NỖI LÒNG GIẤY TRẮNG
Nghe tin báo thầy trò Đường tăng đã đến, “Phật
tổ mừng lắm, lập tức xuống chiếu vàng, cho gọi tám vị bồ tát, bốn vị kim cương,
năm trăm vị a la hán, ba nghìn vị yết đế, mười một vị đại diệu, mười tám vị già
lam vào đứng xếp thành hai hàng, sau đó mới xuống chiếu vàng cho gọi Đường tăng
vào.” [TDK X 1988: 164]
Mở đầu cho việc truyền kinh mà tả tỉ mỉ
cảnh đón tiếp long trọng hiếm có như thế nhằm ngụ ý rằng đạo pháp không phải dễ
duôi truyền thụ (đạo pháp bất khinh truyền).
Trong chùa Lôi âm, được diện kiến Phật tổ Như lai tại điện Đại hùng, sau một số nghi lễ cho đủ thủ tục, Đường tăng quỳ lạy và thưa rằng:
“Muôn xin Phật tổ ra ơn, ban cho chân kinh sớm mang về nước.” Như lai bèn mở
miệng từ bi, động lòng thương xót, nói với Tam tạng: “Cõi đông thổ của nhà
ngươi (...) người đông vật thịnh, tham lam độc ác, trí trá gian dâm, (...) bất
trung bất hiếu, bất nghĩa bất nhân, lừa mình dối người (...) Nay ta có ba tạng
kinh có thể siêu thoát khổ não, giải trừ tai ương (...). Các ngươi từ xa xôi tới
đây, ta cũng muốn trao cho tất cả mang về, chỉ e người phương đó ngu si lỗ mãng
hủy báng chân ngôn, không biết ý chỉ sâu xa trong đạo của ta.” [TDK X
1988: 165-166]
Trước khi tìm hiểu dụng ý của Ngô Thừa Ân vì sao phải dông dài như thế, cũng nên
biết rằng đoạn văn trên đây của Tây du hoàn toàn phù hợp với lịch sử truyền
giáo của nhà Phật.
Ba lần thỉnh pháp
Lịch sử đạo Phật ở Ấn Độ, khi chép về thời kỳ tu chứng của tu sĩ khổ hạnh Cồ
đàm, cho biết rằng lúc đắc quả Phật chánh đẳng chánh giác, ngồi ở gốc cây
Ajapala bên bờ sông Ni liên thiền, đức Phật đã trầm tư về vấn đề có nên đem cái
đạo pháp giải thoát mà Phật đã tự chứng đắc truyền bá cho người đời hay không,
thì mấy lượt ngài đã do dự.
Lần thứ nhất, đức Phật nghĩ rằng: “Đạo pháp mà Như lai đã chứng ngộ quả
thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm
trong phạm vi luận lý, mà tế nhị, chỉ có bậc thiện trí mới thấu hiểu (...) Như
lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được đạo pháp. Không cần phải phổ biến đạo
pháp ngay lúc này. Người thế gian còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì
thấu triệt.”
Liền sau đó, một vị Phạm thiên (Brahma) ở cõi trời đọc được tư tưởng của Phật,
liền cầu thỉnh Phật từ bi mà truyền đạo. Phật trả lời: “Người đời tham
ái chìm đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái bao phủ, sẽ không thấy được đạo
pháp bởi vì đạo pháp đi ngược dòng tham ái. Đạo pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận
thức, và tế nhị. Vì suy gẫm như thế, Như lai chưa quyết định truyền bá đạo
pháp.”
Vị Phạm thiên khẩn nài lần thứ nhì, Phật cũng đáp như thế. Mãi đến khi thỉnh
pháp lần thứ ba, Phật mới đồng ý và tuyên bố: “Cửa vô sanh bất diệt đã
mở cho chúng sanh. Hãy để cho ai có tai nghe đặt trọn niềm tin tưởng!” [Narada
1964: 60-63]
Trương Lương ba lần nhặt dép mới được tiên ông Hoàng Thạch công trao quyển
thiên thư. Lưu Bị ba lần hạ mình tới nhà tranh (tam cố thảo lư) mới thỉnh được
Khổng Minh. Cái gì khó khăn mới đạt được, càng khó thì đời càng quý, càng trọng.
Cái gì dễ dàng có được thì người ta dễ duôi, coi thường. Và chỉ ai biết giá trị
của quý mới rán sức đánh đổi tương xứng để đạt được bảo vật đó. Đây cũng là ẩn
ý đạo pháp bất khinh truyền.
Bởi thế, muốn lấy được bảo bối của Phật, tức là thỉnh được kinh mầu nhiệm có thể
cứu người thoát vòng luân hồi sinh tử, Đường tăng đương nhiên phải đánh đổi lại
cho tương xứng. Đánh đổi cái gì và đánh đổi như thế nào?
Mật nghĩa việc đánh đổi bình bát
Truyện Tây du kể rằng:
“A nan, Ca diếp dẫn Đường tăng xem khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn nói với
Đường tăng: Thánh tăng từ phương Đông tới đây, chắc có chút lễ vật gì biếu
chúng tôi chăng? Mau đưa ra đây chúng tôi mới trao kinh cho.
Tam tạng nghe xong nói: Đệ tử là Huyền Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng
chuẩn bị được quà cáp gì cả.
Hai vị tôn giả cười nói: Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến
chết đói mất.” [TDK X 1988: 168]
Đọc tơ lơ mơ, lắm người bảo rằng A nan và Ca diếp đòi ăn hối lộ! Thực ra, làm
gì có chuyện vòi vĩnh của đút lót ở cửa Phật!
Trong mười đại đệ tử của Phật, ông Ca diếp đứng hạng ba, A nan đứng thứ mười, đều
đắc quả A la hán, dứt bỏ hết các lỗi lầm (nhứt thiết lậu tận), không lẽ lại vướng
lụy vì chút của cải vụn vặt của thế gian ư?
Theo lịch sử Thiền tông Ấn Độ, Phật Thích ca (Phật tổ) là Sơ tổ, Ca diếp là Nhị
tổ, A nan là Tam tổ. Bậc giác ngộ đã lìa thế gian, thoát vòng sanh tử, làm sao
có thể mở miệng vòi của lót tay?
Khi Hành giả (Tề thiên) khiếu nại sự việc bị đòi lễ vật, Phật tổ cười
nói: “Nhà ngươi cứ bình tĩnh. Việc hai người [A nan, Ca diếp] vòi lễ
các ngươi, ta đã biết rồi. Có điều kinh không phải trao cho một cách dễ dàng,
không thể lấy không được.” [TDK X 1988: 172]
Rốt cuộc, khi đổi kinh vô tự để lấy kinh có chữ, Đường tăng vẫn bị đòi dâng lễ
vật.“Tam tạng chẳng có vật gì dâng, đành bảo Sa tăng mang ra chiếc bát tộ
vàng (...) A nan nhận lấy chiếc bát, tủm tỉm cười.” [TDK X 1988: 173]
Tại sao Tam tạng chẳng có vật gì dâng? Thực ra Tam tạng còn có hai bảo vật của
Phật Quan âm tặng: chiếc cà sa báu và cây thiền trượng. Thế thì tại sao lại chỉ
dâng cho A nan chiếc bình bát?
Trong đời sống xuất gia, bình bát (patra) vốn là biểu tượng của nhà tu khất thực
(khất sĩ trì bát). Nhưng chiếc bình bát bằng vàng nguyên là của vua Đường tặng
cho ngự đệ (em vua) kết nghĩa. Vì thế, trong tình huống này, nó còn tượng trưng
cho của cải và danh vọng ở thế gian.
Ngoài ra, nói rằng Tam tạng chẳng có vật gì đem theo là ám chỉ kẻ xuất gia tu
hành không còn tư hữu (tăng vô nhất vật). Để lãnh kinh báu của Phật, dâng nạp
bình bát là ngụ ý: muốn thọ lãnh đạo giải thoát của Phật, con người phải xuất
gia, lìa bỏ danh vọng và của cải thế tục.
Hành động của Đường tăng ở đây là ẩn dụ, có tính cách biểu tượng. Theo truyền
thống đạo học thì đạo pháp không thể truyền thụ dễ duôi (đạo pháp bất khinh
truyền), cho nên kẻ học đạo, muốn thọ pháp, phải đánh đổi. Đánh đổi có nhiều
hình thức.
Khi Thái tử Cồ đàm tìm đạo giải thoát, Ngài đã phải đánh đổi cả ngai vàng, vợ đẹp,
con thơ, cả cuộc sống nhung lụa đế vương.
Khi Thần Quang (tức Huệ Khả, Nhị tổ Thiền tông Trung Hoa) cầu đạo với Sơ tổ Bồ
đề Đạt ma, và bị từ chối, Ngài đã tự mình chặt lìa cánh tay trái dâng lên thầy.
Đó là ngụ ý sẵn sàng đánh đổi sinh mạng phàm phu để thọ lãnh đạo giải thoát tối
thượng của thiền môn.
Huệ Khả cầu đạo với Đạt ma (Nhật, thế kỷ XVI)
Phật tổ, A nan, Ca diếp (mượn trong [Léon Wieger 1927:
352])
Vì sao A nan và Ca diếp sợ người sau chết đói?
Ngoài ý nghĩa đạo pháp bất khinh truyền và phải đánh đổi như trên, cũng nên chú
ý đến lời nói của A nan và Ca diếp: “Hai vị tôn giả cười nói: Hà! Hà!
Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất.” Tại sao lại
là người sau chết đói? Tại sao có chuyện ăn uống nơi đây?
Xin thưa, đạo giải thoát cũng được gọi là pháp thực. Con người thân xác hữu cơ
vốn cần có thực phẩm hữu cơ nuôi dưỡng thì con người tâm linh cũng cần có đạo
pháp làm thực phẩm dưỡng nuôi.
Muốn cho đời này sang đời khác vẫn có được pháp thực nuôi tâm linh con người
thì đạo pháp phải được trường lưu. Muốn đạo pháp trường lưu thì phải có con người
xứng đáng nắm giữ đạo pháp để xiển dương và hoằng giáo. Đạo tuy thiêng liêng, nhưng
bắt buộc phải có vai trò chủ sử của con người. Bởi thế, sách Nho có câu: Nhân
năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân.
Nếu dễ duôi truyền đạo pháp cho người không xứng đáng, chẳng những kẻ ấy không
thể hoằng dương được chánh pháp mà còn khiến cho dòng đạo pháp suy tàn, bế tắc.
Như thế, đời sau sẽ không còn hưởng được vị ngọt pháp thực nữa, nghĩa là tâm
linh con người sẽ “đói”.
Chính vì lẽ sống còn này mà các bậc giáo tổ ngày xưa trước khi được lãnh trọng
trách, đã phải chịu thử thách, chịu “bầm dập” đủ điều từ nội tâm tới thân xác
và ngoại cảnh.
Mạnh tử đã sớm nói rõ điều trọng yếu ấy như sau: “Thế nên hễ Trời định
phó thác trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước hết phải làm cho người ấy khổ
não tâm chí, lao nhọc gân cốt, đói khát cầu bơ cầu bất, nghèo nàn thiếu trước hụt
sau, và làm rối loạn, điên đảo các việc làm của người ấy. Làm thế để mà phát động
lương tâm của người, cho nhẫn kiên tánh tình của người, và gia tăng tài đức còn
khiếm khuyết của người.” [“Cố Thiên tương giáng đại nhiệm ư thị nhân
dã, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu, không phạp kỳ
thân, hành phất loạn kỳ sở vi. Sở dĩ động tâm nhẫn tánh, tăng ích kỳ sở bất
năng.” Mạnh tử: Cáo tử, chương cú hạ, 15.]
Trở lại với việc A nan và Ca diếp đòi lễ vật. Ngoài những ý nghĩa hàm ngụ như
đã trên đây, hư cấu sự kiện này còn để gài vào một tình tiết hợp lý là lãnh
kinh không chữ và đổi kinh có chữ.
Từ kinh vô tự đến kinh hữu tự (pháp vô vi ra pháp hữu vi)
Thoạt đầu, A nan và Ca diếp trao kinh không chữ (kinh vô tự), các quyển kinh
toàn giấy trắng! Phật tổ dạy thầy trò Đường tăng: “Quyển trắng tinh là
chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay.” [TDK X 1988: 172]. Tuy vậy,
Phật cũng đồng ý cho đổi lấy kinh có chữ. Then chốt ở đây là kinh vô tự có trước
rồi sau mới có kinh hữu tự. Nó đúng với lịch sử truyền pháp của đạo Phật và nhiều
tôn giáo khác ở phương Đông.
Khai sáng Phật giáo là Thích ca. Khi Thích ca đi tu, không có tụng kinh, không
có lễ bái, dộng chuông, thắp nhang, đốt sớ. Thích ca đắc đạo, chứng quả vô thượng
chánh đẳng chánh giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề) thì Ngài vốn không có thầy.
Không thầy, không kinh, biết lấy chi bám víu mà đạt đạo? Ngài chỉ nhờ giác ngộ
được bổn tâm của mình. Bằng con đường tham thiền mà Ngài giác ngộ. Kinh vô tự
ám chỉ pháp môn thiền. Thiền hay nội giáo tâm truyền (esoterism) dành cho những
bậc đại căn đại trí.
Khi Phật truyền tâm ấn cho Nhị tổ Ca diếp, cũng không có văn tự. Sử chép rằng:
Ngày kia, Phật tại núi Linh Thứu, trước đông đảo đệ tử Phật bắt đầu thuyết pháp
bằng cách im lặng (vô ngôn) và cầm một cành hoa đưa lên trước đại chúng (niêm
hoa). Mọi người bàng hoàng chẳng hiểu ý chi. Riêng đại đệ tử thứ ba là Ca diếp
nhoẻn miệng cười (vi tiếu). Phật thấy Ca diếp đã lãnh hội được, bèn truyền tâm ấn
cho Ca diếp làm Nhị tổ Thiền tông với lời lẽ như sau: “Ngã hữu chánh
pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, vi diệu pháp môn, thực tướng vô tướng, kim
phó chúc Ma ha Ca diếp.” (Ta có kho tàng con mắt của chánh pháp, tâm
huyền diệu của niết bàn, cửa pháp vi diệu, thực tướng vô tướng, nay đem trao lại
cho Đại Ca diếp.)
Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ là Bồ đề Đạt ma qua Trung Quốc làm Sơ tổ Thiền
vào năm 520 cũng tóm tắt tôn chỉ lập giáo của Ngài như sau:
Bất lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền.
Trực chỉ nhân tâm,
Kiến tánh thành Phật.
Tôn chỉ của Đạt ma có nghĩa là: Không thông qua chữ nghĩa, không sử dụng kinh
điển giáo lý, nhắm thẳng vào nội tâm con người, hễ thấy bổn tánh thì thành Phật.
Tọa thiền là tụng kinh vô tự
Tóm lại, kinh vô tự giấy trắng là biểu
tượng của tâm pháp, của thiền môn, là nội giáo, cái mà Khổng tử gọi là hình nhi
thượng học (esoterism). Ở Ấn Độ, nó có từ Thích ca, ở Trung Quốc, nó truyền từ
Đạt ma.
Sau khi Phật Thích ca tịch diệt, nhập niết bàn, do nhu cầu truyền giáo, các đại
đệ tử mới tổ chức ghi chép lại lời dạy của Phật. Công lao này đứng đầu là A
nan. Vì khi Phật còn tại thế, ông A nan được tuyển làm thị giả hầu cận đức Phật,
nên ông được nghe Phật thuyết pháp nhiều hơn ai hết, và nhờ có trí nhớ kiểu Lê
Quý Đôn, nên đã nghe thì bộ nhớ ghi lại trọn vẹn, không sót một lời.
Ông nghe kinh nhiều quá thành ra... tu luyện huyền công có phần nào hơi kém cỏi
hơn đồng đạo, thần thông đã thua anh em, mà chứng ngộ cũng trễ hơn anh em. Bù lại,
ông được tôn là Đa văn đệ nhứt trong mười đại đệ tử; ông tuy hạng nhứt về nghe
kinh nhiều, nhưng lại xếp hạng chót trong mười đại đệ tử. (Lý thuyết kém hơn thực
hành chăng?)
Vậy vô vi hay kinh vô tự có trước, về sau mới có kinh hữu tự, hữu vi. Có hữu vi
nên mới dựng chùa, đúc chuông, tô tượng Phật, tụng kinh, thắp nhang, đốt sớ,
v.v... Con đường truyền giáo này phù hợp cho đại chúng, nó là phổ độ, là hình
nhi hạ học, là ngoại giáo công truyền (exoterism).
Phật pháp truyền từ Thích ca đến Ca diếp đánh dấu bằng tâm ấn niêm hoa vi tiếu,
vắng bặt ngôn ngữ. Ca diếp là Nhị tổ, truyền đến Tam tổ là A nan thì bắt đầu có
tổ chức kết tập kinh điển, văn tự miên man, lời lẽ dằng dặc. Cho nên có thể thấy
Ca diếp là tiêu biểu cho con đường tâm pháp nội tu (kinh vô tự giấy trắng) và A
nan là tượng trưng cho giáo lý công truyền (kinh hữu tự). Hiểu như vậy mới cảm
nhận được trọn vẹn chỗ tài tình của Ngô Thừa Ân, vì sao lại phải chọn đúng Ca
diếp, A nan là người trao kinh cho Đường tăng trong lúc bấy giờ ở điện Đại hùng
còn có tám bồ tát, bốn kim cang, mười một đại diệu, mười tám già lam, năm trăm
la hán, và ba ngàn yết đế [TDK X 1988: 164].
Kinh vô tự bị đem trả lại chùa Lôi âm để đổi lấy kinh hữu tự! Đó là con đường
mà tâm pháp bị hữu vi hóa, đạo pháp thất chơn truyền. Ở Trung Hoa đó là hình ảnh
mà thiền (tâm pháp) từ Bồ đề Đạt ma truyền xuống Lục tổ Huệ Năng thì rẽ ngang
nhánh Thần Tú (ngoại giáo). Cũng là hình ảnh của đạo Lão từ Lão tử truyền xuống
tới Trương Đạo Lăng thì biến ra âm thanh sắc tướng.
Theo Phật, Lão và Cao đài, chỉ có thực hành thiền (nội tu) mới có thể giải
thoát thực sự. Ngoài ra, tu kinh tu kệ thì chỉ là lý thuyết. Giáo lý chỉ có thể
giúp con người sáng suốt, trang bị thêm một mớ kiến thức chữ nghĩa chứ không biến
được phàm phu ra phật ra tiên. Nói cách khác, tu bằng kinh hữu tự con người
chưa thể đáo bỉ ngạn để qua tới bến bờ giác ngộ. Kinh hữu tự không thể đưa con
người đến rốt ráo của giải thoát. Ý chỉ sâu sắc đó được Ngô Thừa Ân diễn tả bằng
việc phơi kinh ướt ở bờ sông Thông thiên [TDK X 1988: 189], bị mất hết mấy tờ
cuối quyển. Đọc kinh mà không tới chung kết cũng giống như tu hành mà không đạt
kết quả (không giải thoát).
Trở lại với lời cảnh tỉnh của Phật tổ trước lúc trao kinh cho Đường tăng: “...
chỉ e người phương đó ngu si lỗ mãng huỷ báng chân ngôn, không biết ý chỉ sâu
xa trong đạo của ta.” [TDK X 1988: 166]. Kinh giấy trắng cao siêu quá,
tuy không hủy báng, nhưng đã đặt vào tay mà còn đem trả lại, cũng gần như là
chê bỏ!
Không ai giao sách cho người không biết đọc. Kinh vô tự của Phật vì vậy không đọc
được bằng nhục nhãn (mắt thịt). Nhục nhãn chỉ đọc đưọc kinh hữu tự không toàn vẹn
(thiếu trang chót). Kinh vô tự phải đọc bằng tâm, bằng nghị lực tự thắng của
hành giả cô đơn. Và như thế, nỗi lòng giấy trắng không phải để san sẻ cho đại
chúng bì phu, mà chỉ hiện chữ cảm thông cho riêng ai âm thầm với trăng sao soi
cửa động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét