HỒI 81.
Tên bạn phản phúc
Trong khi mười sáu vị tăng của chùa
Báo Ân được mời tới nhà Tây Môn Khánh tụng kinh thì Bá Tước mời Hoa Tử Do, Tạ
Hy Đại, Chúc Thật Niệm, Tôn Thiên Hóa, Thường Trĩ Tiết và Bạch Lãi Quang tới
nhà mà bảo:
– Tây Môn đại quan nhân mất rồi, chúng mình với đại quan nhân là chỗ thâm giao, thường ăn uống tại nhà quan nhân, thường được giúp đỡ tiền bạc vật dụng và nhiều việc khó khăn khác. Nay đại quan nhân nằm xuống mà mình làm như không biết thì tránh sao miệng thế chê cười, mà mình cũng chẳng được yên tâm. Quan nhân xuống tới Ngũ điện Diêm Vương, chắc cũng chẳng tha tội vô ơn bất nghĩa cho chúng mình. Bây giờ mình có bảy người, mỗi người góp một tiền, cộng là bảy tiền, soạn một lễ đem tới, lại mua một tấm lục rồi nhờ Thủy tiên sinh làm một bài văn tế, đọc lên trước linh cữu quan nhân, rồi chúng mình tới tế, gọi là tri ân phần nào, mọi người nghĩ sao?
Mọi người đều khen phải, rồi góp mỗi
người một tiền, giao cho Bá Tước. Bá Tước lấy tiền mua lễ vật tử tế rồi đến nhờ
Thủy tú tài làm văn tế.
Thủy tú tài vốn biết bọn Bá Tước là
đám bạn tiểu nhân của Tây Môn Khánh, nên nhận lời làm giùm văn tế, nhưng ngầm
châm chọc bên trong.
Bá Tước và các bạn đem lễ tới bày trước
linh cữu. Kính Tế mặc đồ tang chống gậy bên linh cữu đáp lễ. Bảy người vào lạy
linh cữu. Trong khi Bá Tước mở bài văn tế ra đọc. Đám bạn này toàn là người dốt
nát, tuy nghe đọc nhưng làm sao hiểu được ý nghĩa lời văn.
Văn tế rằng:
“Duy, Trùng Hòa Nguyên niên tuế Mậu Tuất,
Nhị nguyệt Mậu Tý sóc, việt sơ tam nhật Canh Dần. Chúng vãn sinh là Ứng Bá Tước,
Tạ Hy Đại, Hoa Tử Do, Chúc Thật Niệm, Tôn Thiên Hóa, Thường Trĩ Tiết và Bạch
Lãi Quang có chút lễ mọn, kính cẩn tới tế cố Cẩm y Tây Môn đại quan nhân chi
linh. Nhớ lúc sinh tiền, tính tình bộc trực, lòng dạ kiên cường. Gặp người nhũn
nhặn đã không sợ, trước kẻ ương ngạnh cũng không hàng. Thường tế độ lúc khốn
khó, lại giúp đỡ khi nguy nan. Tài ba dũng lược, chí khí hiên ngang. Công danh
nọ so như cẩm tú, phú quý kia để mấy kho tàng. Đám tiểu tử thọ ân chúng tôi: kẻ
thì chốn chương đài hay trà rượu, người thì nơi đình tạ vẫn xướng cuồng. Những
tưởng muôn năm hưởng phúc, nào ngờ một phút tai ương. Quan nhân nơi nước Nhược
đã xa chơi khuất bóng. Chúng tôi cõi hồng trần biết lấy ai tựa nương. Khiến
chúng tôi lòng đau lệ nhỏ, khiến chúng tôi tiếc nhớ xót thương. Nay tạm: một
chung rượu nhạt, mấy khúc đoạn trường. Hồn có linh xin về chứng giám. Ô hô. Thượng
hưởng”.
Tế xong, Kính Tế mời bảy người ra
ngoài rạp khoản đãi rượu thịt.
Cũng hôm đó, Lý bà ở ca viện soạn một
lễ hậu, rồi chị em Quế Khanh, Quế Thư ngồi kiệu tới điếu tang. Nguyệt nương nằm
trong hậu phòng, chỉ có Kiều Nhi và Ngọc Lâu ra tiếp đãi. Quế Thư ghé tai Kiều
Nhi hỏi nhỏ:
– Mẫu thân cháu nói rằng, người ta đã
chết rồi, mình vốn nghề này, khó lòng giữ trinh tiết thủy chung. Cho nên bây giờ
cô nương có tiền bạc của cải gì thì ngầm đưa cho Lý Minh đem về nhà trước,
phòng lúc sau này, bởi vì sớm muộn gì cô nương cũng ra khỏi nhà này chứ làm sao
ở đây mãi được. Nói ít cô nương hiểu nhiều.
Lý Kiều Nhi nghe xong gật đầu, trong bụng
ngầm tính toán.
Vợ Hàn Đạo Quốc là Vương thị hôm đó
cũng soạn lễ vật, rồi trang điểm thật đẹp ngồi kiệu tới điếu tang. Tới nơi,
Vương thị bày lễ vật trước linh cữu rồi đứng đợi, đợi mãi chẳng thấy ai ra tiếp
đãi. Ngô Khải thấy vậy, sai Lai An vào thưa với Nguyệt nương. Nguyệt nương nghe
nói có Vương thị đến thì đùng đùng nổi giận mắng:
– Thằng khốn kia, có thế mà mày cũng
phải vào thưa với cử hay sao. Con dâm phụ khốn nạn đó là yêu là quỷ, chính nó
đã khiến cho nhà này gia bại nhân vong, phụ nam tử bắc, ly tán phu thê. Bây giờ
nó còn dẫn xác tới đây làm gì nữa.
Lai An thấy chủ giận dữ, vội trở ra đại
sảnh. Ngô Khải bảo:
– Ngươi đã thưa với đại nương cho người
ra tiếp chưa?
Lai An chỉ lắc đầu không đáp. Ngô Khải
gặng hỏi mãi, Lai An mới nói:
– Đại nương đang định cho tứ mã phân
thây người ta đó.
Ngô Khải vội vào hậu phòng bảo em gái:
– Sao cô nương lại làm vậy? Phải cho
người ra tiếp người ta chứ. Người ta thường bảo, người ác chứ lễ vật đâu có ác.
Chồng người ta còn nắm giữ vốn liếng lớn lao của nhà này, phải liệu tiếp đãi thế
nào chứ. Không ra được thì cũng nên cho người ra tiếp người ta mới phải. Nếu
không thiên hạ sẽ đàm tiếu phiền phức lắm.
Nguyệt nương không nói gì, mãi sau mới
bảo Ngọc Tiêu ra tiếp Vương thị, mời dùng trà. Sau vài câu chuyện nhạt nhẽo,
Vương thị cáo từ mà về.
Trong hậu phòng, Quế Khanh, Quế Thư và
Ngân Nhi thấy Nguyệt nương chửi mắng vợ Hàn Đạo Quốc là dâm phụ này dâm phụ
kia, thì cũng thấy trong lòng không yên, nên nán ngồi thêm một lát rồi cáo từ,
nhưng Nguyệt nương khẩn khoản lưu giữ mà bảo:
– Thì ở đây tới mai hãy về, việc gì phải
vội.
Do đó Quế Thư và Ngân Nhi ở lại, chỉ
có Quế Khanh về trước.
Đến tối, khi các vị tăng về thì các quản
lý và thân bằng quyến thuộc như Ngô Đại cữu, Ngô Nhị cữu, Trầm di phu, Hoa Tử
Do, Ứng Bá Tước, Tạ Hy Đại, Thường Trĩ Tiết.. khoảng hai chục người, bày tiệc
ngoài rạp, rồi gọi một đoàn hát tới diễn tuồng. Đoàn hát diễn tuồng “Sát cẩu
khuyến phu”. Đám khách đàn bà con gái quây quần tại các bàn tiệc trên đại sảnh,
buông mành xuống, rồi uống rượu, nhìn qua mành coi hát.
Hát xong vài tích tuồng, mọi người trở
lên đại sảnh làm lễ cúng rượu cho Tây Môn Khánh, rồi trở lại bàn tiệc. Lý Minh
và Ngô Huệ đàn hát cạnh tiệc. Bữa tiệc kéo dài tới canh ba mới vãn.
Tiệc xong, vợ chồng Kiều Đại hộ bày lễ
vật trước linh cữu rồi cùng nhiều người khác tế lễ. Tế xong, Ngô Nhị cữu và Cam
quản lý lại mời mọi người ra rạp uống trà nói chuyện.
Đám khách đàn bà thì rút cả vào hậu
phòng. Hôm đó Ái Nguyệt cũng tới điếu tang và được mời lại. Ái Nguyệt thấy Quế
Thư và Ngân Nhi cũng có mặt thì trách là hai người đã không cho mình biết tin sớm,
đoạn quay lại nói với Nguyệt nương:
– Đại nương hạ sinh ca nhi như thế này
chính là chuyện mừng lớn, chỉ tiếc là gia gia đi sớm quá. Nhưng nay thì trong
nhà đã có tiểu chủ, cũng chẳng đáng buồn.
Nguyệt nương không nói gì.
Tới tuần nhị thất của Tây Môn Khánh,
Ngô Đạo quan ở miếu Ngọc Hoàng cùng mười sáu vị đạo sĩ tới niệm kinh làm lễ.
Hôm đó đám võ quan địa phương như Hà
Thiên hộ, Chu Thủ bị, Kinh Thống chế, Trương Đoàn luyện, Vân chỉ huy và hai
thái giám Lưu, Tiết hẹn nhau đem lễ vật và văn tế tới điếu tang.
Đám võ quan bày lễ vật la liệt rồi từng
người vào lạy trước linh cữu. Kính Tế nhất nhất đáp lễ cung kính. Sau đó dọn tiệc
khoản đãi. Các quan ăn uống no say mới cáo từ.
Nguyệt nương thấy tất cả những người từ
trước có liên hệ với chồng mình, trên thì các quan lại, giữa thì thân bằng quyến
thuộc, dưới thì gia nhân nô bộc, tất cả đều là hạng tham tiền, vì tiền mà đến,
không người nào có thể nhờ cậy được. Chỉ riêng Xuân Hồng là đứa trung thành có
thể giúp đỡ ít nhiều nhất là trong việc đề phòng kẻ có gian tâm, do đó Nguyệt
nương sai Xuân Hồng vào hầu hạ trong phòng Kiều Nhi, vì Kiều Nhi có thái độ và
hành động đáng nghi ngờ hơn cả. Căn nhà Bình Nhi ở lúc trước nay được khóa kỹ lại.
Thật đúng là:
Tường hoa cột chạm còn đây,
Mà người xu phụ một ngày vắng tăm.
Trong thời gian này, Lý Minh giả danh
là ở lại nhà Tây Môn Khánh để giúp đỡ công việc, nhưng kỳ thật là để giúp giục
Kiều Nhi lấy cắp tiền bạc của cải để chuyển về nhà. Ngô Nhị cữu tuy biết gian ý
của Kiều Nhi nhưng lại không nói ra.
Đến ngày mồng chín là tuần tam thất của
Tây Môn Khánh, các tăng sĩ đạo sĩ lại tới nhà lập đàn tụng kinh. Nguyệt nương bắt
đầu ra khỏi phòng, đi lại coi sóc mọi việc nhà. Nguyệt nương thấy tang ma kéo
dài bất tiện, bèn cho mời Từ tiên sinh lại đổi ngày. Do đo, ngày mười hai, Kính
Tế cùng Từ tiên sinh đi làm lễ phá thổ, và ngày hai mươi thì đưa đám. Như vậy sớm
hơn được mười ngày.
Tuy đám ma được coi là trọng thể,
nhưng không linh đình bằng đám ma Bình Nhi lúc trước. Linh cữu ra tới cổng thì
ngừng lại để các vị tăng của chùa Bảo Ân đọc kệ. Đọc xong, Kính Tế làm lễ đốt
vàng rồi linh cữu tiếp tục di chuyển. Toàn gia lớn nhỏ cất tiếng khóc vang động.
Sau linh cữu là kiệu của Nguyệt nương và đám tiểu thiếp cùng kiệu của khách đàn
bà. Sau đó là khách đàn ông đi xe đi ngựa. Đám tang trực chỉ Nam môn, tiến ra
ngoại thành.
Kính Tế chuẩn bị một giải lụa tốt, nhờ
Vân chỉ huy làm lễ để chủ.
Đám khách đàn ông đưa ma chỉ lèo tèo
ít người như Ngô Đại cữu, Kiều Đại hộ, Hà Thiên hộ, Trầm di phu, Hàn di phu và
vài người quản lý. Ngô Đạo quan cho mười hai vị đạo sĩ đi theo dọc đường niệm
kinh.
Chôn cất xong, về tới nhà, Nguyệt
nương thưởng tiền đám lính hầu rồi cho về nha môn. Kính Tế thưởng tiền cho tăng
sĩ, đạo sĩ, đoàn hát, các ca nhạc công rồi cho về.
Đến tuần ngũ thất của chồng, Nguyệt
nương mời ba vị sư bá là Vương, Tiết và Đại sư phụ cùng mười hai vị tăng ni
khác đến tụng kinh cầu siêu. Ngô Đại cữu mẫu và Trịnh Tam thư ở thượng phòng bầu
bạn với Nguyệt nương.
Nguyên là hôm đưa đám, nhân lúc không ai
để ý, Quế Thư rỉ tai Kiều Nhi:
– Mẫu thân nói rằng cô nên thu nhặt đồ
tế nhuyễn và của cải mà về nhà, ở lại đây làm gì. Cô nương con cái không có thì
ở lại phỏng có lợi ích gì. Hôm nọ Ứng Nhị gia tới nhà chơi, có nói rằng Trương
Nhị quan nhân đang muốn bỏ ra năm trăm lạng để cưới cô nương đó. Về với Trương
quan nhân, cô nương tuy chỉ là nhị phòng, nhưng một tay lo liệu việc nhà, có tiền
bạc lại có uy quyền. Chẳng hơn là chết già chết nghèo ở đây hay sao. Vả lại dù
sao thì cô cháu mình cũng là ca nữ, lấy việc lá gió chim cành làm gốc, người
nào giàu có thế lực thì mình tìm đến. Cô nương nên nghĩ kỹ, đừng để lỡ dịp may.
Kiều Nhi nghe xong cho là phải.
Qua tuần ngũ thất của Tây Môn Khánh,
Kim Liên tìm Tuyết Nga bảo:
– Hôm đưa đám, tôi thấy Ngô Nhị cữu và
Lý Kiều Nhi thầm thì trò chuyện gì với nhau trong hoa viên. Rồi hôm sau thì
chính mắt Xuân Mai thấy Kiều Nhi đưa một gói gì cho Lý Minh đem về nhà.
Tuyết Nga nói lại với Nguyệt nương.
Nguyệt nương tức tốc gọi Ngô Nhị cữu vào mắng cho một trận nên thân, rồi bắt ra
tiệm coi hàng, không cho tự ý vào nhà nữa.
Nguyệt nương lại gọi Bình An vào dặn
là không cho Lý Minh lai vãng, tới cổng là phải đuổi ra. Lý Kiều Nhi không còn
ai để sai chuyển đồ ăn cắp về nhà, nên buồn thẹn quá hóa giận, nhân Nguyệt
nương sai pha trà mời Ngô Đại cữu và Ngọc Lâu tới mà không mời mình, Kiều Nhi
liền kiếm cớ cãi nhau với Nguyệt nương một trận tơi bời. Kiều Nhi lăn khóc đùng
đùng, la hét rầm rĩ rồi đập vào bàn thờ Tây Môn Khánh mà khóc lóc kể lể.
Hôm sau, Kiều Nhi giả vờ thắt cổ tự tử,
a hoàn tri hô lên, Nguyệt nương hoảng sợ, vội bàn tính với Ngô Khải, cho gọi Lý
bà tới trao trả Kiều Nhi về ca viện. Lý bà nghe tin Nguyệt nương đuổi Kiều Nhi
ra tay không, liền tới nói với Nguyệt nương:
– Người trong gia đình chúng tôi mấy
năm nay ở đây chịu khổ chịu cực làm người dưới của đại nương, nay đại nương
không dung được thì xin đại nương cho nó đem quần áo tư trang về để cho người đời
khỏi đàm tiếu nó mà đại nương cũng được tiếng là rộng lượng.
Nguyệt nương hỏi ý kiến Ngô Khải, Ngô
Khải không trả lời. Nguyệt nương quyết định bằng lòng cho đem hết quần áo tư
trang và tất cả những gì thuộc Kiều Nhi, hoặc mua sắm cho Kiều Nhi, theo Kiều
Nhi về nhà. Nhưng Kiều Nhi lại nhất định đòi phải cho hai a hoàn Nguyên Tiêu và
Tú Xuân theo mình. Nguyệt nương không chịu bảo:
– Có phải định dụ dỗ con nhà tử tế vào
đường ca hát chăng?
Kiều Nhi sợ quá, không dám đòi nữa, chỉ cùng Lý bà tươi cười vái chào Nguyệt nương lên kiệu mà về.
Nghĩ cho cùng, đám ca nhi kỹ nữ xưa
nay chỉ biết bòn rút của cải khách chơi làm lẽ sống, lấy phấn son thanh sắc làm
kế sinh nhai, quen đưa người cửa trước rước người cửa sau, thấy tiền thì mắt
sáng lên, cho nên hành động của Kiều Nhi cũng chỉ là lẽ thường tình. Kiều Nhi về
với Tây Môn Khánh cũng chỉ vì ham danh lợi, nay danh lợi hết tất phải bỏ đi, chứ
đâu phải vì tình nghĩa gì mà giữ lại được. Vả lại người ta thường nói: “Giữ người
ở lại chứ ai giữ được người đi”, ngựa quen đường cũ biết làm sao.
Kiều Nhi đi xong thì Nguyệt nương than
khóc một hồi. Mọi người phải xúm lại khuyên can. Kim Liên bảo:
– Thôi, đại nương à, chẳng nên buồn khổ
làm gì. Người ta ở đây cũng như là kế sinh nhai, bây giờ người ta đi rồi cũng
chẳng nên buồn nên tiếc.
Bỗng thấy Bình An từ cổng chạy vào
thưa:
– Có Tuần diêm thái ngự sử tới, hiện
Ngự sử đang ngồi ngoài đại sảnh. Tôi thưa là lão gia thất lộc rồi, Ngự sử hỏi
là mất được bao lâu, tôi thưa là mất ngày hai mươi mốt tháng giêng vì bệnh, nay
đã qua tuần ngũ thất rồi. Ngự sử lại hỏi là linh vị để tại đâu, tôi thưa là
linh vị để tại hậu phòng, sớm chiều cúng vái. Bây giờ Ngự sử muốn được vào lạy
linh vị lão gia nên sai tôi vào thưa với đại nương.
Nguyệt nương bảo:
– Cậu Kính Tế đâu, sao không bảo ra tiếp
chuyện Ngự sử?
Bình An lật đật đi tìm Kính Tế. Kính Tế
mặc đồ tang ra hầu chuyện.
Lát sau, hậu phòng được sắp xếp gọn
gàng, Thái Ngự sử được dẫn tới lạy trước linh vị Tây Môn Khánh. Nguyệt nương mặc
áo đại tang ra lạy trả, nhưng không nói lời nào. Lạy xong, Thái Ngự sử nói với
Nguyệt nương:
– Thỉnh phu nhân hồi phòng.
Nói xong theo Kính Tế ra đại sảnh.
Thái Ngự sử nói:
– Ta thường tới đây quấy quả quan
nhân, nay mãn nhiệm ở ngoài, đang trên đường về kinh nên mới ghé qua đây, định
vào lạy chào, nào ngờ quan nhân đã thành người thiên cổ. Chẳng hay quan nhân mất
vì bệnh gì vậy?
Kính Tế đáp:
– Nhạc gia chúng tôi bị bệnh viêm hỏa
mà mất.
Thái Ngự sử than:
– Thật đáng tiếc lắm.
Nói xong gọi quân hầu tới, lấy ra hai
xấp lụa Hàng Châu, hai xấp gấm Dương Châu, bốn con cá lớn và bốn vò mật ong, đoạn
bảo Kính Tế:
– Chút lễ mọn này gọi là để cúng quan
nhân.
Lại sai gói năm chục lạng bạc, đưa cho
Kính Tế mà bảo:
– Số bạc này là lúc trước quan nhân
đây giúp tôi, nay xin hoàn lại, để gọi là vẹn toàn nghĩa thủy chung.
Lại nhắc Kính Tế:
– Xin cho đem vào trình Đại nương.
Kính Tế sai Bình An đem bạc và lễ vật
vào.
Gia nhân bưng trà lên, Thái Ngự sử uống
xong chung trà, cáo từ lên kiệu mà đi.
Nguyệt nương tự nhiên có năm chục lạng,
trong lòng mừng rỡ, rồi lại buồn thảm nghĩ rằng, lúc chồng mình còn sống, thì
những vị quan to như Thái Ngự sử mỗi lần tới là một lần đại lễ tưng bừng, chứ
đâu có ra về lặng lẽ như vậy.
Nói về Lý Kiều Nhi, về tới nhà thì vui
vẻ lắm. Bá Tước nghe tin Kiều Nhi đã về, vội sai ngươi đến báo cho họ Trương Tiết.
Nguyên Trương Nhị nhỏ hơn Tây Môn
Khánh một tuổi, tức tuổi Mão năm nay ba mươi ba tuổi còn Kiều Nhi đã ba mươi ba
tuổi, nhưng Lý Bà nói dối là chỉ mới hai mươi tám tuổi.
Hôm sau Trương Nhị đem ba trăm lạng lại
cưới Kiều Nhi về làm đệ nhị phòng. Cũng từ đó, Tôn Thiên Hóa và Chúc Thật Niệm
lại cùng Vương Tam lui tới với Quế Thư như trước.
Bá Tước, Lý Tam và Hoàng Tứ bán cho
Trương Nhị bản văn thư được trăm lạng, lấy tiền đó ăn chơi phung phí tại các
nhà kỹ nữ ca nhi.
Trương Nhị sau khi lấy Kiều Nhi, lại bỏ
ra năm ngàn lạng bạc, nhờ người nói với Trịnh Hoàng thân ở khu mật viện trên phủ
Đông Bình, chạy chọt với Chu Thái úy ở triều, để được làm chức Thiên hộ, thay
thế Tây Môn Khánh đầu tại sở Đề hình Sơn Đông. Một mặt bỏ tiền ra xây cất thêm
nhà cửa và làm hoa viên sang trọng.
Bá Tước ngày nào cũng thì thụt ra vào
nhà Trương Nhị, bao nhiêu chuyện lớn nhỏ trong nhà Tây Môn Khánh kể ra vanh
vách, lại nói:
– Hiện trong nhà Tây Môn Khánh còn người
thiếp thứ năm là Phan Kim Liên, đẹp chẳng khác người trong tranh, lại giỏi thi
ca từ phú, đàn ngọt hát hay, thông hiểu sách vở chữ nghĩa, thi họa cầm kỳ, năm
nay chưa tới ba mươi, thật là người hiếm có lắm.
Trương Nhị nghe xong khoái lắm, hỏi:
– Có phải người đó trước là vợ của tên
bán bánh Võ Đại lang đó không?
Bá Tước đáp:
– Chính vậy, Tây Môn Khánh chiếm làm vợ
tới nay cũng được sáu năm gì đó, có điều là chẳng hiểu nàng ta có chịu lấy chồng
khác hay không.
Trương Nhị khẩn khoản:
– Nếu vậy thì nhờ nhị ca theo dõi
giùm, có gì tôi xin cưới về ngay, tốn kém bao nhiêu cũng chịu.
Bá Tước nói:
– Tôi hiện đang có đứa người quen là
gia nhân trong nhà Tây Môn Khánh tên gọi Lai Tước, để tôi bảo nó dò xét, có gì
sẽ báo cho quan nhân ngay. Quan nhân mà cưới được nàng Kim Liên thì bằng cưới
được trăm ngàn mỹ nhân khác. Lúc Tây Môn Khánh cưới Kim Liên tốn kém không biết
bao nhiêu mà kể, lại còn hao tâm tổn sức. Nhưng mà vật nào cũng có chủ, vật quý
lại khó tìm, có tốn bao công phu tiền bạc, mới có được mỹ nhân. Quan nhân mà có
được nàng Kim Liên thì mới không uổng cuộc đời vinh hoa phú quý. Để tôi bảo Lai
Tước dò xét trước, rồi có gì tôi sẽ nói thêm vào, quan nhân chỉ bỏ tiền ra là
được ngay.
Qua những lời của Bá Tước, ai cũng thấy,
phàm những kẻ ăn nhờ sống bám đều là loại tiểu nhân, ham lợi mà phản trắc. Tây
Môn Khánh đối với Bá Tước lúc nào cũng như bát nước đầy, hai người như keo như
sơn, thiết tưởng anh em ruột cũng không bằng. Bá Tước ăn uống, may mặc và sống
là nhờ Tây Môn Khánh, vậy mà Tây Môn Khánh mới nằm xuống, thịt xương chưa lạnh
mà Bá Tước đã làm biết bao điều bất nghĩa.
Thật là:
Họa hổ họa long, nan họa cốt,
Tri nhân tri diện, bất tri tâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét