Tranh Đới Đôn Bang |
HỒI 96.
Một thời lưu lạc
Quang âm thấm thoắt, ngày hai mươi mốt tháng giêng, Xuân Mai nói với chồng, soạn lễ vật rất hậu, gồm hoa quả bánh trái rượu thịt, sai gia nhân là Chu Nhân đem tới biếu Nguyệt nương, một là để giỗ Tây Môn Khánh, Tây Môn Khánh mất đã ba năm, hai là để mừng sinh nhật của Hiếu ca nhi.
Nguyệt nương nhận lễ vật, thưởng cho
Chu Nhân một chiếc khăn và ba tiền mà cho về. Lại viết thiếp, sai Đại An đem tới
phủ Thủ Bị. Thiếp viết rằng:
“Kính gửi Chu phu nhân, cảm tạ phu
nhân đã cho lễ quá hậu, nên có chén rượu nhạt, kính thỉnh phu nhân tới để tạ
ơn, xin phu nhân dời gót quang lâm cho, chớ nên phụ lòng, Tây Môn Ngô thị bái
thỉnh.”
Xuân Mai nhận thiếp mời, khoảng gần
trưa thì tới. Hôm đó Xuân Mai vàng đeo ngọc giắt đầy người, mình mặc áo đại hồng
bằng gấm thêu hình kỳ lân, quần gấm thuý lam thêu bách hoa, ngồi cỗ kiệu lớn bốn
người khiêng, quân hầu đi trước hô hoán dẹp đường, gia nhân a hoàn xúm xít theo
sau, lại cho đem thêm lễ vật tới. Đoàn người ngừng lại trước cổng. Gia nhân vào
báo.
Trong này Nguyệt nương đã mời Ngô Đại
cữu mẫu tới phụ mình tiếp khách, cũng cho gọi hai ca nữ tới để đàn hát trước tiệc.
Mọi thứ chuẩn bị sẵn sàng thì nghe gia nhân báo là Xuân Mai tới, Nguyệt nương
và Ngô Đại cữu mẫu ra tận cổng trong nghênh tiếp. Hôm đó Nguyệt nương đội mũ
ngũ lương, đeo nhiều trang sức quý, mặc áo đoạn bạch, quần đoạn thuý lam.
Đôi bên chủ khách cùng lên đại sảnh
thi lễ rồi ngồi trò chuyện. Nguyệt hương bảo:
– Lần trước thư thư phí tâm lo việc
giùm tôi mà không chịu nhận hết lễ vật tạ ơn, hôm nay lại cho lễ hậu quá, tôi
thật muôn vàn cảm kích.
Xuân Mai nói:
– Đại nương dạy quá lời, chẳng biết có
gì đem tới, chỉ có chút lễ mọn để tỏ cái tình mà thôi. Tôi muốn thỉnh Đại nương
tới chơi mà chưa thỉnh được.
Nguyệt nương hỏi:
– Xin cho biết sinh nhật của thư thư
là vào ngày nào để tôi sẽ đem lễ tới mừng.
Xuân Mai đáp:
– Sinh nhật của tôi là ngày hai mươi
lăm tháng tư.
Nguyệt nương nói:
– Tôi nhớ rồi, nhất định là ngày đó
tôi sẽ tới.
Xuân Mai lại xin Nguyệt nương ngồi để
lạy hai lạy, sau đó lại lạy chào Ngô Đại cữu mẫu, hai người đều đáp lễ cung
kính. Sau đó mọi người an tọa.
Nguyệt nương gọi hết gia nhân a hoàn tới
lạy chào Xuân Mai. Xuân Mai thấy nhũ mẫu Như Ý bồng Hiếu ca nhi thì gọi lại hỏi
han.
Nguyệt nương hỏi:
– Đại ca không lạy chào thư thư đi, hôm
nay thư thư tới đây là mừng sinh nhật của đại ca đấy.
Hiếu ca nhi tụt xuống, chạy tới trước
mặt Xuân Mai mà vái chào. Nguyệt nương mắng yêu con:
– Thằng này sao không quỳ lạy tử tế mà
chỉ đứng vái vậy?
Nguyệt nương bắt con lạy tạ rồi nói:
– Thật làm thư thư phí tâm quá.
Tiếp đó Tiểu Ngọc và Như Ý cùng đến lạy
chào. Xuân Mai cho Tiểu Ngọc một cặp trâm vàng, cho Như Ý hai bông hoa bạc.
Nguyệt nương bảo:
– Chắc là thư thư chưa biết, Như Ý bây
giờ là vợ của Lai Hưng, vợ cũ của Lai Hưng chết rồi.
Xuân Mai nói:
– Như vậy cũng tốt. Hai vợ chồng chịu
khó ở đây mà hầu hạ Đại nương.
Qua vài tuần trà, Nguyệt nương nói:
– Để mời thư thư vào hậu sảnh ngồi,
ngoài này hơi lạnh.
Xuân Mai vào trong, ngừng lại trước
bàn thờ Tây Môn Khánh thắp hương vái lạy rồi ứa nước mắt.
Thắp hương xong, Xuân Mai theo Nguyệt
nương vào hậu sảnh, nơi đây bàn tiệc dọn sẵn, nhưng Nguyệt nương mời dùng thêm
vài tuần trà nữa.
Lát sau, Nguyệt nương mời Xuân Mai
thay áo rồi nhập tiệc. Xuân Mai thay áo tơ màu tía đinh hương, quần đoạn bạch
thêu kim tuyến cực kỳ trang nhã.
Nguyệt nương hỏi:
– Ca nhi ở nhà chơi ngoan không? Sao
hôm nay không cho ca nhi đi theo?
Xuân Mai đáp:
– Đáng lẽ cũng cho cháu tới lạy chào Đại
nương, nhưng lão gia tôi sợ là trời lạnh, ra ngoài e gặp gió nên không cho đem
đi. Mấy hôm nay không hiểu sao cháu chẳng chịu chơi mà chỉ khóc.
Nguyệt nương hỏi:
– Thư thư đi thế này rồi ca nhi ở nhà
không có mẹ, khóc đòi mẹ thì sao?
Xuân Mai đáp:
– Ở nhà đã có hai nhũ mẫu thay phiên
chăm sóc, lại có bốn a hoàn trông giữ rồi.
Nguyệt nương bảo:
– Chu lão gia cũng lớn tuổi, nay được
thư thư cho một đứa con trai như vậy quả là đại phúc. À mà nghe nói Tôn Nhị
nương cũng có một thư nhi, năm nay được mấy tuổi rồi?
Xuân Mai đáp:
– Thư nhi của nhị nương trong phủ
chúng tôi tên là Ngọc Thư, năm nay mới bốn tuổi.
Nguyệt nương hỏi tiếp:
– Nghe nói là lão gia bên quý phủ còn
có hai nàng hầu phải không?
Xuân Mai đáp:
– Hai đứa đó là a hoàn, cho học đàn
hát để mua vui trong nhà thôi.
Nguyệt nương lại hỏi:
– Lão gia có hay gọi chúng nó lên hầu
không?
Xuân Mai đáp:
– Lão gia tôi làm gì có thời giờ ở nhà
nhiều mà nghĩ chuyện này kia, thường là ở ngoài nhiều hơn. Hồi này trộm đạo nổi
lên nhiều nơi trong hạt mình, triều đình gửi sắc thư về bắt lão gia tôi kiêm
thêm nhiều việc nữa, nào là trấn thủ địa phương, nào là tuần lý sông ngòi, nào
là trị tội trộm cướp, nào là thao luyện nhân mã, nhọc nhằn vất vả lắm, ít khi ở
nhà.
Qua vài tuần rượu, Xuân Mai nói:
– Xin đại nương cho phép tôi được qua
hoa viên để tới thăm lại phòng cũ của Ngũ nương tôi lúc trước.
Nguyệt nương đáp:
– Thư thư không biết, từ sau khi lão
gia tôi tạ thế thì hoa viên phòng ốc không ai chăm sóc, cây cối trong vườn tàn
héo cả mà phòng ốc thì dơ bẩn lạnh lẽo lắm.
Xuân Mai đáp:
– Không sao, Đại nương cứ cho phép tôi
tới thăm lại phòng cũ của Ngũ nương tôi lúc trước một chút thôi.
Nguyệt nương không từ chối được, phải sai Tiểu Ngọc lấy chìa khóa mở cổng hoa viên, rồi cùng Ngô Đại cữu mẫu dẫn Xuân Mai vào.
Cảnh trong hoa viên ngày nay thật tiêu
điều, tường hoa rêu phủ, đình tạ ngả nghiêng, cỏ dại mọc đầy những lối đi, che
khuất cả những hàng gạch quý lót đường. Những giàn hoa đẹp ngày trước nay đã
xác xơ, ao hồ lúc trước đẹp biết bao, nay nước dơ đục, cây cỏ rác rến nổi lều bều
trên mặt nước, những tòa nhà mát lúc xưa bây giờ là nơi ra vào của dơi và chuột.
Xuân Mai chậm bước, nhìn lại cảnh xưa,
trong lòng không khỏi bâng khuâng xúc động.
Qua tòa nhà Bình Nhi ở trước, xung
quanh cỏ cao tới cửa, mái ngói rêu phong, quang cảnh u tịch tiêu điều. Tới tòa
nhà Kim Liên ở trước, thấy bên trong dơ dáy trống trơn, bèn quay lại hỏi Tiểu
Ngọc:
– Cái giường cũ của Ngũ nương lúc trước
đâu rồi, sao không thấy?
Tiểu Ngọc đáp:
– Lúc Tam nương lấy chồng thì Đại
nương cho Tam nương chiếc giường đó đem theo.
Nguyệt nương giải thích thêm:
– Lúc sinh tiền, gia gia lấy cái giường
đẹp của Tam nương mà cho Đại thư, sau Đại thư đem giường đó về bên chồng, nên
lúc Tam nương ra đi, tôi phải lấy cái giường của Ngũ nương để Tam nương đem
theo.
Xuân Mai gật gật đầu không nói, nhưng
xót xa nghĩ thầm:
– Mình tới đây mong nhìn lại vật cũ,
không ngờ lại về tay người khác rồi.
Lát sau lại hỏi:
– Còn cái giường quý mà lão gia mua
cho Lục nương lúc trước bây giờ đâu?
– Chuyện dài dòng lắm, nhưng nói tóm tắt
là từ ngày lão gia mất đi, trong nhà túng thiếu, nên đã phải nhờ người đem bán đi
rồi.
Xuân Mai hỏi:
– Bán được bao nhiêu?
Nguyệt nương đáp:
– Chỉ bán được độ ba mươi lăm lạng.
Xuân Mai nói:
– Tiếc quá nhỉ, lúc trước tôi có nghe
lão gia nói giường đó giá hơn sáu chục lạng. Nếu biết sớm thì tôi đã xin Đại
nương để lại cho tôi rồi.
Nguyệt nương bảo:
– Thế thì tiếc thật, nhưng không biết
thì làm thế nào.
Đang chuyện trò thì gia nhân của Chu
Thủ bị tìm đến thưa:
– Lão gia nói là phu nhân liệu về sớm
một chút, ca nhi ở nhà nhớ phu nhân, cứ khóc hoài.
Xuân Mai gật đầu rồi cùng mọi người trở
lại hậu đường, Nguyệt nương lại bảo Tiểu Ngọc khóa cổng hoa viên lại, rồi vào
tiệc tiếp tục mời Xuân Mai.
Nguyệt nương và Ngô Đại cữu mẫu thay
phiên nhau tự tay rót rượu mà mời. Hai ca nữ, một người đàn tranh, một người
đàn tỳ bà, đàn hát trước tiệc. Gia nhân tiếp tục đem thêm thức ăn lên, toàn những
cao lương mỹ vị.
Bữa tiệc kéo dài tới gần tối. Một đám
gia nhân của phủ Thủ Bị đem đèn tới rước chủ về, nhưng Nguyệt nương lưu giữ
Xuân Mai lại, đoạn gọi hai ca nữ tới bảo quỳ trước mặt Xuân Mai mà đàn hát, rồi
dặn thêm:
– Hai ngươi lựa những khúc thật hay
đàn hát hầu Chu phu nhân đây cho ta.
Đồng thời bảo Tiểu Ngọc rót đầy một
chung rượu lớn, rồi tự mình nâng lên mời Xuân Mai mà nói:
– Thư thư thích khúc hát gì, bảo hai đứa
này nó đàn hát, cho thư thư uống chung rượu này.
Xuân Mai nói:
– Thưa Đại nương, quả là tôi không uống
được nữa, vả lại cần về sớm không cháu ở nhà khóc.
Nguyệt nương nói:
– Thì ở nhà đã có hai nhũ mẫu và bốn a
hoàn coi sóc ca nhi rồi. Vả lại cũng hãy còn sớm, đi đâu mà vội.
Xuân Mai quay hỏi ca nữ:
– Các ngươi tên gì, ở nhà nào?
Hai ca nữ quỳ xuống thưa:
– Chúng tôi một người là Hàn Ngọc Xuyến
em của Hàn Kim Xuyến, một người là Trịnh Kiều Nhi cháu của Trịnh Ái Hương.
Xuân Mai hỏi:
– Các ngươi có thuộc khúc “Biếng điểm
trang” không?
Hai ca nữ đáp:
– Dạ chúng tôi thuộc.
Nguyệt nương bảo:
– Hai ngươi đã thuộc thì đàn hát cho
thật hay để ta mời rượu Chu phu nhân.
Tiểu Ngọc rót một chung rượu đầy để
Nguyệt nương mời Xuân Mai, trong khi hai ca nữ đàn hát, một người đàn tranh, một
người đàn tỳ bà, hát rằng:
“Tình oan sao cứ theo ta,
Nào hay xuân lại thu qua bao giờ.
Ai kia thấu nỗi tương tư,
Biết ta sầu muộn ngóng chờ vì ai.
Để ta lệ thảm lăn dài,
Cho ta buồn khổ, cho ai hững hờ.”
Nguyệt nương mời rượu, Xuân Mai uống cạn
thì khúc hát cũng dứt.
Nguyệt nương bảo Trịnh Kiều Nhi mời rượu
Xuân Mai. Xuân Mai nói:
– Xin để tôi mời Đại nương một chung.
Nói xong tự tay rót rượu mà mời. Hai
ca nữ lại hát:
“Vì ai lệ chảy đêm mưa,
Vì ai nhan sắc bơ phờ nhớ thương.
Vì ai lệ chảy canh trường,
Vì ai phụ bạc cho vương vấn sầu.”
Nguyệt nương uống cạn chung rượu. Xuân
Mai lại nói:
– Để tôi xin được rót mời Đại cữu mẫu
một chung.
Nguyệt nương bảo:
– Đại cữu mẫu không uống được nữa đâu.
Để bảo Tiểu Ngọc lấy chung nhỏ rót mời Đại cữu mẫu vậy.
Tiểu Ngọc rót rượu, hai tay nâng mời
Ngô Đại cữu mẫu. Hai ca nữ tiếp tục hát:
“Nhớ ai ngơ ngẩn canh thâu,
Vì ai đứng thảm ngồi sầu ngày đêm.
Thân gầy đứng tựa bên rèm,
Gót sen hờ hững bên thềm cô đơn.
Xưa kia khăng khít nào hơn,
Ai đi để khổ để buồn cho ai.”
Xuân Mai lại rót một chung, bảo Tiểu
Ngọc uống. Nguyệt nương nói:
– Phiền thư thư quá, nó không biết uống
rượu đâu.
Xuân Mai bảo:
– Không sao, Đại nương không biết chứ
nó có thể uống được vài ba chung, hồi trước còn ở đây, tôi đã có lần uống rượu
với nó.
Nói xong gọi Tiểu Ngọc lại bảo uống.
Hai ca nữ lại hát:
Nhớ thương suốt tháng ngày dài,
Buồn đau thành bệnh u hoài trong tâm.
Giường cao tựa gối mà nằm,
Một dòng lệ chảy cả trăm nỗi sầu.
Những khúc hát thật buồn, nhưng sở dĩ
Xuân Mai bắt ca nữ hát khúc này chỉ vì trong lòng lúc nào cũng nhớ đến Kính Tế.
Nghe hai ca nữ hát xong, Xuân Mai có cảm tưởng đã được người nói giùm nỗi lòng
mình, bèn gọi gia nhân Chu Nhân tới, thưởng cho mỗi ca nữ hai tiền. Hai ca nữ
buông đàn sụp lạy tạ ơn.
Xuân Mai lại thưởng cho nhà bếp ba tiền,
cho các a hoàn ba tiền, rồi đứng dậy cáo từ.
Nguyệt nương khẩn khoản lưu giữ không
được, đành tiễn ra tận cổng.
Xuân Mai lên kiệu mà về, gia nhân cầm
tám cái đèn lồng xúm quanh kiệu, quân hầu đi trước dẹp đường.
Thật là:
Hết thời, vàng cũng phai màu,
Được thời, gang sắt làu làu huy quang.
Từ ngày ăn tiệc ở nhà Nguyệt nương về,
Xuân Mai chỉ tơ tưởng đến Kính Tế, không biết giờ này Kính Tế lưu lạc nơi nào,
do đó cả ngày chỉ nằm trên giường, âu sầu ủ rũ. Chu Thủ bị đoán biết là Xuân
Mai nhớ tới Kính Tế, nhưng vẫn yên trí rằng Kính Tế là em họ của Xuân Mai, bèn
gọi Trương Thắng, Lý An tới hỏi:
– Ta đã dặn hai ngươi là phải tìm người
em họ của phu nhân, mời tới đây cho phu nhân gặp mặt, sao hai ngươi không chịu
nghe lời?
Trương Thắng đáp:
– Hai chúng tôi đã dụng công tìm kiếm,
nhưng mãi không thấy, nên đã có trình lại với phu nhân rồi.
Chu Thủ bị bảo:
– Ta hẹn cho hai ngươi năm ngày phải
tìm cho ra.
Trương Lý xịu mặt xuống, lạy chào cùng
nhau lang thang khắp nơi dò hỏi tông tích Kính Tế...
***
Về phần Kính Tế, từ hôm được thả ra,
tìm về miếu, nghe nói là sư phụ vì giận mình mà chết, thì sợ, không dám vào miếu,
lại cũng mặt mũi nào tìm đến với Vương Hạnh An, nên lại trở lại cuộc sống như
trước, ngày ngày lang thang kiếm ăn, đêm đêm ngủ vật vạ đầu đường xó chợ.
Một hôm Kính Tế đang lang thang trên
đường thì tình cờ trông thấy Dương Đại lang đầu đội mũ lụa, mình mặc áo đoạn,
cưỡi lừa mà đi, theo sau lại có một tên gia nhân. Kính Tế định thần nhìn kỹ lại
rồi lập tức chạy tới nắm đầu ngựa mà bảo:
– Dương đại ca, sao lâu nay đi đâu mà
tôi tìm không thấy. Từ ngày đại ca đem thuyền hàng của tôi từ bến Thanh Giang
đi, tôi có tới nhà đại ca tìm kiếm, nhưng lại bị Dương Nhị Phong chửi mắng đuổi
đánh, đuổi đến tận nhà tôi. Chỉ vì đại ca mà bây giờ tôi phải nghèo khổ như thế
này, bây giờ đại ca tính sao?
Dương đại lang mới đầu giật mình sợ
hãi, nhưng sau khi nhìn lại Kính Tế, thì cười sằng sặc mà bảo:
– Hôm nay ta ra ngõ gặp gái hay sao mà
đụng phải thằng du thủ du thực này. Mày đói quá hoa cả mắt rồi hay sao mà ăn
nói bậy bạ điên rồi vậy? Cỡ mày mà có một thuyền hàng hay sao? Mày có buông ra
không, tao đánh cho một trận bây giờ?
Kính Tế bảo:
– Bây giờ huynh có tiền, còn tôi thì
cùng khốn, huynh phải cho tôi chút ít qua ngày, nếu không mời huynh tới cửa
quan trả lời.
Dương Đại lang chẳng nói chẳng rằng,
nhảy ngay xuống dùng roi ngựa quất Kính Tế mấy cái thật lực rồi quát tên gia
nhân:
– Ngươi đuổi nó đi cho ta, ai quen biết
gì nó.
Tên gia nhân sấn tới xô Kính Tế ra,
Dương Đại lang lại nhảy theo đánh đá. Người đi đường bu lại coi, rồi một người cao
lớn, mũ áo chỉnh tề, mặt đỏ như gấc vẹt đám đông bước vào, gạt Dương Đại lang
ra một bên mà bảo:
– Sao lại xử sự như vậy? Người ta nhỏ tuổi, lại yếu đuối bần cùng, huynh đánh người ta làm gì? Vả lại nãy giờ tôi theo dõi thì người này chưa có lời gì xúc phạm tới huynh cả. Lúc trước người ta có tiền, huynh kết giao với người ta, bây giờ người ta nghèo khổ, huynh không thèm kết giao nữa thì thôi, sao lại đánh đập người ta? Tôi đi ngang thấy chuyện bất bình nên không thể không nói.
Dương Đại lang bảo:
– Huynh không biết, nó vu oan là tôi
cướp một thuyền hàng của nó. Huynh xem nó bần cùng như thế này mà làm sao có được
một thuyền hàng?
Người nọ nói:
– Chắc là trước đây hắn cũng khá giả,
bây giờ mới cùng khốn mà thôi. Theo tôi thì chẳng gì huynh cũng có kết giao với
hắn lúc trước, bây giờ huynh có tiền, nên cho hắn chút ít là hơn.
Dương Đại lang nghe người nọ nói vậy,
lại không muốn lôi thôi, bèn lấy ra bốn năm tiền, đưa cho Kính Tế, rồi chào người
nọ, lên lừa mà đi.
Kính Tế bị đánh ngã xuống đất, bây giờ
mới lồm cồm bò dậy, ngẩng mặt nhìn người nọ, thì không ai xa lạ, chính là một
tên đàn anh của Kính Tế trong thời gian lang thang lúc trước, tên là Hầu Lâm,
có biệt hiệu là Phi Thiên Quỷ[124].
Hầu Lâm hiện có công ăn việc làm tử tế,
đang chỉ huy năm chục nhân công, dựng điện Già Lam cho Hiểu Nguyệt Trưởng lão tại
Thủy Nguyệt tự ở phía nam ngoại thành.
Hầu Lâm cũng nhận ra Kính Tế, bèn cầm
tay dắt dậy mà bảo:
– Hiền đệ à, hồi nãy nếu không có tôi
thì làm sao thằng đó chịu bỏ tiền ra cho hiền đệ. Tôi nói mà nó không nghe, tất
nó sẽ ăn đòn ngay. Bây giờ thì hiền đệ theo tôi, mình vào một tửu điếm nói chuyện.
Hai người vào một tửu điếm gần đó. Hầu
Lâm gọi rượu rồi hỏi:
– Hiền đệ ăn cơm hay ăn mì?
Tửu bảo đứng bên nói:
– Cơm hay mì ở tiệm này đều ngon cả.
Kính Tế đáp:
– Tôi ăn mì.
Tửu bảo đem mì tới, Hầu Lâm chỉ ăn một
bát, Kính Tế ăn liền hai bát.
Hầu Lâm lại gọi thêm vài đĩa đồ ăn,
hai người uống rượu.
Hầu Lâm bảo:
– Hiền đệ à, tối nay hiền đệ về nghỉ với
tôi, ngày mai tôi dẫn hiền đệ tới chùa Thủy Nguyệt, giới thiệu với Hiểu Nguyệt
Trưởng lão để giúp hiền đệ có việc làm. Hiện tôi đang lãnh dựng điện Già Lam
cho nhà chùa và xây hai tăng phòng. Tôi cai quản năm chục nhân công, hiền đệ tới
đó, chẳng phải làm gì nhiều, chỉ cần gánh vài gánh đất là tôi tính cho hiền đệ
một công, được bốn năm phân tiền. Tôi cũng có căn phòng nhỏ, hiền đệ về ở với
tôi, có đi đâu thì cứ khóa cửa lại, như vậy có phải hơn là lang thang như trước
không, hiền đệ nghĩ thế nào?
Kính Tế đáp:
– Được huynh thương mà giúp cho như vậy
thì còn gì bằng, nhưng công việc hiện tại liệu có được lâu bền chăng?
Hầu Lâm đáp:
– Việc này làm ít ra là phải mười
tháng mới xong, mà mới chỉ làm được chừng một tháng. Sau đó thì lại kiếm việc
khác, tới đâu hay đó, lo gì.
Hai người chén chú chén anh thù tạc,
chốc lát đã hết hai bình rượu lớn.
Tửu bảo tính tiền, cả thảy là một tiền
năm phân rưỡi. Kính Tế móc tiền ra trả, nhưng Hầu Lâm gạt đi mà bảo:
– Đồ ngốc, ai bảo trả tiền, tôi có tiền
đầy rồi.
Nói xong, móc tiền ra trả rồi cùng
Kính Tế rời khỏi tửu điếm[125].
Sáng hôm sau, Hầu Lâm đưa Kính Tế tới
chùa Thủy Nguyệt. Nơi đây đám nhân công đã tề tựu đông đủ. Thấy Kính Tế mới hai
mươi lăm tuổi, mặt mày lại thanh tú thì họ xúm cả lại mà chọc ghẹo[126]. Một người hỏi:
– Thằng oắt con kia, mày tên gì?
Kính Tế đáp:
– Tôi họ Trần, tên Kính Tế.
Một người bảo:
– Mày đến tế ai ở đây mà phải kính cẩn
thế?
Cả bọn cười ồ lên. Một người khác nói:
– Bộ mày yếu đuối quá, trói gà không
chặt thế kia thì làm sao làm việc nặng nhọc ở đây được[127].
Cả bọn lại cười. Hầu Lâm nạt nộ:
– Chúng bay không lo làm đi, ở đó mà
chọc ghẹo người ta hay sao?
Nói xong cắt đặt người nào việc nấy. Kẻ
gánh đất, người trộn hồ, kẻ cưa cây, người xếp gạch.
Công việc nấu ăn cho đám thợ được Hiểu
Nguyệt Trưởng lão giao cho một vị đầu đà họ Diệp trông coi. Diệp đầu đà không
biết kinh kệ, nhưng thành tâm mộ Phật, lại có tài ma y thần tướng.
Một hôm, đám thợ vừa ăn xong, kẻ nằm
người ngồi, nghỉ ngơi chuyện gẫu thì Kính Tế tới tìm Diệp đầu đà để hỏi trà uống.
Diệp đầu đà chỉ nhìn ngắm Kính Tế từ đầu tới chân mà không nói gì. Một người bảo:
– Diệp lão à, thằng này mới tới làm ở
đây, lão thử coi tướng giùm nó xem sao.
Một người khác bảo:
– Lão xem nó có khá được không chứ bây
giờ thấy nó có bộ bết lắm.
Cả đám cười ồ lên. Diệp đầu đà gọi
Kính Tế tới gần, nhìn kỹ một lúc rồi bảo:
– Da dẻ mày mịn màng thế kia là suốt đời
được đàn bà yêu thích, mắt mày sáng thế kia là mày khôn ngoan xảo quyệt, nhưng
năm tám tuổi, mười tám tuổi và hai mươi tám tuổi là mày gặp nạn, mày làm việc
gì cũng được người ta tin dùng, nhưng kỳ thực mày lộng giả thành chân, mày đừng
giận tao là nói thẳng, năm nay mày bao nhiêu tuổi?
Kính Tế đáp:
– Tôi hai mươi bốn tuổi.
Diệp đầu đà bảo:
– Trán mày hôn ám thế kia là năm ngoái
mày có nạn lớn, vợ chết con chết, nhà cửa tiền bạc tiêu tan, mũi mày như cái bếp
lửa là gia tư lụn bại, môi mày không che kín răng là suốt đời gặp chuyện thị
phi. Mới đây tất mày gặp chuyện thưa kiện lôi thôi, táng gia bại sản, có phải vậy
không?
Kính Tế đáp:
– Quả có vậy.
Diệp đầu đà gật gù bảo:
– Tướng mày là tướng phá gia chi tử, tất
lúc trước ông bà cha mẹ để lại cho mày sản nghiệp lớn lao lắm, nhưng vào tay
mày tiêu tan như băng tuyết dưới mặt trời. Số mày lại phải ba đời vợ, mày đã
góa vợ lần nào chưa?
Kính Tế đáp:
– Đã có một lần rồi.
Diệp đầu đà bảo:
– Tướng mày coi vậy cũng không đến nỗi
nào, ngoài ba mươi có thể khá, nhưng mày phải ít lui tới những nơi liễu ngõ hoa
tường, buôn hương bán phấn mới được.
Một người bảo:
– Chắc là Diệp lão đoán sai rồi, thằng
này sức lực bao nhiêu mà những ba vợ lận[128]?
Mọi người cười ầm cả lên. Lát sau thì
người nào việc nấy.
Từ đó Kính Tế làm việc tại chùa Thủy
Nguyệt sống qua ngày.
Một hôm vào trung tuần tháng ba, Kính
Tế gánh đất mệt mỏi, đang ngồi dựa vào tường mà nghỉ thì chợt thấy một người đội
khăn chữ vạn, mặc áo lụa xanh, ngồi trên ngựa, tay cầm một giỏ hoa tươi. Người
này nhìn thấy Kính Tế thì vội vàng xuống ngựa bước tới vái chào mà nói:
– Tôi tìm bao lâu nay không thấy, nào
ngờ Trần cữu lại ở nơi đây.
Kính Tế hoảng lên, lật đật dậy đáp lễ
rồi hỏi:
– Chẳng hay huynh từ đâu tới?
Người nọ đáp:
– Tôi là Trương Thắng, quản gia trong
phủ Thủ Bị, gia nhân thân tín của Chu lão gia. Từ khi Trần cữu rời phủ mà đi
thì phu nhân ngày đêm không vui, lão gia sai tôi đi tìm Trần cữu khắp nơi cũng
không thấy, ngờ đâu lại gặp tại nơi này. May là hôm nay phu nhân sai tôi ra ngoại
thành tìm mua thảo thược dược tươi, đi ngang đây mới gặp Trần cữu, thật là phúc
đức cho tôi quá. Bây giờ thì xin Trần cữu cảm phiền mà lên ngựa với tôi về phủ,
phu nhân đang trông đợi Trần cữu lắm.
Đám thợ thấy chuyện lạ thì bu lại mà
coi, nhưng không ai dám nói tiếng nào.
Kính Tế trả chìa khóa phòng lại cho Hầu
Lâm rồi lên ngựa cùng Trương Thắng về phủ Thủ bị.
Thật là:
Tuổi xanh đắc ý là đâu,
Đêm nay trăng sáng trên lầu nhà ai.
Chú
thích.
[124] Hầu
Lâm Phi Thiên Quỷ chính là người đã cưỡng ép Kính Tế quan hệ lúc trước.
[125] Từ
lúc này, Kính Tế phục vụ tình dục cho Hầu Lâm để đổi lấy việc làm và chỗ ở.
[126] Theo
bản tiếng Anh, đám nhân công đoán ra được Kính Tế là bạn tình đồng giới của Hầu
Lâm nên xúm vào chọc ghẹo.
[127] Theo
bản tiếng Anh, một người bảo: “Chắc là mày bị ngoáy quen rồi đúng không?” Cả bọn
cười ồ lên. Một người khác nói: “Nếu mày làm cái nghề ấy thật thì tao cũng thấy
làm lạ là mày có thể nhét vừa cái cọc cỡ đó”. Cả bọn lại cười.
[128] Theo
bản tiếng Anh, người này bảo: “Chắc là Diệp lão đoán sai rồi, thằng này hiện đã
là vợ người ta rồi, hắn lấy ba vợ để làm gì?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét