Gia tộc giàu có bậc nhất Trung Quốc thời bấy giờ trong phút chốc lâm vào cảnh nghèo khó... Tranh Tôn Ôn. |
Hồi 22.
Nghe
câu hát, Bảo Ngọc hiểu đạo thiền;
Đánh
đố thơ, Giả Chính lo lời sấm.
Nghe Phượng Thư nói, Giả Liễn đứng lại
hỏi việc gì. Phượng Thư nói:
Hai mươi mốt này là ngày sinh nhật cô
Bảo Thoa, cậu định làm thế nào?
Tôi biết đâu đấy, xưa nay bao nhiêu lễ sinh nhật lớn, một mình mợ lo liệu được cả, bây giờ hỏi, tôi chẳng biết làm thế nào?
Lễ sinh nhật lớn đã có lệ sẵn, nhưng lần
này lớn không ra lớn, nhỏ không ra nhỏ, vì thế phải bàn với cậu.
Giả Liễn cúi đầu nghĩ ngợi một lúc
nói:
Mợ lẩn thẩn thật! Kể ra cũng có: lễ
sinh nhật cô Lâm tức là lệ đấy. Năm ngoái mợ làm cho cô Lâm thế nào, năm nay
cũng nên làm cho cô Bảo như thế.
Phượng Thư cười nhạt:
Dễ thường tôi không biết? Tôi cũng đã
nghĩ đến. Nhưng vì hôm qua bà hỏi đến sinh nhật của mọi người, nghe nói cô Bảo
năm nay mười lăm tuổi, không những là ngày sinh nhật, mà lại đến tuổi cập
kê198 rồi. Người bảo muốn làm lễ sinh
nhật cho cô ấy, tất nhiên không giống như của cô Lâm.
Nếu thế thì làm to hơn một chút.
Tôi cũng nghĩ như thế, nên mới phải hỏi
cậu, cứ tự tiện làm, cậu lại kêu sao không nói trước.
Thôi, thôi! Tử tế nước bọt ấy tôi
không cần. Mợ không tra hỏi tôi là được rồi, tôi còn trách mợ nữa ư?
Nói xong hắn đi một mạch.
Sử Tương Vân đã ở chơi hai ngày, muốn
xin về. Giả mẫu bảo:
Cháu hãy ở lại, đến ngày sinh nhật chị
Bảo, xem hát xong sẽ về.
Tương Vân vâng lời ở lại, sai người về
nhà lấy hai bức thêu của mình sang mừng Bảo Thoa.
Từ ngày Bảo Thoa đến, Giả mẫu thấy cô
ta là người đứng đắn, hòa nhã, nên rất yêu. Nhân gặp ngày sinh nhật lần thứ mười
lăm của cô ta, Giả mẫu bỏ ra hai mươi lạng bạc gọi Phượng Thư đến bảo sửa tiệc
rượu, bày trò chơi.
Phượng Thư nhân lúc vui, nói pha trò:
Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế
nào không được, còn ai dám nói? Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho
bữa tiệc vừa vui vừa nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có
hai mươi lạng bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu
phải bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi tròn,
thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà thử nghĩ xem,
ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú Bảo rước bà lên Ngũ Đài
Sơn199 thôi à? Sao cái gì bà cũng ki
cóp để dành cho chú ấy!
Chúng cháu tuy không đáng được dùng của
này, nhưng bà cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc
rượu và bày trò chơi không?
Nghe nói, cả nhà cười rộ lên. Giả mẫu
cũng cười:
Các người hãy nghe cái mồm nó kìa! Kể
ra ta nói cũng khéo, nhưng bì thế nào được với con quái ấy! Mẹ chồng nó cũng
còn chẳng dám nỏ mồm, nó lại cứ lem lém với ta à?
Phượng Thư cười:
Mẹ chồng cháu cũng thương Bảo Ngọc như
bà, cháu không có chỗ nào kêu oan! Bây giờ bà lại bảo cháu là nỏ mồm!
Giả mẫu nghe nói rất vui, lại phì cười
một lần nữa.
Đến chiều, mọi người đều đến nhà Giả mẫu.
Thăm hỏi xong, cả nhà, mẹ con, chị em chuyện trò vui vẻ. Giả mẫu hỏi Bảo Thoa
thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già,
thích nghe những vở hát vui nhộn, thích ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái
gì Giả mẫu thường thích, kể ra một lượt. Giả mẫu lại càng vui. Hôm sau Giả mẫu
cho mang quần áo, đồ chơi đến mừng. Vương phu nhân, Phượng Thư, Đại Ngọc, kẻ
nhiều người ít, đều mang đồ mừng sang.
Đến ngày hai mươi mốt, trong nhà Giả mẫu
dựng một cái sân khấu xinh đẹp, chọn một ban hát mới có cả hai điệu côn và giặc200. Tiệc rượu thân mật đặt trong buồng
Giả mẫu, có Tiết phu nhân, Sử Tương Vân và Bảo Thoa là khách, còn đều là người
trong nhà cả.
Hôm ấy, sáng sớm dậy, Bảo Ngọc không
thấy Đại Ngọc, bèn đến buồng tìm, gặp Đại Ngọc đang nằm nghiêng trên giường. Bảo
Ngọc cười nói:
Thôi dậy ăn cơm, rồi đi xem hát! Em
thích nghe vở nào, anh sẽ chấm cho.
Đại Ngọc cười nhạt:
Anh đã nói thế, phải tìm riêng một ban
hát, chọn những bài nào em thích thì hát cho em nghe, chứ đi nghe nhờ thì đừng
hỏi nữa.
Bảo Ngọc cười:
Việc ấy khó gì? Ngày mai anh gọi một
ban hát đến đây, thế là họ lại phải nghe nhờ chúng ta.
Nói xong kéo Đại Ngọc dậy, dắt tay
nhau đi ăn cơm.
Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm.
Từ chối mãi không được, Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả
mẫu vui lắm, lại bảo Phượng Thư. Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười
đùa, nên chấm ngay vở "Lưu Nhị đương ỳ". Giả mẫu lại càng vui, rồi lại
bảo Đại Ngọc. Đại Ngọc xin nhường cho Vương phu nhân, Tiết phu nhân chấm trước.
Giả mẫu nói:
Hôm nay ta cốt cùng các cháu bày cuộc
vui. Chúng ta cứ biết chúng ta, đừng nghĩ đến các bà ấy. Nhất là bày ra tiệc rượu,
ca hát có phải vì các bà ấy đâu! Các bà ấy được nghe hát, uống rượu, thế là tốt
rồi, lại còn phải mời chấm vở nữa kia à!
Nghe nói cả nhà cười ầm lên.
Đại Ngọc chấm xong một vở, rồi đến Bảo
Ngọc, Sử Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và Lý Hoàn đều chấm cả.
Các vở cứ lần lượt theo thế mà diễn.
Đến lúc vào tiệc rượu, Giả mẫu lại sai
Bảo Thoa chấm vở. Bảo Thoa chấm vở Lỗ Trí Thâm say rượu làm nhộn ở núi Ngũ Đài.
Bảo Ngọc hỏi Bảo Thoa:
Chị chỉ thích nghe những vở hát ấy!
Anh nghe hát đã mấy năm nay, vẫn không
biết, vở này dàn cảnh và lời văn đều hay cả.
Tôi sợ những vở này nhộn quá.
Vở này mà bảo là nhộn! Anh thật không
biết nghe hát! Lại đây tôi nói cho mà nghe. Đây là một điệu Bắc: Điểm
giáng thần. Điệu rất du dương trầm bổng. Âm luật lại càng không cần phải
nói. Về lời văn có bài Ký sinh thảo rất hay, chắc anh chưa được nghe
bao giờ.
Bảo Ngọc thấy nói bài ấy văn hay, liền
xích lại gần:
Xin chị đọc cho tôi nghe. Bảo Thoa liền
đọc:
Anh
hùng chùi nước mắt,
Xử
sĩ tiếc chi nhà.
Lạy
Di Đà, cắt tóc dưới tòa sen Phật.
Hết
duyên pháp, chớp mắt thành ly biệt,
Trần
trùi trụi, đi về không vướng víu.
Tìm
đâu tá, nón mưa áo khói một mình đi?
Mặc
kệ ta, giày rơm bát vỡ theo duyên đến!
Bảo Ngọc nghe xong, thích quá, vỗ đùi,
lắc đầu, khen mãi. Lại khen Bảo Thoa học rộng, không sách nào không biết.
Đại Ngọc bĩu môi:
Hãy im mà nghe, chưa hát vở Sơn môn201 anh lại đã muốn Trang phong202 rồi.
Tương Vân ngồi đó phì cười. Mọi người
nghe hát đến khuya mới tan.
Giả mẫu yêu nhất hai đứa bé đóng vai nữ
và vai hề, bảo người dắt chúng lên, thấy rất đáng thương. Hỏi tuổi, đứa đóng
vai nữ mới mười một, đứa đóng vai hề mới lên chín. Mọi người đều than thở. Giả
mẫu sai lấy đồ ăn và hai quan tiền thưởng cho chúng. Phượng Thư cười nói:
Thằng bé này lúc đóng vai nữ trông hệt
như một người, thế mà chẳng ai biết cả.
Bảo Thoa hiểu ra ngay, chỉ gật đầu
không nói gì. Bảo Ngọc cũng gật đầu không dám nói. Tương Vân mau miệng nói:
Tôi biết rồi, trông giống cô Lâm.
Nghe vậy, Bảo Ngọc vội đưa mắt ra hiệu
cho Tương Vân. Mọi người để ý nhìn kỹ, rồi cười ầm lên: "Quả là giống cô
Lâm thật". Một lúc tiệc tan.
Đêm về, Tương Vân sai Thúy Lũ xếp quần
áo, đồ đạc. Thúy Lũ hỏi:
Việc gì mà cô vội thế, lúc nào đi thu
xếp cũng vừa.
Sáng mai về sớm. Ở đây làm gì nữa? Mày
không thấy nét mặt người ta có vẻ không ưa đấy à?
Bảo Ngọc nghe thấy, vội đến kéo Tương
Vân lại:
Em hiểu lầm tôi. Em Lâm là người hay
chấp, ai cũng biết cả, nhưng không muốn nói ra, vì sợ em Lâm giận. Ngờ đâu em
buột mồm nói ngay, em Lâm lại không giận à? Tôi sợ em làm mất lòng em Lâm, nên
đưa mắt ra hiệu. Bây giờ em lại giận tôi, há chẳng phụ lòng tôi hay sao? Nếu phải
như ai, dù có gây chuyện với mười người, tôi cũng mặc kệ chẳng liên quan gì đến
tôi!
Tương Vân hất tay:
Những giọng văn hoa ấy đừng nói với
tôi, tôi bì thế nào được với cô Lâm nhà anh! Người ta nói đùa cô ấy thì được,
tôi nói lại có lỗi ngay. Tôi vốn không đáng nói chuyện với cô ta, cô chủ nhà,
tôi chỉ là hạng con hầu đầy tớ thôi!
Bảo Ngọc vội nói:
Thế ra vì em lại thành ra tôi có lỗi với
em. Nếu tôi xấu bụng, xin lập tức hóa ra tro, cho mọi người giầy xéo lên.
Tương Vân nói:
Đầu giêng năm mới, đừng có mở miệng là
nói những câu nhảm nhí. Anh có thề, cứ thề với cái người tính nết nhỏ nhen, động
một tí là giận dỗi; thề với cái người cai quản được anh ấy! Đừng để cho tôi phải
bực mình với anh!
Tương Vân nói xong, hầm hầm đến ngay
buồng Giả mẫu nằm xoài ra.
Bảo Ngọc chán ngán, lại đến tìm Đại Ngọc.
Ngờ đâu vừa bước chân vào cửa, Đại Ngọc đã đẩy ra, đóng sập cửa lại. Bảo Ngọc
không hiểu ra sao, đứng ngoài cửa sổ khẽ gọi: "Em ơi! Em ơi!" Đại Ngọc
mặc kệ không trả lời, Bảo Ngọc buồn quá, đứng rũ đầu không nói gì. Tử Quyên biết
rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng chắc khuyên can ngay cũng chẳng được nào. Bảo Ngọc
vẫn đứng ngẩn ở ngoài.
Đại Ngọc tưởng Bảo Ngọc đã về, mở cửa
ra, thấy Bảo Ngọc vẫn đứng đấy, không tiện đóng lại. Bảo Ngọc theo vào hỏi:
Việc gì cũng phải có duyên do, cứ nói
ra để cho người ta khỏi áy náy. Sao tự nhiên em lại đâm ra giận dỗi?
Đại Ngọc cười nhạt:
Tôi ấy à! Chẳng biết ra làm sao cả.
Các người định đem tôi ra đùa! Đem tôi ví với con hát để làm trò cười cho các
người!
Tôi chẳng ví em, cũng chẳng cười em
bao giờ, làm sao em lại giận tôi?
Anh còn phải ví, còn phải cười! Anh
không ví, không cười, nhưng so với người ví, người cười lại độc ác hơn.
Bảo Ngọc nghe nói, chẳng biết phân trần
thế nào, lặng lẽ không nói nửa lời.
Đại Ngọc lại nói:
Điều ấy còn có thể tha thứ được. Nhưng
làm sao anh lại còn đưa mắt cho con Vân? Bụng dạ anh là thế nào? Có phải anh
cho rằng người ta đùa với tôi là người ta tự hạ thấp con người xuống không? Người
ta là tiểu thư nhà công hầu, tôi là con nhà bình dân. Người ta đùa tôi, lỡ tôi
nói lại, chẳng hóa ra làm mất giá đi hay sao? Có phải anh nghĩ thế không? Có thể
là bụng anh tốt nhưng người ta không nhận cái tốt ấy, cũng lại giận anh. Anh lại
đem tôi ra để lấy lòng người ta, bảo là tôi "tính nết nhỏ nhen, động một
tí là giận dỗi". Anh lại sợ người ta gây chuyện với tôi để tôi giận người
ta. Tôi giận người ta hoặc người ta gây chuyện với tôi thì việc gì đến anh?
Bảo Ngọc nghe thế, biết câu chuyện
mình nói nhỏ với Tương Vân vừa rồi, Đại Ngọc nghe thấy cả, nghĩ bụng: "Chỉ
vì mình sợ hai người giận nhau, nên ở giữa giàn xếp, không ngờ cả hai lại đều
lèo nhèo trách móc mình. Đúng như kinh Nam hoa đã nói: Người khéo chỉ tổ nhọc
xác, người khôn chỉ tổ lo phiền, người đần độn không cần gì cả, cứ việc ăn chơi
thảnh thơi như thuyền không buộc vào cọc, lênh đênh trôi giữa dòng sông. Lại có
câu: Rừng núi tự gọi kẻ cướp đến, sông ngòi tự gọi kẻ trộm đến203. Càng nghĩ càng thấy chẳng thú vị gì;
xét cho cùng, bây giờ chỉ có vài người, mà mình không thu xếp cho êm thấm, thì
sau này còn làm gì nên thân?" Nghĩ đến đó, Bảo Ngọc không buồn phân trần,
liền quay về buồng. Đại Ngọc thấy vậy, biết Bảo Ngọc chán nản, bực bội bỏ đi,
chẳng nói câu gì, nên càng bực mình thêm, liền nói: "Từ rày, suốt đời đừng
đến đây nữa cũng xong!"
Bảo Ngọc không để ý đến câu nói ấy, về
nằm sõng sượt ở giường, buồn thiu. Tập Nhân biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng
không dám nói, chỉ muốn đánh lảng ra việc khác cho khuây khỏa, nhân cười hỏi:
Hôm nay nghe hát rồi, mai kia chắc cậu
lại được nghe nữa. Thế nào cô Bảo chẳng mời lại.
Bảo Ngọc cười nhạt:
Mời lại hay không, có việc gì đến tôi!
Tập Nhân thấy câu nói khác thường, bèn
cười:
Thế là thế nào? Năm mới tốt lành, mẹ
con, chị em ai cũng vui vẻ cả, sao cậu lại thế?
Mẹ con chị em người ta vui hay không,
cũng không can gì đến tôi!
Cả nhà vui thì cậu cũng nên vui một tí
có hơn không?
Cả nhà là thế nào? Họ có người này người
nọ chứ tôi thì chỉ trần trùi trụi, chả bấu víu vào đâu cả?
Nói đến đây, Bảo Ngọc tự nhiên nhỏ nước
mắt. Tập Nhân thấy quang cảnh ấy, không dám hỏi nữa. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ câu vừa
rồi, khóc òa lên, đứng phắt dậy, đến bên án thư cầm bút viết một câu kệ:
Người
chứng, ta chứng204, lòng chứng, ý chứng.
Đã
không có chứng, mới gọi là chứng.
Không
có gì chứng, mới là chỗ đứng.
Viết xong, bản thân tuy đã hiểu, nhưng
sợ người xem không hiểu, Bảo Ngọc lại viết thêm khúc "Ký sinh thảo" ở
sau kệ, rồi đọc lại một lượt, trong bụng thấy khoan khoái, không vướng víu gì,
liền lên giường ngủ.
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc vừa rồi đi ra một
cách quả quyết, bèn lấy cớ đến hỏi thăm Tập Nhân để xem ý tứ ra sao. Tập Nhân
nói:
Cậu ấy đi ngủ rồi.
Đại Ngọc muốn về ngay. Tập Nhân lại
nói:
Cô hãy đứng lại xem cái giấy này trong
viết những gì?
Rồi đem tờ giấy Bảo Ngọc vừa viết đưa
cho Đại Ngọc xem. Biết Bảo Ngọc vì một lúc tức giận mà làm ra bài này, đáng cười
lại đáng than, Đại Ngọc liền bảo Tập Nhân:
Cậu ấy viết đùa đấy, chẳng có gì đâu.
Nói xong cầm tờ giấy về buồng.
Đến hôm sau, Đại Ngọc đưa cho Bảo
Thoa, Tương Vân cùng xem. Bảo Thoa đọc lên có những câu:
Không
phải ta không phải người,
Theo
ai nhưng chẳng biết là ai?
Tha
hồ đi lại không vướng mắc,
Vui
vẻ hão huyền thôi cũng mặc.
Thân
sơ ai có kể làm chi!
Trước
đây lận đận bởi duyên gì?
Bây
giờ nghĩ lại thật là vô vị!
Bảo Thoa đọc xong, xem lại những câu kệ,
cười nói:
Người này đã tỉnh ngộ rồi đây. Đó là lỗi
ở tôi, vì hôm qua tôi đọc cho anh ấy nghe một bài hát, thành ra gợi chuyện này.
Những lời bí ẩn trong sách đạo dễ làm người ta thay đổi tính tình. Sau này anh ấy
cứ cho những câu nói gàn dở là phải, lúc nào bụng cũng nghĩ vớ vẩn, há chẳng phải
là tự tôi đọc một bài hát mà sinh ra lắm chuyện hay sao? Tôi thật là đầu têu việc
này!
Nói xong, Bảo Thoa xé vụn tờ giấy, bảo
a hoàn đốt đi. Đại Ngọc cười nói:
Cần gì phải xé, để tôi hỏi anh ta. Chị
em cứ theo tôi. Tôi sẽ làm cho anh ta chừa những ý nghĩ ngây ngô đi.
Ba người cùng sang gặp Bảo Ngọc. Đại
Ngọc cười, nói:
Anh Bảo Ngọc, tôi hỏi anh! Quý nhất là
của "bảo", bền nhất là "ngọc". Anh có gì là quý, là bền?
Bảo Ngọc không trả lời được. Ba người
đều cười nói:
Ngu ngốc như thế mà muốn "tham
thiền"205.
Đại Ngọc nói:
Anh nói trong kệ: không có gì chứng mới
là chỗ đứng, câu ấy cũng đúng, nhưng cứ ý tôi thì chưa đủ, nên nói thêm câu
này:
Không có chỗ đứng, mới thực can tịnh206.
Bảo Thoa cười nói:
Đúng đấy, như thế mới là hiểu thấu đạo
Phật. Ngày trước vị tổ thứ sáu của Nam Tông là Huệ Năng đi tìm thầy, đến Thiều
Châu, nghe nói có vị tổ thứ năm là Hoẵng Nhẫn ở Hoàng Mai, liền vào xin làm
"hỏa đầu tăng"207. Tổ thứ năm muốn tìm người thừa tự đạo
Phật, bảo các sư mỗi người làm một bài kệ. Sư thượng tọa là Thần Tú
nói: Mình là cây bồ đề, lòng như đài gương sáng. Phải nên lau chùi luôn, đừng
để cát bụi bám. Bấy giờ sư Huệ Năng đương giã gạo ở dưới bếp, nói: "Hay
thì hay thực, nhưng chưa được trọn nghĩa". Nhân đọc một bài kệ: Bồ đề
nào phải cây, gương sáng nào phải đài, không có vật gì cả, đâu vướng bụi trần
ai. Tổ thứ năm bèn đem áo và bát208 truyền cho sư Huệ Năng. Câu kệ vừa
rồi cũng là nghĩa ấy, nhưng mới chỉ là câu bí ẩn, chưa hoàn toàn kết thúc,
không lẽ nửa chừng lại thôi hay sao?
Đại Ngọc cười nói:
Lúc nãy không trả lời được, thế là anh
ấy thua rồi; bây giờ có trả lời cũng chẳng lấy gì làm giỏi. Thôi từ nay trở đi
anh không được nói chuyện đạo Phật nữa. Ngay những điều hai chúng tôi biết, anh
cũng còn chưa hiểu, thế mà cũng đòi tham thiền!
Bảo Ngọc vẫn cứ cho mình là đã giác ngộ,
không ngờ bị Đại Ngọc hỏi một câu không trả lời được; lại đến Bảo Thoa lôi chuyện
trong Ngữ lục209 ra, đều là những chuyện đột ngột
bất ngờ. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Họ hiểu biết trước ta, cũng còn chưa giác ngộ,
sao ta lại tự chuốc lấy khổ não vào mình". Rồi cười nói:
Ai tham thiền? Chẳng qua nói đùa một
lúc đấy thôi. Sau đó, bốn người lại vui vẻ như cũ.
Chợt có người báo: Nguyên Phi sai người
mang đến cái đèn có viết câu đố, bảo mọi người đoán xem. Đoán xong, mỗi người
viết một câu dâng lên.
Bốn người nghe nói, vội chạy đến buồng
Giả mẫu, thấy một thái giám nhỏ mang cái đèn lụa trắng, bốn góc bằng nhau, trên
lụa đã viết sẵn câu đố. Mọi người tranh nhau đoán. Viên thái giám nhỏ nói:
Các vị đoán xong đừng nói ra, cứ viết
kín và niêm phong đệ lên để người xem ai đoán đúng.
Bảo Thoa đến gần thấy một bài thơ bốn
câu bảy chữ, không có gì mới lạ, nhưng cũng khen ngợi, kêu là khó đoán lắm. Rồi
giả cách như nghĩ ngợi, nhưng thực ra cô ta đã đoán được rồi. Bọn Bảo Ngọc, Đại
Ngọc, Tương Vân, Thám Xuân đều đoán cả. Lại gọi bọn Giả Hoàn, Giả Lan đến đoán.
Sau đó mỗi người lấy một vật gì làm thành câu đố, viết cẩn thận vào giấy và
treo lên đèn.
Viên thái giám đi về, đến chiều, đưa dụ
ra: "Bài của Quý phi đố, các vị đều đoán đúng cả, chỉ có cô Hai và cậu Ba
là đoán sai. Những câu đố của các vị tiểu thư, người đã đoán cả rồi, không biết
có đúng hay không?" Hắn giở những câu Nguyên Phi đoán ra, có câu đúng,
cũng có câu sai, kể lại một lượt. Viên thái giám lại đem những đồ thưởng ra cho
những người đoán đúng. Mỗi người được một cái ống đựng thơ do trong cung làm ra
và một cái thìa lấy bã chè. Chỉ có Nghênh Xuân, Giả Hoàn là không được gì cả.
Nghênh Xuân cho là trò chơi nhỏ nhặt không để ý đến, duy Giả Hoàn thì buồn bực.
Viên thái giám lại nói:
Câu đố của cậu Ba không thông, quý phi
không đoán, bảo tôi mang đến hỏi cậu Ba là cái gì?
Mọi người nghe nói, đến xem, thấy hắn
viết:
Anh
Cả có những tám sừng,
Anh
Hai chỉ có hai sừng mà thôi.
Trên
giường anh Cả ngồi chơi.
Cửa
buồng chồm chỗm anh Hai thích ngồi.
Xem xong, ai nấy cười ồ lên, Giả Hoàn
nói với viên thái giám:
Một câu là cái gối, một câu là đầu con
thú. Ghi xong, viên thái giám uống nước rồi về.
Giả mẫu thấy Nguyên Xuân có những trò
chơi hứng thú, lại càng vui thêm, bèn sai làm một cái đèn lồng rất khéo và đẹp,
để ở giữa nhà, bảo bọn chị em mỗi người viết một câu đố, dán ở ngoài đèn, rồi sửa
soạn những đồ thưởng, như chè thơm, quả tươi cùng các đồ chơi khác.
Giả Chính đi chầu về, thấy Giả mẫu
vui, vả lại, giữa ngày xuân, nên chiều hôm ấy ông ta cũng sang hầu để mẹ vui
thêm.
Mâm trên có Giả mẫu, Giả Chính và Bảo
Ngọc; mâm dưới có Vương phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tương Vân; dưới nữa là
Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân. Các bà hầu già và bọn a hoàn đứng hầu xung
quanh. Mâm gian trong thì Lý Hoàn và Vương Hy Phượng.
Giả Chính hỏi:
Sao không thấy Giả Lan đâu?
Bọn hầu vào hỏi Lý Hoàn. Lý Hoàn đứng
dậy cười nói:
Cháu nó không thấy ông gọi, nên không
chịu đến. Người hầu ra trình Giả Chính. Mọi người cười nói:
Thằng cháu ương gàn quá!
Giả Chính liền bảo Giả Hoàn và người hầu
gọi Giả Lan đến. Giả mẫu cho ngồi bên cạnh và cho ăn quả. Cả nhà chuyện trò vui
vẻ.
Bảo Ngọc xưa nay vẫn hay nói ba hoa,
nay có Giả Chính ngồi đấy, nên chỉ ngồi yên vâng vâng dạ dạ. Tương Vân tuy là
con gái, vốn thích chuyện trò cười đùa, nhưng cũng khóa miệng nốt. Đại Ngọc thì
hay làm vẻ không thích nói nhiều. Bảo Thoa thì hay giữ gìn cẩn thận, cũng ngồi
yên không nói gì. Thành ra tiệc vui trong gia đình, nhưng vẫn thấy gò bó.
Giả mẫu biết là có Giả Chính ở đấy,
nên uống hết ba tuần rượu, liền giục Giả Chính về nghỉ. Giả Chính biết ý Giả mẫu
bảo mình về để cho các cháu được thoải mái, liền cười nói:
Hôm nay được nghe bà đặt tiệc, đố đèn,
nên con mang rượu và lễ vật đến xin vào hội, sao bà lại không chia sẻ lòng
thương yêu các cháu cho con một chút nào?
Giả mẫu cười nói:
Vì anh ở đây, chúng nó không dám vui
cười, khiến ta buồn. Anh muốn đoán câu đố, ta ra cho một câu, nếu đoán không
đúng thì phải phạt.
Giả Chính vội cười:
Vâng, xin chịu phạt; nếu đoán đúng,
xin bà thưởng cho.
Cái ấy cố nhiên.
Rồi Giả mẫu đọc luôn:
Con
khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố
tên một thứ quả).
Giả Chính biết ngay là quả vải, nhưng
cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy thứ rồi mới đoán đúng. Giả mẫu lại thưởng cho mấy
thứ. Sau Giả Chính lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:
Mình
thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng đắn. (Đố một thứ đồ dùng).
Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền
nói:
Đó là cái nghiên. Giả Chính cười nói:
Bà đoán một lần đúng ngay.
Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn
hầu vâng lời mang hết khay lớn, khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là
đồ mới đẹp, để dùng vào ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui, liền bảo:
Rót rượu cho cha mày uống.
Bảo Ngọc rót rượu, Thám Xuân dâng rượu.
Giả mẫu bảo Giả Chính:
Những câu viết ở trên đèn lồng đều là
của chị em nó làm cả. Anh thử đoán đi cho ta nghe.
Giả Chính vâng lời, đến gần bình
phong, thấy một câu của Nguyên Phi viết:
Yêu
ma hồn vía còn chăng,
Mình
như cuốn lụa hơi đằng sấm ran.
Ai
nghe thấy cũng hết hồn,
Ngoảnh
đầu nhìn lại tro tàn khói bay.
(Đố một thứ đồ chơi)
Giả Chính nói: Đó là cái pháo.
Bảo Ngọc đáp: Đúng.
Giả Chính lại xem câu của Nghênh Xuân:
Trời
chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,
Người
xoay trời đứng cũng không xong,
Tại
vì tính toán quanh co mãi,
Mà
số âm dương vẫn chửa thông!
(Đố một thứ đồ dùng).
Giả Chính nói: Đó là bàn tính.
Nghênh Xuân cười nói: Đúng.
Giả Chính lại xem câu đố của Thám
Xuân:
Trẻ
con ngửa mặt nhìn trời,
Thanh
minh là tiết dong chơi hợp thì.
Mỏng
manh một sợi du ti,
Biệt
ly đừng có trách gì gió đông.
(Đố
một đồ chơi)
Giả Chính nói: Đó là cái diều.
Thám Xuân nói: Đúng.
Lại xem một bài:
Kiếp
trước long đong ngán phận mình,
Nghe
ca không thích thích nghe kinh!
Đừng
cho thân đã chìm trong bể,
Chói
lọi còn nguyên chữ tính linh.
(Đố một thứ đồ dùng)
Giả Chính đoán:
Đó là cái đèn đại hải trước cửa Phật.
Tích Xuân cười nói:
Đúng là đèn đại hải.
Giả Chính trong lòng suy nghĩ:
"Quý phi làm bài cái pháo là một thứ nổ tan tành; Nghênh Xuân làm bài cái
bàn tính là một thứ biến động lung tung; Thám Xuân đố cái diều là một thứ nhẹ
bay trước gió; Tích Xuân làm cái đèn đại hải, một thứ tịch mịch cô đơn. Lúc này
giữa tiết thượng nguyên, sao chúng nó lại chơi những trò quái gở ấy?" Giả
Chính càng nghĩ càng buồn. Chỉ vì đứng trước Giả mẫu nên ông ta không dám lộ ra
sắc mặt, đành cứ gắng gượng xem suốt lượt. Xem đến câu của Bảo Thoa là một bài
thơ thất ngôn:
Áo
chầu đầy khói để ai mang?
Đàn
đấy, chăn đây, luống bẽ bàng,
Chú
lính sớm không cần đếm thẻ,
Chị
hầu đêm cũng biếng thêm hương,
Vùi
đầu trải biết bao hôm sớm,
Đốt
ruột không nài mấy tuyết sương,
Thấm
thoát bóng xuân đà đáng tiếc,
Kể
gì thay đổi cuộc tang thương.
(Đố
một thứ đồ dùng)
Giả Chính xem xong, nghĩ bụng: "Vật
này cũng dễ đoán thôi. Có điều người còn ít tuổi mà đã nói ra những điềm không
hay. Xem ra không phải là hạng người được hưởng phúc". Nghĩ đến đấy, ông
ta cúi đầu im lặng, có vẻ thương cảm, mất hết tính tình vui vẻ lúc đầu.
Giả mẫu thấy thế, cho là Giả Chính đã
mệt, lại sợ các cháu bị gò bó, không được chơi đùa tự do, liền bảo:
Anh không cần phải ở đây nữa, về nghỉ
thôi, để ta ngồi chơi với các cháu một lúc.
Giả Chính trong lòng suy nghĩ: "Quý phi làm bài cái pháo là một thứ nổ tan tành; Nghênh Xuân làm bài cái bàn tính là một thứ biến động lung tung; Thám Xuân đố cái diều là một thứ nhẹ bay trước gió; Tích Xuân làm cái đèn đại hải, một thứ tịch mịch cô đơn. Lúc này giữa tiết thượng nguyên, sao chúng nó lại chơi những trò quái gở ấy?" Giả Chính càng nghĩ càng buồn.
Giả Chính nghe nói, vâng lời, lại cố mời Giả mẫu uống thêm một tuần rượu nữa, rồi xin phép ra về. Đến buồng, ông ta ngẫm nghĩ mãi, càng thấy buồn thiu, trằn trọc không sao ngủ được.
Giả mẫu thấy Giả Chính về rồi, bảo:
Bây giờ các cháu vui chơi đi.
Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc đã như
con khỉ sổ xích, chạy đến trước cái đèn lồng, chỉ đông chỉ tây, chê bai luôn mồm,
câu này không hay, câu kia không đúng. Bảo Thoa liền nói:
Cứ ngồi một chỗ mà cười nói như trước,
có phải đứng đắn hơn không? Phượng Thư ở trong nhà chạy ra nói góp:
Hạng người như chú, thì phải bắt ở liền
bên ông, không được rời đi một bước mới được. Vừa rồi quên mất, làm sao trước mặt
ông lại không bắt chú làm mấy câu đố? Sợ chú lại không toát mồ hôi!
Bảo Ngọc vội nắm lấy Phượng Thư, nũng
nịu một lúc. Giả mẫu cùng với Lý Hoàn và bọn chị em cười nói một hồi, chừng đã
mệt, xem đồng hồ đã canh tư, liền sai mang các thứ đồ ăn thưởng cho người nhà,
rồi đứng dậy nói:
Thôi chúng ta đi nghỉ, mai còn là ngày
tết, nên dậy sớm một tí, đến chiều lại chơi. Tiệc tan, mọi người ra về.
Chú
thích.
[←198]
Theo
tục cổ ở Trung Quốc, con gái đến mười lăm tuổi thì cài trâm.
[←199]
Tên
một quả núi thuộc tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Tương truyền nơi Phật hóa thân.
[←200]
Côn
sơn và Giặc đương là hai điệu hát. Côn thuộc về nhã nhạc. Giặc thuộc về tạp hí.
[←201]
Tích
Lỗ Trí Thâm say rượu… nói ở trên.
[←202]
Tên
một khúc hát, diễn tích Uất Trì Kính Đức đời Đường giả điên. Ở đây Đại Ngọc
dùng tiếng song quan để giễu Bảo Ngọc. Câu này còn có nghĩa: chưa hát
"Sơn môn" anh đã giả điên.
[←203]
Ý
nói những chỗ rừng núi sông ngòi tự nhiên thành chỗ tụ tập của kẻ cướp kẻ trộm.
[←204]
Bài
kệ này viết theo giáo lý nhà Phật. Chứng là theo bằng chứng, giáo nghĩa là giáo
lý. Chứng có nhiều bực, từ sắc giới đi đến không giới. Bài kệ này là theo ý bài
"Ký sinh thảo" trong vở Sơn môn mà Bảo Ngọc suy rộng ra.
[←205]
Hiểu
theo đạo Phật.
[←206]
Sạch
sẽ và im lặng. Câu này theo nghĩa bài kệ trên, lên cao một bậc nữa, tức là
thoát hẳn ra "không giới".
[←207]
Sư
nấu bếp.
[←208]
Áo
là áo cà sa, bát là bát khất thực (xin ăn). Theo tục lệ đạo Phật ngày trước,
các tín đồ nuôi các sư, đến bữa vác bát đi lấy cơm, gọi là khất thực, nhà sư
tùy thân chỉ có cái áo và cái bát, sư thầy truyền đạo cho người thừa tự, gọi là
"truyền y bát".
[←209]
Sách
chép những triết học, tư tưởng và ngôn luận của các danh tăng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét