Tranh vẽ Khưu Xứ Cơ của họa sĩ Guo Xu, 1503 |
LÝ CHÍ THƯỜNG
Lời dẫn của
người dịch
Khưu Trường xuân tên thật là Khưu Xứ Cơ, tự là Thông Mật, hiệu là Trường xuân tử, quê ở Thê Hà, Đăng Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông được Nguyên Thái tổ tức Thành cát Tư hãn (1162-1227) mời đến triều đình Mông Cổ, cách Trung Quốc vạn dặm về phía Tây.
Nguyên Thái tổ
phái hai mươi chiến sĩ Mông Cổ đi mời, dẫn đường, hộ tống quốc khách. Khưu Chân
nhân sang Tây Tạng, đem theo mười tám đệ tử. Nguyên Thế tổ hỏi về phép trị nước,
Chân nhân bảo lấy kính Trời yêu dân (kính Thiên ái dân) làm gốc. Nguyên
Thế tổ lại hỏi về thuật sống lâu (trường sinh cửu thị), Chân nhân đáp
hãy giữ lòng trong sạch ít ham muốn (thanh tâm quả dục) làm căn bản.
Nguyên Thế tổ rất đẹp dạ, tặng Chân nhân danh hiệu Thần tiên, phong tước Đại
tông sư, giao cho Chân nhân chủ trì Trường xuân cung, cai quản Đạo giáo cả nước,
nhờ thế mà Toàn chân giáo cực thịnh.
Toàn chân giáo (cũng gọi Toàn chân đạo, Toàn chân phái) do Vương Trùng dương
sáng lập vào đầu đời Kim (triều nhà Kim bắt đầu năm 1115). Toàn chân phái chủ
trương Tam giáo hợp nhất, tính mệnh song tu, hoặc tu tính trước tu mệnh sau.
Toàn chân phái chiếm lĩnh trọn phương bắc Trung Quốc, còn phương nam là giang
sơn của phái Chính nhất (chuyên về phù lục).
Vương Trùng dương có bảy đại đệ tử được đời tôn là Bắc thất chân (bảy vị Chân
nhân phương bắc), sau này họ lập thành bảy chi phái của Toàn chân giáo:
1. Mã Ngọc lập Ngộ tiên phái, chuyên về thanh tĩnh, lý luận thanh đàm và luyện
nội đơn.
2. Đàm Xứ Đoan
lập Nam vô phái, bảo thủ chủ trương của Vương Trùng dương.
3. Lưu Xứ Huyền
lập Tùy sơn phái.
4. Khưu Xứ Cơ
lập Long môn phái, có ảnh hưởng nhất so với sáu chi phái kia. [Long môn cũng là
tên núi, thuộc Lưỡng Châu, Khưu Chân nhân hay ẩn cư ở núi này. Tác phẩm chủ yếu
của ông là Đại đan chân chỉ, trình bày chỗ bí yếu của thuật luyện
đan (ngồi thiền) là tính mệnh song tu (vừa tu tính vừa tu mệnh).]
5. Vương Xứ Nhất
lập Du sơn phái.
6. Hác Đại
Thông lập Hoa sơn phái.
7. Tôn Bất Nhị
(trước khi xuất gia là vợ của Mã Ngọc) lập Thanh tịnh phái.
Cuộc đời tu hành của Bắc thất chân được tiểu thuyết hóa thành truyện Thất
chơn nhơn quả. Sang nửa sau thế kỷ XX, vào những năm sáu mươi, nhà văn Kim
Dung (Hong Kong) đưa tất cả bảy nhân vật này vào truyện chưởng với biệt hiệu Toàn
chân Thất tử.
[Phần viết này (về Khưu Trường xuân và Toàn chân giáo) căn cứ theo [Hồng Phi Mô
1992: 25-30]. (Lê Anh Minh dịch)]
·
Trong số mười tám đệ tử theo Khưu Chân nhân sang Tây Tạng có Lý Chí Thường.
Lý là người ghi chép lại cuộc vạn lý tây du này. Năm 1219, từ phía bắc của Bắc
Kinh, đoàn người đi về Mông Cổ, theo hướng tây nam băng qua Tashkent và
Samarkand, rồi theo hướng nam đến Perwan (ngay phía bắc của Kabul), thuộc
Afghanistan.
[Tashkent sau là thủ phủ của Uzbek (Nga), thuộc miền Trung Á. Nó nằm trên một
gò ở gần chân dãy núi Thiên Sơn. Nơi đây cũng là một ốc đảo lớn nằm dọc theo
con sông Chirchik, sản xuất nhiều trái cây và bông vải, được coi là một trong
những miền sản xuất hàng hóa vải sợi lớn nhất châu Á.
Samarkand sau cũng là thành phố của Uzbek, ở trung nam nước Nga. Nó từng là một
trạm chủ yếu trên con đường Tơ lụa thời cổ. Người Ả Rập chiếm nó năm 712, biến
nơi đây thành một trung tâm văn hóa rất lớn của Hồi giáo. Thành cát Tư hãn chiếm
đoạt lại thành phố này năm 1220, và đến năm 1365 nó trở thành kinh đô của vua
Mông Cổ là Tamerlane (1336-1405), cũng viết là Tamburlaine, hay Timur. Từ năm
1868 nó thuộc về người Nga.
Kabul là thành phố quan trọng vì nó kiểm soát con đường mậu dịch phía đông bắc
dẫn vào Pakistan. Do đó, trong lịch sử ba nghìn năm của nó, thành phố này thường
xuyên bị ngoại xâm. Nó từng là kinh đô của đế quốc Mông Cổ (1504-1526), và trở
thành thủ phủ của Afghanistan từ năm 1773. (LAD chú)]
Arthur Waley đã dịch tác phẩm của Lý Chí Thường ra tiếng Anh, nhan đề The
travels of an alchemist, 1931.
Waley sinh năm 1889 tại London, là nhà thơ, dịch giả, và nhà Trung Quốc học. Học
ở Cambridge, rồi ông lấy hai học vị tiến sĩ văn chương ở hai đại học Aberdeen
và Oxford. Ông giữ chức phó quản thủ Phòng Ấn loát và Đồ họa của Viện Bảo tàng
Anh và giảng dạy Đông phương học tại một học hiệu trực thuộc Viện Bảo tàng này
(1912-1930). Năm 1952, ông được trao tặng một huân chương (the Order of
Companion of the British Empire). Năm 1953, được Nữ hoàng Anh ban tặng
Huy chương Thi ca (Medal for Poetry).
Ngoài bản dịch tác phẩm của Lý Chí Thường, Waley còn có các công trình nghiên cứu
và dịch thuật quan trọng như sau:
- Thơ Trung Quốc (Chinese poems, 5 quyển), 1918.
- Nhập môn
nghiên cứu hội họa Trung Quốc (An introduction to the study of Chinese
painting), 1923.
- Đạo đức kinh
(The Way and its power), 1935.
- Luận ngữ (The
analects of Confucius), 1938.
- Ba con đường
tư tưởng Trung Quốc cổ đại (Three ways of thought in ancient China),
1939.
- Nguyên thị vật
ngữ (The tale of genji, 6 quyển, dịch tiểu thuyết Nhật), 1955.
- V.v...
Sau đây là một phần lớn văn bản của Trường xuân Chân nhân tây du ký, dựa theo bản
tiếng Anh của Arthur Waley. Tuy nhiên, vì không có trọn vẹn bản tiếng
Anh của Arthur Waley, tôi đã sử dụng phần trích đăng của Owen và Eleanor
Lattimore, in trong hiệp tuyểnSilks, spices and empire, nhà xuất bản
Dell Publishing Co. Inc., New York 1971, các trang 57-61.
LAD
(1993-10.02.1995)
TRÍCH DỊCH LÝ CHÍ THƯỜNG TRƯỜNG XUÂN CHÂN NHÂN TÂY DU KÝ
Ngày mùng 1 tháng Tư âm lịch (24-4-1219), chúng tôi đến nơi hạ trại của Khả hãn
Tamuga. Lúc này tuyết bắt đầu tan, cỏ xanh phơn phớt một màu. Khi chúng tôi đến,
một đám cưới đang được tổ chức trong trại. Các thủ lĩnh các bộ tộc quanh đấy
năm trăm dặm cũng đến dự, mang theo nhiều lễ vật chúc mừng. Những
chiếc xe đen và lều bạt xếp thành dãy dài, ắt hẳn chứa đến hàng ngàn tân khách.
Ngày mùng 7, Khưu Sư phụ hội kiến Khả hãn và ông ta hỏi Sư phụ về thuật trường
sinh bất tử. Sư phụ đáp rằng chỉ có những ai ăn chay lạt và giữ gìn giới luật mới
có thể luận bàn về thuật ấy. Cả hai thỏa thuận rằng ông ta sẽ được truyền thụ
bí thuật vào ngày trăng tròn (rằm). Nhưng bấy giờ tuyết lại rơi nhiều và vấn đề
bị bỏ qua. Hoặc có thể Khả hãn đổi ý, vì ông bảo sẽ chẳng đúng đạo lý nếu như
ông hưởng trước cha mình (Đại hãn) bí thuật này trong lúc Đại hãn đã vất vả triệu
thỉnh Chân nhân đến đây từ ngàn trùng cách trở. Tuy nhiên Khả hãn truyền lệnh
cho A-li-hsien phải đưa Sư phụ trở lại sau khi cuộc triều kiến với Đại hãn đã
chu tất.
Ở xứ sở này sáng lạnh, chiều tối nóng; có nhiều cây trổ hoa vàng. Dòng sông chảy
về đông bắc. Hai bên bờ mọc nhiều thân liễu cao. Người Mông Cổ dùng cây liễu
làm khung lều. Sau mười sáu ngày đường, chúng tôi đến một nơi mà dòng sông
Kerulan uốn vòng về tây bắc, bao quanh mấy ngọn núi. Vì thế chúng không theo
dòng sông đi đến tận nguồn, mà quày sang tây nam, đi theo lối ngựa trạm [Yi-ehr-li
post road: con đường chuyển thư]. Những người Mông Cổ chúng tôi gặp nơi đây
đều hân hoan khi thấy Sư phụ; họ bảo đã mong chờ Sư phụ từ năm ngoái...
Các đỉnh núi lớn giờ đây dần dần trông rõ hơn. Từ nơi này trở đi, khi chúng tôi
đi về hướng tây, vẫn còn là vùng đồi núi và dân cư đông đúc. Dân chúng sống
trên các cỗ xe đen và trong những mái lều trắng; họ đều là thợ săn
và người chăn thú. Quần áo họ may bằng da thú, lông thú, lương thực
là thịt và sữa cô đặc. Đàn ông thắt tóc thành hai bím, thòng phía sau tai. Phụ
nữ có chồng đội nón làm bằng vỏ cây phong (birch), có cái cao khoảng
sáu tấc. Thường họ phủ lên nón chiếc khăn len đen; nhà giàu dùng lụa đỏ. Đuôi
nón giống con vịt, gọi là ku ku (...).
Ngày 27 tháng Tám (15.9.1219), chúng tôi đến chân núi Yin Shan. Một số người
Uighurs ra gặp chúng tôi, và vậy là chúng tôi đã tới một thị trấn nhỏ. Viên
quan địa phương đem biếu chúng tôi rượu bồ đào [rượu nho, rượu chát, rượu
vang], trái cây ngon, bánh, củ hành, vải Ba Tư...
Đi tiếp về hướng tây là thành phố lớn Beshbalig. Các viên quan, quý tộc, dân
chúng, hàng trăm nhà sư, đạo sĩ, đi ra mãi ngoài thành để đón thầy trò chúng
tôi. Các nhà sư đều mặc áo nâu. Mũ áo của đạo sĩ không giống như ở Trung Quốc.
Ngày 18 tháng Mười Một (03-12-1219), sau khi vượt qua một con sông lớn, chúng
tôi tới vùng ngoại vi phía bắc của thành Samarkand. Quan trấn thành là Ngài
I-la, cùng các quan lại Mông Cổ và các viên chức sở tại, ra bên ngoài thành đón
thầy trò chúng tôi. Họ mang theo rượu bồ đào và dựng rất nhiều lều. Đoàn xe
chúng tôi nghỉ chân nơi đây...
Thành cất dọc theo những kênh đào. Vì mùa hè và thu không mưa, hai con sông được
uốn dòng để chảy dọc theo từng đường phố, cung cấp nước dùng cho tất cả dân cư.
Trước khi Khwarizm Shah thua trận, dân số nơi đây hơn một trăm ngàn hộ; nay chỉ
còn lại một phần tư số này, trong đó một phần rất lớn là người Hui-ho [người Hồi
hột]. Những người này hoàn toàn không biết làm đồng áng vườn tược, họ phải thuê
người Hoa, Kitai và Tanguts. Việc hành chính ở đây cũng do nhiều người thuộc
nhiều quốc tịch rất khác biệt nhau đảm nhiệm. Ở đâu cũng thấy thợ thủ công người
Hoa. Trong thành phố có gò lớn cao độ ba chục thước, trên là cung điện mới của
Khwarizm Shah...
Viên quan trấn thành cho dọn yến tiệc khoản đãi, và gởi biếu mười tấm gấm thêu
vàng (gold brocade), nhưng Sư phụ không chịu tiếp nhận. Sau đó, viên
quan này hàng tháng trợ cấp gạo, bột bắp, muối, dầu ăn, rau quả... Càng
ngày ông càng tỏ ra cung kính hơn.
Khi thấy rằng Sư phụ uống rất ít, ông xin phép được ép khoảng năm mươi ký nho để
làm rượu bồ đào mới cho Sư Phụ. Sư phụ đáp: “Tôi không cần rượu,
nhưng hãy cho tôi năm mươi ký nho; tôi sẽ dùng nó để tiếp khách của tôi.” Số
nho này giữ được trọn mùa đông. Chúng tôi còn thấy những con công và voi lớn được
đưa về từ Ấn Độ, cách hàng ngàn dặm về hướng đông nam.
Cuối tháng nhuận (12-02-1222), toán thám sát trở về, Liu Wên báo cáo với Sư phụ
rằng con thứ nhì của Khả hãn (Chagatai) đã đem binh đi trước, sửa thuyền và chữa
cầu. Bọn thổ phỉ đã bị quét sạch. Ho-la, Pa-hai và những người khác đã đến
doanh trại của ông hoàng này thông báo rằng Sư phụ mong muốn gặp Đại hãn. Ông
đáp rằng Đại hãn đã đi về hướng đông nam rặng Đại Tuyết sơn. Nhưng tuyết phủ
dày ải quan đến hơn trăm dặm không thể nào qua được. Tuy nhiên hoàng tử nói rõ
rằng ông hạ trại ngay trên đường đến chỗ Đại hãn và mời Sư phụ nán lại cùng
ông, chờ đến khi nào có thể qua núi.
[Đại Tuyết sơn (Hindu Kush): Rặng núi chủ yếu ở đông bắc Afghanistan. Nó
là nhánh phía tây của rặng Hy mã lạp sơn, trải dài tám trăm cây số (năm trăm dặm
Anh) hướng về phía tây nam từ rặng núi lớn Pamirs trên đất Nga và gồm luôn rặng
Koh i Baba ở Afghanistan. Đỉnh núi cao nhất là Tirich Mir (7.692 thước; tức
25.236 bộ Anh), nằm ở Chitral trên lãnh thổ Pakistan. (LAD chú)]
Từ đây chúng tôi đi về hướng đông nam, và đến chiều tối thì dừng chân gần một
kênh đào cũ. Hai bên bờ mọc một loại cây giống như lau sậy nhưng không có ở
Trung Quốc. Những cây to còn xanh qua suốt mùa đông. Chúng tôi bẻ lấy mấy cây
làm gậy. Một số thì chúng tôi dùng để chống càng xe đêm ấy, và chúng cứng đến độ
chẳng hề gãy. Những cây nhỏ rụng lá mùa đông và tươi lại vào mùa xuân. Đi thêm
về phía nam giữa các ngọn đồi, có loại tre lớn đặc ruột. Quân lính
dùng loại này làm cán giáo, cán lao. Chúng tôi còn thấy những con rắn mối dài cả
chín tấc, da xanh đen.
Ngày 29 tháng Ba (11-5-1222), Sư phụ sáng tác một bài thơ. Thêm bốn ngày đường
nữa chúng tôi đến trại của Đại hãn. Ngài phái một quan đại thần là Ho-la-po-te
đến đón chúng tôi... Khi chỗ ở cho Sư phụ đã được sắp xếp xong, Sư phụ lập tức
đến triều kiến Đại hãn. Ngài tỏ lòng cảm kích nói: “Các vua khác triệu khanh đến
mà khanh đều từ tạ. Nay khanh lại vượt vạn dặm đến với trẫm. Đây là đại hạnh của
trẫm.”
Sư phụ đáp: “Kẻ ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc như hạ thần đến với thánh thượng là
ý trời vậy.” Đại hãn đẹp dạ, mời Sư phụ an tọa và sai dọn tiệc. Rồi ngài hỏi:
“Từ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?” Sư phụ đáp:
“Thần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.” Đại hãn
hài lòng vì sự thành thực của Sư phụ, và sai dựng hai lều cho Sư phụ cùng các
môn đệ, nằm ở phía bên đông lều của Đại hãn...
Thời tiết càng nóng hơn và Đại hãn di chuyển lên một điểm cao trên dãy Tuyết
sơn để tránh nóng. Sư phụ cùng đi theo. Đại hãn ấn định ngày 14 tháng Tư
(24-6-1222) sẽ hỏi Đạo. Điều này được các quan Chinkai, Liu Wên, và A-Li-hsien
cùng ba quan hầu cận Ngài ghi chép. Nhưng ngay khi đến kỳ hẹn, lại được tin bọn
thổ phỉ làm loạn. Đại hãn quyết định thân chinh tiễu trừ, và hoãn lại
cuộc hẹn đến ngày mùng 1 tháng Mười (05-11-1222). Sư phụ xin phép được trở về
nơi ở cũ trong thành. Đại hãn nói: “Vậy thì khanh sẽ kiệt sức vì đi trọn quãng
đường trở lại đây.” Sư phụ nói chỉ là chuyện hành trình hai mươi ngày mà thôi,
và khi Đại hãn phản đối rằng chẳng có ai hộ vệ cho Sư phụ thì Sư phụ đề nghị nhờ
quan Yang-A-kou...
Chúng tôi vượt qua ngọn núi lớn nơi có “cổng đá”, những trụ đá ở đây trông giống
như hai chân nến lớn. Nằm vắt ngang lên trụ là một phiến đá lớn, trông từa tựa
chiếc cầu. Dòng suối bên dưới chảy xiết, và đoàn kỵ mã chúng tôi khi thúc bầy lừa
chở nặng hành lý vượt suối đã mất hết mấy con lừa chết đuối. Hai bên bờ là xác
các thú vật khác cũng đã chết tương tự như vậy. Nơi này là cửa ải, mà trước đây
không lâu quân binh đã quyết liệt giao phong để chiếm cứ. Khi chúng tôi ra khỏi
hẻm núi, Sư phụ sáng tác hai bài thơ.
Khi Sư phụ đến trại của Khả hãn, cỏ cây vào cuối tháng Ba xanh mượt, khắp nơi
cây cối rộ hoa, ngựa và cừu đều béo khỏe. Nhưng khi nhận được phép của Khả hãn
để lên đường, trời cuối tháng Tư, chẳng còn lấy một ngọn cỏ cọng rau. Trước cảnh
tiêu sơ này, Sư phụ cảm tác một loạt mấy bài thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét