Hạ Kim Quế. Ảnh phim Hồng lâu mộng 1987. |
Hồi 80.
Gặp
anh chồng phũ, Hương Lăng bị trận đòn oan;
Chữa
đàn bà ghen, đạo sĩ kê bài thuốc nhảm.
Kim Quế nghe thấy nói thế, ngoảnh mặt
đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt nói:
Khi hoa ấu nở có mùi thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa thơm khác sẽ để vào chỗ nào? Thực là rất mực không thông.
Hương Lăng nói:
Không những hoa ấu thơm, ngay đến lá
sen, gương sen cũng đều có một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy không thơm bằng
mùi hoa, nếu khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu khó thưởng thức,
thì cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa súng, lá lau, gốc
sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy cũng làm cho người
ta tỉnh táo nhẹ nhàng.
Theo như cô nói, thì hoa quế, hoa lan
thơm không ra gì à?
Hương Lăng đương lúc hăng, quên cả
kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:
Mùi thơm của hoa lan hoa quế thì hoa
khác không thể bì được.
Nói chưa dứt câu thì a hoàn của Kim Quế
tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào mặt Hương Lăng mắng: Cô đáng chết! Sao dám gọi
tên mợ ra?
Hương Lăng chợt nghĩ ra, băn khoăn ngượng
nghịu vội cười thưa:
Tôi trót buột miệng, xin mợ đừng để ý.
Kim Quế cười nói:
Cô làm chuyện gì đấy. Cô thực cẩn thận
quá. Nhưng tôi nghĩ chữ “Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một chữ khác, không
biết cô có bằng lòng hay không?
Hương Lăng cười nói:
Sao mợ lại nói thế? Ngay thân tôi bây
giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi một chữ tên mà mợ lại hỏi tôi có bằng lòng hay
không? Như thế tôi đâu dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt tên cho tôi chữ ấy.
Kim Quế cười nhạt:
Cô nói cũng đúng đấy, nhưng chỉ sợ chị
Bảo để bụng thôi. Hương Lăng cười thưa:
Mợ chưa biết, lúc trước mua tôi về, cốt
để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi sang hầu cậu và
bây giờ có mợ về đây, lại càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa. Vả chăng cô ấy
là người hiểu đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?
Cô đã nói thế thì chữ “hương” không ổn
bằng chữ “thu”. Vì mùa thu thì củ ấu, hoa ấu mọc nhiều, như thế chẳng có gốc
tích hơn chữ “hương” hay sao?
Thôi tôi xin nghe lời mợ.
Từ đấy Hương Lăng đổi tên là Thu Lăng.
Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.
Tiết Bàn xưa nay vẫn có tính “được voi đòi tiên”. Hắn lấy được Kim Quế rồi, lại thấy a hoàn của Kim Quế là Bảo Thiềm có chút nhan sắc, đi đứng lẳng lơ đáng yêu, nên thường sai lấy nước pha trà, cố ý chọc ghẹo nó. Bảo Thiềm tuy đã biết mùi đời, nhưng lại sợ Kim Quế, nên không dám sỗ sàng, hãy để ý xem nét mặt Kim Quế thế nào đã. Kim Quế cũng dò biết ý ấy, nghĩ bụng: “Mình đương định bày binh bố trận làm hại Hương Lăng, chưa tìm được chỗ sơ hở, thì anh chàng đã lại lấm lét đến Bảo Thiềm. Mình hãy liều gán Bảo Thiềm cho hắn, thế nào hắn cũng thưa nhạt Hương Lăng. Thừa dịp ấy, ta sẽ gạt bỏ Hương Lăng, bấy giờ Bảo Thiềm là người của mình thì cũng dễ xử thôi”.
Chủ ý đã định, chị ta chỉ đợi thời cơ
là ra tay.
Một hôm vào buổi tối, Tiết Bàn ngà ngà
say, sai Bảo Thiềm cầm lấy chén, cố ý nắm tay Bảo Thiềm. Bảo Thiềm lại làm bộ lẩn
tránh, rụt tay lại, hai bên cùng nhỡ tay. “Choang” một tiếng, chén nước rơi xuống
đất, bắn ra cả người. Tiết Bàn có ý ngượng, nói đổ Bảo Thiềm cầm chén không cẩn
thận.
Bảo Thiềm nói:
Vì cậu đỡ chén không cẩn thận. Kim Quế
cười nhạt, nói:
Giọng lưỡi của hai người đều khá cả đấy,
chẳng ai dại đâu.
Tiết Bàn chỉ cúi đầu mỉm cười không
nói. Bảo Thiềm thì đỏ mặt đi ra. Đến lúc đi ngủ, Kim Quế cố ý đuổi Tiết Bàn đi
ngủ ở chỗ khác, càng đỡ bận thân. Tiết Bàn chỉ cười.
Kim Quế nói:
Muốn làm gì thì cứ nói cho em biết, đừng
có lén lút, chả ăn thua gì đâu!
Tiết Bàn nghe nói, mượn hơi men, quỳ
ngay trên chăn, kéo Kim Quế cười nói:
Em ơi, nếu em để Bảo Thiềm cho anh,
thì em muốn gì, anh cũng xin vâng. Em muốn ăn óc người sống, anh cũng lấy được
cho em. Kim Quế cười nói:
Cậu nói chẳng thông một tí nào. Cậu
yêu ai cứ nói rõ ra, rồi lấy làm nàng hầu, đừng để ngoài trông thấy, đâm ra khó
coi. Còn em thì có cần cái gì đâu?
Tiết Bàn nghe vợ nói thế, mừng quá, tạ
ơn không ngớt. Đêm hôm ấy hắn cố làm trọn phận sự người chồng, hết sức chiều
chuộng Kim Quế. Hôm sau hắn cũng không đi đâu, chỉ ở trong nhà đùa nghịch, lại
càng bạo gan thêm. Đến buổi chiều, Kim Quế cố ý đi ra ngoài, để cho hai người ở
nhà có dịp gần nhau. Tiết Bàn liền giở trò gạ gẫm. Bảo Thiềm đã biết tám chín
phần rồi, nên cũng giả cách nửa muốn nửa đừng, ngờ đâu Kim Quế để bụng rình, giữa
lúc hai người đang giằng co, sắp vào cuộc, chị ta liền sai gọi a hoàn nhỏ là Tiểu
Xả nhi đến.
A hoàn nhỏ này vẫn hầu Kim Quế từ lúc
bé, vì bố mẹ nó mất sớm, không có người chăm nom, nên ai cũng gọi nó là Tiểu Xả
nhi, chuyên làm việc vặt. Bấy giờ Kim Quế đã có ý định sẵn, gọi nó đến dặn:
Mày đi bảo cô Thu Lăng vào buồng lấy
khăn tay của tao ra đây, đừng nói là tao bảo mày.
Tiểu Xả nhi chạy một mạch đi tìm Thu
Lăng nói:
Cô Lăng, mợ bỏ quên cái khăn mặt ở
trong buồng. Cô đi vào lấy ra đưa cho mợ có được không?
Hương Lăng gần đây hay bị Kim Quế hành
hạ, không biết tại sao, nên tìm hết cách chiều chuộng để hòng lấy lòng Kim Quế.
Vừa nghe nói thế, liền đi vào buồng lấy khăn mặt, không ngờ gặp lúc hai người
đương co kéo nhau. Thu Lăng chạy đâm sầm vào, thấy thế xấu hổ quá, mặt mũi đỏ bừng
lên, quay người tránh đi không kịp. Tiết Bàn cho là việc ấy đã công khai rồi,
trừ Kim Quế ra, không sợ ai cả, vì thế cửa cũng không đóng. Khi Thu Lăng vào, hắn
có xấu hổ đấy, nhưng cũng không để ý, Bảo Thiềm vốn là đứa đanh đá, giờ thấy
Thu Lăng, giận không có chỗ nào trốn được, liền đẩy Tiết Bàn, chạy một mạch ra
ngoài, miệng vẫn càu nhàu oán trách, nói là Tiết Bàn dùng sức cưỡng dâm. Tiết
Bàn chật vật mới dỗ được Bảo Thiềm vào tay, lại bị Thu Lăng phá đám, cuộc vui
biến thành cơn giận, đều trút cả lên người Thu Lăng. Hắn không cho ai phân trần,
chạy ra ngoài quát mắng:
Con đĩ chết đâm chết chém này! Tại sao
lúc này mày lại dẫn xác đến đây làm gì? Thu Lăng biết là việc không hay, ba
chân bốn cẳng chạy mất. Tiết Bàn quay lại tìm Bảo Thiềm thì đã mất hút.
Hạ Kim Quế gài cho Hương Lăng bước vào đúng lúc Tiết Bàn đang sàm sỡ Bảo Thiềm, khiến Tiết Bàn tức giận đánh đập Hương Lăng
Lúc đó hắn giận quá, chỉ làu nhàu mắng
Thu Lăng. Sau khi ăn cơm chiều, Tiết Bàn rượu đã ngà ngà say, đến lúc tắm rửa,
không ngờ nước hơi nóng, bị bỏng chân, liền cho là Thu Lăng có ý hại mình. Hắn
trần truồng đuổi đá Thu Lăng mấy cái. Thu Lăng xưa nay chưa bị ức như thế bao
giờ, nhưng đã đến nông nỗi này, không biết làm thế nào, đành chỉ than thân
trách phận, rồi bỏ đi.
Kim Quế đã rỉ tai với Bảo Thiềm, đêm
nay cho Tiết Bàn cùng Bảo Thiềm vào ngủ ở buồng Thu Lăng và bảo Thu Lăng sang
ngủ hầu ở buồng mình. Lúc đầu Thu Lăng không chịu. Kim Quế bảo Thu Lăng cho
mình là bẩn thỉu hoặc muốn rảnh thân, sợ đêm phải hầu hạ vất vả. Rồi chị ta mắng:
Ông chủ đốn mạt của nhà mày hễ thấy
người nào là yêu người ấy. Hắn đã chiếm mất a hoàn của ta, lại không cho mày
sang đây thay, như vậy là ý định thế nào? Chắc là hắn muốn bắt ta chết đi thì mới
thôi.
Tiết Bàn thấy thế, lại sợ làm ngáng trở
đến việc mình với Bảo Thiềm, liền chạy lại mắng Thu Lăng:
Con khốn nạn này! Mày không bước đi
thì tao đánh cho tan xác bây giờ.
Thu Lăng không biết làm thế nào, đành
phải mang chăn đệm đến. Kim Quế bảo Thu Lăng trải chiếu ngủ ở dưới đất. Thu
Lăng đành phải nghe lời, vừa nằm xuống thì Kim Quế đã gọi pha nước, một lúc lại
bắt bóp đùi, cứ thế mỗi đêm bảy, tám lần, không để cho Thu Lăng nằm ngủ yên được
một lát.
Tiết Bàn với Bảo Thiềm như được ngọc
báu, tất cả mọi việc đều bỏ mặc đấy. Kim Quế tức giận chỉ mắng thầm:
Hãy cho mày sướng mấy hôm để dần dần
trị được con kia rồi lúc đó đừng có trách tao!
Chị ta một mặt cố nhịn, một mặt tìm
cách trị Thu Lăng. Độ được nửa tháng, chị ta giả cách ốm, nói là đau bụng quá đỗi,
chân tay cứng đờ, chữa mãi không khỏi. Ai cũng cho là bị Thu Lăng chọc tức.
Chạy chữa mấy hôm, bỗng ở trong gối của
Kim Quế rơi ra một hình nhân bằng giấy, mặt trên viết năm tháng ngày giờ sinh của
Kim Quế, có năm cái kim cắm vào bụng, và các đầu khớp xương. Bấy giờ mọi người
đều cho là việc lạ, đi báo Tiết phu nhân. Tiết phu nhân tay chân rụng rời, vội
vàng chạy đến. Tiết Bàn lại càng rối rít, định tra khảo mọi người.
Kim Quế nói:
Việc gì phải tra oan người ta? Có lẽ
là cái bùa trừ tà của Bảo Thiềm đấy.
Dạo này Bảo Thiềm có được mấy khi rỗi
mà vào buồng mợ, sao lại đổ oan cho người ngay thẳng?
Không phải Bảo Thiềm thì còn ai nữa.
Chẳng lẽ tôi tự làm hại tôi à? Người khác thì ai dám vào buồng của tôi?
Hiện giờ Thu Lăng ngày nào cũng ở gần
mợ, chắc nó phải biết, cứ tra hỏi nó trước thì rõ.
Tra hỏi ai? Ai chịu nhận? Theo ý tôi
thì cứ giả vờ không biết, bỏ qua việc này đi là xong. Rút cuộc tôi chết thì
cũng không quan hệ gì, người ta lại càng được lấy vợ khác đẹp hơn. Theo lương
tâm mà nói, cũng chẳng qua vì ba người đều ghét tôi cả. Chị ta vừa nói vừa khóc
rống lên.
Tiết Bàn nghe vậy càng giận, tiện tay
với lấy một cái dóng cửa, chạy thẳng đi tìm Thu Lăng, không cho nói câu nào
đánh bừa vào đầu, vào mặt, vào khắp người Thu Lăng, cứ đổ riệt cho Thu Lăng làm
việc ấy. Thu Lăng kêu oan. Tiết phu nhân chạy đến mắng át đi.
Mày không hỏi rõ đầu đuôi mà đánh người
ta. Ta xem con bé ấy hầu hạ mấy năm nay, có sơ suất bao giờ đâu. Khi nào nó dám
làm việc mất lương tâm như thế? Mày hỏi cho ra trắng đen, rồi hãy giở lối đấm
đá.
Kim Quế thấy mẹ chồng nói thế, sợ Tiết
Bàn nể nang, đâm chùn, liền to tiếng khóc ầm lên, kể lể:
Hơn nửa tháng nay anh cướp mất Bảo Thiềm
của tôi đi, không cho nó vào buồng, chỉ có Thu Lăng ngủ với tôi thôi. Tôi muốn
tra hỏi Bảo Thiềm thì anh bênh nó. Giờ anh lại đâm tức giận đánh Thu Lăng. Thôi
cứ làm cho tôi chết đi, rồi anh kén người giàu sang xinh đẹp hơn mà lấy, việc
gì anh phải bày ra cái trò đùa này?
Tiết Bàn nghe nói vậy lại càng tức
thêm. Tiết phu nhân nghe Kim Quế nói câu nào cũng có vẻ độc ác, áp chế con
mình, rất là bực. Ngờ đâu đứa con trơn hèn, bị nó áp chế cứ chịu nhũn đi như
con chi chi ấy. Đã thế, lại còn tằng tịu với con a hoàn, để nó nói cho là cướp
mất người của nó. Nó lại muốn được cái tiếng là người hòa nhã biết nhường chồng.
Rút cục cái hình nhân ấy không biết ai làm ra. Câu tục ngữ nói rất đúng: “Quan
thanh khó xử việc nhà”, bây giờ bố mẹ chồng cũng khó xử đoán được việc riêng của
dâu con. Bà ta không biết làm thế nào, đành chỉ mắng Tiết Bàn:
Cái của oan trái này, con chó còn có
thể diện hơn mày! Ai ngờ mày cắm đầu đi mò cả con a hoàn hầu cận, để cho vợ mày
nó bảo là cướp mất a hoàn của nó, liệu mày còn mặt mũi nào trông thấy người ta
nữa? Mày không biết ai làm cái bùa ấy, cũng không hỏi cho ra nhẽ, đã đánh ngay
người ta. Tao biết mày là đứa có mới nới cũ, mày phụ cả lòng tốt của người ta
trước đây. Dù nó không ra gì, mày cũng không nên đánh nó. Tao sẽ bảo ngay người
mối đến để bán nó đi, thế là mày được rảnh mặt.
Tiết phu nhân tức quá, lại bảo:
Hương Lăng! Thu nhặt đồ đạc đi theo
tao. Rồi bà ta lại gọi người bảo:
Lại tìm ngay người mối lại đây, bán nó
đi lấy mấy lạng bạc, thế là nhổ được cái gai trong thịt, cái đinh trong mắt, để
cho cả nhà được sống yên ổn!
Tiết Bàn thấy mẹ nổi giận, cứ cúi đầu
xuống. Kim Quế nghe Tiết phu nhân nói mấy câu ấy, liền ngoảnh mặt ra ngoài cửa
sổ khóc và nói:
Bà muốn bán người thì cứ bán, không cần
phải nói người nọ chọc người kia. Không lẽ chúng tôi lại là người hay ghen
tuông không biết dung kẻ dưới hay sao? Tại sao nhổ gai trong thịt, nhổ đinh
trong mắt? Ai là cái đinh, ai là cái gai? Nếu tôi mà ghen với con Thu Lăng thì
đời nào tôi chịu cho con a hoàn của tôi làm nàng hầu.
Tiết phu nhân nghe nói tức quá, run người, nghẹn lên cổ họng nói:
Thế là phép tắc nhà nào đấy? Mẹ chồng nói ở trong nhà, thì nàng dâu cãi lại ở ngoài cửa sổ. Khen cho mày là con gái nhà đại gia đấy!
Tiết phu nhân nghe nói tức quá, run người, nghẹn lên cổ họng nói:
Thế là phép tắc nhà nào đấy? Mẹ chồng
nói ở trong nhà, thì nàng dâu cãi lại ở ngoài cửa sổ. Khen cho mày là con gái
nhà đại gia đấy! Động tới là đối gia đối giảm. Mày nói cái gì thế?
Tiết Bàn tức quá giậm chân nói:
Thôi đi, thôi đi! Người ngoài nghe thấy
thì người ta cười cho đấy!
Kim Quế nghĩ bụng: “Không làm thì
thôi, đã làm thì phải làm cho to chuyện” nên càng kêu ầm lên:
Tôi không sợ ai cười cả. Con vợ lẽ nhà
anh định triệt tôi, hại tôi, tôi lại còn sợ ai cười nữa? Chi bằng anh giữ nó lại,
bán quách tôi đi! Ai chả biết nhà họ Tiết lắm tiền, việc gì cũng lấy của đè người,
lại cậy có họ hàng thân thế, áp chế người ta! Sao anh không làm ngay đi, lại
còn chờ gì nữa? Nếu chê tôi không ra gì, thì ai bảo các người mù mắt, năm lần bảy
lượt đến nhà tôi?
Rồi chị ta vừa khóc vừa giãy giụa, vừa
đánh tát mình. Tiết Bàn tức quá, nói cũng dở, khuyên cũng dở, đánh cũng dở, van
xin cũng dở, đành cứ đi ra đi vào, thở vắn than dài, rồi tự trách mình vận hạn
đen đủi!
Được Bảo Thoa khuyên ngăn, Tiết phu
nhân đi về, cứ gọi người đến để bán Hương Lăng.
Bảo Thoa cười nói:
Nhà ta đây chỉ biết mua người, chứ
không bao giờ bán người. Mẹ giận quá đâm ra lẩn. Người ta nghe thấy chẳng chê
cười hay sao? Nếu anh chị ghét bỏ nó, thì cứ giữ nó lại để hầu con. Con cũng
đương thiếu người đây.
Tiết phu nhân nói:
Giữ nó lại chỉ tổ bực mình thôi, chi bằng
tống nó đi cho yên chuyện! Bảo Thoa cười nói:
Nó ở với con cũng thế thôi, không cho
nó sang bên kia là được. Từ nay, cắt đứt nó với bên kia thì cũng như là bán vậy.
Hương Lăng chạy đến trước mặt Tiết phu
nhân khóc lóc van xin ở lại hầu, không muốn đi đâu cả. Tiết phu nhân đành thôi.
Từ đó, Hương Lăng đến hầu Bảo Thoa, cắt
đứt con đường tình duyên lúc trước. Tuy thế, cô ta cũng vẫn nhìn trăng buồn tủi,
khêu đèn thở than. Hương Lăng đã ăn ở với Tiết Bàn mấy năm, nhưng vì chân huyết
xấu, nên không có thai nghén gì, giờ lại bị uất ức nên đâm ra nghĩ ngợi, trong
ngoài dày vò, không chịu nổi, sinh ra bệnh ráo huyết, ngày một gầy mòn, biếng
ăn biếng uống, mời thầy chạy thuốc cũng không khỏi.
Sau đó Kim Quế vẫn to tiếng cãi lộn mấy
lần. Tiết Bàn có khi mượn hơi men hung lên, cầm gậy định đánh, Kim Quế giơ người
ra thách đánh, có lúc Tiết Bàn cầm dao muốn chém, Kim Quế liền chìa cổ ra, kỳ
thực Tiết Bàn không dám to gan, chỉ làm ầm lên một lúc rồi thôi. Như vậy đã
thành ra thói quen, làm cho Kim Quế càng lên nước, mắng chửi cả Bảo Thiềm.
Tính nết của Bảo Thiềm khác hẳn Hương
Lăng, thực là củi khô gặp lửa. Nó đã ý hợp tâm đầu với Tiết Bàn, liền gạt Kim
Quế ra một nơi. Gần đây Kim Quế lại hành hạ nó. Nó không chịu kém. Trước kia
còn đối già đối non, sau Kim Quế tức quá chửi, đánh nó. Tuy nó không dám đánh lại
nhưng nó hung lên, đập đầu định tự tử, ngày thì dao kéo, đêm thì dây thừng, giở
hết mọi trò.
Tiết Bàn một mình không thể chiều chuộng
được cả hai bên, đành cứ quanh co vớ vẩn; có khi trong nhà ầm ĩ quá, không biết
làm thế nào, hắn đành lánh mặt ra ngoài cho rảnh.
Kim Quế lúc vui, không nổi nóng, lại
tìm người đến đánh bài, gieo xúc sắc. Chị ta lại thích nhai xương đầu. Hàng
ngày mổ gà vịt, bao nhiêu thịt cho cả người nhà, chỉ để xương đầu lại nhắm rượu,
ăn chán rồi lại nổi nóng lại mắng chửi bâng quơ: “Đồ chó chết kia! Mày biết vui
với con đĩ, thì tội gì ta lại không vui”. Mẹ con Tiết phu nhân cứ lờ đi như
không nghe thấy gì. Tiết Bàn cũng không biết làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình
chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy phải con yêu tinh ấy. Từ đó cả hai phủ Vinh,
Ninh, người trên kẻ dưới, đều biết rõ câu chuyện, không ai là không phàn nàn.
Bảo Ngọc đã hết hạn một trăm ngày, được
đi ra ngoài, cũng thường sang chơi, trông thấy Kim Quế hình dáng đi đứng không
ra vẻ dữ tợn, cũng là một đóa hoa tươi, một cành liễu rủ, không kém gì các chị
em, sao lại có cái tính như thế? Thực là việc lạ. Bảo Ngọc đâm ra buồn bực. Hôm
đó sang thăm Vương phu nhân, gặp bà vú của Nghênh Xuân vào chào, nói:
Tôn Thiệu Tổ người không đứng đắn, cô
nhà ta cứ khóc, chỉ muốn có người sang đón về nhà chơi mấy hôm cho khuây khỏa!
Vương phu nhân nói:
Mấy hôm nay ta cũng định cho người đi
đón nó, nhưng vì có mấy việc không được như ý nên quên khuấy đi mất. Hôm trước
Bảo Ngọc về, đã nói qua rồi. Ngày mai tốt ngày, ta sẽ cho người đi đón.
Đương nói chuyện thì Giả mẫu sai người
đến bảo Bảo Ngọc:
Sáng sớm mai phải đến miếu Thiên Tề lễ
tạ.
Bảo Ngọc đang mong được đi chơi các
nơi, thấy nói thế, mừng quá, suốt đêm không ngủ. Sáng sớm hôm sau, rửa mặt gội
đầu, mặc áo quần xong, theo mấy bà già lên xe ra ngoài cửa thành phía tây, đến
miếu Thiên Tề thắp hương lễ tạ. Miếu này đã xếp đặt đầy đủ từ hôm trước. Bảo Ngọc
vốn tính nhút nhát, không dám đến gần những pho tượng mặt mày dữ tợn, vì thế vội
vàng đốt tiền giấy, ngựa giấy, rồi vào nhà khách nằm nghỉ.
Khi ăn cơm xong, bọn bà già và Lý Quý
theo Bảo Ngọc đi chơi các nơi một lúc, Bảo Ngọc thấy mệt, lại trở về nhà khách
nghỉ. Các bà già sợ Bảo Ngọc lại ngủ, liền bảo đạo sĩ họ Vương ở miếu ấy đến tiếp
chuyện. Đạo sĩ này thường đi bán thuốc rong các nơi, có mấy phương thuốc “hải
thượng” để trị bệnh kiếm lời. Ở ngoài cửa miếu có treo biển: “Bán đủ các thứ
thuốc cao đơn hoàn tán”. Hắn thường đi lại quen thuộc với hai phủ Vinh, Ninh,
người ta đặt tên riêng cho hắn là “Vương Nhất Niêm”. Ý nói là thuốc cao của hắn
hay lắm, chỉ dán một miếng là khỏi bệnh.
Bảo Ngọc đương nằm nghiêng trên giường,
thấy Vương Nhất Niêm vào, liền cười nói: “Ông đến đây rất may. Tôi nghe nói ông
kể chuyện vui lắm, xin ông nói một chuyện cho chúng tôi nghe”.
Vương Nhất Niêm cười nói: Phải đấy. Cậu
đừng ngủ, cẩn thận không có thì miến ở trong bụng nó giở quẻ đấy.
Cả nhà nghe vậy đều cười, Bảo Ngọc
cũng cười, đứng dậy mặc lại áo, Vương Nhất Niêm bảo bọn đồ đệ: “Pha trà ngon
lên đây”. Bồi Dính nói:
Cậu tôi không uống nước trà ở nhà ông
đâu, ngồi ở trong nhà này còn sợ mùi thuốc cao sặc lên đấy.
Vương Nhất Niêm cười nói:
Không có chuyện ấy. Thuốc cao của tôi
không để trong nhà này bao giờ. Biết chắc hôm nay cậu Hai đến đây, nên tôi đã
xông hương thơm từ mấy hôm trước rồi.
Bảo Ngọc nói: Phải đấy. Ngày thường
tôi nghe nói thuốc cao của thầy hay, thế thì chữa bệnh gì đấy?
Nếu hỏi đến thuốc cao của tôi, nói ra
thì dài lắm. Trong ấy có nhiều điều uẩn khúc, không nói hết được, tất cả có một
trăm hai mươi vị thuốc, quân thần đúng mức, ôn lương đều dùng. Trong thì điều
nguyên bổ khí, dưỡng vinh vệ, khai vị khẩu163, yên thần định phách,
chữa rét, chữa nóng, tiêu cơm hóa đờm, ngoài thì điều huyết mạch, dãn gân cốt,
tiêu thịt thối, mọc da non, trừ phong, tán độc, hiệu nghiệm như thần, dán vào sẽ
biết.
Tôi không tin chỉ có một lá cao mà lại
chữa được từng ấy bệnh? Tôi hãy hỏi thầy, có một thứ bệnh, dán cao có khỏi được
không?
Trăm bệnh nghìn bệnh, dán vào là khỏi
ngay, nếu không khỏi cậu cứ vặt râu tôi, tát vào mặt tôi, phá miếu tôi đi. Cậu
hãy kể cái bệnh ấy ra xem sao?
Thầy đoán xem. Nếu đoán đúng thì dán
cao sẽ khỏi. Vương Nhất Niêm nghĩ một lúc, cười nói:
Cái ấy khó đoán lắm, sợ thuốc cao của
tôi không hiệu nghiệm. Bảo Ngọc sai bọn Lý Quý:
Các anh đi ra ngoài chơi. Trong này
đông người càng sực mùi hôi thối.
Bọn Lý Quý đi ra, chỉ để một mình Dính
Yên ở lại. Dính Yên đốt nén mộng điềm hương. Bảo Ngọc bảo ông ta ngồi gần bên cạnh.
Vương Nhất Niêm rạo rực trong lòng, cười hì hì chạy đến gần, nói nhỏ:
Tôi đoán ra được rồi! Chắc là cậu Hai
có chuyện riêng gì trong phòng, muốn dùng thuốc để trợ hứng có phải không?
Nói chưa dứt lời, Bồi Dính đã quát:
Đáng chết! Tát vào mồm ấy! Bảo Ngọc vẫn chưa hiểu, liền hỏi: Thầy ấy nói gì thế?
Bồi Dính nói: Lão ta nói nhảm, tin gì
được!
Vương Nhất Niêm sợ quá không chờ Bảo
Ngọc hỏi lại, liền nói:
Xin cậu cứ kể rõ bệnh ra. Bảo Ngọc
nói:
Tôi hỏi thầy có thứ cao nào dán khỏi
được bệnh ghen của đàn bà không? Vương Nhất Niêm vỗ tay cười nói:
Việc ấy thì chịu thôi, không những
không có bài thuốc, mà tôi cũng không nghe ai nói đến bao giờ.
Như thế thì thuốc cao ấy cũng chả ra
cái gì.
Không có thuốc cao chữa bệnh ghen, chỉ
có thứ thuốc uống may ra chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không thể khỏi ngay
được.
Thuốc gì? Cách uống thế nào?
Thuốc ấy gọi là thuốc “chữa ghen”: lấy
một quả lê mùa thu hạng tốt, hai đồng cân đường, một đồng cân trần bì, ba bát
nước, sắc đến khi lê chín thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và cứ ăn đi ăn lại
mãi thì khỏi.
Như thế chả đáng bao nhiêu, chỉ sợ
không chắc đã có công hiệu.
Một thang không khỏi thì uống mười
thang, hôm nay không khỏi thì ngày mai uống tiếp, năm nay không khỏi thì sang
năm. Vì ba vị thuốc này đều nhuận phế khai vị, không hại đến người. Vừa ngọt lừ,
khỏi ho, lại dễ uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người cũng phải chết,
chết rồi thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.
Bảo Ngọc và Dính Yên đều cười và mắng:
Thật là đồ đầu trâu bẻm mép. Vương Nhất
Niêm nói:
Chẳng qua tôi nói đùa cho cậu chủ quên
ngủ trưa đấy thôi, chứ có quan hệ gì? Nói cho các cậu buồn cười là đáng tiền rồi.
Tôi nói thật cho cậu biết, thuốc cao của tôi cũng là thuốc giả. Nếu thuốc thật
thì tôi đã uống để thành thần tiên, khi nào lại phải đến ở đây sống vất sống vưởng.
Đương nói thì đến giờ làm lễ. Họ mời Bảo
Ngọc ra rót rượu đốt vàng, cúng chúng sinh. Lễ xong, Bảo Ngọc mới vào thành về
nhà.
Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã
dọn cơm chiều cho bọn bà già và người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả.
Nghênh Xuân mới khóc nức nở, ngồi ở trong buồng Vương phu nhân, kể lể những nỗi
uất ức: “Tôn Thiệu Tổ một mực ham gái mê say cờ bạc rượu chè, bao nhiêu đàn bà
con gái ở trong nhà, bị nó hiếp dâm gần khắp lượt. Cháu mới khuyên nó vài ba lần,
nó mắng cháu là hạng “đàn bà ghen tuông”. Nó lại nói cha cháu mượn của nhà nó
năm nghìn bạc định ăn không, nó đến hỏi hai ba lần không trả”. Nó lại còn trỏ
vào mặt cháu nói: “Mày đừng có lên mặt bà với tao! Bố mày đã lấy của tao năm
nghìn bạc, đem mày gán cho tao đấy. Coi chừng tao đánh một trận, tống cổ xuống
nhà dưới mà nằm! Ngày trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều
chuộng làm thân. Nói đúng ra thì tao với bố mày ngang hàng nhau, giờ lại dúi đầu
tao, bắt tao tụt xuống một bực. Không thể có thông gia như thế được, để người
ta nhìn vào lại cho là nhà tao chạy theo thế lợi”.
Nghênh Xuân vừa nói vừa khóc nức nở.
Vương phu nhân và các chị em không ai là không chảy nước mắt.
Vương phu nhân đành phải lấy lời
khuyên giải:
Đã trót gặp phải đứa ngang ngược như
thế thì còn làm thế nào được nữa. Ngày trước chú cháu đã từng khuyên cha cháu
không nên gả cháu cho con nhà ấy, nhưng cha cháu nhất định không nghe. Cháu ơi!
Thôi cũng là số phận cả.
Nghênh Xuân khóc nói:
Cháu không tin là số cháu lại khổ đến
thế này. Từ bé cháu mồ côi mẹ, may sang ở bên thím, được mấy năm yên thân, ngờ
đâu lại đến nỗi này.
Vương phu nhân vừa khuyên giải vừa hỏi
Nghênh Xuân muốn nghỉ ở đâu, Nghênh Xuân thưa: “Phải xa lìa chị em, lúc nào
cháu cũng mơ màng, tưởng nhớ. Cháu nhớ cả cái nhà cháu ở trước kia. Nếu lại được
về ở trong vườn dăm ba ngày thì chết cháu cũng vui lòng. Không biết lần sau về
còn được ở lại nữa không?
Vương phu nhân vội khuyên bảo:
Thôi cháu đừng nói nhảm. Vợ chồng trẻ,
lời qua tiếng lại, cũng là chuyện thường, hà tất cháu phải nói những câu quái gở
ấy.
Rồi bà ta sai người thu dọn ngay gian
nhà ở Tử Lăng châu, bảo bọn chị em đến làm bạn để khuyên giải. Bà ta lại dặn Bảo
Ngọc:
Không được nói hở một tí gì với cụ. Nếu
cụ biết việc này, là tự mày nói cả. Bảo Ngọc vâng dạ xin nghe lời.
Đêm ấy Nghênh Xuân lại đến nhà cũ. Các
chị em và a hoàn đi lại rất là thân thiết, ở luôn đó ba ngày, rồi mới sang bên
Hình phu nhân. Trước hết đến chào Giả mẫu và Vương phu nhân, rồi mới từ biệt chị
em, ai cũng xót thương quyến luyến. Nhờ có Vương phu nhân và Tiết phu nhân
khuyên giải mới yên. Nghênh Xuân sang bên nhà Hình phu nhân, ở được vài ngày
thì có người nhà họ Tôn sang đón về. Nghênh Xuân tuy không muốn đi, nhưng khốn
nỗi Tôn Thiệu Tổ hung ác quá, đành phải miễn cưỡng cáo từ đi về. Hình phu nhân
vốn không để ý đến, nên cũng không hỏi vợ chồng ăn ở có hòa thuận và việc nhà
có bận rộn không, chỉ hời hợt mấy câu bề ngoài thôi.
Chú
thích.
[←163]
Danh
từ đông y, vinh là huyết, vệ là khí, tức là bổ khí huyết. Danh từ đông y, tức
là mở khẩu vị để ăn cho ngon cơm.
HẾT TẬP 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét