Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

Chương Sáu: Trung Đông

 


Vùng Trung Đông trên bản đồ thế giới có gì nổi bật?

NHỮNG TÙ NHÂN CỦA ĐỊA LÝ

Tác giả:Tim Marsall

Chương Sáu: Trung Đông

“Chúng ta đã phá vỡ hiệp ước Sykes – Picot!”

Chiến binh của nhà nước Hồi Giáo (IS), 2014.

Trung Đông: ở đây là trung (ở giữa) của cái gì; là đông của nơi nào? Bản thân địa danh này đã được đặt ra theo cách nhìn của châu Âu về thế giới, và chính cách nhìn của châu Âu về vùng đất này đã định hình cho nó. Người châu Âu dùng mực vạch vài nét lên bản đỏ: chúng là những đường kẻ không tồn tại trong thực tế và tạo nên những biên giới thuộc loại nhân tạo nhất mà thế giới từng thấy. Ngày nay, đang xuất hiện những nỗ lực nhằm vẽ lại những đường nét đó bằng máu. Một trong những đoạn video quan trọng nhất xuất hiện từ Trung Đông trong năm 2014 nhưng bị lu mờ bởi những thước phim tư liệu về những vụ nổ bom và chặt đầu. Đó là một đoạn clip tuyên truyền khéo léo được thực hiện bởi Nhà nước Hồi giáo (IS), cho thấy một chiếc xe ủi đất đang xóa đi, hay đúng hơn là ủi bay mất đường biên giới lraq-Syria. Biên giới đó chỉ đơn giản là một gờ cát cao. Ủi phẳng gờ cát và biên giới vật lý đó không còn tồn tại nữa, “Đường kẻ” trên bản đồ vẫn tồn tại trong lý thuyết. Vài năm sắp tới sẽ cho chúng ta biết liệu những lời của các chiến binh của Nhà nước Hồi giáo (IS) là tiên trị hay chỉ là trò phách lối: “Chúng ta đang phá hủy các đường biên giới và phá bỏ những rào cản. Tạ ơn Allah.”

 

Sau Thế chiến I, ở Trung Đông có ít đường biên giới hơn so với hiện nay, và những đường biên nào đã tồn tại thường được xác định chỉ dựa trên địa lý mà thôi. Không gian bên trong được phân chia lỏng lẻo và được cai trị dựa theo địa lý, sắc tộc và tôn giáo, nhưng không có nỗ lực nào nhằm tạo ra các quốc gia dân tộc.

 

Đại Trung Đông trải dài trên một ngàn dặm, từ tây sang đông, từ biển Địa Trung Hải đến vùng núi của Iran. Từ bắc chí nam, nếu chúng ta bắt đầu tại biển Đen và kết thúc trên bờ biển Ả-rập ngoài khơi Oman, thì dải đất này trải dài hai ngàn dặm. Khu vực này bao gồm những sa mạc rộng lớn, những ốc đảo, những đỉnh núi phủ tuyết, sông ngòi dài, những thành phố lớn và vùng đồng bằng duyên hải. Và nó rất giàu tài nguyên thiên nhiên dưới cái hình thức mà mọi nước đã và đang công nghiệp hóa trên khắp thế giới đều cần: dầu mỏ và khí đốt.

 

Nó cũng bao gồm dải đất màu mỡ được gọi là Mesopotamia (Lưỡng Hà), nghĩa là “dải đất giữa các con sông” (sông Euphrates và Tigris). Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật nhất là sa mạc Ả-rập rộng lớn và dải đất toàn cây bụi rậm thấp ở trung tâm của nó nằm sát bên các vùng thuộc Israel, Jordan, Syria, lraq, Kuwait, Oman, Yemen và hầu hết Ả-rập Saudi, bao gồm cả hoang mạc Rub“al Khali hay “Góc Trống rỗng“ (Empty Quarter). Đây là hoang mạc cát không gián đoạn lớn nhất trên thế giới, bao quát một khu vực có kích thước bằng nước Pháp. Chính do đặc tính này, không chỉ đa số dân cư chỉ sống ở ngoại vi của nó, mà cho đến thời kỳ thực dân châu Âu, hầu hết người dân trong khu vực không hề suy nghĩ theo hình thức quốc gia dân tộc hay biên giới cố định theo nghĩa pháp lý. Ý niệm cho rằng một người từ một nơi nào đó không thể đi qua một vùng đất khác để gặp người thân thuộc cùng một bộ lạc trừ phi anh ta có giấy tờ tùy thân, giấy tờ này được cấp bởi một người thứ ba mà anh ta không quen biết ở một thị trấn xa xôi, là một ý niệm có rất ít ý nghĩa. Ý tưởng cho rằng giấy tờ tùy thân được ban hành chỉ vì một người nước ngoài đã tuyên bố vùng này hiện nay bị chia thành hai khu vực và đã đặt tên cho chúng, lại càng không có ý nghĩa gì cả, và trái ngược với lối sống đã diễn ra nhiều thế kỷ qua.

 

Đế chế Ottoman (1299-1922) được cai trị từ Istanbul. Ở thời kỳ cực thịnh, đế chế này trải dài từ cổng thành Vienna, xuyên qua Anatolia và chạy xuống phía nam qua bán đảo Ả-rập đến tận Ấn Độ Dương. Từ tây sang đông nó bao trọn những vùng hiện nay là Algeria, Libya, Ai Cập, Israel/Palestine, Syria, Jordan, lraq và một phần của lran. Đế chế chưa bao giờ phải lo lắng với việc đặt tên cho hầu hết các vùng đất này; năm 1867, đế chế đơn thuần chia chúng thành các khu vực hành chính được gọi là “Vilayet” (mang nghĩa “tỉnh bang”), thường được căn cứ trên địa điểm nơi có bộ tộc cụ thể nào đó cư trú, dù họ là người Kurd tại Bắc lraq ngày nay hay liên minh bộ lạc trong vùng hiện nay thuộc Syria và thuộc Iraq.

Khi đế quốc Ottoman bắt đầu sụp đổ, Anh và Pháp có một ý tưởng khác hẳn. Năm 1916, nhà ngoại giao Anh, Đại tá Sir Mark Sykes nhặt lên một cây bút sáp và vạch một đường thô thiển trên bản đồ Trung Đông. Nó chạy từ Haifa bên bờ Địa Trung Hải trong vùng đất thuộc Israel ngày nay đến Kirkuk (hiện thuộc lraq) ở phía đông bắc. Đường vạch đó đã trở thành cơ sở của thỏa thuận bí mật giữa Mark Sykes với đối tác Pháp Francois Georges-Picot nhằm chia khu vực thành hai vùng ảnh hưởng, trong trường hợp Liên minh Ba bên (Triple Entente) đánh bại Đế chế Ottoman trong Thế chiến I. Phía bắc của đường vạch đặt dưới sự kiểm soát của Pháp, phía nam thuộc quyền chi phối của Anh.

 

Thuật ngữ “Sykes-Picot” trở thành từ viết tắt dùng để chỉ những quyết định khác nhau trong ba mươi năm đầu tiên của thế kỷ 20, những quyết định đã phản bội lời hứa hẹn được trao cho các thủ lĩnh bộ tộc, đồng thời cũng phần nào giải thích tình trạng bất ổn và cực đoan ngày nay. Dù vậy, lời giải thích này có thể bị phóng đại: bạo lực và chủ nghĩa cực đoan đã xuất hiện ở đây từ khi người châu Âu đến. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy ở châu Phi, việc tùy tiện tạo lập các “quốc gia dân tộc” cấu thành từ những dân tộc không quen chung sống với nhau trong một khu vực không phải là một công thức cho công lý, bình đẳng và ổn định.

 

Trước khi có Sykes-Picot (theo nghĩa rộng hơn của thuật ngữ này) thì không có Syria, không có nhà nước Lebanon, cũng không có Jordan, lraq, Saudi Arabia, Kuwait, Israel hay Palestine. Bản đồ hiện đại thể hiện biên giới và tên gọi của các quốc gia dân tộc, nhưng chúng đều còn non trẻ và mong manh.

 

Hồi giáo là tôn giáo thống trị ở Trung Đông, nhưng lại bao gồm trong nó nhiều phiên bản khác nhau. Sự phân chia quan trọng nhất trong Hồi giáo cũng cố xưa gần như bản thân tôn giáo này: cuộc phân ly giữa các giáo phái Sunni và Shia xuất hiện từ năm 632 khi nhà tiên tri Muhammad qua đời, dẫn đến một cuộc tranh chấp về quyền kế vị ông.

 

Tín đồ Hồi giáo Sunni chiếm đa số trong cộng đồng cư dân Ả-rập, và thực sự là cả trong toàn bộ tín đồ Hồi giáo thế giới, có lẽ lên tới 85% tổng số, mặc dù trong một số quốc gia Ả-rập, tỉ lệ phần trăm ít chênh lệch hơn. Tên gọi của giáo phái Sunni phát xuất từ “Al Sunna” hoặc “dân theo truyền thống“. Khi nhà tiên tri qua đời, những người sẽ trở thành tín đồ Sunni lập luận rằng người thừa kế của ông nên được chọn dựa theo truyền thống của bộ tộc Ả-rập. Họ tự coi mình là phái Hồi giáo Chính thống. lên gọi của giáo phái Shia bắt nguồn từ “Shiat Ali”, theo nghĩa đen là “đảng của Ali”, và chỉ đích danh con rể Ali của Tiên tri Muhammad. Ali và các con trai của ông, Elassan và Hussein đều bị ám sát và do đó bị phủ nhận cái mà tín đồ Shia tự cho là quyền theo thừa kế của họ - tức là quyền dẫn dắt cộng đồng Hồi giáo.

 

Từ đó nảy sinh một số tranh chấp về giáo lý và tập tục văn hóa chia rẽ hai giáo phái chính của Hồi giáo, dẫn đến tranh chấp và chiến tranh, mặc dù cũng có những khoảng thời gian họ chung sống hòa bình.

 

Ngoài ra còn có các chi phái nhỏ trong từng giáo phái. Ví dụ, có nhiều chi phái khác nhau của chi phái Sunni theo các hiền giả vĩ đại cụ thể trong quá khứ, bao gồm truyền thống Hanbali nghiêm ngặt, được đặt tên theo hiền giả Iraq thế kỷ thứ 9 Ahmad ibn Hanbal, vốn được nhiều người Sunni từ Qatar và Ả-rập Saudi mến mộ; điều này đến lượt nó lại gây ảnh hưởng lên tư tưởng Salafi cực kỳ thuần khiết, vốn chiếm ưu thế trong cộng đồng những phần tử thánh chiến (Jihad).

 

Hồi giáo Shia có ba chỉ phái chính, được biết đến nhiều nhất trong số đó có lẽ là phái “Mười hai“ (Twelvers), tín đồ của phái này tuân thủ giáo huấn của Mười hai Imam (Giáo chủ), nhưng ngay cả chi phái này cũng bao gồm những chỉ nhỏ hơn nữa. Phái Ismaili tranh chấp đồng truyền thừa của vị Imam thứ bảy, trong khi phái Zaidi tranh chấp dòng truyền thừa của vị Imam thứ năm. Ngoài ra còn có mấy chi phái của Hồi giáo Shia chủ đạo, trong đó Alawite (Alawis) và Druze được cho là xa rời tư tưởng Hồi giáo truyền thống đến mức nhiều tín đồ hồi giáo khác, đặc biệt là Sunni, thậm chí không công nhận họ là một bộ phận trong tôn giáo của mình.

 

Di sản của chủ nghĩa thực dân châu Âu đã khiến dân Ả-rập bị gộp lại thành các quốc gia dân tộc và bị cai trị bởi các nhà lãnh đạo có khuynh hướng ủng hộ bất kỳ chi phái Hồi giáo (và bộ lạc) nào cùng xuất thân với họ. Những kẻ độc tài này sau đó vận dụng bộ máy nhà nước để bảo đảm cho quyền cai trị của họ trong toàn bộ khu vực thuộc trong những đường biên giới nhân tạo do người châu Âu thiết kế, chẳng bận tâm đến việc điều đó có phù hợp về mặt lịch sử hay có công bằng đối với các bộ lạc và tôn giáo khác nhau vốn đã bị ném chung vào một bị hay không.

 

Iraq là một ví dụ điển hình của xung đột và sự hỗn loạn nảy sinh từ đó. Những tín đồ mộ đạo nhất trong giáo phái Shia sẽ không bao giờ chấp nhận một chính phủ do người Sunni lãnh đạo lại có quyền kiểm soát các thành phố thiêng liêng như Najaf và Karbala, được cho là nơi chôn cất các thánh tử đạo Ali và Hussein của họ. Những cảm thức cộng đồng này đã tồn tại từ nhiều thế kỷ trước; một vài thập niên được gọi là “dân Iraq“ sẽ không bao giờ xóa nhòa nổi những cảm xúc ấy.

 

Là những kẻ cai trị Đế chế Ottoman, người Thổ Nhĩ Kỳ nhìn một vùng đồi núi trập trùng do người Kurd thống trị, thế rồi, khi những vùng núi non thoải dần xuống thành dải đất bằng phẳng hướng về Baghdad và về phía tây đến địa danh mà nay là Syria, họ thấy một dải đất mà đa số là dân Ả-rập Sunni. Sau cùng, khi hai con sông lớn Tigris và Euphrates hợp lưu và đổ xuống thủy lộ Shatt al-Arab, vùng đầm lầy và thành Basra, họ nhìn thấy càng nhiều dân Ả-rập hơn, hầu hết thuộc giáo phái Shia. Họ tùy theo đó mà cai trị không gian này, chia nó thành ba vùng hành chính: Mosul, Baghdad và Basra.

 

Trong thời cổ đại, các địa danh gần tương ứng với các vùng hành chính kể trên được gọi là Assyria, Babylon và Sumer Khi người Ba Tư kiểm soát không gian này, họ phân chia nó theo cách tương tự, rồi Alexander Đại đế và sau đó là Đế quốc Umayyad cũng làm vậy. Người Anh dòm ngó cũng chính dải đất này và gộp ba thành một, một điều bất khả về mặt logic mà người Kitô giáo có thể giải quyết thông qua Chúa Ba Ngôi, nhưng tại Iraq, điều đó chỉ dẫn đến một mớ hỗn độn “phi thần thánh“.

 

Nhiều nhà phân tích nói rằng chỉ có một nhà lãnh đạo mạnh mẽ mới có thể thống nhất ba khu vực này thành một quốc gia, và lraq đã có hàng loạt những lãnh đạo cứng rắn như vậy. Nhưng trong thực tế, dân tộc này không bao giờ thống nhất, họ chỉ co quắp vì sợ hãi. Có một nơi mà các nhà độc tài không thể nhìn thấy, đó là trong thâm tâm của người dân, hầu như không có ai tin vào những sự tuyên truyền của nhà nước, bất chấp truyền thông bao phủ bốn bể, dù đó là cuộc bức hại có hệ thống đối với người Kurd, sự thống trị bởi gia tộc Hồi giáo Sunni của Saddam Hussein từ quê nhà Tikrit của ông ta, hay vụ tàn sát hàng loạt tín đồ Shia sau cuộc nổi dậy thất bại của họ vào năm 1991.

 

Người Kurd là sắc dân đầu tiên rời đi. Những nhóm thiểu số nhỏ nhất sống trong một chế độ độc tài đôi khi giả vờ tin vào những lời tuyên truyền rằng quyền lợi của họ được bảo vệ, bởi vì họ không có đủ sức mạnh để làm bất cứ điều gì chống lại thực tế đó. Ví dụ, nhóm thiểu số Kitô giáo và số ít người Do Thái tại lraq cảm thấy họ có thể an toàn trong một chế độ độc tài thế tục như của Saddam, hơn là chấp nhận những rủi ro theo sau sự thay đổi. Và những gì họ đã e sợ có thể xảy ra thì thực tế đã xảy ra. Tuy nhiên, người Kurd là một sắc dân được minh định về mặt địa lý và, quan trọng nhất, đủ đông đảo để có thể phản ứng khi hiện trạng thực tế của chế độ độc tài trở nên quá quắt.

 

Năm triệu người Kurd lraq tập trung ở các tỉnh phía bắc và đông bắc là Erbil, Sulaymaniyah, Dahuk và những khu vực xung quanh các tỉnh này. Đó là một hình lưỡi liềm khổng lồ, chủ yếu là đồi núi, điều đó đồng nghĩa người Kurd gìn giữ được bản sắc riêng của họ bất chấp các cuộc tấn công văn hóa và quân sự liên tục, chẳng hạn như chiến dịch al-Anfal năm 1988, bao gồm các cuộc tấn công bằng khí gas từ trên không nhắm vào các làng mạc. Trong chiến dịch tám giai đoạn này, các lực lượng của Saddam không giữ tù nhân và giết tất cả nam giới trong độ tuổi từ mười lăm đến năm mươi mà họ bắt gặp. Tổng cộng lên đến một trăm ngàn người Kurd đã bị sát hại và 90% số làng mạc bị xóa sổ trên bản đồ. Khi Saddam Hussein vươn tới Kuwait vào năm 1990, người Kurd chớp cơ hội làm nên lịch sử và biến Kurdistan mà họ đã được hứa hẹn từ sau Thế chiến I trong Hiệp ước Sèvres (1920), nhưng chưa bao giờ được cho phép, thành hiện thực. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến vùng Vịnh, người Kurd đã nổi lên, các lực lượng đồng minh tuyên bố lập một “vùng an toàn” mà quân đội Iraq không được phép bước vào đó, và một vùng Kurdistan de facto (trên thực tế) lúc đó mới bắt đầu hình thành. Cuộc xâm lược Iraq năm 2003 của Hoa Kỳ đã củng cố một điều dường như trở thành sự thật: Baghdad sẽ thống trị người Kurd lần nữa.

Bản đồ   Ranh giới Syrian và Iraqi

Mặc dù không phải là một quốc gia được công nhận, vẫn có một khu vực “Kurdistan” có thể nhận diện được. Bằng việc vượt qua những đường biên giới như tình hình hiện nay, đây là một khu vực bất ổn tiềm tàng nếu các vùng đất của người Kurd nỗ lực thiết lập một quốc gia độc lập.

 

Kurdistan không phải là một quốc gia được công nhận chủ quyền, nhưng nó có rất nhiều đặc điểm của một quốc gia như vậy, và các sự kiện hiện nay ở Trung Đông chỉ làm gia tăng khả năng sẽ có một quốc gia mang tên Kurdistan có chính danh trong luật pháp quốc tế. Câu hỏi là: nó sẽ có hình dạng gì? Và Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran sẽ phản ứng như thế nào nếu các vùng người Kurd ở đất nước họ cố gắng trở thành một phần của quốc gia mới này và nó nỗ lực tạo ra một quốc gia Kurdistan liên một dải, với khả năng tiếp cận Địa Trung Hải?

 

Sẽ nảy sinh một vấn đề khác: sự thống nhất giữa người Kurd. Người Kurd tại lraq từ lâu đã bị chia rẽ giữa hai bộ tộc đối đầu. Người Kurd tại Syria đang cố tạo ra một thể chế nhỏ mà họ gọi là Rojava. Họ xem nó như là một phần của một quốc gia Kurdistan lớn hơn trong tương lai, nhưng trong trường hợp một quốc gia như vậy được kiến tạo, sẽ phát sinh những câu hỏi như ai sẽ có bao nhiêu quyền lực, và ở đâu. Nếu Kurdistan trở thành một quốc gia được quốc tế công nhận thì hình dạng của Iraq sẽ thay đổi. Đó là giả sử sẽ vẫn còn một quốc gia Iraq. Rất có thể sẽ không còn có Iraq.

 

Vương quốc Hashemite, cũng được biết đến dưới tên Jordan, là một vùng khác được tạo ra từ sa mạc bởi tay người Anh, và từ năm 1918 người Anh đã có một vùng lãnh thổ lớn để quản lý và một số vấn đề cần giải quyết.

 

Nhiều bộ lạc Ả-rập đã giúp người Anh chống lại người Ottoman trong thế chiến I, nhưng có hai bộ tộc đặc biệt mà London hứa sẽ tưởng thưởng vào cuối cuộc chiến. Thật không may cả hai đều được hứa hẹn cùng một món tặng phẩm: quyền kiểm soát bán đảo Ả-rập. Nhưng với thực tế là các bộ tộc Saud và Hashemite thường xuyên gây chiến với nhau, nên việc này có chút rắc rối. Vì vậy, London lại phủi bụi tấm bản đồ, vẽ thêm một vài đường kẻ mới và thông báo rằng thủ lĩnh của bộ tộc Saud có thể cai trị trên khu vực này, trong khi thủ lĩnh của Hashemite cai trị một khu vực khác, mặc dù mỗi khu vực đều sẽ “cần” một khâm sứ Anh để trông coi tất cả. Vị thủ lĩnh bộ tộc Saudi cuối cùng đã đặt tên cho lãnh thổ của mình bằng cách gọi theo tên của chính bộ tộc, vì thế chúng ta biết đến khu vực này dưới tên Ả-rập Saudi - một địa danh mà phép so sánh tương đương thô thiển sẽ là lấy tên “Windsorland“ đặt cho nước Anh.

 

Người Anh, vốn khắt khe về mặt quản trị, đặt tên cho khu vực còn lại là “Transjordan”, viết tắt của “phía bên kia sông Jordan“. Một thị trấn nhỏ bụi bặm tên là Amman trở thành thủ đô của Transjordan, và khi người Anh trở về nhà vào năm 1948, tên gọi của quốc gia này được đổi thành Jordan. Nhưng người Hashemite không phải đến từ miền Amman: họ nguyên là một phần của bộ tộc Qureshi hùng mạnh đến từ vùng Mecca, và những cư dân bản địa hầu hết là người Bedouin. Đa số dân cư hiện nay là người Palestine: khi người Israel chiếm đóng bờ Tây (West Bank) năm 1967, nhiều người Palestine đã chạy trốn sang Jordan, đây là nhà nước Ả-rập duy nhất cấp cho họ quyền công dân. Trong tình huống hiện nay, đa số trong 6,7 triệu công dân của Jordan là người Palestine, nhiều người trong số họ không coi mình là những thần dân trung thành của nhà cai trị Flashemite hiện tại, vua Abdullah. Thêm vào vấn đề này, một triệu dân tị nạn Iraq và Syria mà Jordan đã thu nhận chính là nhóm dân cư đang đặt ra một tình trạng căng thẳng rất lớn đối với các nguồn lực cực kỳ hạn chế của nước này. Những thay đổi như vậy đối với nhân khẩu học của một quốc gia có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng, và không nơi nào điều đó xảy ra nhiều hơn ở Lebanon. Cho đến thế kỷ 20, người Ả-rập trong khu vực đã coi dải đất giữa vùng núi non và biển cả của Lebanon chỉ đơn thuần là một tỉnh của Syria. Người Pháp, kẻ vớ được nó vào tay từ sau Thế chiến I, lại nhìn sự việc theo cách khác.

 

Pháp từ lâu đã liên minh với những dân Kitô giáo Ả-rập trong vùng, và đã trả ơn bằng cách tạo ra một đất nước cho họ ở một nơi mà họ trở thành nhóm dân cư áp đảo trong những năm 1920. Vì không nghĩ được tên gọi rõ ràng nào khác cho đất nước này, người Pháp gọi nó theo tên của vùng núi non gần đấy, và Lebanon đã ra đời như vậy. Thực thể huyễn tưởng địa lý này tổn tại cho đến cuối những năm 1950. Vào lúc đó, tỉ lệ sinh đẻ trong cộng đồng người Hồi giáo Shia và Sunni tại Lebanon ngày càng tăng cao so với tỉ lệ sinh đẻ của người Kitô, trong khi dân số hồi giáo tăng vọt bởi những người Palestine chạy trốn cuộc chiến tranh Ả-rập-Israel năm 1248 giữa hai nước láng giềng Israel/Palestine. Chỉ có một cuộc điều tra dân số chính thức duy nhất tại Lebanon (năm 1932), bởi vì nhân khẩu học là một vấn đề nhạy cảm và hệ thống chính trị phần nào được căn cứ trên quy mô dân số.

 

Đã có nhiều cuộc xung đột vũ trang giữa các nhóm tôn giáo khác nhau trong khu vực và cuộc chiến mà một số sử gia gọi là cuộc Nội chiến Lebanon lần thứ nhất nổ ra vào năm 1958 giữa dân Maronite theo Kitô giáo và người Hồi giáo, mà vào lúc đó có lẽ nhỉnh hơn dân Kitô giáo về số lượng. Hiện nay nhóm Hồi giáo rõ ràng chiếm đa số, nhưng vẫn không có số liệu chính thức, và các nghiên cứu học thuật trích dẫn những con số luôn gây tranh cãi gay gắt.

 

Một số khu vực của thủ đô Beirut chỉ có dân Hồi giáo Shia, cũng như đa phần phía nam đất nước. Đây là nơi mà nhóm Shia Hezbollah (được hậu thuẫn bởi lran, đất nước đại đa số là theo giáo phái Shia) chiếm ưu thế. Một thành trì khác của dân Shia là Thung lũng Bekaa, nơi nhóm Hezbollah sử dụng làm điểm tập kết cho các cuộc tập kích đánh phá của họ vào Syria để hỗ trợ lực lượng chính phủ ở đó. Các thị trấn khác là nơi phái Hồi giáo Sunni áp đảo. Ví dụ Tripoli, ở phía bắc, được cho là 80% Sunni, nhưng cũng có một thiểu số Alawite với số lượng đáng kể, và trước tình hình có xuất hiện những căng thẳng giữa Sunni-Alawite trong, đất nước Syria kế bên, điều này đã dẫn đến những vụ xung đột vũ trang lẻ tẻ.

 

Lebanon dường như là một nhà nước thống nhất nếu quan sát trên bản đồ. Nhưng chỉ vài phút sau khi đến sân bay Beirut người ta có thể khám phá ra điều đó khác xa so với sự thật. Từ sân bay đi xe vào trung tâm, bạn sẽ đi qua những vùng ngoại ô phía nam chỉ toàn là dân Shia, được giữ gìn trật tự phần nào nhờ dân quân Hezbollah, lực lượng chiến đấu có lẽ là hiệu quả nhất trong cả nước. Quân đội Lebanon chỉ tồn tại trên giấy tờ, nhưng trong trường hợp xảy ra một cuộc nội chiến khác như giai đoạn 1975-1990, nó sẽ tan rã, vì binh lính trong hầu hết các đơn vị sẽ trở về thị trấn quê hương của họ và tham gia vào dân quân địa phương.

 

Đó phần nào là những gì đã xảy ra với lực lượng vũ trang Syria khi cuộc nội chiến đã thực sự diễn ra cho đến cuối năm 2011.

 

Syria là một quốc gia khác cũng đa tín ngưỡng, đa giáo phái, đa sắc tộc cũng tan nát ngay từ lần đầu tiên được thử thách. Cũng như toàn bộ khu vực này, đất nước có đa số là người Hồi giáo Sunni, chiếm khoảng 70%, nhưng có những cộng đồng thiểu số đáng kể theo các tín ngưỡng khác. Cho đến năm 2011, nhiều cộng đồng vẫn sống cạnh nhau trong các thị trấn, các thành phố và nông thôn, nhưng vẫn có những khu vực riêng biệt trong đó một nhóm cụ thể chiếm ưu thế. Như ở Iraq, người dân địa phương sẽ luôn nói với bạn, “Chúng tôi là một dân tộc, không có sự phân chia giữa chúng tôi”. Tuy nhiên, ở Iraq, tên tuổi, nơi sinh hoặc nơi cư trú thường có nghĩa là xuất thân của bạn có thể xác định dễ dàng, và ở Iraq, không mất nhiều công sức để chia rẽ một dân tộc thành nhiều phe phái.

 

Khi người Pháp cai trị vùng đất này, họ noi theo tấm gương của người Anh: chia để trị. Vào thời điểm đó, người Alawite còn được gọi là Nusayri. Nhiều tín đồ Sunni không coi họ là Hồi giáo, và sự thù địch nhắm vào họ dữ dội đến mức họ tự đổi tên giáo phái thành Alawite (có nghĩa “những tông đồ của Ali”) để tăng cường chứng tích Hỏi giáo của mình. Họ là dân vùng cao lạc hậu, ở dưới đáy xã hội Syria. Người Pháp lấy họ vào lực lượng cảnh sát và quân đội, từ đó trong nhiều năm họ đã tự dựng mình thành một thế lực lớn trong dải đất này.

 

Về cơ bản, ai cũng nhận thức được sức ép, khi mà các nhà lãnh đạo xuất thân từ một nhóm dân cư thiểu số cai trị nhóm đa số. Gia tộc Assad, nơi Tổng thống Bashar al-Assad xuất thân, là người Alawite, một nhóm người chiếm xấp xỉ 12% dân số. Gia tộc này đã cai trị đất nước kể từ Hafez, cha của Bashar, đoạt quyền trong một cuộc đảo chính vào năm 1970. Năm 1982, Hafez nghiền nát một cuộc nổi dậy của Hội Huynh Đệ Hồi Giáo Sunni ở Hama, giết có thể có lẽ đến ba mươi ngàn người trong vòng vài ngày. Hội Huynh đệ không bao giờ tha thứ hay quên được điều này, và khi cuộc nổi dậy trên toàn quốc bắt đầu vào năm 2011, mối thù phải được thanh toán. Trong một số khía cạnh, cuộc nội chiến xảy ra sau đó đơn thuần là tập hai của bộ phim Hama.

 

Hình dạng và cấu tạo sau cùng của Syria hiện đang trong vòng nghi vấn, nhưng kể từ khi người Nga can thiệp vào cuối năm 2015, khả năng bị đánh bại của chế độ đã giảm xuống. Chính phủ nắm giữ phần cốt lõi của đất nước, đặc biệt là các khu vực đô thị, trong khi các nhóm nổi dậy và IS hiện đang ở thế bất lợi. Các lực lượng người Kurd đã phác ra được vùng lãnh thổ họ sẽ kiểm soát, nhưng điều này đã buộc quân đội Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào, họ là những kẻ quyết tâm ngăn chặn một nhà nước Kurd trỗi dậy từ đống đổ nát.

 

Trong tương lai gần, định mệnh của Syria dường như phải bị cai trị như một số những thái ấp với nhiều lãnh chúa khác nhau nắm quyền kiểm soát. Vào thời điểm viết cuốn sách này, Tổng thống Assad là người có - thế lực nhất trong số các lãnh chúa đó. Cuộc nội chiến gần đây nhất của Lebanon kéo dài trong mười lăm năm, và ở nhiều điểm, đất nước này vẫn đang tiến hành một cách nguy hiểm đến một cuộc chiến tranh khác. Syria cũng có thể có số phận tương tự.

 

Giống như Lebanon, Syria cũng đã trở thành một nơi bị các cường quốc bên ngoài sử dụng để đạt được mục tiêu của họ. Nga, Iran và phái Hezbollah ở Lebanon ủng hộ các lực lượng chính phủ Syria. Các nước Ả-rập ủng hộ phe đối lập, nhưng các quốc gia khác nhau hỗ trợ các nhóm đối lập khác nhau: ví dụ cả người Saudi và Oatari đều đang tranh giành ảnh hưởng, nhưng mỗi nước lại hậu thuẫn cho một đại biểu khác nhau để đạt được điều đó.

 

Sẽ cần có kỹ năng, lòng can đảm và một yếu tố thường thiếu vắng - sự thỏa hiệp - để giữ cho nhiều trong số những vùng đất này kết nối lại cùng nhau như một không gian duy nhất có thể quản lý được. Đặc biệt khi các phần tử thánh chiến (jihadist) Sunni đang cố chia rẽ các vùng này để mở rộng “vương quốc Hồi giáo (caliphate)“ của chúng.

 

Các nhóm như Al-Qaeda và gần đây là Nhà nước Hồi giáo (IS) đã nhận được sự ủng hộ cho chúng một phần vì nỗi sỉ nhục mà chủ nghĩa thực dân gây ra và sau đó là vì thất bại của chủ nghĩa dân tộc liên Ả-rập - và trong một chừng mực nào đó, của quốc gia dân tộc Ả-rập. Các nhà lãnh đạo Ả-rập đã không thể đem lại sự thịnh vượng hay tự do, và lời kêu gọi mê hoặc lòng người của Hồi giáo, vốn hứa hẹn giải quyết mọi vấn đề, đã tỏ ra hấp dẫn với nhiều người trong một vùng đất nổi bật bởi sự pha trộn độc hại giữa lòng mộ đạo, thất nghiệp và đàn áp. Người Hồi giáo hoài niệm về thời kỳ hoàng kim khi Hồi giáo còn cai trị cả một đế chế và ở vị trí dẫn đầu về kỹ nghệ, nghệ thuật, y học và chính quyền. Họ đã giúp đưa ra ánh sáng những mối nghi ngờ cổ xưa về “kẻ lạ” trên khắp Trung Đông.

 

Nhà nước hồi giáo (IS) phát triển từ nhóm mệnh vào cuối những năm 2000, trên danh nghĩa được chỉ đạo bởi những tàn dư của nhóm lãnh đạo Al-Qaeda. Vào thời điểm cuộc nội chiến Syria bùng phát toàn diện, nhóm này đã tách khỏi Al-Qaeda và tự đổi tên. Ban đầu nhóm được thế giới bên ngoài biết đến dưới tên gọi ISIL (“Nhà nước Hồi giáo lraq và Tây Á ” - “Islamic State In the Levant”) nhưng vì “Tây Á” trong tiếng Ả-rập là AI Sham, dần dần nó trở thành ISIS. Từ mùa hè năm 2014, nhóm này đã bắt đầu tự gọi mình là Nhà nước Hồi giáo (IS - Islamic State), sau khi công bố một thực thể như vậy ở nhiều vùng lớn thuộc lraq và Syria.

 

IS nhanh chóng trở thành nhóm thánh chiến “tiên phong”, thu hút hàng ngàn tín đồ Hồi giáo nước ngoài về dưới ngọn cờ của mình, một phần do chủ nghĩa lãng mạn sùng đạo và một phần vì sự tàn bạo của nó. Tuy nhiên, điểm thu hút chính của IS là thành công của nó trong việc tạo ra một vương quốc Hồi giáo “caliphate”; ở nơi mà Al-Qaeda giết người và chiếm các bản tin thời sự nóng hổi thì IS giết người và chiếm lãnh thổ.

 

IS cũng chiếm giữ được một lĩnh vực ngày càng quan trọng trong thời đại Internet: không gian vật lý. Nó được xây dựng dựa trên hoạt động tiên phong của Al-Qaeda trong truyền thông mạng xã hội và đạt tới tầm cao mới về bất kỳ chính phủ nào về mức độ tin nhắn tạo dư luận bằng cách sử dụng các phần tử thánh chiến được nuôi dưỡng trong môi trường đôi lúc đầy tác hại của Internet và những ám ảnh bạo lực và tình dục của nó. Họ là Thế hệ Chiến binh Jihad Đầu lừa và đang dẫn đầu một trò chơi chết người.

 

Đến mùa hè năm 2015, nhiều người Ả-rập trên khắp Trung Đông, bao gồm hầu hết các phương tiện truyền thông khu vực, đã gọi IS bằng một cái tên khác, một cái tên tóm gọn cảm giác ghê tởm của những người dân thường đối với tổ chức này - DAESH.

 

Nó là một từ viết tắt hình thành từ tên gọi trước đây của nhóm trong tiếng Ả-rập, Dawlat al Islamiya ƒ al lraq wa al Shams, nhưng lý do người ta có xu hướng sử dụng tên này là vì các thành viên IS ghét nó. Nó phát âm tương tự như động từ dzes (kẻ lừa lọc và gieo rắc sự bất đồng); nó hợp vần với những từ tiêu cực như ƒahish (kẻ mang tội lỗi); và nhất là nó dành cho tất cả những ai khinh ghét tổ chức của chi phái Hồi giáo này, nó có vần điệu và âm thanh giống như Sahesh, có nghĩa là “con la ngu xuẩn“”. Điều này còn tệ hơn cả việc bị gọi là con lừa, vì trong văn hóa Ả-rập, đây là một sự xúc phạm khá nghiêm trọng, vừa có tính sỉ nhục vừa đồng thời làm giảm khả năng gieo rắc nỗi sợ hãi của tổ chức này.

 

Vào năm 2015, cuộc chiến đã hoành hành tới lui qua nhiều vùng đất của lraq với việc IS để mất thị trấn Tikrit, nhưng chiếm được Ramadi, nơi chính phủ sau đó phải chiến đấu để giành lại. Trong cuộc chiến giành lại Tikrit, không lực Hoa Kỳ đột nhiên thấy mình rơi vào một vị thế kỳ quặc, phải thực hiện các nhiệm vụ trinh sát và các cuộc không kích có giới hạn để hỗ trợ cho các chỉ huy của Vệ binh Cộng hòa Iran, những người được phái tới để giám sát cuộc tấn công của người lraq vào thành phố này. IS muốn có Tikrit, một phần để ngăn chặn chính phủ Iraq đang cố chiếm lại Mosul ở phía bắc, nhưng Ramadi với họ quan trọng hơn nhiều. Ramadi nằm trong tỉnh Anbar, một vùng của lraq nơi phái Sunni áp đảo và có các tuyến đường liên kết với biên giới Syria. Việc chiếm giữ lãnh thổ này củng cố cho tuyên bố là một “nhà nước” của họ.

 

Tháng Tám năm 2015 đánh dấu một năm đầu tiên của các vụ ném bom do Hoa Kỳ dẫn đầu chống lại IS ở cả lraq và Syria. Đã có hàng ngàn cuộc không kích với nhiều máy bay Hoa Kỳ bay từ tàu sân bay USS George H. W. Bush và USS Carl Vinson trong vùng Vịnh, và những máy bay khác từ Kuwait và một căn cứ tại UAE, chiến đấu cơ F-22 Raptor Stealth cũng được đưa vào cuộc chiến trong năm 2015, tấn công các cơ sở hạ tầng dầu khí của IS. Các phi công Hoa Kỳ, những người đảm trách phần lớn các phi vụ, lâm vào tình huống không có đơn vị nào của Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ đi trước làm điều phối không lưu cho các cuộc oanh tạc. Vì các mục tiêu thường nằm trong các khu vực đô thị, “luật tham chiến” đã buộc nhiều máy bay phải quay trở lại căn cứ mà không được khai hỏa.

 

Kể từ cuối mùa hè năm 2015, IS đã đều đặn mất dần lãnh thổ. Nhưng tổn thất đáng kể bao gồm thị trấn Kobani của Syria, bị chiến binh Kurd chiếm, và vào tháng Một năm 2016, thành phố lớn Ramadi của lraq đã bị quân đội lraq tái chiếm. Đồng thời, IS chịu áp lực rất lớn từ việc gia tăng các cuộc không kích.

 

Ngay cả Nga cũng đã tham gia nhiều hơn, tấn công các mục tiêu thuộc cả lực lượng ly khai là Quân đội Syria Tự do (FSA) và các mục tiêu của IS tại Syria, sau khi IS bị cáo buộc tấn công một trong những máy bay chở khách tại Ai Cập. Pháp trả đũa các cuộc tấn công khủng bố ở Paris vào tháng Mười một năm 2015 bằng các cuộc không kích lớn vào IS, và sau đó yêu cầu Anh giúp sức. Nghị viện Anh đã bỏ phiếu việc mở rộng các cuộc không kích tại Iraq bao gồm cả Syria.

 

Kết quả đã cho thấy vương quốc Hồi giáo của IS bị thu nhỏ về kích thước, cũng như một số lãnh đạo và nhiều chiến binh bị tiêu diệt. Việc để mất Mosul, do quân đội lraq tái chiếm vào năm 2017, là một bước thụt lùi lớn đối với IS cả về mặt quân sự và tâm lý: chính tại Giáo đường Hồi giáo Vĩ đại trong thành phố này, vương quốc Hồi giáo “Caliphate“ đã được tuyên lập ba năm về trước. Dù vậy, điều này không nhất thiết là sự kết thúc của IS. Đến năm 2017, hàng trăm chiến binh đã tới Libya để thiết lập một căn cứ khác, và nhiều chiến binh nước ngoài không phải người Ả-rập cố gắng trở về quê hương của mình ở châu Âu và các quốc gia Trung Á, hệ quả là tất cả những nơi này chắc chắn sẽ bị tiêm nhiễm chủ nghĩa Hồi giáo bạo lực trong những năm tới.

 

Tuy nhiên, mặt trận quân sự cốt lõi vẫn là ở Trung Đông, bằng chứng là việc Nga, Anh, Hoa Kỳ, Pháp và những nước khác hiện đã tham gia khá sâu, hàng ngàn phi vụ máy bay không người lái đã được thực hiện, một số phi vụ xuất phát từ lục địa Hoa Kỳ. Máy bay không người lái là một ví dụ hiện đại rõ ràng về việc công nghệ có thể khắc phục một số hạn chế địa lý nhưng đồng thời chúng cũng giúp nêu bật tầm quan trọng của địa lý. Hoa Kỳ có ngày càng nhiều phi đội máy bay không người lái tại ít nhất mười căn cứ trên khắp thế giới. Điều này cho phép một người ngồi trong văn phòng gắn máy điều hòa tại Nevada có thể điều khiển máy bay đi tới mục tiêu, hoặc chuyển giao quyền kiểm soát cho một đặc vụ ở gần mục tiêu. Nhưng nó cũng có nghĩa là Hoa Kỳ cần giữ mối quan hệ tốt đẹp với bất kỳ quốc gia nào họ được phép đặt căn cứ cho phi đội không người lái trong khu vực. Ví dụ, tín hiệu được gửi từ Nevada có thể cần phải đi qua đường cáp ngầm dưới biển đến Đức và sau đó được gửi đến một vệ tinh thuộc về nước thứ ba đã bán băng thông cho Lầu Năm Góc. Đây là một lời nhắc nhở về bản đồ mang tính khái niệm của quyền lực Hoa Kỳ, một điều cần thiết phải biết để hiểu cặn kẽ địa chính trị ngày nay.

 

Những cuộc oanh kích bằng máy bay không người lái cũng phải tuân thủ luật lệ tham chiến, nhưng chúng thường được sử dụng để tiêu diệt các mục tiêu đơn lẻ. Chúng đã đóng góp rất lớn vào việc tái chiếm vài ngàn dặm vuông lãnh thổ của lraq từ tay IS trong năm 2015-2016, ngay cho dù IS vẫn còn kiểm soát những khoảng không rộng lớn của đất nước trong khu vực nơi phái Sunni thống trị.

 

Những chiến binh Hồi giáo Sunni từ khắp nơi trên thế giới, bị thu hút như những con bướm đêm bởi nguồn ánh sáng một tỷ pixel, đã tận dụng hoàn cảnh thuận lợi của thế chia ba giữa người Kurd, phái Sunni và phái Shia ở lraq. Họ đưa ra lời hứa hẹn bá đạo với người Ả-rập Sunni về một viễn cảnh vừa khôi phục vị trí “chính đáng” cho phái Sunni với tư cách là lực lượng thống trị trong khu vực, vừa tái thiết lập vương quốc caliphate, mà trong đó tất cả những tín đồ chân chính theo phiên bản của họ (tức Hồi giáo Sunni) sẽ sống dưới sự cai quản của duy nhất một nhà cai trị.

 

Tuy nhiên, chính sự cuồng tín trong đức tin và cách thực hành đức tin của họ cho thấy lý do tại sao họ không thể đạt được những ảo mộng hão huyền ấy.

 

Thứ nhất, sẽ chỉ có một số bộ tộc Sunni tại lraq hỗ trợ cho mục đích thánh chiến, và thậm chí cũng chỉ nhằm đạt được mục tiêu của riêng họ - một mục tiêu không bao gồm việc quay trở lại thế kỷ 6. Một khi những bộ tộc này có được những gì họ muốn, họ sẽ quay lưng lại với các phần tử thánh chiến, đặc biệt là những người ngoài. Thứ hai, các phần tử thánh chiến đã chứng tỏ rằng họ không có lòng nhân từ đối với bất cứ ai chống đối họ và việc không theo đức tin Sunni cũng giống như một bản án tử hình. Vì vậy, tất cả những tín đồ Hồi giáo không theo phái Sunni và tất cả các nhóm thiểu số khác tại Iraq như dân Kitô giáo, dân Chaldea, Yazidi và những nhóm khác, cũng như hàng chục quốc gia phương Tây và Hồi giáo, đều chống lại họ.

 

Nhóm dân Sunni ở Iraq không thuộc phe thánh chiến đang ở trong một tình thế khó khăn. Trong trường hợp Iraq bị chia cắt hoặc thành lập liên bang hợp pháp, họ đều bị mắc kẹt ở giữa, bị dải cát bao vây trong một khu vực được gọi là Tam giác Sunni, với ba góc được định vị đại khái ở phía đông Baghdad, phía tây Ramadi và phía bắc Tikrit. Người Sunni sống ở đây thường có nhiều điểm chung với các bộ lạc họ hàng của mình ở Syria hơn là dân Kurd ở phía Bắc hoặc dân Shia ở phía nam.

 

Bên trong tam giác này không có đủ sự đa dạng về kinh tế để duy trì sự tồn tại của một thực thể Sunni. Lịch sử đã trao các mỏ dầu cho “lraq”, nhưng sự phân chia de facto (trên thực tế) của đất nước lại có nghĩa là dầu hầu hết nằm ở các khu vực người Kurd và người Shia; và nếu không có một Iraq hùng mạnh, thống nhất, thì lợi nhuận từ dầu sẽ chảy trở lại nơi dầu được phát hiện. Người Sunni không thể kiểm soát được các vùng đất của người Kurd, các thành phố phía nam Baghdad như Najaf và Karbala có dân số Shia áp đảo, và các cảng Basra và Umm Qasr nằm cách xa lãnh thổ Sunni. Thế lưỡng nan này khiến cho người Sunni phải chiến đấu để giành được một phần bình đẳng trong một đất nước mà họ từng cai trị, đôi khi đùa giỡn với ý tưởng ly khai, nhưng họ biết rằng tương lai của họ có lẽ sẽ không có nhiều thứ để mà tự cai trị.

 

Trong trường hợp phân ly, người Shia có vị trí đắc địa nhất để tận dụng lợi thế. Khu vực họ chiếm ưu thế có mỏ dâu, 35 dặm đường bờ biển, thủy lộ Shatt al-Arab, bến cảng, khả năng tiếp cận với thế giới bên ngoài và ngay kế bên là lran - một đồng minh về tôn giáo, kinh tế và quân sự.

 

Ảo tưởng của những phần tử thánh chiến là Salafi Islam sẽ là tôn giáo thống trị toàn cầu. Trong những khoảnh khắc tỉnh táo, nhưng vẫn điên cuồng, họ hoạch định và chiến đấu cho một mục tiêu hạn chế hơn - một vương quốc “caliphate” trải khắp Trung Đông. Một trong những tiếng hô lâm trận của các phần tử thánh chiến là “Từ Mosul đến Jerusalem!”, nghĩa là họ hy vọng sẽ kiểm soát khu vực từ Mosul thuộc Iraq cho đến Beirut thuộc Lebanon, Amman thuộc Jordan và Jerusalem thuộc Israel. Tuy nhiên, kích thước địa lý thực tế của vương quốc “caliphate“ của IS bị giới hạn bởi năng lực của nó.

 

Nói vậy không phải là đánh giá thấp vấn đề hoặc quy mô của sự kiện có thể được xem là phiên bản Ả-rập của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm ở châu Âu (1618-1648). Nó không chỉ là vấn đề của Trung Đông. Nhiều người trong số những phần tử thánh chiến quốc tế sống sót sẽ trở về quê nhà ở châu Âu, Bắc Mỹ, Indonesia, vùng Caucasus Và Bangladesh, những nơi họ không có vẻ sẽ định cư để sống cuộc đời yên tĩnh. Cơ quan tình báo ở London tin rằng số người Anh theo Hồi giáo chiến đấu tại Trung Đông cho các nhóm thánh chiến lớn hơn rất nhiều so với số người phục vụ trong quân đội Anh ở đó. Các hoạt động cực đoan được thực hiện bởi những người Hồi giáo đã bắt đầu vài thập niên trước khi các chương trình giải cực đoan hiện nay được tiến hành ở các nước châu Âu. Hầu hết các nước trong khu vực đều phải đối mặt với phiên bản riêng của họ trong cuộc đấu tranh mang tâm thế hệ này ở mức độ cao hơn hoặc thấp hơn. Ví dụ, Ả-rập Saudi đã bắt nhiều chi bộ Al-Qaeda trong thập niên qua, nhưng chủ yếu theo cách bắt bớ riêng rẽ, nhưng hiện nay Ả-rập Saudi đang phải đối mặt với những thách thức mới từ thế hệ các phần tử thánh chiến tiếp theo. Nước này còn gặp một vấn đề khác ở phía nam, trên biên giới với Yemen, vùng đất cũng bị tàn phá bởi bạo lực, các phong trào ly khai và một nhánh thánh chiến mạnh mẽ.

 

Phong trào Hồi giáo cũng sôi sục ở ]ordan, đặc biệt tại thị trấn Zarqa, nằm ở đông bắc về phía biên giới Syria và Iraq, nơi cư trú của một số trong mấy ngàn người ủng hộ các nhóm như Al-Qaeda và IS. Các nhà chức trách lo ngại một nhóm thánh chiến ở Iraq hoặc Syria đang ồ ạt băng qua đường biên giới mong manh hiện tại và tiến vào Jordan. Quân đội Jordan do Anh huấn luyện được coi là một trong những lực lượng mạnh nhất Trung Đông, nhưng nó có thể gặp khó khăn khi dân Hồi Giáo địa phương và các chiến binh thánh chiến nước ngoài áp dụng chiến tranh du kích trên đường phố. Nếu những người Palestine tại Jordan từ chối bảo vệ đất nước, sẽ không phải là thiếu thực tế khi tin rằng Jordan sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn mà chúng ta đang chứng kiến tại Syria. Đây chính là điều cuối cùng mà các nhà cai trị Hashemite mong muốn - và cũng là điều cuối cùng mà người Israel mong muốn.

 

Trận chiến vì tương lai của Trung Đông Ả-rập phần nào đã khiến cho cuộc đấu tranh giữa Israel và Ả-rập trở nên nổi bật. Việc chuyên chú vào vấn đề Israel/ Palestine đôi khi trở lại, nhưng sau cùng, tầm quan trọng của những sự kiện đang diễn tiến ở nơi khác đã khiến một số nhà quan sát hiểu rằng các vấn đề của khu vực không đặt nặng vào sự tồn tại của Israel. Đó là một luận điệu dối trá của những nhà độc tài Ả-rập nhằm làm cho dư luận bị lái khỏi sự tàn bạo của chính họ, và nó đã được nhiều người dân trong khu vực và những kẻ ngu xuẩn nhưng hữu ích của họ ở phương Tây tin theo. Tuy nhiên, thảm họa chung của Israel/Palestine vẫn tiếp diễn, và nỗi ám ảnh đối với mảnh đất nhỏ bé này mạnh mẽ đến mức một lần nữa nó có thể bị một số người coi là cuộc xung đột căng thẳng nhất trên thế giới.

 

Đế chế Ottoman đã từng coi khu vực phía tây sông Jordan đến bờ biển Địa Trung Hải như là một phần của vùng đất Syria. Họ gọi nó là Filistina. Sau Thế chiến I, dưới hiệu lực của Lệnh ủy quyền cho nước Anh (Bristish Mandate), vùng đất này trở thành quốc gia Palestine.

 

Người Do Thái đã sống trong phần đất từng được gọi là Israel trong hàng thiên niên kỷ, nhưng sự tàn phá của lịch sử đã khiến họ phân tán khắp toàn cầu. Israel đối với họ vẫn là “miền đất hứa” và Jerusalem nói riêng vẫn là thánh địa. Tuy nhiên, đến năm 1948, người Hồi giáo và Kitô giáo Ả-rập đã là nhóm cư dân chiếm đại đa số trong xứ sở này hơn một ngàn năm.

 

Trong thế kỷ 20, với sự ra đời của Lệnh ủy quyền Palestine (Mandate for Palestine), phong trào Do Thái kết nối những nhóm thiểu số đồng đạo của họ đã lớn mạnh, và bị thúc đẩy bởi những cuộc tàn sát người Do Thái ở Đông Âu, ngày càng nhiều người Do Thái bắt đầu định cư tại đây. Anh có vẻ thuận mắt đối với việc kiến tạo một “ quê hương Do Thái” tại Palestine, đã cho phép người Do Thái di chuyển đến đó và mua đất từ người Ả-rập. Sau Thế chiến II và nạn diệt chủng Holocaust của Hitler, người Do Thái tìm cách đến Palestine với số lượng thậm chí còn lớn hơn. Căng thẳng giữa cộng đồng Do Thái và phi Do Thái đạt đến điểm bùng nổ, và nhà chức trách Anh quá mệt mỏi đã bàn giao vấn đề này lại cho Liên Hợp Quốc vào năm 1948, Liên Hợp Quốc bỏ phiếu cho việc phân chia khu vực thành hai quốc gia. Người Do Thái đồng ý, người Ả-rập nói “không”. Kết quả là chiến tranh, dẫn tới làn sóng đầu tiên của dân tị nạn Palestine bỏ chạy khỏi khu vực và dân tị nạn Do Thái đổ vào từ khắp Trung Đông.

Cao nguyên Golan, Bờ Tây và dải Gaza vẫn là lãnh thổ bị tranh chấp sau cuộc Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.

 

Jordan chiếm khu bờ Tây, bao gồm cả Đông Jerusalem. Ai Cập chiếm dải Gaza, coi đó là một phần mở rộng của lãnh thổ nước này. Cả hai đều không có ý định cấp cho những người dân sống ở đó quyền công dân hoặc quốc tịch là người Palestine, cũng không có bất kỳ phong trào đủ lớn nào của người dân kêu gọi thành lập một nhà nước Palestine. Trong khi đó, Syria, coi toàn bộ khu vực này là một phần của Đại quốc Syria và cũng coi những người sống ở đó là công dân Syria.

 

Cho đến ngày nay, Ai Cập, Syria và Jordan vẫn ngờ vực về vị thế độc lập của Palestine, và nếu Israel biến mất và được thay thế bởi Palestine, có thể cả ba sẽ tuyên bố chủ quyền đối với các phần của lãnh thổ đó. Tuy nhiên, trong thế kỷ này, người Palestine có cảm thức mãnh liệt về họ như một quốc gia, và bất kỳ chế độ độc tài Ả-rập nào tìm cách ngoạm một miếng vào thể chế Palestine dưới bất kỳ hình thù hay kích thước nào đều sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ. Người Palestine ý thức rất rõ rằng hầu hết các quốc gia Ả-rập, mà một số nước trong đó là nơi họ đã di tản đến trong thế kỷ 20, đã từ chối cho họ quyền công dân; các quốc gia này nhấn mạnh rằng con và cháu của họ vẫn là “dân tị nạn”, và làm mọi cách để đảm bảo cho họ không thể hội nhập vào đất nước.

 

Trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày vào năm 1967, Israel giành quyền kiểm soát toàn bộ Jerusalem, Bờ Tây và dải Gaza. Năm 2005, họ rời Gaza, nhưng hàng trăm ngàn người định cư vẫn ở lại Bờ Tây.

 

Israel coi Jerusalem là thủ đô vĩnh cửu, không thể chia cắt của mình. Do Thái giáo nói rằng tảng đá nơi Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac chính là nơi đó, và nằm ngay trên nền Nơi Chí thánh (Holy of Holies), Đền thờ của vua Solomon. Đối với người Palestine, Jerusalem có một âm ba tôn giáo vang vọng khắp thế giới Hồi giáo: thành phố này được coi là chốn thiêng liêng thứ ba của Hồi giáo bởi vì Tiên tri Muhammad được cho là đã thăng thiên từ chính nơi tảng đá đó, tại địa điểm hiện là “Giáo đường Hồi giáo Xa xôi nhất” (AI Aqsa). Về mặt quân sự, thành phố chỉ có tầm quan trọng địa lý chiến lược vừa phải - nó không có ngành công nghiệp thực sự nào đáng kể, không có sông ngòi và sân bay - nhưng nó có ý nghĩa bao trùm về văn hóa và tôn giáo: nhu cầu hệ tư tưởng của địa điểm này quan trọng hơn vị trí của nó. Quyền kiểm soát và việc tiếp cận Jerusalem không phải là một vấn đề mà một giải pháp thỏa hiệp có thể dễ dàng đạt được dựa trên đó.

 

Trong tương quan so sánh, người Israel dễ dàng từ bỏ dải Gaza hơn (mặc dù điều này vẫn khó khăn). Tuy nhiên, liệu người dân sống tại đó có được hưởng lợi gì nhiều hay không bởi sự ra đi của Israel thì vẫn là điều còn phải tranh luận.

 

Dải Gaza ở trong tình trạng còn hơn cả tồi tệ giữa hai “thực thể” Palestine hiện tại. Dải đất này chỉ trải dài 25 dặm và rộng 7,5 dặm. Một triệu tám trăm ngàn người sống chen chúc trong không gian này. Thực tế, Gaza là một “thành quốc“, mặc dù là một thành quốc bị bần cùng hóa khủng khiếp. Do cuộc xung đột với Israel, công dân của nó bị quây ráp ba mặt bởi một hàng rào an ninh được tạo ra bởi Israel và Ai Cập, và bởi bờ biển phía tây. Người dân chỉ được phép xây dựng công trình trong phạm vi cách biên giới Israel một khoảng cách nhất định vì Israel đang cố gắng hạn chế khả năng tên lửa từ Gaza có thể phóng sâu vào đất Israel. Thập niên vừa qua đã chứng kiến một cuộc chạy đua vũ trang bất cân xứng ngày càng tiến triển, với việc các nhóm vũ trang tại Gaza tìm kiếm loại tên lửa có thể bắn xa hơn, còn Israel thì phát triển hệ thống phòng thủ chống tên lửa của mình.

 

Do mật độ đô thị của nó, Gaza là một trận địa chiến đấu tốt cho những người phòng vệ nó, nhưng là một con ác mộng đối với người dân thường, những người hầu như không có nơi trú ẩn khỏi bom đạn và không có mối liên hệ nào với vùng Bờ Tây, mặc dù khoảng cách giữa hai bên chỉ là hai lăm dặm tại điểm hẹp nhất. Cho đến khi một thỏa thuận hòa bình đạt được thì người dân Gaza chẳng biết đi đâu, và thật ít công việc để họ làm bên trong dải đất này.

 

Bờ Tây lớn gần gấp bảy lần diện tích Gaza nhưng là mảnh đất bị phong tỏa cả bốn mặt. Phần lớn Bờ Tây là một dãy núi chạy từ bắc xuống nam. Từ quan điểm quân sự, điều này cho phép bất cứ ai nắm giữ được vùng đất cao đó đều có thể kiểm soát đồng bằng duyên hải ở phía tây sườn núi, và cả thung lũng Rift Jordan ở phía đông của nó. Gạt sang một bên ý thức hệ của những di dân Do Thái, những người tuyên bố theo Kinh Thánh rằng họ có quyền được sinh sống trong khu vực mà họ gọi là Judea và Samaria, từ quan điểm quân sự, đối với Israel, một lực lượng phi-Israel không thể được phép kiểm soát những cao điểm này, vì từ đó vũ khí hạng nặng có thể bắn xuống đồng bằng duyên hải nơi 70% dân số Israel sinh sống. Đồng bằng này cũng bao gồm các hệ thống đường bộ quan trọng nhất của Israel, nhiều công ty công nghệ cao thành đạt, sân bay quốc tế và hầu hết các ngành công nghiệp nặng.

 

Đây là một lý do dẫn tới nhu cầu “an ninh” của phía Israel và việc nó một mực cho rằng, ngay cả khi có một nhà nước Palestine độc lập, nhà nước đó cũng không thể có quân đội với vũ khí hạng nặng đặt trên đỉnh núi, và Israel cũng phải duy trì quyền kiểm soát đường biên giới với Jordan. Do Israel quá nhỏ, nó không có “chiều sâu chiến lược” thực sự, không có nơi nào để rút lui nếu tuyến phòng thủ của nó bị chọc thủng, và vì vậy về mặt quân sự, Israel tập trung vào việc cố đảm bảo không ai có thể đến gần. Hơn nữa, khoảng cách từ biên giới Bờ Tây đến Tel Aviv chỉ có mười dặm ở đoạn hẹp nhất; từ sườn núi Bờ Tây, bất kỳ đội quân tương đối lớn nào cũng có thể cắt Israel ra làm đôi. Tương tự, trong trường hợp của Bờ Tây, Israel không để cho bất kỳ nhóm quân sự nào trở nên hùng mạnh có thể đe dọa đến sự tồn tại của nó.

 

Trong điều kiện hiện tại, Israel phải đối mặt với các - mối đe dọa an ninh và cuộc sống của người dân bởi các tấn công khủng bố và hỏa lực tên lửa từ các nước láng giềng kề sát, nhưng đó không phải là mối đe dọa đối với chính sự tồn tại của nước này. Ai Cập, về phía tây nam, không phải là mối đe dọa. Có một hiệp ước hòa bình hiện vẫn phù hợp với cả hai bên, và bán đảo Sinai bán phi quân sự đóng vai trò như một vùng đệm giữa hai nước. Về phía đông, bên kia biển Đỏ tại Aqaba thuộc Jordan, sa mạc cũng che chở cho Israel, hiệp ước hòa bình của họ với Amman cũng vậy. Về phía bắc có một mối đe dọa tiềm tàng từ Lebanon nhưng là tương đối nhỏ, dưới dạng những đợt tập kích qua biên giới và / hoặc pháo kích hạn chế. Tuy nhiên, nếu và khi nhóm Hezbollah ở Lebanon sử dụng tên lửa lớn hơn và có tầm xa hơn để bắn sâu vào Israel, thì động thái đáp trả sẽ trở nên dữ dội.

 

Mối đe dọa tiềm tàng nghiêm trọng hơn đến từ nước láng giềng lớn hơn của Lebanon, Syria. Trong lịch sử, Damascus muốn và cần con đường tiếp cận trực tiếp đến bờ biển. Syria vẫn luôn coi Lebanon là một phần của mình (và quả thực là vậy) và vẫn còn cay đắng về việc binh sĩ của họ bị buộc phải rút quân vào năm 2005. Nếu tuyến đường ra biển đó bị chặn, phương án thay thế là vượt qua cao nguyên Golan và chạy xuống vùng đồi núi xung quanh biển Galilee trên đường đến Địa Trung Hải. Nhưng cao nguyên Golan đã bị Israel chiếm giữ trong cuộc chiến tranh Sáu ngày vào năm 1967, và quân đội Syria sẽ phải thực hiện một cuộc công kích quy mô lớn để vượt qua được vùng đồng bằng ven biển dẫn đến các trung tâm dân cư lớn của Israel. Điều này không thể không tính đến tại một thời điểm nào đó trong tương lai, nhưng trong trung hạn, nó rất khó có thể xảy ra, và chừng nào cuộc nội chiến Syria còn tiếp tục, thì đó là điều bất khả.

 

Vấn đề còn lại là Iran - việc này cần được cân nhắc nghiêm túc hơn vì nó làm nảy sinh vấn đề về vũ khí hạt nhân.

Iran là một gã khổng lồ phi Ả-rập, đa số dân nói tiếng Farsi. Nó lớn hơn ba nước Pháp, Đức và Anh cộng lại, nhưng trong khi tổng số dân của ba nước đó lên đến 200 triệu thì Iran chỉ có 78 triệu người. Với không gian có thể định cư hạn chế, hầu hết dân cư sống ở vùng núi; các sa mạc lớn và đồng bằng muối trong nội địa lran không phải là nơi con người có thể sinh sống. Chỉ mỗi việc chạy xe qua các vùng này cũng đủ khiến người ta nhụt chí, và sinh sống ở đó là một cuộc tranh đấu ít người dám dấn thân.

 

Có hai dãy núi khổng lồ ở Iran: dãy Zagros và dãy Elburz. Dãy Zagros chạy từ phía bắc, xuống chín trăm dặm dọc theo biên giới giữa Iran với Thổ Nhĩ Kỳ và lraq, kết thúc ở gần eo biển Hormuz trong vùng Vịnh. Trong nửa phía nam của dãy núi có một đồng bằng về phía tây, nơi sông Shatt al-Arab chia cắt Iran và Iraq. Đây cũng là nơi có các mỏ dầu lớn của Iran, các mỏ khác nằm ở phía trung tâm đất nước. Tổng trữ lượng dầu trong các mỏ này được cho là lớn thứ ba trên thế giới. Dẫu vậy, Iran vẫn còn tương đối nghèo do quản lý yếu kém, tham nhũng, địa hình miền núi cản trở các kết nối giao thông và do các biện pháp trừng phạt kinh tế đã phần nào ngăn chặn một số lĩnh vực công nghiệp có thể hiện đại hóa.

 

Dãy Elburz cũng bắt đầu ở phía bắc, nhưng dọc theo biên giới với Armenia. Nó chạy dọc toàn bộ chiều dài của bờ phía nam biển Caspi và nối vào biên giới với Turkmenistan trước khi hạ dân độ cao khi đến Afghanistan. Đây là dãy núi bạn có thể nhìn thấy từ thú đô Tehran, cao chót vót phía trên thành phố về phía bắc. Elburz mang lại cảnh quan ngoạn mục, cũng như một bí mật được cất giữ còn hơn cả dự án hạt nhân của lran: điều kiện trượt tuyết hết sức tuyệt vời trong vài tháng mỗi năm.

 

Iran được che chở bởi địa lý như vậy, với núi non bao bọc ba mặt, đầm lầy và nước ở mặt thứ tư. Người Mông Cổ là lực lượng cuối cùng có thể tiến vào lãnh thổ này năm 1219-1221, và kể từ đó, những kẻ tấn công đã phải tự chuốc lấy tiêu vong khi cố vượt qua vùng núi non này. Vào thời điểm Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai năm 2003, ngay cả Hoa Kỳ, lực lượng thiện chiến nhất mà thế giới từng thấy, cũng không dám rẽ phải khi tiến vào lraq từ phía nam, họ tự biết rằng kể cả với hỏa lực áp đảo, lran cũng không phải một đất nước có thể xâm lược. Thực tế, thời đó quân đội Hoa Kỳ đã có một câu khẩu quyết: “Chúng ta chịu được sa mạc, nhưng núi thì không.”

 

Năm 1980, khi cuộc chiến tranh Iran-lraq nổ ra, người lraq đã sử dụng sáu sư đoàn để vượt qua sông Shatt al-Arab trong một chiến dịch nhằm thôn tính tỉnh Khuzestan của lran. Họ thậm chí không bao giờ vượt qua được vùng đồng bằng đầm lầy, đừng nói tới việc tiến đến chân dãy Zagros. Cuộc chiến sa lầy tám năm, lấy đi sinh mạng của ít nhất một triệu người.

 

Địa hình đồi núi của Iran có nghĩa là xây dựng một nền kinh tế liên kết hỗ tương là việc rất khó khăn, và rằng Iran có nhiều nhóm thiểu số, mỗi nhóm đều có những đặc trưng được xác định rõ nét. Ví dụ Khuzestan đa số là người Ả-rập, những vùng khác có người Kurd, người Azeri,người Turkmen và người Georgia, và những nhóm sắc tộc khác nữa. Tối đa 60% đất nước nói tiếng Farsi, ngôn ngữ của người Ba Tư chiếm đa số. Kết quả của sự đa dạng này là Iran có truyền thống tập trung quyền lực và sử dụng vũ lực, cùng một mạng lưới tình báo đáng sợ để duy trì sự ổn định nội bộ. Tehran biết rằng sẽ chẳng ai xâm chiếm lran, nhưng cũng có khả năng các thế lực thù địch có thể sử dụng các nhóm dân tộc thiểu số để cố gắng kích động sự bất đồng và do đó gây nguy hiểm cho cuộc cách mạng Hồi giáo của nước này.

 

lran cũng có một nền công nghiệp hạt nhân mà nhiều quốc gia, đặc biệt là Israel, tin rằng đang được sử: để chuẩn bị cho việc chế tạo vũ khí hạt nhân, làm gia tăng sự căng thắng trong khu vực. Người Israel cảm thấy bị đe dọa bởi triển vọng vũ khí hạt nhân của Iran. Đó không chỉ là việc Iran có tiềm năng cạnh tranh với kho vũ khí của Israel và quét sạch Israel chỉ bằng một quả bom hạt nhân: nếu Iran chế tạo được bom hạt nhân, thì các nước Ả-rập có lẽ sẽ kinh hoảng và cố để cũng có bom hạt nhân. Ví dụ, người Ả-rập Saudi sợ rằng các ayatollah (thủ lĩnh Hồi giáo của Iran) muốn thống trị vùng này, đưa tất cả dân Ả-rập Shia quy thuận dưới sự lãnh đạo của họ, và thậm chí còn có mưu đồ kiểm soát các thành phố thánh Mecca và Medina. Một nước Iran được trang bị vũ khí hạt nhân sẽ là một bá quyền trong khu vực, và để đối phó với mối nguy ấy, Saudi có lẽ sẽ cố mua vũ khí hạt nhân từ Pakistan (nước mà họ có quan hệ chặt chẽ). Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ có thể nối bước theo sau.

 

Điều này có nghĩa là mối đe dọa về một cuộc không kích của Israel vào các cơ sở hạt nhân của lran liên tục hiện diện, nhưng có nhiều nhân tố ngăn trở. Một là khoảng cách theo đường thẳng dài một ngàn dặm từ Israel đến Iran. Không quân Israel sẽ cần phải vượt qua hai biên giới có chủ quyền, của Jordan và lraq; và lraq chắc chắn sẽ thông báo trước với lran rằng cuộc tấn công sắp xảy ra. Yếu tố thứ hai là bất kì tuyến đường nào khác đều đòi hỏi khả năng tiếp nhiên liệu nằm ngoài lãnh thổ Israel, và (nếu bay tuyến phía bắc) cũngp hải bay qua những lãnh thổ có chủ quyền. Lý do cuối cùng là Iran nắm giữ thứ có thể là một con át chủ bài – khả năng phong tỏa eo biển Hormuz tại vùng vịnh mà mỗi ngày, tùy thuộc vào doanh số bán, khoảng 20% nhu cầu dầu của toàn thế giới đi qua. Tại điểm hẹp nhất của eo biển này, được coi là điểm có vai trò chiến lược nhất trên thế giới, chỉ rộng có hai mươi mốt dặm. Thế giới công nghiệp hóa lo sợ tác động của việc đóng cửa Hormuz có thể diễn ra suốt nhiều tháng ròng, đẩy giá cả tăng vọt theo đường xoắn ốc. Đây là một trong những lý do khiến nhiều nước gây áp lực không để cho Israel hành động.

 

Trong thập niên 2000, Iran lo sợ bị bao vây bởi Hoa Kỳ. Hải quân Hoa Kỳ đóng ở vùng Vịnh, trong khi lục quân Hoa Kỳ đóng tại Iraq và Afghanistan. Với sự cắt giảm quân sự ở cả hai quốc gia kể trên, nỗi lo sợ của người lran giờ đã phai nhạt, và Iran được để lại ở vị trí ưu thế với một tuyến liên hệ trực tiếp tới các đồng minh của mình tại Iraq, nơi phe Ả-rập Shia áp đảo. Phía nam lraq cũng là một cầu nối cho lran với các đồng minh Alawite của mình ở Damascus, và sau đó đến các đồng minh Ả-rập Shia núp bóng nhóm Hezbollah tại Lebanon trên bờ biển Địa Trung Hải.

 

Từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 4 trước Công nguyên, Đế chế Ba Tư (tiền thân của lran) trải dài một dải suốt từ Ai Cập đến Ấn Độ. Iran ngày nay không có một ý đồ đế quốc như vậy, nhưng nước này tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình, và chiều hướng rõ ràng là qua các vùng đất bằng phẳng về phía Tây - thế giới Ả-rập và các khi cuộc xâm lược của Hoa Kỳ chịu lùi bước chính phủ đa số là người Shia. Điều này đã đánh động Ả-rập Saudi nơi phái Sunni thống trị và góp phần tiếp lửa cho phiên bản Trung Đông của cuộc Chiến tranh Lạnh mà cốt lõi là mối quan hệ Saudi-lran. Ả-rập Saudi có thể lớn hơn Iran, có thể giàu hơn lran gấp nhiều lần nhờ có các ngành công nghiệp dầu khí phát triển tốt, nhưng dân số của nước này nhỏ hơn nhiều (28 triệu người Á-rập Saudi so với 78 triệu người lran), và về mặt quân sự, nó không tự tin vào khả năng đối phó với nước Ba Tư láng giềng của mình nếu cuộc chiến tranh lạnh này trở nên nóng bỏng và các lực lượng của hai bên đối đầu trực tiếp. Mỗi bên đều có tham vọng trở thành thế lực thống trị trong khu vực, và mỗi bên đều tự coi mình là người bảo vệ của phiên bản Hồi giáo tương ứng. Khi lraq còn nằm dưới gót giày của Saddam, đó là một vùng đệm vững mạnh chia tách Ả-rập Saudi và lran; khi vùng đệm đó biến mất, hai nước hiện nay đang để mắt canh chừng nhau từ hai bờ vùng Vịnh. Thỏa thuận do Hoa Kỳ lãnh đạo về các cơ sở hạt nhân của Iran, được ký kết vào mùa hè năm 2015, không thể trấn an các nước vùng Vịnh rằng mối đe dọa từ lran đối với họ đã giảm bớt, và cuộc khẩu chiến ngày càng gay gắt giữa Ả-rập Saudi với Iran vẫn tiếp diễn, bên cạnh một cuộc chiến đôi khi được ủy thác cho một bên khác chiến đấu, đáng chú ý nhất là tại Yemen.

 

Các phương tiện truyền thông phương Tây tập trung vào phản ứng của Israel đối với thỏa thuận kể trên, nhưng truyền thống Ả-rập trên toàn bộ khu vực hoàn toàn chống lại nó, một số tờ báo so sánh thỏa thuận này với Hiệp định Munich năm 1938. Một tờ báo hàng đầu của Saudi còn kêu gọi vương quốc này bắt đầu chế tạo bom hạt nhân để sẵn sàng cho thời điểm Iran cũng làm như vậy.

 

Đây là bối cảnh cho các sự kiện gây sốc vào đâu năm 2016, khi Ả-rập Saudi (một quốc gia có người Sunni chiếm đa số) hành quyết bốn mươi bảy tù nhân trong một ngày, trong đó có tộc trưởng lão thành nhất của phái Shia, Nimr al Nimr. Đây là một động thái có toan tính của hoàng gia đương quyền thuộc phái Sunni, để thể hiện cho thế giới, bao gồm cả Hoa Kỳ, rằng dù có thỏa thuận hạt nhân hay không, Saudi vẫn sẽ đối mặt với Iran. Các cuộc biểu tình nổ ra khắp thế giới Hồi giáo Shia, đại sứ quán Ả-rập Saudi tại Tehran lập tức bị đập phá và phóng hỏa, quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt, và bối cảnh đó được sắp đặt cho sự tiếp diễn của cuộc nội chiến Sunni/Shia ác liệt. Cuộc chiến này diễn ra theo một số chiều hướng và thậm chí các nhà nước Sunni cũng xung đột lẫn nhau về mặt ngoại giao. Năm 2017, Ả-rập Saudi, UAE (các Tiểu Vương quốc Ả-rập Thống nhất), Bahrain và Ai Cập đã chấm dứt quan hệ với Qatar, cáo buộc nước này hỗ trợ hoạt động khủng bố. Một cuộc phong tỏa kinh tế xảy ra sau đó, dẫn tới việc Qatar chấp nhận viện trợ bằng đường không từ Iran, quốc gia này nhanh chóng nhìn thấy một cơ hội để tiếp tục chia rẽ các quốc gia vùng Vịnh hơn nữa.

 

Phía tây của Iran là một quốc gia thuộc cả châu Âu và châu Á. Thổ Nhĩ Kỳ nằm trên biên giới của các vùng đất Ả-rập nhưng không thuộc Ả-rập, và mặc dù hầu hết diện tích đất đai rộng lớn của nó là một phần của khu vực Đại Trung Đông, nhưng nó cố gắng tránh xa những xung đột đang diễn ra ở đó.

 

Thổ Nhĩ Kỳ chưa bao giờ thực sự được các láng giềng phía bắc và tây bắc của mình công nhận là một phần của châu Âu. Nếu Thổ Nhĩ Kỳ thuộc về châu Âu, thì biên giới của châu Âu nằm ở phía xa của đồng bằng Anatolia rộng lớn, có nghĩa là châu Âu dừng lại ở biên giới Syria, lraq và lran. Đây là một khái niệm mà ít người chấp nhận. Nếu Thổ Nhĩ Kỳ không phải là một phần của châu Âu, thì nó ở đâu? Thành phố lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Istanbul, là Thành phố Văn hóa châu Âu năm 2010, Thổ tranh đua trong cuộc thi Eurovision Song và tham gia cúp bóng đá UEFA European Championship, nó đăng ký trở thành thành viên của Liên minh châu Âu

 

vào những năm 1970; vậy mà chưa tới 5% lãnh thổ của nó là ở châu Âu. Hầu hết các nhà địa lý đều coi vùng đất nhỏ của Thổ Nhĩ Kỳ nằm ở phía tây Bosphorus là thuộc châu Âu, và phần còn lại của đất nước, phía nam và đông nam Bosphorus, thuộc Trung Đông (theo nghĩa rộng nhất của địa danh này).

 

Đó là một lý do tại sao Thổ Nhĩ Kỳ chưa bao giờ được chấp nhận vào EU. Các yếu tố khác là hồ sơ nhân quyền của nước này, đặc biệt khi nhắc đến người Kurd, và nền kinh tế của Thổ. Dân số của Thổ Nhĩ Kỳ là 75 triệu và các nước châu Âu lo sợ rằng, do sự khác biệt về mức sống, việc Thổ trở thành thành viên EU sẽ dẫn đến một làn sóng lao động di cư ồ ạt. Có thể còn có một yếu tố nữa, mặc dù không được nói ra trong EU, Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia đa số là người Hồi giáo (98%). EU không phải là một tổ chức thế tục hay một tổ chức Kitô giáo, nhưng đã diễn ra một cuộc tranh luận gay go về “các giá trị”. Đối với mỗi lập luận chấp thuận Thố Nhĩ Kỳ vào EU lại có một lập luận chống lại, và trong thập niên qua, triển vọng cho Thổ Nhĩ Kỳ tham gia EU đã suy giảm. Điều này đã khiến Thổ phải suy nghĩ về những lựa chọn khác có thể có.

 

Hồi những năm 1920, có ít nhất một người đàn ông, mà với ông không hề có sự lựa chọn khác. Tên của ông là Mustafa Kemal và ông là vị tướng duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ sống sót sau Thế chiến I với danh tiếng nổi bật. Sau khi những thế lực chiến thắng chia cắt Thổ Nhĩ Kỳ, Mustafa Kemal trở thành tổng thống với một cương lĩnh chống đối các điều khoản của phe Đồng minh, nhưng đồng thời hiện đại hóa Thổ Nhĩ Kỳ và biến nó thành một phần của châu Âu. Các bộ luật phương Tây và bộ lịch Gregorian được ban hành và các thiết chế công của Hồi giáo bị cấm đoán. Mũ fez bị cấm, bảng chữ cái Latinh thay thế chữ cái Ả-rập, và Kemal thậm chí chấp nhận trao quyền bầu cử cho phụ nữ (đi trước Tây Ban Nha hai năm, và trước Pháp mười lăm năm). Năm 1934, khi người Thổ Nhĩ Kỳ bắt buộc phải mang tên họ (surname) vệ mặt pháp lý, Kemal được nhận cái tên “Ataturk” - “Cha già của người Thổ”. Ông qua đời vào năm 1938 nhưng các nhà lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ kế nghiệp vẫn tiếp tục nỗ lực để đưa Thổ Nhĩ Kỳ vào Tây Âu, và những ai không thấy mình đứng sau phía trong cuộc đảo chính quân sự đã quyết tâm hoàn tất di sản của Ataturk.

 

Tuy nhiên, vào cuối những năm 1980, sự phản đối liên tục của châu Âu và sự từ chối bướng bỉnh của nhiều thường dân Thổ Nhĩ Kỳ không muốn đất nước bớt chất tôn giáo đi đã dẫn đến kết quả là một thế hệ các chính trị gia bắt đầu nghĩ đến điều không thể tưởng tượng - rằng có lẽ Thổ Nhĩ Kỳ cần có một Kế hoạch B. Tổng thống Turgut Ozal, một người mộ đạo, nhậm chức vào năm 1989 và bắt đầu phong trào thay đổi. Ông khuyến khích người dân một lần nữa coi Thổ Nhĩ Kỳ là cầu nối đất liền lớn giữa châu Âu, châu Á và Trung Đông, và là một đất nước có thể thêm một lần trở thành một cường quốc lớn trong cả ba lục địa. Tổng thống đương nhiệm, Recep Tayyip Erdogan, cũng có những tham vọng tương tự, thậm chí có lẽ còn lớn hơn, nhưng phải đối mặt với những trở ngại tương tự để đạt được chúng. Những trở ngại đó một phần thuộc về địa lý.

 

Về mặt chính trị, các quốc gia Ả-rập vẫn nghi ngờ Erdogan muốn tái lập Đế chế Ottoman bằng con đường kinh tế, và họ phản đối những ràng buộc quá chặt chẽ. Người Iran nhận thấy Thổ Nhĩ Kỳ là đối thủ cạnh tranh về kinh tế và quân sự mạnh nhất nơi sân sau của họ. Các mối quan hệ, chưa bao giờ ấm áp, càng nguội lạnh hơn do họ đứng về hai phía đối lập nhau trong việc hỗ trợ cho các phe phái tham gia cuộc nội chiến Syria. Sự ủng hộ mạnh mẽ của Thổ Nhĩ Kỳ đối với chính phủ của Hội Anh em Hồi giáo ở Ai Cập là một chính sách phản tác dụng khi quân đội Ai Cập tổ chức cuộc đảo chính thứ hai và lên nắm quyền. Mối quan hệ giữa Cairo và Ankara hiện đang đóng băng.

 

Tệ hơn nữa vẫn là mối quan hệ giữa Ankara và Moscow. Người Thổ Nhĩ Kỳ và người Nga đã bất hòa suốt năm trăm năm, nhưng trong thế kỷ qua họ gần như đã học được cách chấp nhận chung sống mà không gây ra quá nhiều xích mích. Cuộc nội chiến Syria đã thay đổi điều đó, với việc Nga ủng hộ Tổng thống Assad và Thổ Nhĩ Kỳ nỗ lực hết sức để lật đổ chế độ Assad và thay thế bằng một chính phủ do Hồi giáo Sunni lãnh đạo. Mọi thứ đã dẫn đến thế đối đầu vào cuối năm 2015 sau khi Nga can thiệp vào Syria bằng quân sự. Thổ Nhĩ Kỳ bắn hạ một chiến đấu cơ phản lực SU24 của Nga, mà Thổ tuyên bố đã vi phạm không phận của mình. Một cuộc khẩu chiến gay gắt theo sau, thậm chí còn có mối họa mơ hồ rằng nó sẽ biến thành một màn đấu súng thực sự, nhưng cả hai bên chấp nhận dừng lại ở những lời đả kích và biện pháp phong tỏa kinh tế. Cuộc tranh cãi quyết liệt này không chỉ là về Syria và máy bay chiến đấu của Nga - mà còn về việc Thổ Nhĩ Kỳ và Nga tranh giành ảnh hưởng ở biển Đen, biển Caspi, và giữa các sắc dân Thổ tại các nước như Turkmenistan. Cả hai đều biết rằng khi Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục phát triển, nước này sẽ tìm cách đối đầu với Nga trong các quốc gia “stans” và không có ý định lùi bước trước các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và “danh dự”.

 

Tầng lớp tinh hoa của Thổ Nhĩ Kỳ đã học được rằng tìm cách ghi điểm trước thế giới Hồi giáo bằng cách gây chiến với Israel sẽ dẫn tới kết quả là Israel hợp tác với Cyprus và Hy Lạp để tạo ra một liên minh năng lượng ba bên nhằm khai thác các mỏ khí đốt ngoài khơi từng nước. Quan điểm mập mờ của chính phủ Ai Cập về Thổ Nhĩ Kỳ đang góp phần vào mối quan tâm của Cairo trong việc trở thành khách hàng lớn cho nguồn năng lượng mới này. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ, nước có thể được hưởng lợi từ nguồn năng lượng của Israel, vẫn phải phụ thuộc phần lớn vào kẻ thù cũ là nước Nga để đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình, trong khi đồng thời hợp tác với Nga để phát triển các đường ống mới cung cấp năng lượng cho các nước EU.

 

Hoa Kỳ lo lắng trước cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Israel, hai trong số các đồng minh của mình, đang cố gắng đưa họ trở lại với nhau. Hoa Kỳ muốn hai nước có mối quan hệ tốt đẹp hơn để củng cố vị trí của NATO ở khu vực phía đông Địa Trung Hải. Đối với NATO, Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia trọng yếu vì nước này kiểm soát lối ra vào biển Đen qua eo biển hẹp Bosporus. Nếu Thổ phong tỏa lối ra vào eo biển vốn chỉ rộng chưa đến một dặm ở khúc hẹp nhất, Hạm đội biển Đen của Nga không thể đột nhập vào Địa Trung Hải và sau đó đi ra Đại Tây Dương. Ngay cả đi qua Bosphorus bạn cũng chỉ đến được biển Marmara; bạn vẫn phải bẻ lái qua eo biển Dardanelles để đến biển Aegean trên đường tới Địa Trung Hải.

 

Với khối đất liền rộng lớn của mình, Thổ Nhĩ Kỳ thường không được coi là một cường quốc biển, nhưng nước này giáp giới với ba biển, và quyền kiểm soát các vùng biển này của nó khiến Thổ Nhĩ Kỳ luôn là một thế lực đáng phải lưu tâm. Nước này cũng là một câu nối thương mại và giao thông vận tải liên kết châu Âu với Trung Đông, với vùng Caucasus và ngược lên phía bắc đến các nước Trung Á mà nó chia sẻ lịch sử và các mối ràng buộc về sắc tộc ở một số vùng.

 

Thổ Nhĩ Kỳ quyết tâm đứng tại vị trí giao lộ của lịch sử kể cả khi giao thông qua đó đôi khi có thể nguy hiểm. Trang web của Bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ nhấn mạnh điều này trong phần “Tóm tắt chính sách đối ngoại”: “Địa lý Á Âu-Phi, mà Thổ Nhĩ Kỳ nằm ở tâm chấn, chính là một khu vực nơi những cơ hội và rủi ro tương tác lẫn nhau rất dữ đội.” Trang web này cũng nói: “Thổ Nhĩ Kỳ quyết tâm trở thành một thành viên đầy đủ của Liên minh châu Âu như một phần của nỗ lực hai thế kỷ qua nhằm đạt tới mức độ cao nhất của nền văn minh đương đại.

 

Điều đó dường như không có khả năng xảy ra trong ngắn hạn và trung hạn. Cho đến một vài năm trước Thổ Nhĩ Kỳ đã nêu tấm gương về cách thức mà một quốc gia Trung Đông, không kể Israel, có thể chấp nhận nền dân chủ. Tấm gương đó đã phải lãnh những chấn thương nặng nề gần đây với vấn đề người Kurd vẫn đang tiếp diễn, với những khó khăn khi đương đầu một số cộng đồng Kitô giáo nhỏ và sự hỗ trợ ngầm cho các nhóm Hồi giáo trong cuộc chiến chống lại chính phủ Syria. Cuộc đảo chính thất bại năm 2016 đã mở đường cho chính phủ Erdogan đẹp tan hết các phe đối lập. Hệ quả là hơn năm mươi ngàn người đã bị bắt và một trăm năm mươi ngàn người bị đuổi việc.

 

Những phát biểu của Tổng thống Erdogan về người Do Thái, về chủng tộc và bình đẳng giới, đi kèm với sự Hồi giáo hóa từng bước của Thổ Nhĩ Kỳ, cũng đã rung lên hồi chuông báo động. Tuy nhiên, so với đa số các quốc gia Ả-rập, Thổ Nhĩ Kỳ phát triển vượt xa hơn và cũng dễ nhận dạng hơn xét như một nền dân chủ. Erdogan có thể đang phá hỏng một số thành tựu của Ataturk, nhưng thế hệ con cháu của vị cha già dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ được sống tự do hơn bất cứ ai khác trong các quốc gia Ả-rập Trung Đông.

 

Bởi vì các quốc gia Ả-rập không được trải nghiệm bầu không khí cởi mở tương tự và phải chịu đựng chủ nghĩa thực dân, họ không sẵn sàng biến các cuộc nổi dậy Ả-rập (làn sóng các cuộc biểu tình bắt đầu vào năm 2010) thành một Cách mạng Mùa xuân Ả-rập thực sự. Thay vào đó, họ rơi vào bạo loạn và nội chiến không ngừng nghỉ.

 

Mùa xuân Ả-rập là một cái tên nhầm lẫn, do giới truyền thông chế ra; nó che mờ sự hiểu biết của chúng ta về những gì đang xảy ra. Quá nhiều phóng viên đổ xô đến phỏng vấn những con người trẻ tuổi theo chủ nghĩa tự do đứng quanh quảng trường thành phố, đeo những tấm bảng viết bằng tiếng Anh, và nhận lầm họ là tiếng nói thực sự của người dân và hướng đi của lịch sử. Một số nhà báo đã mắc lỗi tương tự trong cuộc “Cách mạng Xanh” của lran, mô tả những sinh viên trẻ tuổi ở phía bắc Tehran là “Tuổi trẻ của Iran”, do đó bỏ qua những thanh niên Iran khác đang tham gia dân quân của phe đối lập Basij và lực lượng Vệ binh Cách mạng.

 

Năm 1989, ở Đông Âu tổn tại một hình thức của chủ nghĩa toàn trị: chế độ cộng sản. Trong tâm trí đa số người dân, chỉ có một hướng để đi: hướng tới nền dân chủ, vốn đang phát triển mạnh ở phía bên kia Bức màn sắt. Đông và Tây chia sẻ một ký ức lịch sử về những thời kỳ của dân chủ và xã hội dân sự. Thế giới Ả-rập năm 2011 chẳng được hưởng thứ gì trong hai thứ đó và nhìn về nhiều hướng khác nhau. Đã và vẫn xuất hiện các chiều hướng dân chủ (democracy), dân chủ tự do (liberal democracy) (hai ý niệm dân chủ này khác nhau), chủ nghĩa dân tộc, sự sùng bái những nhà lãnh đạo tài giỏi và một chiều hướng mà nhiều người đã phải đối mặt ngay từ đầu - Hồi giáo trong các vỏ bọc khác nhau của nó, bao gồm cả chủ nghĩa Hồi giáo (cực đoan).

 

Tại Trung Đông, quyền lực thực sự phát xuất từ họng súng. Một số công dân tốt của Misrata tại Libya có thể mong muốn phát triển một đảng dân chủ tự do, số khác thậm chí có thể muốn vận động cho quyền đồng tính; nhưng sự lựa chọn của họ sẽ bị giới hạn nếu những thế lực tôn tại trên thực tế của địa phương bắn thẳng vào những người theo chủ nghĩa dân chủ tự do và những người đồng tính. Iraq là một trường hợp điển hình: một nên dân chủ chỉ trên danh nghĩa, xa lắc với tự do, và là nơi người ta bị giết như chuyện thường ngày chỉ vì có xu hướng đồng tính luyến ái.

 

Giai đoạn thứ hai của cuộc nổi dậy Ả-rập cũng đã khởi động đúng lúc. Đây là cuộc đấu tranh nội bộ phức tạp bên trong các xã hội nơi mà tín ngưỡng tôn giáo, đạo đức xã hội, những mối liên hệ bộ lạc và súng đạn hiện mạnh hơn nhiều so với các ý tưởng “phương Tây” về bình đẳng, tự do biểu đạt và quyền phổ thông đầu phiếu. Các quốc gia Ả-rập bị vây bọc bởi định kiến, lòng hận thù thực sự mà một người phương Tây bình thường hầu như không biết, đến mức người ấy sẽ có xu hướng không tin những điều như vậy ngay cả khi chúng có được bày ra trước mắt họ trên sách báo. Chúng ta nhận thức được vô vàn những định kiến của riêng mình, nhưng chúng ta thường nhắm mắt làm ngơ đối với những định kiến của người Trung Đông.

 

Sự biểu hiện thường ngày của lòng thù hận đối với người khác hết sức phổ biến trong thế giới Ả-rập đến mức nó hầu như không còn khơi dậy lời phê phán của ai khác ngoài nhóm thiểu số Tây học theo chủ nghĩa tự do trong khu vực, những người có quyền truy cập rất hạn chế vào nền tảng của phương tiện thông tin đại chúng. Những biếm họa bài Do Thái gợi nhớ về tờ báo tuyên truyền của Đức Quốc xã Der Sturmer vốn khá nổi tiếng. Hết tuần này đến tuần khác, hình ảnh những vị Imam cực đoan với những phát ngôn gây sốc được bố trí vào các chương trình truyền hình ở khung giờ vàng.

 

Những người phương Tây biện hộ cho loại hành vi này đôi khi bị trói chân trói tay vì sợ bị coi là một trong những kẻ “theo chủ nghĩa phương Đông“ (Orientalists) của Edward Said. Họ phản bội các giá trị tự do của mình bằng cách phủ nhận tính phổ quát của chúng. Những người khác, ngây thơ nói rằng những lời kích động giết chóc như vậy không phải là phổ biến và phải được xem xét trong bối cảnh của ngôn ngữ Ả-rập, thứ ngôn ngữ có thể dẫn người ta đến chỗ lộng ngôn không thực tế. Điều này thể hiện sự thiếu hiểu biết của họ về cuộc sống “đường phố Ả-rập”, vai trò của truyền thông Ả-rập chính thống và một thái độ không chịu hiểu rằng khi những con người đây hận thù phát ngôn điều gì đó, họ thực sự có ý như vậy.

 

Khi Hosni Mubarak bị hất khỏi chức vụ tổng thống Ai Cập, quả thực chính sức mạnh của dân chúng đã lật đổ ông ta, nhưng điều mà thế giới bên ngoài không nhìn thấy là quân đội đã chờ đợi nhiều năm để có cơ hội loại bỏ Mubarak và người con trai ông là Gamal, và chiến địa trên đường phố đã cung cấp tấm màn sân khấu mà họ cần. Chỉ đợi đến khi Hội Anh em Hồi giáo kêu gọi những người ủng hộ nó ra mặt, rằng che đậy thế là đủ rồi. Chỉ có ba thiết chế ở Ai Cập: Đảng Dân chủ Quốc gia của Mubarak, quân đội và Hội Huynh đệ Hồi giáo. Hai tổ chức thứ hai và thứ ba đã tiêu diệt tổ chức thứ nhất, sau đó Hội Huynh đệ Hồi giáo đã thắng trong cuộc bầu cử và bắt đầu biến Ai Cập thành một nhà nước Hồi giáo, để rồi phải trả giá bằng việc chính nó bị lật đổ bởi sức mạnh thực sự ở xứ này - quân đội.

 

Phe Hồi giáo vẫn là thế lực thứ hai, mặc dù hiện nay họ hoạt động ngầm. Khi các cuộc biểu tình chống Mubarak lên đến đỉnh cao, các cuộc tụ tập ở Cairo đã thu hút mấy trăm nghìn người. Sau sự sụp đổ của Mubarak, khi nhà thuyết giáo cực đoan của Hội Huynh đệ Hồi giáo Yusuf al-Qaradawi trở về sau những ngày lưu vong ở Qatar, ít nhất một triệu người đã chào đón ông, nhưng ít người trong giới truyền thông phương Tây gọi đây là “tiếng nói của dân”. Những người theo chủ nghĩa tự do đã chưa bao giờ có cơ hội. Hiện nay cũng không. Điều này không phải vì người dân trong vùng có tư tưởng cực đoan; mà bởi vì nếu bạn đói và sợ hãi, và bạn được chào mời hoặc bánh mì cộng với sự an toàn, hoặc khái niệm về dân chủ, thì sự lựa chọn sẽ chẳng có gì khó khăn cả.

 

Trong các xã hội nghèo đói với rất ít tổ chức chịu trách nhiệm, quyền lực sẽ nằm trong tay các băng nhóm được ngụy trang dưới cái vỏ “dân quân” và “đảng phái chính trị”. Trong khi họ tranh giành quyền lực, đôi khi được cổ vũ bởi những cảm tình viên phương Tây ngây thơ, thì rất nhiều người vô tội thiệt mạng. Điều này dường như sẽ xảy ra tại Libya, Syria, Yemen, lraq và có thể cả các nước khác trong nhiều năm tới. Người Mỹ muốn giảm bớt các hoạt động chính trị và quân sự trong khu vực này do nhu cầu nhập khẩu năng lượng của họ đã giảm; nếu họ rút đi, khi đó có thể Trung Quốc, và Ấn Độ ở một mức độ thấp hơn, sẽ tham gia theo tỉ lệ tương đương với sự quan tâm mà Hoa Kỳ đã mất đi. Người Trung Quốc vốn đã là những tay chơi lớn tại Ả-rập Saudi, Iraq và Iran. Kịch bản này diễn ra ở cấp độ toàn cầu và sẽ được quyết định trong những tháp ngà tại thủ đô của các cường quốc. Trên mặt đất, trò chơi này sẽ được chơi bằng trí tưởng tượng, sự thiếu thốn, niềm hy vọng và nhu cầu của người dân, và đặt cọc bằng sinh mạng của họ. Sykes-Picot đang tan vỡ; hàn gắn nó trở lại, kể cả dưới một hình dạng khác, sẽ là một công việc lâu đài và đẫm máu.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét