong hầu.
Chú thích.
[1] Tức Vệ Mãn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét