SÁU BẢY MƯỜI
BA
Trên con đường sang phương Tây thỉnh kinh, thầy trò Đường tăng không chỉ đụng độ yêu tinh ma quái mà còn có khi chạm trán cùng giặc cỏ cướp đường. Mào đầu Hồi thứ 14,Tây du nói:
Viên tâm qui chính,
Lục tặc vô
tung.
Nghĩa
là:
Lòng vượn theo
đường chính,
Sáu giặc mất
tăm hơi.
[TDK II 1982:
69]
Qua đến Hồi thứ 72, lại dẫn chuyện rằng:
Bàn ty động thất tinh mê bổn,
Trạc cấu
tuyền Bát giới vong hình.
Nghĩa là:
Động Bàn ty
bảy tinh mê gốc,
Suối Trạc cấu
Bát giới quên hình.
[TDK VIII
1988: 29]
Hai hồi ấy nhắc đến lục tặc và thất tinh. Lục tặc là sáu tên cướp. Thất tinh là
bảy đứa yêu tinh. Sáu bảy mười ba. Tuy rằng chuyện trước cách chuyện sau đến những
năm mươi tám hồi dài, nhưng trước với sau vẫn chỉ là một chuyện. Ngô Thừa Ân muốn
nói tới thập tam ma (mười ba con ma), tức là bè lũ sáu giặc cướp bảy yêu tinh
cùng cấu kết với nhau để phá hoại tấm lòng thanh tịnh của con người, làm con
người mê mờ đi vào đường quấy, xa lìa chơn lý, xa chánh đạo.
Sáu tên cướp
Tây du kể rằng sau khi nghỉ đêm tại nhà một cụ già họ Trần, Tam tạng và Tề
thiên lên đường đi thỉnh kinh. “Thầy trò đi được lúc lâu, bỗng ven đường
nghe soạt một tiếng, thấy sáu người xông ra, đứa nào cũng giáo dài, kiếm ngắn,
dao sắc, cung cứng, quát vang...”[TDK II 1982: 81]
Tề thiên hỏi lai lịch, bọn cướp tự giới thiệu: “Nhà ngươi không biết, bọn
ta nói cho mà nghe: Chúng ta, một người gọi là mắt thấy mừng, một người gọi là
tai nghe giận, một người gọi là mũi ngửi thích, một người gọi là lưỡi nếm nghĩ,
một người gọi là ý thấy muốn, một người gọi là thân vốn lo.” [TDK II
1982:82]
Biết chúng là
ăn cướp, Tề thiên đòi chia của, thế thì: “Sáu tên cướp nghe nói, thằng mừng
thì mừng, thằng giận thì giận, thằng thích thì thích, thằng nghĩ thì nghĩ, thằng
muốn thì muốn, thằng lo thì lo, cả lũ xông lên hò hét loạn xị...” [TDK
II 1982: 82]
Như vậy sơ yếu lý lịch của lũ cướp đường trắng trợn này đã rõ. Chúng vốn là sáu
căn (lục căn) của mỗi người, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
(nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý).
Bản lý lịch trích ngang của chúng còn cho thấy tuy năng khiếu sở trường hay
“tay nghề chuyên môn” của từng tên rất khác nhau, nhưng đều giống nhau ở một
căn bản chung: đối cảnh sinh lòng.
Sáu căn hàng ngày hàng giờ tiếp cận với ngoại cảnh thì sinh lòng biến đổi theo
cảnh. Biến theo cảnh hoài thì tâm điên đảo, giống như nước trong bị vẩn bụi dơ
bẩn.
Có sáu thứ bụi trần (lục trần) từ bên ngoài đột nhập vào tâm con người (lục
ngoại nhập) thông qua lục căn, và tương ứng với lục căn là: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp.
1. Nhãn – Sắc: mắt thấy màu sắc, hình dạng vừa lòng thì tham, trái
ý thì chê. Mắt gặp sắc tướng sinh ra kiến (thấy).
2. Nhĩ – Thinh: tai nghe âm thanh ngọt ngào thì chê, âm thanh chói
tai thì ghét. Tai gặp âm thanh sinh ra văn (nghe).
3. Tỷ – Hương: mũi ngửi mùi thơm tho thì thích thú, hít phải hơi
hôi hám thì chẳng ưa. Mũi gặp hương sinh ra khứu (ngửi).
4. Thiệt – Vị: lưỡi nếm vị ngon béo thì khoái, nhấp phải đắng cay
thì ớn. Lưỡi gặp vị sinh ra vị (nếm).
5. Thân – Xúc: Thân xác thịt da cọ xát với da thịt hay lụa là êm ái
thì mê, chạm phải sần sùi nhám nhúa thì chán. Thân xác do chung đụng mà sinh ra
giác (cảm giác).
6. Ý – Pháp: ý gặp tư tưởng (pháp) thì sinh ra phân biệt, chê khen,
ưa ghét, tính toán... Ý gặp pháp sinh ra tri (hiểu biết).
Giải thích căn do, duyên cớ của lục tặc, Cao đài cũng cho rằng: “... hễ
có lục dục thì có lục trần, mà có lục trần thì mới sanh lục tặc.” [Đại
thừa chơn giáo 1950: 356]
Theo Phật, lục căn gặp lục trần sinh ra lục thức, làm cho tâm con người đối đãi
thị phi theo kiểu nhị nguyên (tương đối). Muốn đạt đạo, tức là thủ đắc được
chân lý nhất nguyên (tuyệt đối), thì phải biết đối trị với lục dục là sáu điều
ham muốn của con người mà lục thức đã gieo rắc lên mảnh tâm điền của mỗi người.
Thiền Phật, Lão và Cao đài quan niệm sở dĩ sáu tên ăn cướp xông vô nhà được là
vì nhà vắng chủ. Hành giả biết làm chủ bản tâm, củng cố địa vị chủ nhà (chủ
nhân ông) thì làm sao có nạn lục trần đột nhập để sinh ra lục tặc. Chính vì thế,
khi giáp mặt lũ cướp, lập tức Tôn hành giả khẳng định liền vai trò chủ nhân ông
của mình: “Ồ, các ngươi là sáu thằng giặc cỏ, không nhận ra người
xuất gia này là chủ của các ngươi sao mà lại dám chận đường?” [TDK II
1982: 82]
Như đã nói, con người là một hình ảnh hai cuộc đời [xem bài Đường tăng!
Anh là ai?]. Không chế ngự đặng thì lục căn sinh lục dục, lục tặc. Chế ngự
đặng thì lục tặc trở nên lục thông là sáu món thần thông. Cao đài dạy: “Vả
lại lục dục là sáu con quỷ, tức là sáu đứa du côn, nhưng nếu biết cách thâu phục
chúng nó đặng thì sáu con quỷ ấy trở nên lục thông là đắc đạo.” [Đại
thừa chơn giáo 1950: 354].
Diễn tả sự đối trị của hành giả trước lục tặc, Ngô Thừa Ân mượn tay Tề thiên
tiêu diệt trọn lũ cướp sáu tên: “Sáu tên cướp bỏ chạy tán loạn. Hành giả
nhanh nhẹn đuổi theo tóm gọn, đập chết hết.” Sau đó Tề thiên báo cáo
cùng Đường tăng: “Xin mời sư phụ lên đường, lũ cướp đã bị lão Tôn giết
hết rồi.” [TDK II 1982: 83] Ở đây họ Ngô hàm ý: muốn lên đường tìm
chơn lý tuyệt đối (thỉnh kinh) thì trước hết phải đại hùng đại lực, nhất tâm diệt
xong lục dục. Do đó, sự truy quét của Tề thiên là dứt khoát, quyết liệt, không
khoan nhượng.
Tuy nhiên con người vốn dễ dàng có khuynh hướng thỏa hiệp với cái xấu của bản
thân. Lý trí thì bảo phải quyết liệt: “Hành giả nói: Thưa sư phụ, mình
không đánh chết họ, họ cũng đánh chết mình.” Nhưng tình cảm bản năng yếu
đuối lại không nở dứt bỏ những ràng buộc của đam mê ham muốn, sở dục tư riêng,
cho nên: “Tam tạng nói (...) bọn chúng tuy là giặc cướp chặn đường
(...) chỉ đuổi chúng đi là xong, việc gì phải giết?” [TDK II 1982: 83]
Sự tranh cãi giữa hai thầy trò đã phản ánh hiện thực cuộc đời: có rất nhiều anh
Tam tạng đi thỉnh kinh, nhưng chỉ rất ít chàng tới được chùa Lôi âm gặp Phật.
Nguyên do thành công hay thất bại là chỗ dám giết hay buông tha. Vì sự ngậm
ngùi thiên cổ đó mà khi được hỏi rằng người tu hành chân chính nên hiếu sinh
hay hiếu sát, một thiền sư đã trả lời rất nghiêm túc: Hiếu sát! Phải hiểu
là sát lục tặc để cho lòng trống tâm không, cảnh thế sự đời thôi chẳng còn vướng
víu buộc ràng.
Cũng vậy, khi Tổ sư Vương Trùng dương dạy đạo cho vợ chồng Mã Ngọc và Tôn Huyên
Trinh, đã khuyên hai ông bà: “Sát sanh thăng thiên đường, phóng sanh sa
địa ngục.” [Thất chơn nhơn quả 1974: 37]. Nghĩa là muốn giải thoát thì
phải giết chết phàm tâm; còn thả lỏng phàm tâm thì phải chịu luân hồi.
Bảy con yêu tinh
Bảy con yêu nữ nõn nà xuất hiện ở Hồi thứ 72 không giống như các giặc cái khác ở
truyện Tây du: chúng không hề đòi hỏi Tam tạng cung ứng cho
chúng cái khoản... dịch vụ tình yêu. Trước sau chúng chỉ muốn “hầm lão
hòa thượng béo ấy lên ăn...” [TDK VIII 1988: 41]
Cách xử trí của Tề thiên với bảy con yêu nữ lần này cũng khác. Thông thường hễ
gặp yêu tinh quỷ quái là Tề thiên lập tức vung thiết bảng chực giết chết ngay tức
khắc. Với xê ri bảy ả, Tề thiên lại tỏ thái độ hoàn toàn thay đổi:
“Hành giả
nghĩ: Ta mà đánh chúng (...) cả lũ toi mạng hết, như thế đáng thương lắm! (...)
không nên đánh chúng, chỉ cần dụng một kế tuyệt hậu, bắt chúng không dám rời đi
đâu còn hay hơn nhiều.” [TDK
VIII 1988: 43]
Tưởng sao, kế tuyệt hậu của Tề thiên hóa ra là dở. Tề thiên lý luận với Bát giới: “Bọn
chúng định tắm xong sẽ quay về hầm sư phụ ăn thịt. Tôi theo bọn chúng tới đó thấy
chúng cởi quần áo xuống tắm, định đánh chết chúng, nhưng sợ bẩn cây gậy và mất
danh dự, bèn chẳng hề dùng tới gậy, biến thành một con chim ưng đói, quắp quần
áo chúng mang đi. Bọn chúng chắc phải chịu thẹn thùng xấu hổ, dìm người trong
nước, không dám lên đâu. Chúng ta mau đi cứu sư phụ để lên đường.” [TDK
VIII 1988: 44]
Không giết, chỉ cắp quần áo mặc ngoài. Ẩn ý ở đây là hời hợt, bì phu. Cách xử
lý như vậy không rốt ráo, chẳng dứt khoát. Tề thiên nói “Tôi thì chẳng
đánh.” (tr.45) bởi vì Tề thiên nghĩ rằng “cả lũ toi
mạng hết, như thế đáng thương lắm!” (tr. 43)
Trái lại, Bát giới tỏ ra rất vững vàng quan điểm, lập trường: “Bát giới cười
nói: Sư huynh làm việc gì cũng không đến cùng. Đã thấy yêu tinh sao không giết
chết chúng để còn đi cứu sư phụ (tr. 43). Theo em, trước hết
đánh chết yêu quái, sau giải cứu sư phụ. Đó là kế nhổ cỏ nhổ cả rễ (tr.
45).”
Chính vì ngay từ đầu Tề thiên đã có ý nương tay cho nên không diệt được bảy nữ
yêu, tuy tạm cứu được Tam tạng (Hồi thứ 72), nhưng rồi về sau lại bị chính lũ
yêu đó hãm hại cả mấy thấy trò thêm lần nữa ở quán Hoàng hoa (Hồi thứ 73).
Sự toan tính chần chừ, thiếu dứt khoát, không rốt ráo của Tề thiên là dễ hiểu.
Vì vũ khí tấn công của bảy yêu nữ rất đặc biệt: “Bỗng thấy bảy cô gái cởi
khuy áo, để lộ eo bụng trắng phau như tuyết, làm phép từ trong rốn ùn ùn nhả những
sợi tơ ra như một tấm lưới mù mịt một khoảng trời, trùm kín lấy Hành giả.” [TDK
VIII 1988: 63]
Nhận định của Tề thiên với loại vũ khí này như sau: “Vật cứng còn có thể
đánh đứt, thứ này mềm đánh chỉ lún xuống thôi. Khéo nó biết, nó quấn chặt lấy
mình, lại hóa dở.”[TDK VIII 1988: 38]
Chính vì bảy yêu nữ sở trường vũ khí chuyên dụng như vậy nên Ngô Thừa Ân mới
chuyển chỗ ở của chúng về động Bàn ty. Bàn viết với bộ chu (thuyền)
nghĩa là quanh quất, lòng vòng. Ty là tơ; sợi tơ nhu nhuyễn, mềm
mại mà khó dứt. Ý ở đây đã rõ: tơ là tơ tình, không thể dứt ngay, ngụ ý là díu
dan vấn vít. Chế ngự cái tình cảm con người không phải chuyện dễ, vì con người
ưa luyến tiếc, khoan nhượng với tình cảm bản thân.
Tuy không thấy Ngô Thừa Ân nói rõ lai lịch từng nữ yêu như khi giới thiệu từng
tên trong bọn sáu giặc cướp, đến đây cũng có thể sưu tra được danh tính của bảy
cô nàng. Bảy chị em chính là thất tình một bọn, gồm có: mừng, giận, buồn, sợ,
yêu, ghét, muốn (hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục). Đôi khi bảy ả còn đổi
tên khác đi chút xíu là: mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, khiếp (hỷ, nộ, ưu,
tư, bi, khủng, kinh).
Thất tình và lục dục, cấu kết nhau nội công ngoại kích, là mười ba con ma phá
hoại tâm thanh tịnh, gây phiền não chướng ngại, cản trở người tu (hành giả).
Về hiểm họa ấy, Cao đài dạy:
“Thất tình lục dục là mối loạn hàng ngày ở trong tâm trí, không phương trừ
khử. Một đám giặc liệt cường tài trí, đánh phá ruồng trong núi cao non thẳm còn
dễ dẹp trừ đặng, chớ mối loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên, nhứt là ma lục
dục (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) nó phá hoại hàng ngày.” [Đại thừa
chơn giáo 1950: 354]
“Con người vì bị thất tình, lục dục mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí
phách. Nó luống đẩy xô nhơn loại vào ao lửa núi gươm, hang sâu vực thẳm.” [Đại
thừa chơn giáo 1950: 358]
Người tu thiền (hành giả) khi ấy phải biết mài gươm trí huệ mà đối địch cùng lũ
thập tam ma. Cao đài dạy phải biết thu phục mười ba con ma này cho chúng cải tà
qui chánh:
Muốn phản bổn huyền công tu tập,
Muốn huờn
nguyên phá chấp giải mê.
Bảy tình
sáu dục quay về,
Về nơi căn
cội bồ đề khi xưa.
Ngô Thừa Ân ở Hồi thứ 72 tuy phớt lờ lai lịch bảy yêu nữ, nhưng lại bày ra
phương châm đối trị với chúng. Lũ yêu này cư ngụ động Bàn ty và chiếm cứ suối
Trạc cấu. Trên kia đã nói rõ Bàn ty là tơ tình vướng vít, làm
sao dứt bỏ? Thì đây, Trạc viết với bộ thủy(nước)
nghĩa là rửa ráy; cấu là nhơ bợn cặn cấu. Trạc cấu tức
là hãy rửa sạch bụi bặm lòng trần.
Suối Trạc cấu, mượn trong
[Max Kaltenmark 1965: 53]
Cũng vậy, Cao đài dạy muốn trị mười ba con ma ấy, phải hết sức kiên trì với
lòng thanh tịnh (tâm không):
Thất tình lục dục sớm trừ xong,
Luyện tập
ngày đêm sửa tấm lòng,
Khử diệt thất
tình an tánh thiện,
Tu hành phải
để chí không không.
[Đại thừa chơn
giáo 1950: 360]
Núi Bàn ty nằm gần suối Trạc cấu, và Thất tinh đã được chuyển về ở đó, theo ẩn
ý của Ngô Thừa Ân, có nghĩa rằng trước sau gì cũng sẽ đoạn trừ xong được thất
tình. Đoạn diệt được, thì Tam tạng mới có thể tiếp tục lên đường thỉnh kinh
(truy cầu chân lý tối thượng).
Hiểu trên lý thuyết là đơn giản, nhưng trong thực nghiệm tâm linh của hành giả
cổ kim, có biết chăng đã không ít kiếm khách phải bẻ kiếm bên trời mà ngậm ngùi
than dài thở vắn. Than rằng:
Diệt trừ sáu bảy mười ba,
Trăm năm
trong cõi người ta dễ gì!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét