Tình Văn xé quạt. |
Hồi
78.
Họa
sĩ già ra bài từ Quỷ Hoạch;
Công
tử ngốc làm văn tế Phù Dung.
Hai sư cô dẫn bọn Phương Quan đi rồi,
Vương phu nhân liền sang bên Giả mẫu. Thấy Giả mẫu đương vui, nhân dịp thưa:
Bên nhà Bảo Ngọc có con a hoàn là Tình Văn, giờ đã lớn rồi, đã một năm nay nó cứ ốm luôn. Con xem nó bướng bỉnh, lại lười. Hôm nọ nó ốm nằm đến mười mấy ngày, mời thầy thuốc đến xem, họ bảo là bệnh lao, vì thế con đã cho nó về rồi. Sau này có khỏi cũng không nên cho vào, để nó ở nhà lấy chồng là hơn. Còn mấy đứa con gái học hát, con cũng cho nó về cả. Một là chúng nó đều biết diễn tuồng, quen miệng ăn nói bậy bạ, không biết cân nhắc, lỡ các cháu gái nghe thấy coi sao tiện? Hai là chúng nó đã biết hát xướng, nay cho về cũng là phải. Hơn nữa bọn a hoàn cũng nhiều, khi nào không đủ sai, sẽ chọn thêm mấy đứa khác, thì cũng thế thôi.
Giả mẫu gật đầu nói:
Thế là phải. Ta cũng nghĩ như vậy.
Nhưng xem ra con Tình Văn rất ngoan, khâu vá nói năng không ai bằng. Sau này vẫn
có thể cho nó hầu Bảo Ngọc được. Ai ngờ lại thay đổi như thế.
Vương phu nhân cười nói:
Cụ xưa nay chọn người không nhầm,
nhưng vì nó vô phúc, nên mới mắc bệnh ấy. Tục ngữ có câu: “con gái lớn có nhiều
sự biến đổi”. Vả chăng đã là người có tài, thì không khỏi có sự sai trái. Điều
này chắc cụ đã hiểu nhiều rồi. Ba năm trước con đã lưu tâm đến việc ấy, trước hết
chỉ chấm riêng một mình nó. Nhưng con để ý xem xét thì cái gì nó cũng hơn người,
chỉ phải cái tính không được chín chắn thôi. Nói về cách hiểu biết đại thể thì
không ai bằng Tập Nhân. Tuy nói vợ cả chuộng người hiền, vợ lẽ chọn người đẹp,
nhưng cũng phải là người tính tình hòa thuận, cử chỉ đứng đắn mới tốt. Dáng dấp
Tập Nhân tuy kém Tình Văn, nhưng lấy làm vợ lẽ thì nó cũng vào hạng nhất nhì đấy.
Nó lại ăn ở đứng đắn, tính nết thực thà, mấy năm nay chưa có điều gì chiều lòng
Bảo Ngọc làm điều sai trái. Khi Bảo Ngọc có làm điều gì bậy bạ, nó chỉ một niềm
can ngăn. Vì thế đã hai năm nay con chọn nó, thấy rất đúng. Con đã ngấm ngầm
rút tiền lương a hoàn của nó, lấy hai lạng bạc lương tháng của con phát cho nó,
cốt để nó hiểu ngầm, càng hầu hạ Bảo Ngọc cẩn thận hơn. Sở dĩ con chưa nói ra
là vì Bảo Ngọc còn nhỏ, nhà con biết ra lại bảo làm lỡ việc học hành của nó.
Hơn nữa đã là người hầu rồi, tất nhiên không dám khuyên ngăn nữa. Bảo Ngọc sẽ lại
tha hồ phóng túng. Vì thế đến bây giờ con mới trình với cụ.
Giả mẫu cười nói:
Thế à! Như vậy càng tốt. Tập Nhân từ
bé ít nói, ta cứ bảo nó là cái bầu không miệng. Chị đã biết rõ nó thì nhầm thế
nào được. Chị không nhắc đến chuyện chọn nó cho Bảo Ngọc thì càng hay. Hơn nữa
mọi người cũng không cần phải nhắc đến nữa, chỉ biết ở trong bụng là được. Ta
biết Bảo Ngọc sau này nó không chịu nghe lời vợ khuyên đâu. Ta không hiểu sao
và cũng chưa thấy đứa trẻ con nào như thế cả. Đối với người khác thì nó bướng bỉnh
đấy, nhưng riêng đối với bọn a hoàn, lại rất tử tế. Khó thấy có ai được như nó.
Vì vậy ta sinh nghi, thường để ý xem xét, thấy nó cứ đùa với bọn a hoàn, chắc
là người lớn thì tính tình cũng lớn, đã biết chuyện trai gái, nên mới gần gũi bọn
chúng. Nhưng dò xét kỹ, lại hóa không phải. Thế mới lạ chứ? Có lẽ nó là một con
a hoàn đầu thai lầm cũng nên.
Mọi người nghe nói cười ầm lên.
Vương phu nhân lại trình việc sáng
ngày Giả Chính nào là khen ngợi Bảo Ngọc, nào là dắt chúng đi chơi. Giả mẫu lại
càng vui thêm.
Một lúc sau Nghênh Xuân ăn mặc chỉnh tề
đến cáo từ xin về, Phượng Thư cũng đến thăm buổi sớm và chực hầu bữa cơm sáng.
Mọi người lại cười nói với nhau một lúc. Đến trưa Giả mẫu đi nghỉ. Vương phu
nhân hỏi Phượng Thư đã làm thuốc viên chưa. Phượng Thư nói:
Chưa. Giờ con đương uống thuốc chén.
Xin mẹ cứ yên tâm, con đã đỡ nhiều rồi. Vương phu nhân thấy Phượng Thư đã khỏe,
cũng tin là thực, rồi kể lại việc đuổi bọn Tình Văn và nói:
Con Bảo sao tự nhiên lại về nhà? Các
chị đều không biết à? Hôm trước tiện đường ta đi tra xét một lượt, xem ra vú
nuôi mới của cháu Lan lẳng lơ quá, ta không thích. Ta đã bảo chị Cả, hay dở gì
cũng bảo nó bước đi. Nhân tiện ta hỏi chị ấy: “Con Bảo về nhà sao các chị lại
không biết?” Chị ấy nói là nó về xem dì Tiết đã khỏi bệnh chưa? Độ vài ba hôm
nó sẽ lại sang. Nhưng dì ấy có bệnh gì đâu, chẳng qua chỉ ho và đau lưng thì
bao giờ mà dì ấy chả thế. Tất là có duyên cớ gì, hay có người nào làm mếch lòng
nó? Con bé ấy vốn hay giữ ý, chỗ bà con với nhau, lỡ có điều gì làm nó mếch
lòng lại không hay.
Ai lại tự dưng vô cớ làm cô ấy mếch
lòng.
Hay là cái thằng ngốc Bảo Ngọc nói
không biết nghĩ, không biết kiêng kỵ; lúc cao hứng lên thuận miệng nói bừa,
cũng chưa biết chừng.
Đó là mẹ quá lo đấy thôi. Nếu bảo chú ấy
ra ngoài nói năng và xử sự cho thật đứng đắn thì không khác gì thằng ngốc,
nhưng khi ở nhà gần các chị em đến cả bọn a hoàn lớn nhỏ thì chú ấy lại đều
nhân nhượng, chỉ sợ mếch lòng người ta, như thế còn ai giận được chú ấy. Con ngờ
cô Bảo về lần này là vì việc khám xét bọn a hoàn hôm nọ. Cô ấy cho là ta nghi
ngờ những người trong vườn. Cô ấy là chỗ bà con, cũng có các bà già a hoàn ở
trong nhà, nhưng ta lại không đến khám xét. Cô ấy sợ ta có nghi ngờ gì chăng,
vì thế áy náy trong lòng, tự ý tránh đi. Tránh sự hiềm nghi như thế cũng là phải.
Vương phu nhân nghe nói cho là đúng,
cúi đầu nghĩ một lúc rồi sai người gọi Bảo Thoa đến nói rõ việc hôm trước để giải
mối nghi ngờ, lại bảo Bảo Thoa dọn vào ở chỗ cũ. Bảo Thoa cười nói:
Cháu muốn về nhà đã lâu, nhưng vì bên
nhà dì có nhiều việc lớn, nên không tiện nói. Hôm nọ mẹ cháu lại ốm, trong nhà
có hai người đàn bà hầu đáng tin cậy cũng ốm nốt. Nhân dịp đó, cháu mới xin về
nhà. Hôm nay dì đã biết, cháu xin trình rõ. Bây giờ cháu xin cáo từ dì để dọn đồ
đạc về.
Vương phu nhân và Phượng Thư cười nói:
Cô câu nệ quá, lẽ ra nên dọn về đây ở
là phải, đừng vì cái việc tầm thường ấy làm bà con phải xa nhau.
Bảo Thoa cười nói:
Dì và chị nói thế nặng lời quá, cháu
có phải vì việc ấy mà dọn về đâu. Gần đây mẹ cháu tinh thần kém trước nhiều,
đêm hôm không có ai là người đáng tin cậy, chỉ một mình cháu. Anh cháu lại sắp
lấy vợ, nào việc may vá, nào đồ dùng trong nhà, chưa sắm sửa đủ, nên cháu phải
về lo liệu giúp mẹ cháu. Dì và chị chắc cũng biết đấy. Cháu không dám nói dối
đâu. Hơn nữa từ ngày cháu vào ở trong vườn, cửa ngách về phía đông nam phải mở
để đi lại, thành ra những người ra vào, tiện đường cũng qua đấy. Thế mà không
có người xét hỏi, nhỡ xảy ra việc gì, chả mang tiếng cả hai bên. Cháu nghĩ việc
vào ngủ ở trong vườn không cần thiết lắm. Vì mấy năm trước cháu còn bé, trong
nhà không có việc gì, nên vào ở trong đó, cùng chị em họp mặt vui đùa, khâu vá,
hơn là một mình ngồi buồn rũ ở ngoài. Bây giờ chúng cháu đều lớn cả rồi. Mấy
năm nay dì ở bên này gặp nhiều việc không được vừa lòng. Thế mà cứ ở mãi trong
vườn, lỡ ra cháu trông nom không xuể, sợ lại sinh chuyện. Chỉ có bớt người đi sẽ
đỡ phải bận tâm. Vì thế hôm nay không những cháu nhất định xin về nhà mà còn muốn
khuyên dì: Từ nay việc gì đáng bớt thì nên bớt chứ đừng ngại là mất thể thống
nhà đại gia. Cứ ý cháu, những khoản tiêu phí ở trong vườn này, cái gì bỏ được
thì bỏ, không thể bì như mấy năm trước đây. Dì đã biết nhà cháu đấy. Chẳng nhẽ
nhà cháu ngày trước cũng tồi tàn như thế này hay sao?
Phượng Thư nghe vậy thưa với Vương phu
nhân:
Đã vậy ta cũng không nên ép cô ấy.
Vương phu nhân gật đầu nói:
Dì không biết nói thế nào nữa, cứ tùy
ý cháu đấy thôi.
Đương nói chuyện thì Bảo Ngọc về nói:
Cha chưa tan tiệc, sợ trời tối nên
chúng con về trước. Vương phu nhân vội hỏi:
Hôm nay con có khỏi bị bẽ mặt không?
Không những con không bẽ mặt, lại còn
được thưởng nhiều thứ nữa.
Sau đó bọn bà già nhận được các thứ của
lũ hầu nhỏ ở cửa thứ hai đem vào. Vương phu nhân giở ra xem, thấy có ba cái quạt,
ba chuỗi hạt, ba cái vòng ngọc. Bảo Ngọc nói:
Cái này của quan hàn lâm họ Mai cho,
cái kia là của quan thị lang họ Dương cho, cái này là của quan viên ngoại họ Lý
cho. Mỗi người cho một thứ.
Nói xong lại lấy ra một ông Phật nhỏ bằng
gỗ bạch đàn đeo trong người để giữ mình và nói:
Đây là của vị Khánh quốc công cho
riêng con.
Vương phu nhân lại hỏi tiệc có những
ai, làm thơ từ gì? Rồi bà ta nhận phần của Bảo Ngọc, sai người mang đi. Lại dẫn
Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả Lan đến trình Giả mẫu. Giả mẫu xem xong, vui mừng
khôn xiết, hỏi thêm mấy câu. Bảo Ngọc bụng vẫn nghĩ đến Tình Văn, trả lời xong
liền thưa:
Cháu cưỡi ngựa bị xóc, đau cả xương.
Giả mẫu nói: Thôi cháu về nhà thay quần
áo rồi dạo chơi một lúc thì khỏi, nhưng không được ngủ.
Bảo Ngọc liền đi về trong vườn.
Xạ Nguyệt, Thu Văn đã đem hai a hoàn đến
chờ sẵn đấy. Thấy Bảo Ngọc xin phép Giả mẫu về, Thu Văn nhận ngay lấy bút mực
và các thứ rồi theo Bảo Ngọc về trong vườn. Bảo Ngọc nói luôn miệng: “Nóng
quá!” Vừa đi vừa tháo mũ và mở dây lưng, cởi bộ quần áo ngoài ra. Xạ Nguyệt đỡ
lấy. Bảo Ngọc chỉ mặc cái áo lót bằng lụa màu hoa tùng, bên dưới hở ra cái quần
màu đỏ sẫm. Thu Văn thấy cái quần đó là của Tình Văn khâu lúc trước, liền thở
dài:
Thực là của còn người mất.
Xạ Nguyệt kéo Thu Văn một cái, cười
nói:
Cái quần màu này pha với áo màu hoa
tùng và dây màu thạch thanh, lại càng nổi bật cái đầu xanh và bộ mặt trắng nõn.
Bảo Ngọc đi trước, vờ như không nghe
thấy, lại đi mấy bước nữa rồi đứng lại nói:
Tôi muốn đi đằng này một tí có được
không? Xạ Nguyệt nói:
Ban ngày ban mặt thế này thì còn sợ
gì? Chẳng nhẽ sợ cậu lạc lối hay sao? Rồi sai a hoàn nhỏ đi theo và nói:
Chúng tôi đi cất những cái này rồi sẽ
đến. Bảo Ngọc nói: Chị ơi, chờ tôi một tí hãy đi. Xạ Nguyệt nói:
Chúng tôi đi, rồi sẽ đến ngay. Tay cầm
những thứ này, như là đám rước ấy, người thì bưng đồ văn phòng tứ bảo, người
bưng mũ áo, giày, thắt lưng, trông chẳng ra làm sao nữa.
Bảo Ngọc nghe nói đúng với ý mình, liền
để cho hai người đi về, Bảo Ngọc dẫn hai a hoàn nhỏ đi đến sau hòn đá chân núi,
khẽ hỏi chúng:
Từ lúc ta đi vắng, chị Tập Nhân có sai
người đến thăm chị Tình Văn không? Một đứa trả lời: Đã sai già Tống đi thăm rồi.
Già Tống đi về nói thế nào?
Già ấy nói: chị Tình Văn bạnh cổ ra,
kêu suốt đêm, sáng sớm hôm nay mắt nhắm nghiền, miệng cắn chặt, không biết gì cả,
chỉ còn thở thoi thóp thôi.
Suốt đêm chị ấy kêu ai?
Chị ấy cứ gọi mẹ.
Còn gọi ai nữa không?
Không gọi ai nữa.
Mày u mê rồi, chắc là chưa nghe rõ đấy.
Một a hoàn khác đứng cạnh, có vẻ láu lỉnh,
thấy Bảo Ngọc nói thế, liền chạy lại thưa:
Nó u mê thật đấy. Cháu lên đến tận
nơi, nhìn kỹ tận mặt, nghe rõ từng câu chị ấy nói.
Mày đến tận nơi làm gì?
Cháu nghĩ chị Tình Văn xưa nay đối đãi
với chúng cháu rất tử tế, hơn hẳn mọi người. Giờ chị ấy bị đuổi oan, chúng cháu
không có cách gì cứu giúp, nên đành đến tận nơi thăm nom, để khỏi phụ cái lòng
ngày thường chị ấy thương yêu chúng cháu. Dù có ai biết về trình, bà đánh chúng
cháu một trận, cũng xin cam tâm. Vì thế cháu làm liều, lẻn đến thăm chị ấy một
tí. Chị ấy vốn là người thông minh, lúc sắp chết vẫn không có gì thay đổi. Thấy
cháu đến, chị ấy mở bừng mắt ra, kéo tay cháu lại hỏi: “Cậu Bảo Ngọc đi đâu?”
Cháu kể chuyện cho chị ấy nghe. Chị ấy thở dài một cái rồi nói: “Thôi không gặp
nhau nữa rồi!” Cháu hỏi: “Sao chị không chờ cậu ấy đến để được gặp mặt một lần
nữa?” Chị ấy cười nói: “Các em không biết rõ, chị không phải chết đâu. Nay trên
trời đương thiếu một vị thần hoa, đức Ngọc Hoàng gọi chị lên trông nom các thứ
hoa đấy. Đến giờ mùi hai khắc chị sẽ lên nhận chức. Cậu Bảo thì giờ mùi ba khắc
mới về đến nhà. Thế là chỉ chậm có một khắc mà hai người không được gặp nhau.
Người đời đến lúc tận số, Diêm Vương định bắt đi, trước hết cho quỷ sứ đến bắt
lấy linh hồn. Nếu muốn chậm lại một giờ nửa khắc, thì cứ đốt giấy vàng hoặc
cúng cháo. Bọn quỷ sứ mải đến cướp tiền, thì người chết có thể nấn ná ở lại được
một chút. Nay chị được các vị tiên trên trời xuống đón, thì chậm thế nào được?”
Cháu nghe nói thế, không tin mấy. Nhưng khi về nhà để ý nhìn đồng hồ, quả nhiên
đúng giờ mùi hai khắc chị ấy tắt thở, và đúng ba khắc mới có người đến bảo
chúng cháu là cậu đã về.
Mày không biết chữ, nên không hiểu, chứ
chuyện ấy có thực đấy. Không những mỗi thứ hoa có một vị thần, lại còn có một vị
thần coi cả các thứ hoa nữa. Nhưng không biết chị Tình Văn làm vị thần coi cả
các thứ hoa hay chỉ coi một thứ?
A hoàn nghe xong không bịa ra ngay được.
Bấy giờ vào khoảng tháng tám, hoa phù dung giữa ao trong vườn đương nở rộ. Thấy
cảnh nảy ngay ý nghĩ, nó liền trả lời:
Cháu có hỏi: “Chị sẽ làm vị thần coi
hoa gì? Nói cho chúng em biết, để sau này chúng em còn nhớ mà cúng”. Chị ấy
nói: “Em chỉ nói cho một mình cậu Bảo Ngọc biết thôi, ngoài cậu ấy ra, không được
tiết lộ thiên cơ!” Rồi chị ấy bảo cháu là vị thần chuyên coi hoa phù dung.
Bảo Ngọc thấy thế, không những không lấy
làm lạ, lại còn đổi buồn làm vui, quay lại ngắm nghía hoa phù dung, cười nói:
Hoa này phải có một người như thế
trông nom mới đáng. Ta đã đoán trước, con người như thế, tất phải có phen làm
nên sự nghiệp. Chị ấy đã vượt qua bể khổ, nhưng từ nay không được trông thấy
nhau, lẽ nào ta không chạnh niềm thương cảm.
Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Lúc chết không được
gặp mặt, bây giờ ta phải đến vái trước linh cữu, để tỏ cái tình năm, sáu năm gần
gũi nhau”.
Nghĩ xong, liền về nhà, thay quần áo
và nói là đến thăm Đại Ngọc. Rồi một mình ra khỏi vườn, đến chỗ lần trước đã tới
thăm, tưởng là linh cữu còn để ở đấy. Ngờ đâu hai vợ chồng người anh ngoại thấy
Tình Văn tắt thở, liền đi vào trình, mong được mấy lạng bạc tiền lệ mai táng.
Vương phu nhân nghe thấy thế thưởng cho mười lạng bạc, bảo:
Phải mang ra ngoài hỏa táng ngay. Con
gái mà bị bệnh lao, nhất thiết không thể để lâu được!
Nghe vậy vợ chồng nhà kia một mặt nhận
tiền, một mặt giục người khâm liệm, khiêng ngay ra cái nhà hỏa táng ở ngoại
thành. Những quần áo trâm vòng còn lại ước độ ba, bốn trăm lạng vàng, thì vợ chồng
hắn vớ hết, để làm kế sinh nhai. Sau đó họ khóa cửa lại, cùng đi đưa ma.
Bảo Ngọc đến nơi; chẳng thấy một ai, dừng
lại hồi lâu, không biết làm thế nào, đành phải quay về trong vườn. Buồn quá, tiện
đường đến thăm Đại Ngọc, cũng không gặp, hỏi đi đâu, bọn a hoàn nói: “Cô ấy
sang bên cô Bảo rồi”. Bảo Ngọc lại đến viện Hành Vu, thấy cảnh vắng người
không, đồ đạc đã khuân đi cả, còn trơ chiếc nhà trống trải. Bảo Ngọc giật nẩy
mình. Nhớ lại hôm trước, nghe đâu Bảo Thoa định dọn đi, vì hai hôm nay bận học,
nên quên khuấy mất. Bây giờ mới biết, Bảo Ngọc đứng đờ người ra một lúc, lại
nghĩ: “Chi bằng cứ gần gũi với Tập Nhân, chơi thân với Đại Ngọc, có lẽ trong mấy
người ấy mới là sống chết có nhau”. Bảo Ngọc lại quanh đến quán Tiêu Tương,
nhưng Đại Ngọc vẫn chưa về. Đương lúc không biết đi đâu, thì thấy a hoàn bên
Vương phu nhân đến tìm và nói:
Ông đã về rồi, đương tìm cậu đấy. Chắc
lại có đầu bài hay. Cậu về ngay đi, về ngay đi!
Bảo Ngọc nghe nói, đành phải theo về.
Đến buồng Vương phu nhân thì Giả Chính đã đi rồi. Vương phu nhân sai người đưa
Bảo Ngọc đến thư phòng.
Giả Chính đương cùng bọn môn khách bàn
chuyện thắng cảnh chơi thu. Ông ta lại nói:
Lúc sắp tan, chợt kể lại một việc, thực
là chuyện hay nghìn xưa, đủ cả tám chữ: “Phong lưu hào nhã, trung nghĩa cảm
khái”. Chính là một đầu đề rất hay. Mọi người định làm một bài viếng.
Các môn khách nghe nói, liền hỏi:
Xin cho biết việc gì hay thế?
Ngày trước có một vị Vương được phong
tước là Hằng vương, bổ ra làm tổng trấn châu Thanh; Hằng vương rất thích gái đẹp
và khi rỗi việc quan, lại thích tập võ, nên tuyển nhiều con gái đẹp, ngày
nào cũng bắt họ phải luyện tập đánh trận. Trong bọn này có một người, họ Lâm, đứng
thứ tư, nhan sắc đã đẹp, lại tinh nghề võ, ai cũng gọi là cô Lâm. Hằng vương rất
yêu, cử lên trông coi chị em, gọi là Quỷ Hoạch tướng quân140.
Hay thực! Lạ thực! Thêm hai chữ “tướng
quân” ở dưới chữ “Quỷ Hoạch” càng thêm vẻ phong lưu yểu điệu, thực là câu văn
hay nhất đời! Chắc Hằng vương cũng là một nhân vật phong lưu nhất xưa nay.
Đúng thế. Nhưng lại có một việc đáng lạ
và đáng than tiếc nữa.
Không biết sau cùng lại còn có việc gì
lạ nữa?
Ngờ đâu năm sau lại có tàn quân của
“Hoàng cân”141 và “Xích mi”142 họp lại, đánh
phá khắp vùng Sơn Tả. Hằng vương cho là bọn giặc cỏ, không cần phải huy động đại
quân, chỉ mang ít kỵ binh đi đánh dẹp. Không ngờ bọn giặc quỷ quyệt, Hằng vương
đánh hai lần không được, lại bị chúng giết mất. Bấy giờ các quan văn võ trong
thành Thanh Châu đều bảo nhau: “Nhà vua còn đánh không nổi, thì chúng ta làm gì
được”. Họ định đem dâng thành. Cô tư Lâm nghe thấy tin dữ ấy, liền họp các nữ
tướng lại, ra lệnh: “Chúng ta đều chịu ơn đức vua, đội trời đạp đất, chưa báo đền
được muôn một. Nay vua vì nước bỏ mình, ý ta muốn chết theo. Chị em ai muốn
theo thì đi với ta, ai không theo cứ việc về nhà”. Các nữ tướng nghe vậy liền
nói: “Xin đi theo cả”. Rồi ngay đêm hôm đó cô Lâm dẫn quân ra ngoài thành, đến
thẳng trại giặc. Bọn giặc không đề phòng, mấy tên tướng đều bị giết chết. Về
sau, chúng thấy chỉ có mấy người con gái, biết là không làm nên việc gì, liền
quay đao thúc quân trở lại, cố sức đánh một trận, giết bọn cô Lâm không sót một
người nào, thành ra chính chúng đã làm trọn bề trung nghĩa của cô Lâm. Tin này
báo về Kinh Đô, hoàng đế và trăm quan ai cũng than tiếc. Chắc trong triều thế
nào cũng phái người ra dẹp giặc. Khi quân nhà vua kéo đến, thế nào giặc cũng bị
tan tành. Việc này không cần phải bàn kỹ nữa. Chỉ nói riêng về cô Lâm. Các ông
nghĩ xem có đáng khen hay không?
Bọn gia khách đều thở dài nói:
Thực đáng khen, đáng lạ. Quả là một đầu
bài rất hay. Mọi người nên làm một bài viếng mới phải.
Nói xong, đã có người lấy nghiên bút
ra. Theo lời Giả Chính kể lại, thay đổi mấy chữ, thành một bài tựa ngắn đưa cho
Giả Chính xem. Giả Chính nói:
Chẳng qua cũng thế thôi. Họ cũng đã có
bài tựa sẵn rồi. Hôm nọ có ân chỉ: truyền xét lại các hạng người từ trước đến
giờ đáng được khen thưởng mà còn bỏ sót lại chưa tâu lên, không cứ là bọn tăng
ni ăn mày, đàn bà con gái, hễ có việc gì đáng khen thì lập ngay lý lịch đưa lên
bộ lễ, xin cho ân thưởng. Vì thế bài tựa của họ đã đưa đến bộ lễ rồi. Nghe thấy
tin mới lạ này, ai cũng muốn làm một bài từ “Quỷ Hoạch” để ghi lòng trung nghĩa
của nàng.
Mọi người nghe xong đều cười nói:
À ra thế đấy. Nhưng đáng khen nhất là
cái ân điển của bản triều xưa nay chưa từng có, không còn bỏ sót một việc gì.
Giả Chính gật đầu nói: “Đúng đấy!”
Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng dậy
đến xem đầu bài, Giả Chính bảo ba người đều làm một bài viếng. Ai làm xong trước
sẽ được thưởng, nếu hay lại được thưởng thêm. Gần đây trước chỗ đông người, Giả
Hoàn, Giả Lan cũng làm được mấy bài, nên cũng mạnh bạo. Giờ thấy đầu bài, liền
ngồi nghĩ ngay.
Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng dậy đến xem đầu bài, Giả Chính bảo ba người đều làm một bài viếng.
Một lúc, Giả Lan làm xong, Giả Hoàn sợ thua, cũng làm xong ngay. Hai người đều đã chép xong. Bảo Ngọc còn đương ngồi nghĩ. Giả Chính và mọi người xem hai bài của Giả Hoàn và Giả Lan. Một bài thất ngôn tuyệt cú của Giả Lan như sau:
Sắc
đẹp tài cao tướng Tứ nương.
Xương
da là ngọc dạ như vàng,
Sau
khi liều thác đền ơn chúa,
Tấc
đất châu Thanh lại ngát hương.
Bọn gia khách xem xong, khen ầm cả
lên:
Cậu em mới có mười ba tuổi mà đã thế
này! Thế mới biết dòng dõi học nghiệp uyên thâm, thực là không ngoa!
Giả Chính cười nói:
Giọng còn trẻ con, nhưng cũng đáng
khen cho nó đấy.
Lại xem đến bài của Giả Hoàn là một
bài thơ ngũ ngôn, thấy viết:
Đã
mấy ả biết sầu,
Tướng
quân lòng vẫn đau,
Gạt
sầu rời cẩm trướng,
Ôm
hận tới Thanh Châu,
Ơn
nặng đền đôi chút.
Thù
sâu trả dễ đâu?
Mộ
đề chữ trung nghĩa,
Truyện
lạ rõ nghìn thâu.
Mọi người nói:
Lại hay hơn! Cũng vì lớn hơn mấy tuổi,
nên lập ý của cậu ấy có khác. Giả Chính nói: Kể ra cũng không kém lắm, nhưng vẫn
không sát.
Mọi người nói:
Thế cũng được rồi. Cậu Ba cũng chưa mấy tuổi, vẫn chưa đến tuổi đội mũ143, làm được như thế, độ mấy năm nữa, có lẽ cũng chẳng kém gì Đại Nguyễn, Tiểu Nguyễn ngày xưa144.
Giả Chính cười nói:
Các vị quá khen. Chỉ phải cái tội là
nó không chịu học thôi. Rồi hỏi đến Bảo Ngọc. Mọi người nói:
Cậu Hai còn đương để ý điêu luyện, chắc
thế nào tứ thơ cũng phong lưu thương cảm hơn những bài này.
Bảo Ngọc cười nói:
Đầu bài này làm cận thể không đúng, phải
là cổ thể, hoặc lối ca hay lối hành, làm một bài trường thiên thì mới sát được.
Mọi người nghe nói đều đứng dậy cả, gật
đầu vỗ tay nói:
Chúng tôi đã bảo là cậu ấy lập ý khác
hẳn mà! Mỗi khi đầu bài đến tay, phải đắn đo trước xem nên làm thể cách nào cho
đúng. Đó là phép thần diệu của tay lão thành. Đầu bài này gọi là “Quỷ Hoạch từ”,
lại có tựa sẵn rồi, nên làm bài trường thiên theo lối ca hay hành, thì mới hợp
thể cách. Như bài “Kích âu ca” của Ôn Bát Xoa, bài “Cối kê ca” của Lý Trường
Cát, bài “Trường hận ca” của Bạch Lạc Thiên145 hoặc làm bài vịnh cổ, vừa kể chuyện vừa vịnh cảnh,
lời thơ chải chuốt nhẹ nhàng thì mới tả hết cái hay của nó.
Giả Chính nghe nói, hợp với ý mình, liền
cầm bút định viết. Ông ta lại cười và nói với Bảo Ngọc:
Như thế rất hay. Mày đọc tao viết. Nếu
không hay thì tao lột xác mày cho mà coi. Ai bảo mày cứ nói khoác không biết xấu
hổ!
Bảo Ngọc đành phải đọc một câu:
Khỏe
và đẹp Hằng vương thích cả,
Giả Chính viết xong, lắc đầu nói: Thô
quá! Một môn khách nói:
Như thế mới là cổ phong, không thô
đâu. Hãy xem những câu dưới! Giả Chính nói: Thôi hãy để đấy.
Bảo Ngọc lại đọc:
Dạy
mỹ nhân kị xạ đua tài.
Hát
hay múa dẻo chưa vui,
Giương
cung bày trận được người thích hơn.
Giả Chính viết ra. Mọi người đều nói:
Câu thứ ba thật là cổ kính, rất hay.
Câu thứ tư kể xuôi, rất đắc thể. Giả Chính nói:
Thôi đừng khen nhảm nữa, hãy xem câu
chuyện thế nào? Bảo Ngọc đọc:
Mắt
nào thấy nổi cơn gió bụi,
Trước
bóng đèn đã rọi quân trang.
Mọi người nghe xong hai câu đều nói:
Hay! Dưới câu “Mắt nào thấy nổi cơn
gió bụi”, lại nói luôn câu “Trước bóng đèn đã rọi quân trang”, dùng chữ dùng
câu đều thần diệu cả!
Bảo Ngọc lại đọc:
Miệng
hò sặc những mùi hương,
Mềm
tay gươm tuyết dao sương ngượng ngùng.
Mọi người nghe xong đều vỗ tay cười
nói:
Càng như vẽ ra ấy! Chắc cậu Bảo hồi ấy
cũng ở đấy, được nhìn rõ vẻ yêu kiều và ngửi thấy cả mùi hương của họ chứ gì? Nếu
không sao lại tả đúng được như thế?
Bảo Ngọc cười nói:
Người khuê các tập võ, dù khỏe đến đâu
cũng không bằng được con trai. Không nói thì cũng biết rõ cái dáng yếu ớt nhút
nhát rồi.
Giả Chính nói:
Mày không đọc tiếp ngay đi! Lại còn ngồi
nói lẻm. Bảo Ngọc đành phải nghĩ một lúc rồi đọc:
Hạt
đinh hương, phù dung giây giắt.
Mọi người đều nói: Chọn vần rất hay,
có thế lời thơ mới chải chuốt nhẹ nhàng. Và câu này lại còn văn hoa đẹp đẽ.
Giả Chính viết xong nói:
Câu này không hay, trước đã có những
chữ như “sặc những mùi hương” và “mềm tay ngượng ngùng” thì việc gì lại phải
dùng câu này. Đó là vì đuối sức nên nó phải gán ghép những chữ ấy để lấp liếm
cho qua đấy thôi.
Bảo Ngọc cười nói: Bài trường ca thì
thế nào cũng phải điểm xuyết những câu văn hoa, không thế đâm buồn mất.
Giả Chính nói: Mày chỉ lo dùng những
chữ ấy, còn dưới câu này làm thế nào để chuyển ý sang việc tập võ đây? Nếu nói
thêm nữa thì chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chân sao.
Bảo Ngọc nói:
Như thế, thì câu dưới sẽ chuyển cũng
được. Giả Chính cười nhạt:
Sức học mày được bao nhiêu! Câu trên
mày mở rộng quá, bây giờ mày lại muốn chuyển ý ngay, chẳng hóa ý muốn thì nhiều
mà sức không đủ hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói, cúi đầu nghĩ một
lúc rồi đọc:
Đeo
dao này đành vất châu kia.
Rồi hỏi: “Câu này có thể dùng được
không?” Mọi người vỗ bàn khen hay tuyệt.
Giả Chính cười nói:
Hãy khoan đã, mày đọc nữa đi. Bảo Ngọc
nói:
Nếu được thì con đọc luôn một mạch,
không được xin cứ xóa cả đi, con sẽ nghĩ ra tứ khác và đặt câu lại.
Giả Chính nghe nói, liền quát:
Mày nói nhiều quá! Không được thì làm
lại bài khác. Mày làm mười bài, một trăm bài lại sợ khó nhọc hay sao?
Bảo Ngọc đành nghĩ một lát rồi đọc:
Tập
xong uể oải đêm khuya,
Ngấn
song nhường đã đầm đìa lụa dao
Giả Chính nói: Đó là xong một đoạn rồi.
Câu dưới như thế nào? Bảo Ngọc đọc:
Sơn
Đông giặc năm sau nổi loạn,
Ong
kéo đàn, chực ngốn hùm beo,
Mọi người nói:
Chữ “nổi” hay đấy! Thế mới biết được
là cao hay thấp. Vả suốt cả câu chuyển ý cũng không câu nệ gò ép.
Bảo Ngọc lại đọc:
Diệt
thù vua dẫn quân theo,
Ngờ
đâu thử một hai keo đã chùng.
Gió
tanh ngắt thổi tung lúa nội,
Trướng
hùm đâu nắng rọi bóng cờ.
Núi
vắng lặng, nước lờ đờ,
Nơi
Hằng vương chết bây giờ là đây.
Xương
dầm nước, máu rây ngọn cỏ,
Bóng
giăng tà, thây nọ ma canh.
Mọi người đều nói:
Hay quá, hay quá! Dàn bài kể chuyện và
lời văn đều hay cả. Giờ hãy xem tiếp đến Tứ nương ra sao, tất phải có một câu
chuyển mới lạ.
Bảo Ngọc lại đọc:
Quan
quân chỉ biết giữ mình,
Ngồi
nhìn khắp cõi châu Thanh mịt mùng.
Trong
khuê các tỏ lòng trung phẫn,
Xui
ái cơ nổi giận đùng đùng.
Mọi người đều nói: Dàn bài rất là khúc
chiết.
Giả Chính nói: Dài quá rồi, chỉ sợ đoạn
dưới lại rườm thôi. Bảo Ngọc lại đọc:
Ái
cơ thứ mấy trong cung?
Thứ
Tư là gái anh hùng họ Lâm.
Nghiêm
lệnh xuống ả Tần, gái Triệu,
Mặt
trăm hoa đưa tiễn chiến trường.
Lệ
xuân đè trĩu yên cương,
Áo
bào lặng lẽ, đêm trường hắt hiu.
Cuộc
thua được khó chiều định trước,
Đáp
ơn người trọn ước tử sinh.
Giặc
kia hung hãn thôi đành,
Hoa
tan tác cánh, huyết xanh xám màu.
Quyện
mùi phấn vó câu ngào ngạt,
Xa
gia hương hồn giạt bên thành.
Tin
sương sớm báo về kinh,
Chị
em nào chẳng xót tình cho ai.
Nỗi
mất đất con trời càng bực,
Nhìn
trăm quan đầu gục ngồi trơ.
Trong
triều văn vũ bấy giờ,
Đã
người nào được như là Lâm nương?
Lâm
nương nghĩ đến mà thương,
Ca
rồi lòng những bàng hoàng khôn nguôi!
Đọc xong, mọi người đều khen ngợi
không ngớt, lại xem một lượt nữa. Giả Chính cười nói:
Tuy nói được mấy câu, nhưng cũng không
sát mấy. Liền bảo: Thôi cho về.
Ba người như được tha tội, đều đi ra,
rồi ai về nhà nấy. Bảo Ngọc trong bụng buồn rầu, lúc về đến vườn trông thấy hoa
phù dung trên ao, nhớ ngay chuyện Tình Văn, lại thấy vui sướng, rồi nhìn hoa
phù dung than vãn một lúc. Sau lại nghĩ: “Khi Tình Văn chết, ta chưa đến tế trước
linh cữu, bây giờ tế ở trước hoa phù dung, lại không tận lễ hơn sao?” Nghĩ
xong, muốn làm lễ ngay, nhưng lại tự nhủ: “Dù thế nhưng cũng không nên cẩu thả
quá, phải có áo mũ chỉnh tề, đồ lễ đầy đủ thì mới thực là thành kính”. Rồi nghĩ
bụng: “Cổ nhân nói: Rau cỏ thường dùng ở nơi bờ ao, vũng nước cũng có thể đem
dâng vương công, tế quỷ thần được. Chỉ cốt có lòng thành kính, chứ không kể lễ
vật sang hèn. Nhưng nếu không làm một bài văn tế, thì nỗi buồn rầu chua xót này
không có chỗ nào phát tiết ra được”. Bảo Ngọc liền lấy một bức lụa giao trắng
mà trước kia Tình Văn vẫn thích, viết một bài bằng chữ chân phương, gọi là “Bài
văn tế cô phù dung”. Trước là bài tựa, sau là bài ca. Lại bày bốn thứ đồ ăn mà
Tình Văn vẫn thích khi còn sống. Đến lúc chiều tà, người vắng Bảo Ngọc sai bọn
a hoàn bưng đến bày ở trước hoa phù dung. Làm lễ xong, treo bài văn tế lên cành
hoa, rồi khóc và đọc:
Phù Dung Nữ Nhi Lụy
“Nay
là năm thái bình bền vững, là tháng hoa dung, hoa quế đua tươi, là ngày không
biết làm thế nào được. Ngọc thô trọc này ở viện Di Hồng, gọi là có nhị các hoa,
lụa giao trắng, nước suối thơm và chè ướp móc, bốn thứ này tuy là vật rất tầm
thường, nhưng cũng để tỏ lòng thành tín, đem đến tế ở trước nữ thần phù dung,
giữ chức cai quản các hoa mùa thu ở cung Bạch Đế và có lời kính tế rằng:
Trộm
nghĩ, từ khi cô xuống cõi trần, đến nay đã mười sáu năm. Họ tên quê quán thất lạc
từ lâu, không sao tra cứu được. Nhớ những khi chung chăn gối, cùng tắm gội, những
đêm ngồi nghỉ mát, đi chơi rong.
Ngọc
này cùng cô vui đùa thân mật mới được vẻn vẹn năm năm tám tháng; ngày vui sao lại
ngắn ngủi thế này!
Nhớ
cô lúc bình sinh, chất thì cao quý, vàng ngọc cũng thua; thân lại trắng trong,
tuyết băng khôn sánh. Tinh thần sáng suốt, át cả mặt trời, ngôi sao, nét mặt
vui tươi, hơn hẳn giăng soi, hoa nở. Chị em mến người tài sắc, vú bõ trọng bực
hiền hòa.
Ngờ
đâu, bay quá cao cho chim độc ghét ghen, giống cắt nọ sa vào bẫy lưới; mùi thơm
lựng nên cỏ gai tức tối, khóm lau kia lại bị bừa cào! Hoa vốn nhát rồi, nào
quen gió táp? Liễu xem buồn quá, khôn chống mưa rào! Bị loài sâu bọ dèm pha, mắc
bệnh cao hoang nguy hiểm.
Vì
thế, môi anh đào nhợt lại, rền rĩ vần thơ, vẻ hồng hạnh se dần, võ vàng nét mặt.
Những lời chì chiết, từ chỗ màn the; nhiều cảnh chông gai, lan ngoài cửa ngõ.
Ngấm ngầm bụng đã chán rồi; bực tức oan còn buộc mãi.
Vẻ
cao quý tổ người ghen ghét, trong buồng the mà ngao ngán cảnh “Trường Sa”146;
lòng kiên trinh gặp buổi gian truân, bạn khăn yếm những âm thầm nơi nhạn tái147.
Đắng cay mình chịu; vùi dập ai thương? Tan tác mây tiên; mịt mù gót ngọc. Bãi mờ
hang thuốc, hương khước tử đâu đây? Bể vắng bè thiên, thuốc hồi sinh nào thấy?
Nét ngài biêng biếc, ta vẽ trước kia; tay ngọc lạnh lùng, ai người ủ ấm? Vạc nọ
thuốc thừa bừa bãi; áo kia ngấn lệ đầm đìa. Hộp xạ nguyệt mở lại thêm buồn,
gương đành loan vắng; gỗ đàn vân tung ra từng mảnh, lược hóa rồng bay. Hoa vàng
vứt đám cỏ gianh; hộp biếc nhặt nơi gió bụi. Lầu Chi Thước buồn tênh thất tịch,
còn cái kim treo; giải Uyên Ương đứt hẳn năm dây, hỏi ai người nối?
Huống
chi gặp tiết kim thu; quyền về Bạch Đế. Chăn đơn mơ mộng; nhà cửa đìu hiu. Thềm
quế trăng mờ, bóng đẹp hồn thơm đâu tá; màn dung hương nhạt, lưng eo hơi yếu
còn chi! Đầy trời cỏ héo, nào chỉ sậy lau? Khắp đất tiếng buồn, những là giun dế.
Thềm long lanh móc, tiếng chày gieo gió lọt trong rèm; tường lác đác mưa, khúc
sáo oán khôn nghe ngoài viện. Trước thềm anh vũ chưa quên, luôn miệng tên thơm
vẫn gọi; ngoài cửa hải đường đã héo, báo tin người ngọc sắp đi. Trò chơi sau
rèm, gót sen vắng ngắt; chọi gà trên cỏ, hoa lan chờ hoài. Chỉ thêu bỏ lại, áo
hoa lụa bạc ai khâu? Tơ băng gấp rồi, hương ngự bàn là chưa đốt.
Theo
lệnh cha lúc trước, dong xe xa tới phương viên, trái oai mẹ lần này, chống gậy
toan đưa linh cữu. Chợt nghe, ván thơm bị cháy, tình cộng huyệt đâu còn; quách
đá vỡ tan, nghĩa đồng hôi148 đáng thẹn. Đến nỗi gió tây lùa vào
chùa cũ, lẩn quất ma trơi; bóng chiều rọi khắp gò hoang, rã rời xương trắng.
Thu du xào xạc; lau sậy đìu hiu. Vượn kêu dưới đá sương mù; ma khóc quanh vùng
khói tỏa.
Nào
phải trong màn lụa đỏ, chàng nọ tình sâu; mới hay dưới bãi đất vàng, gái kia mệnh
bạc.
Đất
Nhữ Nam dòng dòng giọt lệ, nhỏ trước gió tây; nơi Tử Trạch ngầm ngấm tình
riêng, giãi cùng trăng lạnh.
Than
ôi! Ma quỷ thực là độc ác; thần linh nào có ghét ghen. Lũ dèm pha đành phải rạch
mồm, tha làm sao được? Con ác phụ dù đem mổ bụng, giận vẫn chưa nguôi!
Tuy
duyên trần cô chửa bén bao lâu; nhưng lòng quê, Ngọc này khôn xiết tả. Nỗi
riêng quyến luyến, thăm hỏi ân cần. Mới biết cờ thượng đế cho vời; nơi cung hoa
đợi chiếu. Sống thì bạn bè lan huệ, thác thì cai quản phù dung.
Tuy
nghe lời hầu nhỏ, chuyện khá hoang đường, nhưng cứ ý Ngọc này, lẽ đà xác thực.
Tại sao thế? Ngày trước Diệp Pháp Thiện149 bắt hồn Lý Ung viết
hết bài bia; Lý Trường Cát150 theo lệnh Ngọc Hoàng lên làm bài
ký. Việc tuy khác nhau, nhưng lẽ thì một. Nên phải lựa tài mà giao việc, nếu
dùng người không đúng thì chẳng hóa ra lạm lắm sao? Vậy mới biết đức thượng đế
cân nhắc từng người, giao phó công việc, rất là đúng và rất là hợp, không uổng
cái tính chất trời đã phú cho mọi người.
Mong
linh hồn cô không bao giờ mờ tối, thường hay phảng phất về đây, nên cứ liều
lĩnh đọc mấy câu quê kệch này, chắc không phải nhàm tai người sáng suốt”.
Liền hát bài chiêu hồn:
Phiên âm
Lai
hề chỉ hề,
Khanh
kỳ lai da?
Thiên
hà như thị chi thương thương hề,
Thừa
ngọc cầu dĩ du hồ khung lung da?
Địa
hà như thị chi mang mang hề,
Giá
dao tượng dĩ giáng hồ tuyền nhuỡng da?
Vọng
tản cái chi lục ly hề,
Ức
Cơ, Vĩ chi quang da?
Liệt
vũ bảo nhi vi tiền đạo hề,
Vệ
Nguy hư vu bàng da?
Khu
phong long dĩ vi tý tòng hề,
Vọng
thư nguyệt dĩ lâm da?
Thính
xa quỹ nhi y yết hề,
Ngự
loan ê dĩ chinh da?
Văn
phức uất nhi phiêu nhiên hề,
Nhận
hành đỗ dĩ vi nhương da?
Lan
quần cư chi thước thước hề,
Lũ
minh nguyệt dĩ vi đương da?
Tá
uy nhuy nhi thành trĩ hề,
Kềnh
liên diễm dĩ chúc lan cao da?
Văn
hồ bào dĩ vi chí giả hề,
Sái
linh lục dĩ phù quế tữ da?
Chiêm
vân khí nhi ngưng mâu hề,
Phỏng
phật hữu sở chiêm da?
Phủ
ba ngân nhi cư nhĩ hề,
Hoảng
dịch hữu sở văn da?
Kỳ
hãn mạn nhi vô tế hề,
Nhẫn
quyên khí dư vu trần ai da?
Thiến
phong liêm chi vi dư khu xa hề,
Ký
liên bí nhi huề quy da?
Dư
trung tâm vi chi khái nhiên hề,
Đồ
khiếu khiếu nhi hà vi da?
Khanh
yển nhiên nhi trường tẩm hề,
Khởi
thiên vận chi biến vu tư da?
Ký
truân tịch thả an ổn hề,
Phản
kỳ chân nhi hựu hề hoá da?
Dư
do trất cốc nhi huyền phụ hề,
Linh
cách dư dĩ ta lai da?
Lai
hề chỉ hề, Khanh kỳ lai da?
Nhược
phu hồng mông nhi cư,
Tịch
tĩnh dĩ xứ, Tuy lâm vu tư,
Dư
diệc mạc đổ.
Khiên
yên la nhi vi bộ chướng,
Liệt
xương bồ nhi sâm hàng ngũ.
Cảnh
liễu nhãn chi tham miên,
Thích
liên tâm chi vị khổ.
Tố
nữ ước vu quế nham,
Bật
phi nghinh lan chử.
Lộng
Ngọc xuy sinh,
Hàn
hoàng kích ngữ.
Chinh
Tung Nhạc chi phi,
Khởi
Ly Sơn chi mụ.
Quy
trình Lạc phố chi linh,
Thú
tác Hàm trì chi vũ.
Tiềm
Xích thuỷ hề long ngâm,
Tập
Châu lâm hề phụng giả chứ.
Viên
cách viên thành,
Phỉ
phủ phỉ cử.
Phát
nhận hồ Hà thành,
Hoàn
tinh hồ Huyền phố.
Ký
hiển vi nhi nhược thông,
Phúc
nhân uân nhi thúc trở.
Ly
hợp hề yên vân,
Không
mông hề vụ vũ.
Trần
mai liễm hề tinh cao,
Khê
sơn lệ hề nguyệt ngọ.
Hà
tâm ý chi phanh phanh,
Nhược
ngụ mị chi hủ hủ?
Dư
nãi hy hư trướng ưởng,
Khấp
thế bàng hoàng.
Nhân
ngữ hề tịch lịch,
Thiên
lại hề vân đương.
Điểu
kinh tán nhi phi,
Ngư
xiệp điệp dĩ hưởng.
Chí
ai hề thị đảo,
Thành
lễ hề kỳ tường.
Ô
hô! Ai tai! Thượng hưởng!
Dịch
Trời
xanh xanh chừ, hay cô cưỡi rồng ngọc dạo chơi trên không đây?
Đất
sao mông mênh chừ, hay cô ngồi xe giao tượng xuống chơi suối vàng đây?
Nhìn
tàn lụa lấp lánh chừ, hay sao Cơ, sao Vĩ sáng rực lên đây?
Dẫn
đường lại có hàng đàn chừ, hay sao Nguy hư đi hộ vệ đây?
Theo
hầu lại có bọn thần mây chừ, hay cô cưỡi mặt trăng đi chơi đây?
Tiếng
bánh xe lộc cộc chừ, hay cô ngồi xe loan đi rong đây?
Mùi
thơm thoang thoảng chừ, hay hoa hành đỗ tết làm dây đeo đây?
Màu
quần áo chói lọi chừ, hay chạm mặt trăng làm đồ trang sức đây?
Mượn
nơi um tùm để làm đàn tế chừ, hay cầm đuốc sen để thắp dầu hoa lan đây?
Chén
rượu bằng quả bầu vẽ chừ, hay rượu ngon lẫn mùi hoa quế đây?
Ngửa
mặt lên nhìn đám mây chừ, thấp thoáng như trông thấy ai đây?
Ghé
tai nghe dưới làn sóng chừ, mơ màng như nghe tiếng ai đây?
Định
rong chơi khắp khoảng bao la chừ, nỡ bỏ ta trơ trọi dạo cõi trần đây?
Nhờ
thần gió đẩy xe cho ta chừ, để được cùng nắm dây cương trở về đây?
Nỗi
thương cảm trong lòng chừ, kêu gào mãi có làm chi đây?
Sao
cô cứ lặng lẽ ngồi yên chừ, hay lòng trời muốn thay đổi thế nào đây?
Đã
ở yên nơi sâu thẳm chừ, lại còn muốn trở lại làm kiếp gì đây?
Đương
bị gông cùm dưới hạ giới chừ, có thiêng hãy rủ ta cùng lên đây?
Ở
lại hay về, thôi cô về đây?
Còn
như lặng lẽ mênh mông, cô giờ nằm đấy.
Dù
cô có về, ta nào trông thấy?
Màn
che chằng những dây leo; xương bồ mọc thành hàng dãy.
Hẳn
mắt liễu ngủ đã ham rồi, chắc lòng sen giờ không đắng mấy.
Hẹn
trên non quế, Tố Nữ151 miệng chào;
đón
dưới bến Lan, Bật phi152 tay vẫy.
Sênh
Lộng Ngọc153 lách cách gần xa, trống hàn hoàng154 thùng
thùng vang dậy.
Lên
vùng Tung Nhạc, hỏi Phi Tử đâu đây, dạo núi Ly Sơn, tìm lão tiên nào thấy?
Lượn
sông Lạc Thủy, rùa hiện điềm lành; hát khúc Hàm Trì, thú đua điệu nhảy.
Rừng
Châu Lâm155 sáng rực, phượng đậu trên cao; sông Xích Thủy156 đỏ
ngầu, rồng gầm dưới đáy.
Lễ
mọn gọi là, lòng thành nhận lấy.
Từ
Hà Thành157 xe quay bánh rầm rầm, về Huyền Phố158 gió
phất cờ hây hẩy.
Đã
quấn quít sao bỗng e dè, đã hiển hiện sao còn trốn chạy?
Khi
tan khi họp, như khói mây bay; lúc gần lúc xa, nhường mưa mù vậy.
Sao
từng hàng rọi, mây vẫn sạch làu; trăng nửa đêm soi, núi sông lộng lẫy.
Trong
khi thức ngủ, đâu thấy vui cười? Mà nỗi lòng riêng, vẫn còn áy náy?
Nay
tôi ngậm ngùi than thở, giàn giụa lệ rơi. Quãng không lặng lẽ chừ, đâu là tiếng
người!
Trúc
reo lách tách chừ, nghe như sáo trời! Chim xào xạc chừ sợ bay khắp nơi!
Cá
phập phồng chừ lặn xuống đáy khơi. Để tỏ lòng thành chừ, dâng lễ kính người. Hồn
nay có thiêng, hiển hiện cho coi.
Than
ôi! Thương thay! Mong cô về hưởng!
Bảo Ngọc đọc xong, liền đốt văn tế,
dâng trà, quyến luyến không nỡ dứt. A hoàn giục mấy lần mới chịu quay về. Chợt
nghe thấy phía sau núi đá có người cười nói: “Xin hãy đứng lại”. Hai người nghe
thấy, hoảng sợ. A hoàn nhỏ quay lại nhìn thấy một bóng người trong khóm hoa phù
dung đi ra. A hoàn kêu lên:
Chết rồi, có ma! Chị Tình Văn hiện hồn
về thực rồi! Bảo Ngọc sợ hãi đứng nhìn, không biết là người hay ma.
Bảo Ngọc đọc xong, liền đốt văn tế, dâng trà, quyến luyến không nỡ dứt. A hoàn giục mấy lần mới chịu quay về. Chợt nghe thấy phía sau núi đá có người cười nói: “Xin hãy đứng lại”. Hai người nghe thấy, hoảng sợ. A hoàn nhỏ quay lại nhìn thấy một bóng người trong khóm hoa phù dung đi ra.
Quỷ Hoạch Từ
Phiên âm
Hằng
vương hiếu vũ kiêm hiếu sắc,
Toại
giao mỹ nữ tập kỵ xạ.
Nùng
ca diễm vũ bất thành hoan,
Liệt
trận vãn qua vi tự đắc.
Nhãn
tiền bất kiến trần sa khởi,
Tướng
quân tiếu ảnh hồng đăng lý.
Sất
tra thì văn khẩu thiệt hương,
Sương
mâu tuyết kiếm kiều nan cử.
Đinh
hương kết tử phù dung điều,
Bất
hệ minh châu hệ bảo đao.
Chiến
bãi dạ lan tâm lực khiếp,
Chi
ngân phấn tí ô giao tiêu.
Minh
niên lưu khấu khởi Sơn Đông,
Cường
thôn hổ báo thế như phong.
Vương
suất thiên binh tư tiễu giảm,
Nhất
chiến tái chiến bất thành công.
Tinh
phong xuy chiết lũng trung mạch,
Nhật
chiếu tinh kỳ hổ trướng không.
Thanh
sơn tịch tịch thuỷ ti ti,
Chính
thị Hằng vương chiến tử thì.
Vũ
lâm bạch cốt huyết nhiễm thảo,
Nguyệt
lãnh dục hôn quỷ thủ thi.
Phân
phân tướng sĩ chỉ bảo thân,
Thanh
Châu nhãn kiến giai khôi trần.
Bất
kỳ trung nghĩa minh khuê các,
Phẫn
khởi Hằng vương đắc ý nhân.
Hằng
vương đắc ý sổ thuỳ hàng?
Quỷ
hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương.
Hiệu
lệnh Tần cơ khu Triệu nữ,
Nùng
đào diễm lý lâm cương trường.
Phưởng
yên hữu lệ xuân sầu trọng,
Thiết
giáp vô thanh dạ khí lương.
Thắng
phụ tự nan tiên dự định,
Thệ
minh sinh tử báo tiền vương.
Tặc
thế xương quyết bất khả địch,
Liễu
chiết hoa tàn huyết ngưng bích.
Mã
tiễn yên chi cốt tuỷ hương,
Hồn
y thành quách gia hương cách.
Tinh
trì thì báo nhập kinh sư,
Thuỳ
gia nhi nữ bất thương bi!
Thiên
tử kinh hoang sầu thất thủ,
Thử
thì văn vũ giai thuỳ thủ
Hà
sự văn vũ lập triều cương,
Bất
cập khuê trung Lâm Tứ Nương!
Ngã
vị Tứ Nương trường thán tức,
Ca
thành dư ý thượng bàng hoàng.
Dịch thơ
Khoẻ
và đẹp Hằng vương thích cả,
Dạy
mỹ nhân kỵ xạ đua tài.
Hát
hay múa dẻo chưa vui,
Giương
cung bày trận được người thích hơn.
Mắt
nào thấy nổi cơn gió bụi,
Trước
bóng đèn đã rọi quân trang.
Miệng
hò, sặc những mùi hương,
Mềm
tay gươm tuyết dao sương ngượng ngùng.
Hạt
đinh hương, phù dung dây giắt,
Đeo
dao này đành vất châu kia.
Tập
xong uể oải đêm khuya,
Ngấn
son nhường đã đầm đìa lụa giao.
Sơn
Đông giặc năm sau nổi loạn,
Ong
kéo đàn, chực ngốn hùm beo.
Diệt
thù vua dẫn quân theo,
Ngờ
đâu thử một hai keo đã chùng.
Gió
tanh ngắt thổi tung lúa nội,
Trướng
hùm đâu nắng rọi bóng cờ.
Núi
vẳng lặng, nước lờ đờ,
Nơi
Hằng vương chết bây giờ là đây.
Xương
dầm nước, máu rây ngọn cỏ,
Bóng
giăng tà, thây nọ ma canh.
Quan
quân chỉ biết giữ mình,
Ngồi
nhìn khắp cõi châu Thanh mịt mùng.
Trong
khuê các tỏ lòng trung phẫn,
Xui
ái cơ nổi giận đùng đùng.
Ái
cơ thứ mấy trong cung?
Thứ
tư là gái anh hùng họ Lâm.
Nghiêm
lệnh xuống ả Tần, gái Triệu,
Trăm
mặt hoa đưa diễu chiến trường.
Lệ
xuân đè chĩu yên cương,
Áo
bào lặng lẽ, đêm trường hắt hiu.
Cuộc
thua được khó chiều định trước,
Đáp
ơn người trọn ước tử sinh.
Giặc
kia hung hãn thôi đành,
Hoa
tan tác cánh, huyết xanh xám màu.
Quyện
mùi phấn vó câu ngào ngạt,
Xa
gia hương hồn dạt bên thành.
Tin
sương sớm báo về kinh,
Chị
em nào chẳng xót tình cho ai.
Nỗi
mất đất con trời càng bực,
Nhìn
trăm quan đầu gục ngồi trơ.
Trong
triều văn vũ bây giờ,
Đã
người nào được như là Lâm nương?
Lâm
nương nghĩ đến mà thương,
Ca
rồi lòng những bàng hoàng khôn nguôi!
Dịch nghĩa
Hằng
vương thích võ nghệ lẫn thích sắc đẹp, nên để cho những người đẹp luyện tập cưỡi
ngựa bắn cung. Tiếng hát nồng thắm, điệu múa kiều diễm chưa lấy làm vui, chỉ có
vác đòng bày trận mới là vừa ý. Trước mắt không thấy cảnh cát bụi nổi lên,
trong ánh đèn hồng đã soi bóng dáng tướng quân xinh đẹp. Lúc hò reo, thấy miệng
lưỡi đều thơm ngát. Người yểu điệu khó nhấc nổi mâu sương kiếm tuyết. Chuỗi hạt
đinh hương, dây phù dung, chẳng buộc minh châu lại buộc đao. Sau khi tập trận
xong, giữa đêm tàn, trong lòng vẫn còn e sợ, son phấn hoen ướt làm ố lụa giao.
Năm
sau có giặc nổi lên ở Sơn Đông, sức mạnh như nuốt luôn hổ báo, khí thế như đàn
ong. Vua (tức Hằng vương) thống suất binh trời đi dẹp loạn, giao chiến một trận,
hai trận đều không thành công. Cơn gió mang mùi tanh thổi gãy những thân lúa
trong thung lũng, ánh mặt trời chiếu bóng tinh kỳ, trong hổ trướng trống không.
Núi xanh hoang lặng, nước chảy rì rì, chính là khi Hằng vương tử trận. Mưa ướt
đầm xương trắng, máu nhuộm cỏ, ánh trăng lạnh hầu như mờ đi, lũ quỷ canh xác chết.
Tướng sĩ đều hoang mang bối rối, chỉ biết giữ thân mình, trước mắt thấy Thanh
Châu đều toàn tro bụi. Ngờ đâu có người trung nghĩa làm sáng ngời chốn khuê
các, người được Hằng vương yêu quý nổi giận đứng lên. Được Hằng vương yêu quý đếm
được mấy người? Đó là Quỷ hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương (cô Tứ họ Lâm). Hiệu lệnh
cho các cô gái Tần, dẫn đầu các cô gái Triệu, những đoá hoa đào thắm mận đẹp đi
ra chốn chiến trường. Trên yên ngựa bằng sợi xe rơi hạt lệ, mối sầu xuân mang nặng.
Áo giáp sắt lặng lẽ giữa khí trời khuya mát lạnh. Chuyện thắng thua khó mà tính
trước được, nhưng đã thề nguyền sống chết để báo đáp tiền vương.
Thế
giặc còn mạnh mẽ không địch nổi, liễu gãy hoa tàn, máu đọng xanh biếc. Chân ngựa
giẫm đạp lên son phấn, xương tuỷ ngát mùi thơm. Hồn vẫn phiêu dạt bên thành
quách, xa chốn quê nhà. Tin tức rong ruổi đưa vào kinh sư, không có nữ nhi nhà
nào là không thấy thương xót! Thiên tử kinh hoàng buồn bực nghe tin thất thủ,
lúc ấy bá quan văn vũ đều chỉ biết gục đầu. Vì sao trong các quan văn vũ đứng
giữa triều đình, không có ai bằng được Lâm Tứ Nương là người trong khuê các? Ta
vì Tứ Nương mà than thở mãi, khúc ca làm xong rồi, lòng dạ vẫn còn cảm thấy
bàng hoàng.
Chú
thích.
[←141]
Cuối
đời Tây Hán, anh em Trương Giác khởi binh đánh triều đình, quân lính đều đội
khăn vàng làm hiệu.
[←142]
Cũng
cuối đời Tây Hán, Phàn Sùng nổi quân chống lại triều đình, quân lính đều vẽ
lông mày đỏ.
[←143]
Đời
xưa là con trai hai mươi tuổi mới đội mũ.
[←144]
Đại
Nguyễn tức Nguyễn Tịch, Tiểu Nguyễn tức Nguyễn Hàm, người đời Tấn, đều nổi tiếng
về vần thơ.
[←145]
Tức
Ôn Đình Quân, Lý Hạ, Bạch Cư Dị, đều là những nhà thơ nổi tiếng đời Đường.
[←146]
Giả
Nghị đời Hán, bị dèm pha phải đày ra Trường Sa.
[←147]
Nơi
biên cương chỉ có chim nhạn mới qua được.
[←148]
Cộng
huyệt và đồng hôi có nghĩa là sống chết có nhau.
[←149]
Diệp
Pháp Thiện người đời Đường. Ông nhờ Lý Ung viết bài văn bia. Lý Ung không nhận.
Một hôm, Lý Ung nằm ngủ, mơ thấy mình viết bài văn bia. Khi tỉnh dậy, vẫn chưa
tin thì Diệp Pháp Thiện cầm bài văn đến.
[←150]
Tức
Lý Hạ đời Đường. Một hôm, có người con gái mặc áo đỏ đến mời Lý Hạ nói: “Ngọc Đế
đã làm xong lầu, mời ông lên làm bài ký”.
[←151]
Tức
Hằng Nga.
[←152]
Tức
Lạc thần.
[←153]
Đời
Tần Mục công, nàng Lộng Ngọc học sáo Tiêu Sử, sau hai người lấy nhau.
[←154]
Ống
sáo.
[←155]
Cõi tiên. [←156] Cõi tiên. [←157]Cõi tiên.[←158]Cõi tiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét