HỒI 92.
Họa vô đơn chí
Đào ma ma lãnh Ngọc Trâm đem bán được tám lạng, giao về cho Nha Nội. Nha Nội sai Đào ma ma mua một a hoàn khác mười tám tuổi tên là Mãn Đường.
Nói về Kính Tế, từ khi Đại thư về ở,
tuy đem về được ít đồ đạc của cải, nhưng vợ chồng cứ hai ba ngày lại đánh nhau
cãi nhau ầm ĩ.
Một hôm người cậu là Trương Đoàn luyện
tới vay mẹ Kính Tế là Trương bà năm chục lạng để lo công việc, nhưng Kính Tế
nói hỗn, giận mà đi vay chỗ khác.
Trương bà cũng giận con mà thành bệnh,
suốt ngày nằm trên giường, lang y tới điều trị cũng không bớt.
Kính Tế lại đòi mẹ phải bỏ tiền ra cho
mình buôn bán. Mới đầu Trương bà không chịu, nhưng sau Kính Tế kèo nhèo quá, phải
bỏ ra hai trăm lạng cho Kính Tế, bắt phải mở cửa tiệm buôn bán ngay tại nhà, có
Trần Định phụ giúp.
Nhưng từ khi mở tiệm buôn bán thì Kính
Tế chẳng lo việc làm ăn, chỉ suốt ngày tụ họp bạn bè như đám Lục Tam lang,
Dương Đại lang, đàn hát ăn uống và cờ bạc. Do đó lời lãi chẳng thấy đâu mà tiền
vốn thì ngày càng thâm thủng.
Trần Định nói lại với Trương bà,
Trương bà giận mắng Kính Tế. Kính Tế vu cáo là Trần Định trộm hàng đem bán lấy
tiền giấu đi, rồi không dùng Trần Định nữa mà mời Dương Đại lang về làm quản lý
cho cửa tiệm của mình.
Dương Đại lang tên là Quang Ngạn,
chuyên bày chuyện cười hoa cợt liễu, lại là người ăn không nói có, dối trá xảo
quyệt, tham tiền.
Kính Tế lại bắt mẹ phải bỏ thêm ba
trăm lạng nữa, giao cho Quang Ngạn đi mua vải lụa tại Lâm Thanh về bán.
Kính Tế và Quang Ngạn đem theo hành lý
tới bến Lâm Thanh. Nơi đây là đất buôn bán nên hiện rõ cảnh phồn hoa đô hội,
ngoài đường ngựa xe rầm rập ngày đêm không lúc nào ngơi, có tới ba mươi hai khu
bán phấn buôn hương, bảy mươi hai nhà ca nữ. Kính Tế trẻ người non dạ, bị Dương
Đại lang dẫn dắt tới các trà đình tửu điếm, các nhà kỹ nữ ca nhi. Kính Tế gặp
được một ca nhi là Phùng Kim Bảo, rất xinh đẹp, giỏi đàn hát, thật là thanh sắc
vẹn toàn, do đó đem lòng say đắm.
Một hôm Kính Tế cùng Dương Đại lang tới
nhà Kim Bảo uống rượu nghe hát. Kính Tế hỏi:
– Kim Bảo năm nay thanh xuân bao
nhiêu?
Mụ chủ đáp:
– Em nó là con gái lớn của lão, lão chỉ
có một mình nó, năm nay nó mới vừa đôi chín.
Kính Tế liền bỏ ra năm lạng bạc, ở lại
với Kim Bảo trong hai ba đêm liền.
Dương Đại lang thấy Kính Tế quá say mê
ca nhi này, nên hết lời tán tụng vun vào. Kính Tế ngỏ ý muốn cưới Kim Bảo về
nhà, mụ chủ đòi đúng một trăm hai chục lạng. Kính Tế cò kè bớt được hai chục lạng,
rồi bỏ tiền ra, đem Kim Bảo về. Còn dư được ít tiền, mới mua vài loại vải lụa
đem về.
Trên đường về, Kim Bảo ngồi kiệu, Kính
Tế và Dương Đại lang cưỡi ngựa theo, đằng sau là xe chở hàng.
Kính Tế về tới nhà, Trương bà đang bệnh,
nghe con đem tiền cưới ca nhi về thì giận uất lên mà chết.
Kính Tế phải thu vén tiền bạc ma chay
tụng niệm cho mẹ. Trương bà được chôn tại đất của tổ tiên, cạnh mộ chồng.
Căn nhà nhỏ hiện tại chỉ có ba gian, một
gian làm tiệm buôn bán, gian giữa là bàn thờ Trương bà, còn một gian Kính Tế để
Kim Bảo ở. Đại thư thì bị đuổi xuống ở tại một phòng ở nhà dưới.
Kính Tế mua một a hoàn để hầu hạ riêng
Kim Bảo. Mọi việc buôn bán, Kính Tế giao hết cho Dương Đại lang, để suốt ngày
đêm rượu chè vui vầy với Kim Bảo. Đại thư thì không được ngó ngàng gì tới.
Ít hôm sau Kính Tế nghe tin Lý Tri huyện
thăng chức Thông phán Chiết Giang và đã theo đường bộ đến nhận chức tại nhiệm sở
mới. Kính Tế chợt nhớ là trước đó có nhặt được một cây trâm của Ngọc Lâu rơi
trong hoa viên nhà cha vợ, liền nảy ra ý định là sẽ đem cây trâm tới cho Lý
Thông phán coi rồi nói là trước kia Ngọc Lâu thông gian với mình, tặng mình cây
trâm, lúc lấy Lý Nha Nội, Ngọc Lâu đem theo nhiều rương vàng bạc, toàn là của
Dương Đề đốc lúc trước gửi. Làm vậy, Kính Tế tin tưởng là Lý Thông phán vốn là
vị văn quan nghiêm khắc, sẽ đuổi Ngọc Lâu đi, và lúc đó Kính Tế sẽ đem Ngọc Lâu
về làm vợ mình.
Thật là:
Việc xong, bắt thỏ cung trăng,
Mưu thành, bắt cả quạ vàng trong mây.
Tính toán xong, Kính Tế sai Trần Định
coi nhà và coi tiệm, lại mở rương của mẹ, thấy có một ngàn lạng bạc, liền để lại
một trăm lạng ở nhà cho Kim Bảo giữ, rồi đem chín trăm lạng theo, cùng Dương Đại
lang trước hết tới Hồ Châu mua một thuyền vải lụa tơ sợi, đậu thuyền tại bến
Thanh Giang, lên khách điếm của Trần Nhị ở trên bờ, bảo Trần Nhị dọn tiệc.
Trong tiệc, Kính Tế bảo Dương Đại
lang:
– Quản lý à, hãy ở lại khách điếm này
vài ngày và coi thuyền hàng, tôi và gia nhân Trần An đem lễ vật tới phủ Nghiêm
Châu thuộc Chiết Giang, thăm một người chị của tôi có chồng tại đó, mau thì ba
ngày, chậm thì năm ngày tôi sẽ về.
Dương Đại lang nói:
– Đại ca có việc xin cứ yên tâm mà đi,
tôi sẽ ở lại coi hàng đợi đại ca.
Hôm sau, Kính Tế đem theo ít bạc và một
số lễ vật, cùng gia nhân Trần An lên đường tới Nghiêm Châu. Tới nơi, Kính Tế
vào tá túc tại một ngôi chùa trong thành, dò hỏi biết được Lý Thông phán mới
đáo nhậm được chừng một tháng, gia quyến và đồ đạc thì mới theo tới được ba ngày.
Kính Tế không chậm trễ, ngày hôm sau liền mũ áo chỉnh tề, sai Trần An đem theo
lễ vật gồm vải lụa và rượu, cùng mình tới phủ nha. Đến cổng phủ, Kính Tế bước tới
vái chào người giữ cổng rồi nói:
– Xin cảm phiền vào bẩm là có Mạnh Nhị
cữu, em trai của con dâu Lý Thông phán lão gia tới thăm.
Người giữ cổng vội vào báo với Nha Nội,
Nha Nội đang ngồi trong thư phòng đọc sách, nghe nói có em vợ tới thì vội xốc lại
mũ áo, sai gia nhân mời vào.
Kính Tế được mời lên đại sảnh, cùng
Nha Nội thi lễ. Hai bên phân ngôi chủ khách mà ngồi. Gia nhân đem trà ra. Nha Nội
mời Kính Tế dùng trà rồi hỏi:
– Hôm trước lễ cưới, sao không thấy nhị
cữu tới?
Kính Tế đáp:
– Lúc đó thì tôi đang cất hàng tại
Xuyên Quảng, tôi cũng mới về nên không rõ là thư thư tôi đã kết hôn cùng đại ca
đây, do đó hôm nay có chút lễ để tới thăm.
Nha Nội nói:
– Tôi cũng chưa được biết nhị cữu, thật
là thất lễ, xin thứ lỗi.
Qua vài tuần trà, Nha Nội bảo gia
nhân:
– Các ngươi đem các lễ vật này vào
trình với nương nương là nhị cữu tới thăm.
Gia nhân đem lễ vào thưa với Ngọc Lâu:
– Có nhị cữu đem lễ tới.
Ngọc Lâu nghĩ thầm:
– Nhị cữu nào, chẳng lẽ là nhị ca Mạnh
Duệ của mình, đường sá xa xôi cách trở thế này, đem lễ tới thăm làm gì.
Gia nhân lại đưa thiếp lên, Ngọc Lâu cầm
xem thì rõ là viết bốn chữ “Quyến sinh Mạnh Duệ”, bèn một mặt
sai Lan Hương dọn dẹp hậu đường cho sạch sẽ, một mặt sai gia nhân ra mời vào.
Lát sau gia nhân vào báo là nhị cữu
vào. Ngọc Lâu đứng trong mành nhìn ra, thấy chồng mình đang dẫn một người vào,
người đó không phải là Mạnh Duệ, mà chính là Kính Tế, bèn nghĩ bụng:
– Tên này tới đây làm gì vậy, để mình
hỏi xem nó nói sao. Dù không phải anh em mình, nhưng cũng là chỗ thân thích
ngày trước. Có điều không hiểu tại sao Kính Tế lại mạo danh Mạnh Duệ...
Vừa nghĩ xong thì Kính Tế vào tới nơi.
Ngọc Lâu bước ra chào hỏi. Kính Tế vội nói trước:
– Lâu quá không về nhà nên tôi không
biết là thư thư đã là người của quý phủ đây.
Kính Tế đang nói thì gia nhân vào thưa
với Nha Nội là có khách xin gặp. Nha Nội dặn vợ khoản đãi “nhị cữu” rồi bước ra
tiếp khách.
Kính Tế nói xong thì sụp lạy, Ngọc Lâu
đáp lễ mà bảo:
– Thôi, cho cậu miễn lễ.
Nói xong mời Kính Tế ngồi và gọi Lan
Hương đem trà ra, đoạn hỏi:
– Đại nương ỏ nhà có mạnh không?
Kính Tế kể hết chuyện xích mích giữa
mình với Nguyệt nương. Ngọc Lâu cũng kể chuyện gặp Xuân Mai tại chùa Vĩnh Phúc,
rồi nói:
– Lúc tôi còn ở nhà có khuyên Đại
nương là thương con gái thì phải thương rể, không ngờ Đại nương lại đuổi cậu ra
khỏi nhà, còn chuyện cậu đòi của cải thì tôi không được biết, vì lúc đó không
còn ở với Đại nương nữa.
Kính Tế nói:
– Chẳng giấu gì phu nhân, chuyện tôi
dan díu với Kim Liên thì đã đành là có, nhưng Đại nương lại nghe lời tiểu nhân,
đuổi Kim Liên ra để Kim Liên chết thảm vì tay Võ Tòng. Nếu Kim Liên được ở lại
với Đại nương thì Võ Tòng làm sao hại được. Thù Đại nương đối với tôi thật sâu
như biển, mà Kim Liên ở dưới âm chắc cũng không tha cho Đại nương đâu.
Ngọc Lâu bảo:
– Thôi, tôi khuyên cậu, chuyện gì qua
rồi thì bỏ qua đi, người ta thường bảo, oan cừu nên cởi, không nên thắt.
Nói chuyện một lúc thì a hoàn đã dọn
tiệc xong. Ngọc Lâu mời Kính Tế nhập tiệc, tự tay rót rượu mời. Tiệc rất thịnh
soạn, sơn hào hải vị la liệt một bàn. Ngọc Lâu bảo:
– Đường sá xa xôi, việc gì cậu phải
phí tâm đem lễ tới thăm, xin cậu dùng rượu cho quên đường xa mệt nhọc.
Kính Tế cảm tạ mà uống rượu. Lại thấy
Ngọc Lâu cứ coi mình y như lúc xưa thì trong bụng nghĩ thầm:
– Con dâm phụ này cứ làm ra vẻ đứng đắn
lắm, để mình thử dò xem mới được.
Qua vài tuần rượu, câu chuyện trở nên
tự nhiên hơn, Kính Tế mới nói:
– Tôi lúc nào cũng tưởng nhớ tới thư
thư, chẳng lúc nào quên. Tôi nhớ những lúc cùng một nơi, cùng uống rượu đánh cờ
ngày trước. Nào ngờ ngày nay mỗi người một phương, xa xôi cách trở quá.
Ngọc Lâu hơi khó chịu vì thấy Kính Tế
gọi mình bằng “thư thư”, nhưng cũng cười mà bảo:
– Cậu thật lẩn thẩn, ở đời tan hợp, hợp
tan là chuyện thường, có gì đáng nói.
Kính Tế lấy trong tay áo ra một gói
hương trà, quỳ ngay xuống mà nói:
– Nếu thư thư có lòng thương nhớ đến
tôi thì xin dùng ít hương trà này cho tôi được vui.
Ngọc Lâu bất giác đỏ bừng cả mặt, rồi
cầm gói hương trà liệng xuống đất mà bảo:
– Sao dám hành động bất kính như vậy?
Ta có lòng đem rượu thịt khoản đãi, mà ngươi lại dám giở trò sàm sỡ hay sao?
Nói xong gọi a hoàn dẹp tiệc rượu rồi
bỏ vào phòng trong. Kính Tế nổi giận, cúi nhặt gói hương trà rồi nói vọng vào:
– Này, tôi có lòng tốt đến thăm chị mà
chị đối xử như vậy phải không? Hay là bây giờ chị là con dâu của vị Thông phán
mà lên mặt với tôi? Chị không nhớ rằng chị chỉ là thiếp thứ ba của Tây Môn
Khánh và đã từng dan díu với tôi hay sao[117]?
Lại lấy cây trâm nhặt được ngày trước
ra mà nói tiếp:
– Vật này là của ai? Không phải là của
chị tặng cho tôi lúc hai đứa mình còn dan díu hay sao? Nếu không thì cây trâm
này làm sao lại lọt vào tay tôi được? Cây trâm lại có khắc tên chị rành rành
đây này. Chị cùng với con mụ Nguyệt nương âm mưu sang đoạt kim ngân của cải do
gia đình tôi gửi giữ. Nhưng tôi nói cho biết, đó toàn là của cải của quan Đề đốc
Dương Tấn lúc trước. Bây giờ chị đem theo những của cải đó về nhà chồng này. Được
lắm, tôi sẽ nói chuyện với chị sau.
Ngọc Lâu nghe vậy vội trở ra, thấy quả
là cây trâm ngày trước thất lạc trong hoa viên, hiện đang nằm trong tay Kính Tế,
sợ là Kính Tế nói năng ầm ĩ, gia nhân nghe biết, nên vội làm mặt tươi cười bảo:
– Này, tôi đùa một tí mà giận thật hay
sao? Cậu tốt với tôi thì tôi cũng tốt với cậu chứ.
Kính Tế nguôi giận, thấp giọng bảo:
– Hiện tôi đang có một thuyền hàng
đang đợi ở Thanh Giang. Nếu thư thư có lòng hạ cố thì đêm nay xin trốn theo tôi
về làm vợ chồng. Gia đình này là gia đình văn quan, tôi nói ra thì thư thư chắc
là bị đuổi, nhưng nếu thư thư trốn theo tôi, thì họ vì thể diện mà không dám
làm gì cả. Thư thư tính sao?
Ngọc Lâu ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Đã vậy thì... thôi cũng được, tối
nay cậu đợi ở dãy tường sau phủ, tôi sẽ chuyển qua tường một bao kim ngân cho cậu,
rồi sau đó trốn ra theo cậu về thuyền.
Thế mới biết:
Giai nhân thực quả có lòng,
Thì đâu có sá cổng trong tường ngoài.
Hai người ăn uống một hồi rồi Kính Tế
cáo từ ra về. Trần An đợi sẵn ở ngoài cùng đi.
Nha Nội vào hỏi vợ:
– Nhị cữu hiện trú ngụ tại đâu, cho
tôi biết để tôi tới thăm đáp lễ, rồi cũng phải có ít lễ vật đem biếu nữa chứ.
Ngọc Lâu bảo:
– Nhị cữu nhị kiếc gì, nó có phải em
tôi đâu, nó chính là con rể của Tây Môn Khánh. Nó giả danh em trai tôi tới đây
là để dụ dỗ tôi bỏ nhà theo nó. Tôi đã vờ hẹn với nó là canh ba đêm nay sẽ ra
sau phủ để trốn đi với nó. Sở dĩ như vậy là ý tôi muốn tương kế tựu kế, nhân dịp
này bắt nó, ghép tội là đạo tặc để trừ hậu hoạn sau này, ý chàng như thế nào?
Nha Nội ngạc nhiên:
– Quả thật có chuyện như vậy hay sao?
Thằng đó sao vô lại quá như vậy? Người ta có câu “Vô độc bất trượng phu”, không
phải là tôi đi tìm mà hại nó, nhưng như thế này thì quả là nó tự đến đây tìm
cái chết.
Nói xong bước ra gọi gia nhân tâm phúc
và thủ hạ thân tín tới dặn dò mọi chuyện.
Kính Tế ngốc nghếch khờ dại, chưa biết
cơ mưu bại lộ, canh ba đêm đó cùng gia nhân Trần An, mò tới bức tường phía sau
phủ, đằng hắng làm hiệu. Trong này một sợi dây được thòng qua tường, rồi một
bao bạc truyền ra. Bao này đựng hai trăm lạng bạc, nguyên là tiền phạt để trong
phủ. Kính Tế mừng rỡ bảo Trần An bước tới đỡ lấy. Tức thì từ trong tối, bốn năm
người trai tráng khỏe mạnh xông ra tri hô ầm ĩ:
– Có trộm, có trộm!
Đoạn xông lại trói nghiến Kính Tế và Trần An lại, dẫn vào trình Lý Thông phán. Thông phán sai giam ngay vào đề lao.
Nguyên viên Tri phủ Nghiêm Châu họ Từ,
tên Từ Phong, người phủ Lâm Thao tỉnh Thiểm Tây, Tiến sĩ khoa Canh Tuất, tính
tình cực thanh liêm cương trực.
Hôm sau, Lý Thông phán đăng đường,
quan lại các cấp theo thứ tự ngồi thành hai hàng dài. Quan coi kho trình sự việc
lên:
– Canh ba đêm qua có hai tên trộm lẻn
vào phủ bẻ khóa nhà kho, lấy trộm hai trăm lạng bạc tiền phạt, rồi vượt trường
phía sau phủ định tẩu thoát, nhưng bị quân lính canh gác bắt lại. Nay đem trình
các lão gia, hai tên hỏi ra thì tên là Trần Kính Tế và Trần An.
Đoạn quát lính dẫn Kính Tế và Trần An
ra quỳ giữa công đường. Tri phủ thấy Kính Tế trẻ tuổi, hình dung thanh tuấn thì
đập bàn hỏi:
– Tên kia, mày quê quán ở đâu mà đang
đêm dám lẻn vào phủ bẻ khóa nhà kho trộm tiền bạc của triều đình?
Kính Tế chỉ biết rập đầu kêu oan.
Tri phủ quát:
– Tội trạng rõ ràng còn kêu oan nỗi
gì?
Lý Thông phán nghiêng mình nói với Tri
phủ:
– Lão tiên sinh bất tất phải nhọc công
hỏi nó làm gì. Tội trạng của nó đã rành rành ra đó, mình cứ gia hình là xong việc.
Từ Tri phủ ra lệnh đánh Kính Tế hai chục
trượng. Lý Thông phán bồi theo:
– Hạng gian tà như nó thì không đánh
không được, nếu không đánh đau thì nó không coi phép nước ra gì.
Lính lôi Kính Tế và Trần An ra đánh.
Trượng rơi tới tấp, hai người quần áo tả tơi, thịt máu tuôn, muôn phần đau đớn.
Kính Tế la lớn lên:
– Oan tôi lắm, oan tôi lắm, đây là con
dâm phụ Mạnh thị hại tôi mà thôi.
Từ Tri phủ vốn người thông minh, nghe
vậy biết là chuyện này còn nhiều uẩn khúc, vội ra lệnh ngưng đánh đòn, sai giam
vào nhà lao chờ hôm sau tái xét.
Lý Thông phán bảo:
– Xin lão tiên sinh chớ quá rộng lượng
với tên này, nó nguy hiểm lắm. Sợ rằng đêm nay nó có thể phản cung mà bày đặt
thêm chuyện nọ kia.
Từ Tri phủ đáp:
– Không sao, tôi đã có chủ ý.
Ngục tốt dẫn Kính Tế và Trần An vào
giam lại.
Từ Tri phủ bảo với tả hữu:
– Nên cho người tâm phúc vào nhà lao
dò hỏi nguồn gốc lai lịch Kính Tế rồi cho ta biết.
Một viên cán sư giả làm tội nhân, bảo
ngục tốt đưa vào nhà lao, rồi lân la làm quen với Kính Tế. Lát sau viên cán sự
bảo:
– Tôi thấy huynh thanh xuân tuấn tú,
nhất định không phải là trộm cướp, vậy duyên cớ gì lại sa vào vòng quan ty lao
lý như thế này?
Kính Tế đáp:
– Tôi vốn là rể của Tây Môn Khánh ở
huyện Thanh Hà. Mạnh thị, vợ của con trai Lý thông phán đây, trước là thiếp thứ
ba của cha vợ tôi. Mạnh thị lúc trước có dan díu với tôi. Cũng ngày trước, lão
gia tôi là Dương Đề đốc có gửi cha vợ tôi giữ giùm nhiều rương kim ngân của cải.
Nay Mạnh thị lấy con trai Thông phán, đem của cải đó về đây. Tôi bèn tới đây hỏi
đòi lại, nào ngờ Mạnh thị đã không trả, còn tìm cách ám hại tôi, vu oan cho tôi
là trộm, khiến tôi bị đánh đòn đau đớn, giam cầm khổ nhục như thế này.
Viên cán sự nghe xong, vờ nói chuyện
vài câu chuyện nữa rồi lẻn ra trình lại với Từ Tri phủ. Từ Tri phủ bảo:
– Ta biết ngay mà, thằng đó không phải
là trộm đạo gì, nghe nó kêu oan rồi gọi tên Mạnh thị, ta nghĩ ngay là có chuyện
bí ẩn gì đây.
Hôm sau, khi đăng đường, Từ Tri phủ
cho đòi Kính Tế và Trần An ra, xét cho vô tội rồi truyền lệnh phóng thích. Lý
Thông phán khẩn khoản nói:
– Sao tiên sinh lại làm vậy, tên này tội
trạng rành rành làm sao thả được.
Từ Tri phủ gọi cán sự tới nói lại lời
Kính Tế cho Lý Thông phán nghe, đoạn nói:
– Bản chức là chính quan trong phủ
này, làm việc là làm việc cho triều đình, chứ không thể vì chuyện riêng của gia
đình tiên sinh được. Tên này rõ là bị gia đình tiên sinh vu oan tội trộm. Con
trai tiên sinh cưới thiếp thứ ba của Tây Môn Khánh, Mạnh thị đem về nhà chồng
nhiều tiền bạc của cải. Nó là con rể của Tây Môn Khánh, tìm tới đây là để đòi lại
những bạc tiền của cải đó. Như vậy làm sao tiên sinh bảo bản chức phải giúp gia
đình tiên sinh oan cho nó được. Làm việc quan mà như vậy thì còn vương pháp
công đạo gì nữa.
Lý Thông phán ngồi yên, hổ thẹn không
sao kể xiết, tức giận nhưng không dám nói gì.
Mãn việc, Lý Thông phán về tư dinh, gặp
phu nhân bảo:
– Thật dâu con chẳng ra gì khiến hôm
nay bị Tri phủ làm nhục giữa công đường, trước mặt đông đủ đồng liêu, nhục nhã
quá như thế này thật chỉ muốn chết cho xong.
Lý phu nhân hoảng lên hỏi:
– Mà chuyện gì vậy?
Lý Thông phán chỉ luôn miệng kêu:
– Tức chết mất thôi.
Đoạn cho gọi con trai tới bảo:
– Mày đã rước giặc về nhà, mày có biết
con vợ mày lúc trước là thiếp thứ ba của Tây Môn Khánh không? Nó về đây đem
theo tiền bạc của cải bất nghĩa. Còn thằng Kính Tế chính là con rể của Tây Môn
Khánh tới đây để đòi tiền của cải đó. Vậy mà mày lấy bạc trong kho ra rồi vu
cho nó là ăn trộm. Nào tao có biết đầu đuôi gì đâu, vậy mà vừa rồi tao bị Từ
Tri phủ hạ nhục giữa đông đủ đồng liêu ngay tại công đường. Như vậy mày là con
mà làm cho cha thọ nhục, con cái như thế thì tao còn cần làm gì nữa.
Nói xong sai tả hữu đem trượng ra đánh
tới tấp. Thương cho Nha Nội máu rơi thịt nát. Lý phu nhân gào khóc khuyên can
chồng. Ngọc Lâu núp trong rèm nhìn ra chỉ biết gạt lệ khóc thầm.
Đánh được ba chục trượng thì Lý Thông
phán cho lệnh ngưng, rồi quát:
– Đuổi con Mạnh thị ra khỏi phủ, cho
nó tìm chồng khác để ta được toàn danh tiết.
Nha Nội làm sao bỏ được Ngọc Lâu, nên
chỉ quỳ trước mặt mẹ khóc mà nói:
– Xin mẫu thân nói giùm con, thà là phụ
thân cho đánh con chết, chứ xin đừng đuổi vợ con.
Lý Thông phán sai xích chân Nha Nội tại
hậu đường. Lý phu nhân thương con, thấy không nén được thương tâm, khóc nói với
chồng:
– Xin tướng công xét lại cho, tướng
công làm quan bao nhiêu năm nay, nhưng chỉ có mình nó là giọt máu duy nhất nối
dõi tông đường. Nay tướng công xử với nó khắc nghiệt quá, lỡ nó phẫn chí làm liều,
rồi nay mai tướng công về hưu, biết nhờ cậy vào ai?
Lý Thông phán nói:
– Thà là ta không có con còn hơn là để
vì con mà phải nhục với mọi người như thế này.
Lý phu nhân nói:
– Nếu tướng công còn giận mà không
dung được nó ở đây, thì sao không cho vợ chồng nó về dinh cơ mình ở quê nhà.
Lý Thông phán ngẫm nghĩ một lúc rồi
nghe theo lời vợ, cho thả Nha Nội ra, hạn ba ngày vợ chồng phải dọn dẹp hành
trang đồ đạc, thuê xe lên đường về huyện Tảo Cường.
***
Về phần Kính Tế và Trần An, sau khi được
phóng thích thì vội về chùa lấy hành lý rồi trở lại tửu điếm của Trần Nhị ở bến
Thanh Giang tìm Dương Đại lang.
Tới nơi, được Trần Nhị cho biết:
– Ba hôm trước, Dương Đại lang nói là
huynh có gửi tin về, bảo hắn là cứ đem thuyền hàng về trước, huynh sẽ về sau chứ
không ghé đây nữa, do đó hắn đem thuyền hàng đi rồi.
Kính Tế nghe xong không tin, còn đi dọc
theo bến sông mà tìm nhưng không thấy thuyền hàng của mình đâu cả. Lúc đó mới
vò đầu bứt tai mà than:
– Thế này thì có chết tôi không, sao
không đợi mà lại về trước như vậy?
Kính Tế lúc đi không đem theo nhiều tiền,
lại vừa bị lôi thôi cửa quan, đành phải cùng Trần An cầm bán áo quần, lấy tiền
thuê thuyền mà về. Chủ tớ hộc tốc vội vàng như ma đuổi.
Lúc đó là vào cuối thu, cây cối rụng
lá, gió lạnh thổi về, cảnh vật muôn phần thê lương ảo não.
Một hôm, Trần Định đang đứng ngoài cửa
thì thấy Kính Tế từ xa đi tới, quần áo lam lũ, mặt mày hốc hác, thì giật mình
chạy tới đón vào nhà, đoạn hỏi:
– Thuyền hàng hiện tới đâu rồi?
Kính Tế giận uất lên, nghẹn lời, không
nói được gì, mãi sau mới kể lại chuyện lôi thôi tại Nghiêm Châu, đoạn nói:
– Cũng may là có vị Tri phủ công minh,
chứ không thì đã chết rục xương rồi. Vậy mà về tới Thanh Giang thì tên Dương Đại
lang đã đem thuyền hàng đi mất, chẳng hiểu là nó ở nơi nao.
Nói xong sai ngay Trần Định tới nhà
Dương Đại lang dò hỏi. Gia đình Dương Đại lang trả lời rằng chưa thấy về.
Kính Tế lại thân đi dò hỏi khắp nơi
cũng không có tin tức gì, về tới nhà thì Tây Môn Đại thư và Kim Bảo đang lời
qua tiếng lại. Nguyên là từ khi Kính Tế vắng nhà, hai người ngày nào cũng có
chuyện nọ chuyện kia, nay Kính Tế về thì hai người gây chuyện đấu khẩu.
Đại thư bảo:
– Kim Bảo ở nhà lấy tiền lén đưa cho mẹ
mang về nhà, mẹ con ngày nào cũng rượu thịt thịnh soạn, trong lúc tôi ở nhà
không có một miếng mà ăn. Ngày ngày thì ngủ tới trưa mới dậy rồi cứ lóng ngóng
ra vào, chẳng biết làm chuyện gì.
Kim Bảo cãi lại:
– Đại thư cả ngày chỉ lo ăn uống, làm
bánh trái và các món ăn ngon, đem vào phòng cùng ăn với a hoàn Nguyên Tiêu.
Kính Tế bênh Kim Bảo, mắng Đại thư rằng:
– Con dâm phụ ăn hại, lấy tiền bạc
trong nhà ra để lo chuyện ăn uống hay sao?
Nói xong sấn tới đạp Đại thư mấy đạp rồi
lôi Nguyên Tiêu ra đánh cho một trận. Đại thư giận quá, bước tới chỉ thẳng vào
mặt Kim Bảo mà mắng:
– Con dâm phụ, con điếm giật chồng người,
mày trộm tiền nhà này đưa cho mẹ mang về, lại còn đặt điều bịa chuyện để chồng
tao giở trò vũ phu với tao. Mày coi chừng tao, tao không để mày sống làm gì
đâu.
Kính Tế nạt vợ:
– Con dâm phụ, mày dọa nạt nhưng làm
gì được người ta. Mày chưa bằng cái móng chân người ta mà.
Nói xong lại sấn tới nắm tóc Đại thư
mà đánh đá, khiến Đại thư đổ cả máu mồm máu mũi. Kính Tế thấy vậy mới chịu bỏ
vào phòng với Kim Bảo.
Đại thư về phòng nức nở mãi không
thôi. Tới nửa đêm thì quá buồn giận mà phẫn chí, dùng dây thắt cổ tự ải. Thương
thay cho Đại thư, năm đó mới hai mươi bốn tuổi.
Hôm sau, Kính Tế sai a hoàn của Kim Bảo
là Trùng Hỷ tới gọi Đại thư, nhưng cửa phòng Đại thư đóng chặt. Trùng Hỷ gọi
mãi không được, đành trở ra thưa lại với Kính Tế. Kính Tế quát:
– Con dâm phụ gớm thật, giờ này mà còn
ngủ chưa chịu dậy sao? Ta tông cửa vào lôi con dâm phụ ra đánh cho một trận nên
thân bây giờ.
Đoạn lại sai Trùng Hỷ vào gọi lần nữa.
Trùng Hỷ vạch cửa sổ nhòm vào, miệng nói:
– Đại nương nương dậy rồi, hình như
đang đánh đu hay chơi nghịch gì đây này.
Nguyên Tiêu ngạc nhiên chạy tới nhìn kỹ
lại rồi thất thanh la lên:
– Gia gia ơi, nguy rồi, nương nương
tôi tự ải rồi.
Kính Tế lúc đó mới hoảng lên, cùng Kim
Bảo chạy xuống phá cửa xông vào hạ Đại thư xuống, cứu cấp tức thì. Nhưng Đại
thư đã là xác không hồn lạnh ngắt, không còn cứu cấp gì được nữa.
Kính Tế sợ quá, vội cho người đến báo
ngay cho Nguyệt nương biết. Nguyệt nương nghe gia nhân nói là Kính Tế lấy vợ ca
nữ, bạc đãi Đại thư khiến Đại thư tự ải chết, thì vội gọi bảy tám gia nhân a
hoàn theo mình tới nhà Kính Tế.
Đến nơi, thấy tử thi Đại thư cứng đờ,
mặt tím bầm thì Nguyệt nương phục xuống mà khóc lớn, đoạn túm lấy Kính Tế mà vừa
chửi vừa đánh. Kim Bảo sợ quá, chui xuống gầm giường mà trốn, cũng bị Nguyệt
nương sai gia nhân lôi ra mà đánh.
Sau đó Nguyệt nương hô gia nhân đập
phá nhà Kính Tế, rồi dọn hết đồ đạc của Đại thư về.
Tới nhà, Nguyệt nương sai mời Ngô Đại
cữu và Ngô Nhị cữu tới bàn định. Đại cữu nói:
– Nếu không nhân dịp này làm cho ra lẽ
thì nay mai Kính Tế túng thiếu, lại giở trò đòi tiền bạc của cải, làm phiền
mình. Nếu không biết lo trước thì nguy hại lắm. Bây giờ phải đem việc này lên
quan, cho thằng Kính Tế bị tội tù rục xương thì mới khỏi lo hậu hoạn.
Nguyệt nương nghe xong bảo:
– Ca ca dạy rất đúng.
Nói xong chuẩn bị đơn từ.
Hôm sau, Nguyệt nương thân tới huyện
đường nạp đơn tố cáo Kính Tế. Nguyên vị Tri huyện mới họ Hoắc, tên Đại Lập, người
Hồ Quảng, cử nhân xuất thân, vốn là người cương trực, nghe nói có việc liên
quan tới nhân mạng thì vội cho gọi Nguyệt nương vào mà nhận đơn, thấy đơn viết
như sau:
“Người tố cáo là Ngô thị, chánh thất của cố Thiên hộ Tây Môn Khánh, tố cáo tên rể ác độc là Trần Kính Tế, nghe lời của hạng ca nữ điếm đàng mà bức tử vợ. Nguyên Kính Tế vì gia đình gặp chuyện tội tình nên phải nhờ vả gia đình chúng tôi mấy năm nay, tính hay uống rượu, hành hung người khác, không biết an phận thủ thường, do đó chúng tôi lo sợ mà phải đuổi ra khỏi nhà. Nào ngờ Kính Tế lấy đó làm oán hận, thường ngày hay đánh đập sỉ nhục vợ là Tây Môn thị. Nào ngờ gần đây, Kính Tế đem một kỹ nữ ở bến Lâm Thanh về nhà, tức là Phùng Kim Bảo, rồi tin lời con kỹ nữ này mà ngược đãi con gái chúng tôi thậm tệ. Hôm qua thì Kính Tế nắm tóc con gái chúng tôi mà đánh đá không tiếc tay, khiến con gái chúng tôi thương tích đầy mình, đau đớn chịu không nổi, nên đã từ trần vào canh ba đêm hai mươi ba tháng tám vừa rồi. Sau đó Kính Tế treo cổ con gái chúng tôi, bảo là thắt cổ tự ải mà chết. Kính Tế thấy chúng tôi là mẹ góa con côi nên thường khinh khi lăng nhục, có lần dọa giết cả chúng tôi. Nay chúng tôi rập đầu trình tướng công, mong tướng công cứu xét cho cái chết oan ức của con gái chúng tôi, trừng phạt kẻ hung ác để người hiền lương được sống yên, mà kẻ chết cũng được ngậm cười. Nay kính cáo”.
Tri huyện xem đơn xong, nhìn thấy Nguyệt
nương mặc đồ tang, dung nhan xinh đẹp, cử chỉ đoan trang, lại là chánh thê của
một vị quan ngũ phẩm, thì nghiêng mình nói:
– Bản chức coi đơn, biết nãi nãi là
phu nhân của cố mệnh quan, cho nên tình lý trong đơn, bản chức đã rõ. Xin nãi
nãi cứ về, chỉ cần cho một quản gia tới đây hầu án là được.
Nguyệt nương lạy tạ Tri huyện rồi bước
ra lên kiệu mà về, sai Lai Chiêu ở lại hầu án.
Tri huyện tống trát, sai ngay hai viên
công sai tới bắt Kính Tế và Kim Bảo, đồng thời mời cả hai bên hàng xóm tới huyện
đường thẩm vấn.
Kính Tế đang cuống lên vì cái chết của
vợ, thấy công sai trên huyện đem trát tới bắt thì chân tay rụng rời, hồn vía
lên mây. Kim Bảo thì bị gia nhân của Nguyệt nương đánh đau, đang nằm trên giường,
nghe nói trên huyện tới bắt, cũng hoảng lên, không biết làm sao.
Công sai vào đưa trát ra, bắt trói
Kính Tế và Kim Bảo giải lên huyện. Hàng xóm là Phạm Cương, Tôn Kỷ, và Vương
Khoan cũng được mời đi.
Đôi bên nguyên, bị và nhân chứng đã đủ
mặt. Tri huyện đăng đường, cho gọi tất cả vào. Lai Chiêu quỳ một bên, Kính Tế
và Kim Bảo quỳ một bên, nhân chứng đứng giữa.
Tri huyện đập án quát Kính Tế:
– Tên ác phu kia, làm sao mày nghe lời
con đàn bà dâm độc mà hành hung và bức tử vợ mày là Tây Môn thị?
Kính Tế rập đầu thưa:
– Cúi xin đèn trời soi xét, tiểu nhân
đâu dám hành hung và bức tử vợ. Nhân vì buôn bán nơi xa, bị viên quản lý lừa hết
vốn liếng, về nhà đang bực tức trong lòng, hỏi vợ bảo dọn cơm ăn thì vợ chưa
làm cơm, nên có tức giận đạp nó hai đạp. Không ngờ vợ tiểu nhân quá giận, đang
đêm thắt cổ tự ải.
Tri huyện nạt:
– Ngươi đã cưới tiểu thiếp, sao lại bắt
vợ lớn làm cơm? Rõ ràng là người không chối tội nổi. Vả lại theo đơn tố cáo của
Ngô thị đây, thì ngươi đã đánh chết vợ, rồi treo cổ lên, bảo là tự ải mà chết. Ngươi
còn chối nữa hay sao?
Kính Tế lại rập đầu nói:
– Ngô thị có thù với tiểu nhân, nên mới
vu oan như thế, xin lão gia xét lại giùm cho.
Tri huyện nổi giận quát:
– Nhưng con gái người ta chết rành
rành ra đây này, ngươi còn nói quanh co gì được nữa?
Đoạn quát tả hữu lôi Kính Tế ra đánh
hai chục trượng. Lại bảo:
– Còn con Phùng Kim Bảo kia thì cho kẹp
tay chân, sau đó giam hết vào nhà lao.
Sau đó Tri huyện hỏi qua làng xóm của
Kính Tế, rồi cho thuộc cấp trở lại nhà Kính Tế khám nghiệm tử thi Tây Môn Đại
thư, thấy quả trên người nhiều thương tích bầm tím, cổ thì hằn vết dây thừng.
Gia nhân và hàng xóm đều khai rằng Đại thư bị đánh đau rồi phẫn uất tự ải mà chết.
Thuộc cấp về thưa lại. Tri huyện nghe
trình là tử thi thương tích đầy mình thì lập tức cho dẫn Kính Tế ra sai đánh mười
trượng, Kim Bảo cũng bị đánh mười roi. Sau đó Tri huyện ghép Kính Tế vào tội chồng
đả thương vợ trí mạng, hình phạt là giảo hình[118].
Kính Tế hoảng lên, lúc Trần Định vào
thăm thì vội đưa thiếp cho Trần Định, bảo về bán hết hàng còn lại trong tiệm,
được khoảng trăm lạng, ngầm đem tới cho Tri huyện.
Tri huyện nhận bạc, rồi đêm đó sửa lại
bản án, chỉ ghép vào tội bức tử, hình phạt là đày đi xa năm năm, làm việc khổ
sai để chuộc tội.
Nguyệt nương nghe tin, thân tới huyện
đường quỳ xin gia tăng hình phạt. Tri huyện bảo:
– Nương tử à, con gái nương tử tại cổ
còn vết dây thừng, làm sao ghép vào tội đả thương trí mạng được. Không phải là
tôi thiên vị đâu. Tôi còn biết rõ là nương tử sợ rằng sau này Kính Tế tìm cách
trả thù chứ gì? Nhưng không sao, tôi sẽ bắt nó làm tờ cam kết là không bao giờ
được bén mảng tới cửa nương tử nữa. Nếu hắn vi phạm, tất tôi không tha.
Đoạn một mặt cho phép mai táng Đại
thư, một mặt làm văn thư trình lên phủ. Kính Tế bị vố này, gia sản sạch trơn,
nhà cửa cầm bán, Kim Bảo được thả ra cũng bỏ đi mất.
Sau khi được thoát chết và làm tờ cam
kết, từ đó Kính Tế không dám kiếm chuyện với Nguyệt nương nữa.
Thật là:
Họa phúc là do mình chuốc lấy
Cho hay vui lắm tất buồn nhiều.
Chú thich.
[117] Theo
bản tiếng Anh, quả thật giữa Kính Tế và Ngọc Lâu chưa từng có chuyện dan díu. Tất
cả đều là do y dựng lên với mưu toan thấp hèn.
[118] Cách
trừng phạt tội nhân thời cổ, tức là thắt cổ tội nhân cho chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét