Cố Ung tự Nguyên Thán |
NGÔ THƯ QUYỂN 7 - TRƯƠNG CỐ GIA CÁT BỘ TRUYỆN
Cố Ung tự Nguyên
Thán, người huyện Ngô quận Ngô,
Ngô lục chép: Tổ ba đời
của Ung là Phụng, tự Quý Hồng, làm Dĩnh Xuyên Thái thú.
Sái Bá Giai (21) từ miền Sóc Phương về, từng tránh nạn ở huyện Ngô, Ung theo học đánh đàn viết chữ.
Giang Biểu truyện
chép: Ung theo học Bá Giai, chăm chú trong lặng, thông đạt dễ dạy. Bá Giai quý
mà khen lạ, nói: “Khanh tất thành danh, nay lấy tên ta đặt cho khanh”. Cho nên
Ung cùng tên với Bá Giai là do đấy. Ngô lục chép: Tên tự của Ung là Nguyên
Thán, ý nói là người mà Sái Ung thán phục vậy. Nhân đó đặt tên tự ấy.
Châu quận tiến cử, tuổi
đội mũ làm Hợp Phì Trưởng, sau chuyển làm quan Lệnh qua các huyện Lâu, Khúc A,
Thượng Ngu, đều có công tích. Tôn Quyền lĩnh chức Cối Kê Thái thú, không đến quận,
lấy Ung làm Quận thừa, làm việc quan Thái thú, đánh dẹp giặc cướp, trong quận
yên ổn, quan dân theo phục. Được mấy năm, vào làm Tả tư mã. Quyền làm Ngô
Vương, chuyển làm Đại lí phụng thường, lĩnh chức Thượng thư lệnh, phong Dương
Toại Hương Hầu, nhận tước Hầu về phủ mà người nhà không biết, sau đó nghe tin mới
kinh ngạc.
Năm Hoàng Vũ thứ tư,
đón mẹ ở huyện Ngô. Đã đến, Quyền đến chúc mừng, tự bái mẹ Ung ở đình, công
khanh đại thần hội cả, sau Thái tử cũng lại đến chúc. Ung là người không uống
rượu, ít nói chuyện, hành động chừng mực. Quyền từng than rằng: “Cố Quân không
nói, nhưng nói tất đúng”. Vào buổi ăn uống vui vẻ, tả hữu sợ có uống rượu sai
sót thì Ung tất thấy được, do đó không dám tự ý. Quyền cũng nói: “Cố Công ngồi
cùng, người ta không vui”. Người này bị e ngại như thế. Năm đó, đổi làm Thái
thường, tiến phong Lễ Lăng Hầu, thay Tôn Thiệu làm Thừa tướng, Bình thượng thư
sự. Các quan tướng văn võ mà Ung chọn đều tùy theo năng lực, ý chẳng riêng tư.
Bấy giờ xét hỏi những người đáng cất nhắc trong dân và hàng quan lại, liền ngầm
tấu lên. Nếu được chọn dùng thì kể công cho vua, nếu không thì rút cuộc không
tiết lộ. Quyền do đó coi trọng Ung. Nhưng ở triều đình có lúc bày kể, lời lẽ dẫu
thuận mà giữ vững ý mình. Quyền từng hỏi bàn việc được mất, Trương Chiêu nhân đấy
kể điều nghe biết, đại khái cho là pháp lệnh rườm rà, hình phạt nặng nề, nên được
giảm bớt. Quyền im lặng, ngoảnh bảo Ung rằng: “Khanh cho là thế nào”? Ung đáp
nói: “Điều mà thần nghe, cũng như điều mà Chiêu kể”. Do đó Quyền bèn bàn việc
giảm hình phạt.
Giang Biểu truyện
chép: Quyền thường sai quan Trung thư lang đến chỗ Ung, có chỗ hỏi ý. Nếu hợp ý
Ung thì việc được ra dùng, liền cùng nhau bàn bạc, xét kĩ mà luận, bày đặt ăn uống.
Nếu không hợp ý, Ung liền nghiêm mặt đổi sắc, im lặng không nói, không ra dùng
được, liền lui về. Quyền nói: “Cố Công vui mừng là việc đáng làm vậy. Nếu không
nói là việc chưa đúng vậy. Ta phải nghĩ kĩ việc ấy”. Người này được kính tín
như thế. Các tướng ở ven sông đều muốn lập công tự gắng, nhiều người bày kế nên
làm, có người bày kế đánh úp. Quyền đem việc hỏi Ung, Ung nói: “Thần nghe nói
phép dùng binh là giới hạn việc mưu lợi nhỏ, bọn họ bày mưu ấy chỉ là muốn lập
công danh cho thân mình, không phải vì nhà nước vậy. Bệ hạ nên ngăn cấm. Nếu
không đủ để giễu oai phá địch thì không nên nghe theo”. Quyền theo lời, việc
quân được mất, đáng hay không làm, nếu chẳng gặp thấy thì miệng chưa từng nói
ra.
Lâu sau, Lữ Nhất, Tần
Bác làm Trung thư, coi xét văn thư của phủ quan và châu quận. Bọn Nhất nhân đó
dần dần ra oai tác phúc, bèn tạo việc đoạt lấy cái lợi thu thuế bán rượu, kể
gian xét tội, lỗi nhỏ cũng tấu, vu hãm gièm pha, nói xấu đại thần, đè ép kẻ vô
tội, bọn Ung đều bị hạch xét, lại bị trách mắng. Sau đó tội gian của Nhất phát
lộ, bắt trói đến sở quan Đình úy. Ung đến xét tội, Nhất bị trói đến gặp, Ung tỏ
vẻ hòa nhã, hỏi tội trạng của hắn, sắp ra, lại bảo Nhất rằng: “Ý ông không muốn
nói gì chăng”? Nhất cúi đầu không nói. Bấy giờ Thượng thư lang Hoài Tự đối mặt
mắng nhục Nhất. Ung trách Tự rằng: “Quan có phép thường, sao lại như thế”!
Giang Biểu truyện
chép: Quyền muốn lấy người con gái trong họ, cô gái ấy là cháu ngoại của họ Cố,
cho nên xin cha con Ung và Tôn Đàm, bấy giờ Đàm làm Tuyển tào thượng thư, rất
được tin dùng. Hôm đó, Quyền bày rượu rất nhiều. Đàm say rượu, ba lần đứng dậy
múa, múa không biết dừng. Ung trong lòng giận Đàm. Hôm sau, gọi Đàm đến, trách
mắng Đàm rằng: “Nhà vua lấy việc bao chứa cả kẻ xấu làm đức, bầy tôi lấy việc
cung kính làm tiết. Ngày xưa Tiêu Hà, Ngô Hán đều có công lớn, nhưng Hà hễ gặp
Cao Đế thì không dám nói; Hán thờ Quang Vũ cũng nói kính cẩn. Mi đối với nhà nước
mà có công của hãn mã, đáng ghi vào sách sử chăng? Chỉ nên làm chỗ dựa cho người
nhà, làm sao cho cuối cùng được vinh sủng mà thôi. Sao lại múa không biết dừng
lại? Dẫu rằng là vì sau khi uống rượu, cũng do dựa vào ân sủng mà quên cung
kính, không đủ khiêm nhường. Kẻ làm tổn hại nhà ta chắc là mi vậy”. Do đó ngoảnh
hướng vào vách mà nằm. Đàm có lúc làm sai, bèn bị trách phạt. Từ Chúng bình rằng:
“Ung không màng việc từng bị Lữ Nhất vu hãm, mà vẫn vẻ hòa thuận, thực là bậc
quân tử. Nhưng dẫn ý của hắn, hỏi điều
mà hắn muốn nói là sai vậy. Lữ Nhất gian hiểm phạm pháp, vu hãm trung hiền, nước
Ngô đau lòng, từ Thái tử Đăng, Lục Tốn trở xuống đều can ngăn mà không được,
cho nên Phan Tuấn muốn nhân lúc hội họp mà cầm kiếm đâm hắn để trừ họa cho nước,
ghét ác giúp vua, nghĩa tỏ ra mặt. Vậy mà nay nói ra lời ấy. Nếu Nhất nói là
oan uổng, không hợp lí, thì chẳng bị bắt giam nữa; nếu nghe ấy mà tấu lên, vua
Ngô chợt kính theo lời mà Thừa tướng nói, rồi lại tha cho, vậy thì Bá Ngôn, Thặng
Minh chẳng phải đáng cảm khái chăng! Hoài Tự vốn chẳng hận riêng, chẳng gì là
hiềm, cho nên mắng nhiếc hắn chỉ là có ý ghét kẻ ác thôi. Người ghét kẻ bất
nhân là người có nhân vậy. Quý Vũ Tử chết thì Tăng Điểm đến cửa nhà người ấy mà
hát; Tử Triết gây nạn thì Tử Sản tự suy xét luận nghị. (22) Do đó mà nói, Ung
không nên trách Hoài Tự vậy.
Ung làm Thừa tướng mười
chín năm, năm Xích Ô thứ sáu thì chết, vào lúc bảy mươi sáu tuổi. Khi trước mắc
bệnh, Quyền sai thầy thuốc là Triệu Tuyền đến xem, bái con út là Tế làm Kị đô
úy. Ung nghe tin, buồn nói: “Tuyền giỏi phân biệt sống chết, ta tất chẳng khỏi
được cho nên nhà vua muốn mắt ta thấy Tế được bái chức vậy”. Quyền mặc áo trắng
đến điếu, tặng thụy là Tiêu Hầu. Con trưởng là Thiệu chết sớm, con thứ là Dụ mắc
bệnh nặng, con út là Tế nối tự, không có dòng dõi, tước dứt. Năm Vĩnh An thứ nhất,
hạ chiếu rằng: “Thừa tướng Ung tỏ đức rất trung hiền, giữ lễ để giúp nước, vậy
mà dòng dõi bị ruồng bỏ, trẫm rất thương cảm. Nay phong con thứ của Ung là Dụ
làm Lễ Lăng Hầu để nêu rõ công lao ngày trước”.
Ngô lục chép: Dụ còn
có tên là Mục, cuối cùng làm Nghi Đô Thái thú. Con Dụ là Vinh. Tấn thư chép:
Vinh tự Ngạn Tiên, là kẻ sĩ nổi tiếng ở miền đông nam, làm quan Hoàng môn lang
của nước Ngô, thời nhà Tấn trải qua các chức cao. Đầu thời Nguyên Đế giữ miền
Giang Đông, lấy Vinh làm Quân tư mã, đối đãi rất trọng hậu. Lúc chết, ban tặng
chức Thị trung, Phiếu kị tướng quân. Con anh của Vinh là Ngu, tự Mạnh Trứ, thủa
trẻ có danh tiếng, làm Tán kị thị lang, chết sớm. Ngô thư chép: Em mẹ của Ung
là Huy, tự Tử Thán, thủa trẻ du học, có mồm mép. Tôn Quyền nắm việc, nghe nói
Huy có tài biện luận, gọi làm Chủ bạ. Từng theo đi ra, thấy một tên lính của
Doanh quân tướng bị đưa ra chợ xử tội, hỏi phạm tội gì, nói là trộm trăm quan
tiền, Huy bảo sai đứng lại. Chốc lát, đi đến cửa khuyết bẩm rằng: “Ngày nay
đang nuôi dưỡng quân sĩ để mưu đánh miền bắc, xem tên lính ấy là đứa khỏe mạnh,
vả lại trộm ít, kẻ ngu này xin tha cho hắn”. Quyền ưng theo mà khen Huy. Chuyển
làm Đông tào duyện. Có kẻ nói rằng Tào Công muốn đánh sang đông, Quyền bảo Huy
rằng: “Khanh là tim bụng của cô, nay có người nói Mạnh Đức có ý xấu, nhưng chẳng
có ai đủ để đi sứ đếm xem xét, khanh giúp ta đi nhé”. Bái làm Phụ nghĩa đô úy,
lên miền bắc gặp nhau với Tào Công. Tào Công hỏi kĩ tin tức trong nước. Huy đối
đáp kính thuận, nhân đó nói miền Giang Đông giàu có, núi rừng hiểm trở, đều giữ
thiện theo đạo hóa, vì nghĩa mà giúp quân. Tào Công cười nói: “Cô với Tôn tướng
quân đã kết hôn nhân, cùng giúp nhà Hán, nghĩa như một nhà, ông cần gì nói thế”?
Huy nói: “Là vì minh công và chủ tướng có nghĩa vững như đá tảng, cùng chung
vui lo, lại muốn biết tin tức ở miền Giang Biểu, cho nên mới nói vậy”. Tào Công
đãi hậu rồi sai về. Quyền hỏi nên làm sao, Huy nói: “Nước địch kín ý, rất khó
suy xét, nhưng Huy này lén nghe ngóng biết được đang giao tranh với Viên Đàm,
chưa có ý khác”. Bèn bái Huy làm Ba Đông Thái thú, muốn dùng làm việc lớn, vừa
lúc ấy thì mất. Con là Dụ, tự Quý Tắc, thủa trẻ nổi danh, làm đến quan Trấn
đông tướng quân. Người trong họ của Ung là Đễ, tự Tử Thông, vì hiếu thuận ngay
thẳng mà nổi danh trong thôn ấp. Năm mười lăm tuổi làm quan trong quận, bái làm
Lang trung, dần dần chuyển làm Thiên tướng quân. Cuối thời Quyền, trưởng thứ
không chia, Đễ nhiều lần với Phiếu kị tướng quân Chu Cứ cùng bày kể họa phúc,
nói lời thẳng thắn, triều đình phải e ngại. Giữ lễ với vợ, thường buổi đêm vào
gặp rồi hửng sớm đi ra, ít khi nhìn mặt vợ. Từng bệnh nặng, vợ ra chăm sóc, Đễ
sai tả hữu đỡ dậy, mặc thêm mũ áo, ra bảo sai vợ quay đi, người này trong sạch
không đổi như thế. Cha Đễ là Thượng, làm quan Lệnh qua bốn huyện, tuổi già về
nghỉ, Đễ hễ nhận được thư của cha thì thường bỏ uống rượu, sửa sang quần áo, lại
bày ghế chiếu, đặt thư trên đấy, quỳ bái mà đọc, đọc đến đâu thì vâng dạ, xong
lại quỳ bái. Nếu cha có bệnh tật thì thăm hỏi, viết thư rơi lệ, nức nở nghẹn
ngào. Cha đến lúc mất, Đễ năm ngày không ăn uống gì vào miệng. Quyền giúp Đễ
làm một bộ áo vải đều thêu dệt bông, ép sai Đễ cởi áo. Đễ dẫu vì việc công mà tự
cởi nhưng vẫn cho rằng là không tỏ được việc để tang cha, bèn thường vẽ hình
quan cữu lên vách, đặt thần tọa (23) ở dưới, hễ đối mặt lại khóc lóc, để tang
chưa xong thì chết. Bốn con của Đễ là Ngạn, Lễ, Khiêm, Bí. Bí vào thời Tấn làm
Giao Châu Thứ sử. Con Bí là Chúng, làm Thượng thư bộc xạ.
Thiệu tự Hiếu Tắc,
xem rộng các sách, ưa bàn làm cho người vui. Thủa trẻ cùng nổi tiếng với cậu là
Lục Tích, còn bọn Lục Tốn, Trương Đôn, Bốc Tĩnh đều đứng hàng sau.
Ngô lục chép: Đôn tự
Thúc Phương, Tĩnh tự Huyền Phong, đều là người quận Ngô. Đôn rộng lượng sâu sắc,
trong sạch đạm bạc, lại giỏi văn thư. Tôn Quyền làm Xa kị tướng quân, gọi làm
Tây tào duyện, chuyển làm Chủ bạ, ra làm Hải Hôn Lệnh, rất có đức hóa, năm ba
mươi hai tuổi thì chết, Bốc Tĩnh cuối cùng làm Diệm Lệnh.
Từ dân thường trong
châu quận cho đến kẻ sĩ bốn phương đều qua lại gặp nhau, hoặc nói chuyện xong
thì đi, hoặc kết giao rồi lại chia tay, danh tiếng lan truyền, gần xa khen ngợi.
Quyền lấy con gái của Sách gả cho. Năm hai mươi bảy tuổi, rời nhà đến làm Dự
Chương Thái thú. Xuống xe tế mộ của người hiền thời trước là Từ Nhụ Tử, đãi hậu
dòng dõi của người ấy; cấm những kẻ cúng tế say mê không theo lễ nghi. Những
viên quan nhỏ mà có đức lành thì sai đến theo học, chọn kẻ tài năng cho làm
quan huyện, dạy dỗ nêu thiện, do đó giáo hóa trổ bày. Lúc trước, người huyện Tiền
Đường là Đinh Tư xuất thân từ quân lính, người huyện Dương Tiện là Trương Bỉnh
sinh từ nhà dân thường, người huyện Ô Trình là Ngô Xán, người huyện Vân Dương
là Ân Lễ nổi lên từ nhà thấp hèn, Thiệu đều tiến cử mà kết bạn với họ, giúp họ
lập danh tiếng. Bỉnh gặp lúc tang, bèn tự giúp kết áo buộc dây tang. Thiệu vào
lúc đến quận Dự Chương, lên đường sắp đi, vừa lúc Bỉnh bệnh tật, bấy giờ có mấy
trăm người hộ tống, Thiệu bèn bảo tân khách rằng: “Trương Trọng Tiết có bệnh, nếu
không đến chia tay thì sợ rằng không còn gặp nữa. Ta tạm quay về nói lời cáo biệt,
các ông đợi nhau đây chốc lát”. Người này chú ý đến kẻ sĩ, chỉ tỏ điều tốt đều
đại khái như thế. Tư làm đến Điển quân trung lang, Bỉnh làm Vân Dương Thái thú,
Lễ làm Linh Lăng Thái thú, Con Lễ là Cơ soạn sách Thông ngữ chép: Lễ tự Đức Tự,
sức yếu nên không ham chơi, hiểu biết hơn người. Thủa trẻ làm quan trong quận,
mười chín tuổi làm Ngô Huyện thừa. Tôn Quyền làm Vương, gọi làm Lang trung. Sau
cùng Trương Ôn làm sứ đến nước Thục, Gia Cát Lượng rất khen ngợi. Dần dần chuyển
làm Linh Lăng Thái thú, chết ở sở quan. Văn Sĩ truyện chép: Con Lễ là Cơ, làm
Vô Nạn Đốc, vì tài học mà nổi danh. Soạn sách Thông ngữ có mấy chục chương. Có
ba con: Cự tự Nguyên Đại, có tài đức. Lúc đầu làm Thiên tướng quân của nước
Ngô, lĩnh bộ khúc của nhà minh đi đắp thành ở Hạ Khẩu, sau khi bình Ngô, làm
Thương Ngô Thái thú. Con út là Hựu, tự Khánh Nguyên, làm Ngô Quận Thái thú.
Xán làm Thái tử thiếu
bảo. Người đời cho là Thiệu biết nhìn người. Tại quận năm năm, chết ở sở quan,
con là Đàm, Thặng vậy.
Đàm tự Tử Mặc, tuổi đội
mũ cùng bọn Gia Cát Khác là bốn người bạn của Thái tử, từ chức Trung thứ tử
chuyển làm Phụ chính đô úy.
Lục Cơ chép truyện về
Đàm rằng: Ban lệnh Thái tử giữ ở Đông cung, Thiên tử đang nêu ý dạy bảo, chọn
dùng anh tài giảng dạy làm tả hữu. Bấy giờ người tài bốn phương tụ cả, bọn Thái
phó Gia Cát Khác hùng tài hơn người, mà Đàm lại hiểu biết hơn đời, rất được
kính trọng. Từ bọn Thái úy Phạm Thận, Tạ Cảnh, Dương Huy đều kẻ tài năng mà được
khen, nhưng đều đứng dưới Đàm.
Giữa năm Xích Ô, thay
Khác làm Tả tiết độ.
Ngô thư chép: Đàm mới
vào phủ quan, dâng sớ kể việc, Quyền dừmg ăn khen hay, cho là hơn cả Từ Tường.
Tĩnh nhã nhặn cao thượng, không màng khí khái, có kẻ vì thế mà chê trách, nhưng
Quyền xét tài năng của người này, được đối đãi rất hậu, nhiều lần ban thưởng, rồi
được gọi đến.
Hễ xem sổ sách chưa từng
ghi chép, chỉ ghi nhớ trong lòng, biết hết sai lầm, quan lại cấp dưới do đó mà
chịu phục. Bái thêm làm Phụng xa đô úy. Tiết Tống làm Tuyển tào thượng thư, cố
nhường Đàm rằng: “Đàm tính tình cẩn thận, thấu đạo đạt lí, tài chiếu muôn vật,
đức thỏa lòng người, thật là kẻ ngu này không hơn được vậy”. Sau bèn thay Tống.
Ông nội là Ung chết được mấy tháng, bái làm Thái thường, thay Ung làm Bình thượng
thư sự. Bấy giờ Lỗ Vương là Bá được quý sủng ngang hàng với Thái tử Hòa, Đàm
dâng sớ nói: “Thần nghe nói bậc có nước có nhà phải làm rõ dòng nhánh trưởng thứ,
phân biệt lễ nghi trên dưới, khiến có cao thấp có khác, bậc thềm xa cách, như
thế thì mới cắt dứt được nỗi lo cốt nhục nhờ ân, dòm ngó. Ngày xưa Giả Nghị bày
kế trị an, luận thế của chư hầu, cho rằng thế mạnh thì dẫu thân cận nhưng tất
có ý phản nghịch; thế mỏng thì dẫu xa cách nhưng tất giữ được lộc trọn vẹn. Cho
nên Hoài Nam Vương là em trong họ, không hưởng lộc trọn đời, mất là do ở thế mạnh
vậy; Ngô Nhuế là bầy tôi xa cách, chuyển ban phong ở nước Trường Sa, được là vì
thế mỏng vậy. Ngày xưa Hán Văn Đế sai Thận phu nhân và Hoàng hậu ngồi cùng chiếu,
Viên Áng rút chỗ ngồi của phu nhân, Đế có ý giận, đến lúc Áng kể lễ nghi trên
và dưới, nêu giới hạn của người và heo, lúc ấy Đế mới vui lòng, phu nhân cũng
hiểu ra. Nay điều mà thần nói là không có gì thiên lệch, chỉ là muốn giữ yên
ngôi vị Thái tử mà phân biệt vị thứ của Lỗ Vương vậy”. Do đó Bá có hiềm khích với
Đàm. Bấy giờ con rể của Trưởng công chúa là con của Vệ tướng quân Toàn Tông là
Kí làm tân khách của Bá. Kí vốn là kẻ hùa theo điều xấu, Đàm không tin dùng.
Lúc đầu, em Đàm là Thặng cùng với Trương Hưu đánh miền bắc đến thành Thọ Xuân, bấy giờ Toàn
Tông làm Đại đô đốc, đánh với tướng Ngụy là Vương Lăng ở Thược Bi, quân không lợi,
quân Ngụy thừa thắng đánh hãm quân của Ngũ doanh tướng Tần Nghê; Hưu, Thặng
gánh đánh chống, bèn chặn được quân Ngụy. Lúc ấy các con của Tông là Tự, Đoan
cũng làm tướng, nhân lúc địch đã bị chặn, bèn đến đánh chúng, quân của Lăng rút
lui. Lúc luận công ban thưởng, cho rằng ngăn địch là công lớn, đánh lui địch là
công nhỏ, do đó Hưu, Thặng đều được bái làm Tạp hiệu tướng quân, Tự, Đoan được
bái làm Thiên tướng, Bì tướng mà thôi. Cha con Kí thêm hận, cùng vu vạ Đàm.
Ngô lục chép: Cha con
Toàn Tông thường nói ở trận Thược Bi thì Điển quân Trần Tuân giả tăng công của
Trương Hưu, Cố Thặng, lại cho là Hưu, Thặng thông tình với Tuân. Hưu bị kể tội
giam ngục, Quyền vì Đàm là người cũ, trầm ngâm không quyết, muốn sai Đàm tạ lỗi
rồi tha cho. Lúc mở hội lớn, đem việc hỏi Đàm, Đàm không tạ lỗi, lại nói: “Bệ hạ
để lời gièm nổi lên sao”! Giang Biểu truyện chép: Quan coi việc tấu là Đàm xằng
bậy không cung kính, xét đáng tội nặng. Quyền vì Ung mà không xử tội ấy, chỉ đều
bắt đi đày.
Đàm bị đày đi Giao
Châu, lặng lẽ mà phát giận, soạn sách Tân ngôn có hai mươi chương. Trong chương
Tri nạn có lẽ là tự thương xót mình vậy. Bị đày xa hai năm, vào lúc bốn mươi
hai tuổi chết ở quận Giao Chỉ.
Thặng tự Tử Trực, giữa
năm Gia Hòa cùng với cậu là Lục Mạo vì có lễ mà được gọi. Quyền gửi thư cho Thừa
tướng Ung rằng: “Cháu quý là Tử Trực, danh tiếng hay đẹp, đến khi gặp nhau mới
biết hơn cả điều mà ta nghe nói. Vì khanh mà khen”. Bái làm Kị đô uý, lĩnh quân
Vũ lâm. Sau làm Ngô Quận Tây bộ đô úy, cùng với bọn Gia Cát Khác bình người Sơn
Việt, thu riêng được tám nghìn quân khỏe, về đóng quân ở Chương Khanh, bái
Chiêu nghĩa trung lang tướng, vào làm Thị trung. Sau trận Thược Bi, bái Phấn uy
tướng quân, ra làm Kinh Hạ Đốc. Được mấy năm, cùng với anh là Đàm, bọn Trương
Hưu bị đày đi Giao Châu, chết vào năm ba mươi bảy tuổi.
BỘ CHẤT TRUYỆN
Bộ Chất tự Tử Sơn,
người huyện Hoài Âm quận Lâm Hoài.
Ngô thư chép: Nước Tấn
có viên Đại phu tên là Dương được ban thực ấp ở đất Bộ, dòng dõi có người tên
là Bộ Thúc, cùng bảy mươi mốt người khác theo học Trọng Ni. (24) Vào thời nhà Tần,
nhà Hán có người làm Tướng quân, xét công phong làm Hoài Âm Hầu, Chất là dòng
dõi của người ấy vậy.
Thời loạn, tránh nạn
đến Giang Đông, một thân khốn khó, thân thiện với kẻ cùng tuổi người quận Quảng
Lăng là Vệ Tinh, cùng lấy việc trồng dưa mà tự sinh sống, ngày thì chăm chỉ
chân tay, đêm thì xem đọc kinh truyện.
Ngô thư chép: Chất
xét rộng đạo thuật, chẳng gì không xem qua, tính nhã nhặn thâm trầm, biết ẩn
chí nhẫn nhịn.
Người quận Cối Kê là
Tiêu Chinh Khương, là hào tộc trong quận,
Ngô thư chép: Chinh
Khương tên là Kiểu, từng làm Chinh Khương Lệnh.
mặc cho tân khách phóng
túng. Vào lúc Chất và Tinh xin được sinh sống ở đất ấy, sợ bị họ xâm lấn, bèn
hái dưa để đưa tặng cho Chinh Khương, lúc ấy Chinh Khương đang nằm ở trong nhà,
bèn đứng ngoài rồi đi vào, Tinh muốn bỏ đi, Chất ngăn lại nói: “Ta đến đây là
vì sợ thế mạnh của hắn vậy. Nếu nay bỏ đi để muốn giữ chí cao thì chỉ kết oán
thôi”. Hồi lâu, Chinh Khương mở cửa sổ gọi vào gặp, thân náu trong màn ngồi
trên ghế, bày chiếu dưới đất mời Chất, còn Tinh ở ngoài cửa sổ, càng cho là thẹn
nhưng Chất tỏ vẻ như thường. Chinh Khương mời ăn, thân ngồi chỗ bàn lớn, món
ngon xếp đầy, lấy bàn ăn nhỏ cho Chất, Tinh, chỉ có rau nhạt mà thôi. Tinh
không ăn được, Chất ăn đến no bụng rồi từ biệt đi ra. Tinh giận Chất nói: “Sao
lại nhẫn nhịn như thế”? Chất nói: “Bọn
ta nghèo hèn, cho nên chủ nhà lấy lễ nghèo hèn để đãi bọn ta, đấy là phải rồi,
có chỗ nào thẹn”?
Ngô lục chép: Vệ Tinh
tự Tử Kì, làm đến chức Thượng thư.
Tôn Quyền làm Thảo lỗ
tướng quân, gọi Chất làm Chủ kí,
Ngô thư chép: Hơn một
năm, Chất vì bệnh mà bỏ quan, cùng với người quận Lang Nha là Gia Cát Cẩn, người
quận Bành Thành là Nghiêm Tuấn đi vào miền Ngô Trung, đều nổi rõ danh tiếng, là
bậc anh tuấn thời ấy.
bái làm Hải Giám Trưởng,
gọi về làm Xa kị tướng quân Đông tào duyện.
Ngô thư chép: Quyền
làm Từ Châu Mục, lấy Chất làm Trị trung tòng sự, cử mậu tài.
Năm Kiến An thứ mười
lăm, ra làm Bà Dương Thái thú. Trong năm đó, chuyển làm Giao Châu Thứ sử, Lập
vũ trung lang tướng, đem hơn nghìn quân Vũ xạ lại (25) tiện đường đi xuống phía
nam. Năm sau, bái thêm chức Sứ trì tiết, Chinh nam Trung lang tướng; quan
Thương Ngô Thái thú Ngô Cự mà Lưu Biểu sắp đặt ngầm mang lòng khác, ngoài thì
theo mà trong thì phản. Chất nhún ý vỗ về, xin được gặp nhau, nhân đó chém đầu
để thị chúng, do đó oai danh lừng lẫy.
Anh em Sĩ Tiếp dắt nhau vâng lệnh, miền nam thần phục bắt đầu từ đấy vậy. Hào tộc
ở quận Ích Châu là bọn Ung Khải giết quan Thái thú Chính Ngang mà nước Thục sắp
đặt, truyền tin với Tiếp, xin được nương dựa, Chất nhân đấy thừa lệnh sai sứ giả
ban ân thu nạp, do đó được bái thêm chức Bình Khương tướng quân, phong Quảng
Tín Hầu.
Năm Diên Khang thứ nhất,
Quyền sai Lữ Đại thay Chất, Chất đem vạn nghĩa sĩ ở Giao Châu lên quận Trường
Sa. Gặp lúc Lưu Bị sang miền đông, người Man Di ở quận Vũ Lăng lại quấy rối,
Quyền bèn sai Chất đến huyện Ích Dương. Sau khi Bị đã thua vỡ, mà các người ở
quận Linh Lăng, Quế Dương vẫn kèn cựa nhau, các chỗ đều ngầm dấy binh; Chất bèn
đi khắp đánh dẹp, đều bình được. Năm Hoàng Vũ thứ hai, chuyển làm Hữu tướng
quân Tả hộ quân, đổi phong Lâm Tương Hầu. Năm thứ năm, ban Giả tiết, chuyển
đóng đồn ở Ẩu Khẩu.
斋
菀
Quyền xưng tôn hiệu,
bái Phiếu kị tướng quân, lĩnh chức Kí Châu Mục.
Năm đó, trông coi việc
quân ở Tây Lăng, thay Lục Tốn vỗ về hai miền, (26) chốc lát vì Kí Châu chia vào
nướcThục, bèn bỏ chức Châu mục. Bấy giờ Thái tử Đăng của Quyền trú ở Vũ Xương,
thương người ưa thiện, gửi thư cho Chất rằng: “Bậc quân tử hiền tài là người
nêu bày giáo hóa, giúp đỡ việc đời vậy. Tính ta vốn ngu tối, không thông đạo số,
dẫu là nhỏ nhoi nhưng vẫn muốn dốc lòng để đạt đức sáng, noi theo bậc quân tử;
đến như kẻ sĩ gần xa, người nào nên dùng trước sau thì còn vướng mắc, chưa được
rõ ràng. Kinh truyện có chép: ‘Ta yêu người mà không dốc sức giúp người được
sao? Ta trung với người mà không khuyên bảo người được sao’? Nghĩa của câu này
há chẳng phải là trông mong vào bậc quân tử ư”! Do đó Chất bày kể những người
làm việc ở Kinh Châu thời ấy là mười người bọn Gia Cát Cẩn, Lục Tốn, Chu Nhiên,
Trình Phổ, Phan Tuấn, Bùi Huyền, Hạ Hầu Thặng, Vệ Tinh, Lí Túc, Ngô thư chép:
Túc tực Vĩ Cung, người quận Nam Dương. Thủa trẻ vì có tài mà nổi tiếng, giỏi
bàn luận, việc tốt xấu đều đúng, soi xét người tài, kể rõ mà tiến cử, nêu bật
cái hay của từng người đều trôi chảy, do đó mọi người chịu phục. Quyền chọn làm
Tuyển tào Thượng thư, gọi người được cử chọn là ‘đắc tài’. Xin ra ngoài làm
quan, bái Quế Dương Thái thú, quan dân vui mừng. Lại gọi về làm khanh. Lúc chết,
kẻ biết hay không biết đều thương tiếc.
Chu Điều, Thạch Cán,
phân biệt hành trạng từng người, rồi nhân đó dâng sớ khuyên bảo rằng: “Thần
nghe nói vua không tự làm việc nhỏ mà để cho trăm quan chức trách đều lo làm
đúng chức phận của mình. Cho nên vua Thuấn sai chín người hiền (27) làm việc
thì không có gì bận lòng, chỉ gảy đàn năm dây, ngâm bài thơ ‘Nam phong’, không
phải ra khỏi miếu đường mà thiên hạ được yên vậy. Ngày xưa Tề Hoàn Công dùng Quản
Trọng, tự búi tóc ngồi xe mà nước Tề được trị lại còn tụ họp chư hầu. Gần đây
Hán Cao Tổ dùng ba người tài để dựng nghiệp đế, Tây Sở (28) bỏ người hùng tuấn
mới làm mất công lao. Cấp Ảm ở tại triều đình thì Hoài Nam (29) dẹp mưu phản;
Chất Đô (30) giữ biên
giới thì người Hung Nô rút chân. Cho nên người hiền ở đâu thì nơi đó được giữ
gìn khắp vùng vạn dặm, thật là binh khí sắc bén của nhà nước, là gốc của sự suy
vậy. Ngày nay giáo hóa của nước ta chưa trùm miền bắc sông Hán, ở miền Hà Lạc
còn có kẻ xấu tiếm nghịch, đây là lúc nên chọn người anh hùng dùng bậc hiền tài
vậy. Mong Thái tử soi xét ý mọn này thì thiên hạ may lắm”.
Sau đó Trung thư Lữ
Nhất làm Điển hiệu văn thư, bị nhiều người hạch tội, Chất cũng dâng sớ nói: “Thần
được nghe các quan Điển hiệu chỉ xét nét nhỏ nhặt, bới lông tìm vết, trọng việc
gièm pha, lại muốn hãm người ta để ra oai tác phúc; kẻ vô tội vô vạ mà bị xử tội
nặng, cho nên dân chúng kêu trời than đất, ai chẳng run sợ? Như quan coi ngục
thời xưa thì chỉ có người hiền mới được làm chức ấy, cho nên Cao Dao làm quan
coi ngục, Lữ Hầu (31) bày ra phép chuộc tội, Trương, Vu (32) làm Đình úy thì
dân chẳng bị oan uổng, thực là do đó mà thiên hạ yên ổn. Những viên quan nhỏ
ngày nay làm việc khác với người xưa, ở tù ngục lấy việc hối lộ mà xét xử, coi
rẻ mạng người, đổi lỗi cho người trên, khiến cho dân chúng oán giận nhà nước. Nếu
có một người kêu than thì phép vua có chỗ xấu, rất đáng ghét bỏ rồi. Tu đức giảm
phạt là phép hay của người sáng suốt, là điều mà sách truyện xưa khen ngợi vậy.
Từ nay xét ngục, ở kinh đô thì nên hỏi Cố Ung, ở Vũ Xương thì hỏi Lục Tốn, Phan
Tuấn, như thế mới yên lòng dốc ý, các việc được đúng sự tình. Chất noi theo thần
minh, dẫu bị tội cũng há giận”? Lại nói: “Thiên tử coi trời đất như cha mẹ, cho
nên cung thất trăm quan đều phải đặt theo thứ bậc. Nêu ban bố chiếu lệnh thì phải
kính theo lễ tiết, làm theo chức phận thì âm dương điều hòa, thất tinh đúng quỹ.
Còn như ngày nay, quan lại nhiều lỗi, dẫu có đại thần nhưng lại không được tin
dùng, như thế trời đất chẳng biến đổi sao được? Do đó những năm gần đây trời
khô hạn là ứng việc quá cứng bạo vậy. Lại nữa vào ngày mười bốn tháng năm năm
Gia Hòa thứ sáu, ngày mùng một và ngày hai mươi bảy tháng giêng năm Xích Ô thứ
hai, mặt đất đều chấn động; đất thuộc khí âm, là tượng trưng cho bầy tôi, khí
âm mạnh thì sinh động đất, là do bầy tôi chuyên quyền vậy. Trời đất xuất lộ hiện
tượng lạ là để cảnh báo cho nhà vua, không đáng không xét kĩ ý ấy sao”! Lại
nói: “Thừa tướng Cố Ung, Thượng đại tướng quân Lục Tốn, Thái thường Phan Tuấn
lo nghĩ việc công, ý chí thành thật, ngày đêm suy tính, ăn ngủ không yên, chỉ
muốn giúp nước yên dân, bày kế lâu dài, có thể nói là người tim bụng đùi tay,
là tôi thần chủ chốt của xã tắc vậy. Nên đều chọn dùng họ, không cần sai các
quan khác xem xét việc mà họ làm, chỉ cần đòi hỏi công lao của họ, xét xem việc
tốt của họ thôi. Ba vị tôi thần ấy lo nghĩ đến cùng mới thôi, há dám tự ý ra
oai tác phúc mà làm trái cái tính trời của mình sao”? Lại nói: “Treo thưởng để
nêu việc hay, đặt phạt để ngừa kẻ gian, sai dùng người hiền tài, xét rõ ở phép
tắc thì công nào mà chẳng lập, việc nào mà chẳng xong, tiếng nào mà chẳng nghe,
hình nào mà chẳng rõ? Nếu ngày nay các quận huyện ở nơi trăm dặm mà đều có những
người ấy, cùng nhau coi việc, thì dân chúng há chẳng yên vui sao? Trộm nghe các
huyện đều đặt sẵn quan lại, mà quan lại phần nhiều nhũng nhiễu dân chúng, do đó
mà phong tục xấu kém. Là vì kẻ xấu nhân được trao lệnh mà không lo làm việc
công, chỉ ra oai tác phúc, những kẻ đó không có ích cho chính trị, lại gây hại
cho dân. Kẻ ngu này cho rằng nên bãi bỏ hết thảy họ đi”. Quyền cũng hiểu ra,
bèn giết Lữ Nhất. Chất trước sau bày kể các việc còn vướng mắc, cởi bỏ hoạn nạn,
hơn mười lần dâng sớ lên. Quyền dẫu không thu nạp hết nhưng vẫn chọn nghe lời,
do đó mà được nhờ cậy.
Ngô lục chép: Chất
dâng biểu nói: “Người phương bắc hàng phục là bọn Vương Tiềm nói rằng phương bắc
chọn bộ ngũ mưu đánh đến phương đông, lại làm nhiều túi vải đựng đất cát muốn
ngăn sông để hướng đến Kinh Châu. Nếu không phòng giữ sẵn thì nạn đến khó chống,
nên nhanh phòng bị”. Quyền nói: “Bọn ấy suy kém, mưu đánh sao được? Tất chẳng
dám đến. Không bằng như lời ta, nên đem năm nghìn con trâu đến để cho ông làm
chủ”. (33) Sau có bọn Lữ Phạm, Gia Cát Khác bàn về lời mà Chất nói, cho rằng:
“Hễ đọc tờ biểu của Bộ Chất thì không nhịn được cười. Sông ấy từ thời mở mang đến
nay, há lấy túi đựng đất mà lấp vùi được sao”!
Năm Xích Ô thứ chín,
thay Lục Tốn làm Thừa tướng, vẫn khuyên dạy học trò, tay chẳng bỏ sách, mặc áo ở
nhà như bậc nhà Nho, nhưng vợ con trong nhà thì ăn mặc xa xỉ, vì thế mà bị người
đời giễu cợt. Ở tại Tây Lăng hai mươi năm, người nước địch kính uy tín của Chất.
Tính lại rộng rãi được lòng quân, vui giận chẳng lộ ra sắc mặt mà trong ngoài
yên ổn.
Năm thứ mười một thì
chết, con là Hiệp nối tự, lĩnh quân bản bộ của Chất, bái thêm chức Phủ quân tướng
quân. Hiệp chết, con là Ki nối tước Hầu. Em Hiệp là Xiển, thay chức làm Tây
Lăng Đốc, bái thêm chức Chiêu vũ tướng quân, phong Tây đình hầu. Năm Phượng
Hoàng thứ nhất, gọi về làm Thống trướng đốc. Xiển vì tổ tiên nhiều đời trước ở
tại Tây Lăng, mà chợt bị gọi về, tự cho là bị cắt bỏ chức vị, lại sợ bị vu vạ,
do đó giữ thành hàng nhà Tấn. Nhà Tấn sai Ki và em là Tuyền đến Lạc Dương làm
quan, cho Xiển trông coi việc quân ở Tây Lăng, bái Vệ tướng quân, Nghi đồng tam
ti, thêm chức Thị trung, ban Giả tiết, lĩnh chức Giao Châu Mục, phong Nghi Đô
Công; Ki coi xét việc quân ở Giang Lăng, bái Tả tướng quân, thêm chức Tán kị
thường thị, lĩnh chức Lư Lăng Thái thú, đổi phong Giang Lăng Hầu; bái Tuyền làm
Cấp sự trung, Tuyên uy tướng quân, phong Đô hương hầu. Sai Xa kị tướng quân
Dương Hỗ, Kinh Châu Thứ sử Dương Triệu đến cứu giúp Xiển. Tôn Hạo sai Lục Kháng
sang tây, bọn Hỗ rút lui, Kháng hãm thành, chém bọn Xiển, họ Bộ bị di diệt,
riêng Tuyền còn có người nối dõi.
Người quận Dĩnh Xuyên
là Chu Chiêu viết thư khen Bộ Chất và bọn Nghiêm Tuấn rằng: “Nguyên nhân bậc đại
phu kẻ sĩ hiền năng xưa nay bị mất danh diệt thân lật nhà hại nước không phải
chỉ có một, nhưng nói đại khái, tóm lại thì cái hại thường gặp chỉ có bốn mà
thôi: Một là bàn luận vội vàng, hai là tranh đua danh thế, ba là kết nhiều bè đảng,
bốn là muốn làm việc nhanh. Bàn luận vội vàng thì làm thương tổn người khác,
tranh đua danh thế thì làm mất bạn, kết nhiều bè đảng thì lấn người trên, muốn
làm việc nhanh thì bỏ đức, nếu bốn điều ấy không trừ thì chẳng được trọn vẹn vậy.
Bậc quân tử ngày nay nếu không như thế thì cũng như vậy, há chỉ có người xưa
chăng! Bàn về điều ấy thì không bằng cái hay của Cố Dự Chương, Gia Cát sứ quân,
Bộ Thừa tướng, Nghiêm Vệ úy, Trương Phấn uy vậy.
Luận ngữ chép: ‘Phu tử
nghiêm túc nhưng giỏi khuyên bảo người khác’, lại chép: ‘Làm việc tốt cho người,
không làm việc xấu cho người’, nói về Cố Dự Chương vậy. Chép: ‘Đứng xa nhìn thì
nghiêm túc, đến gần mới thấy ôn hòa, nghe lời nói thôi cũng đã hăng hái’, nói về
Gia Cát sứ quân vậy. Chép: ‘Cung kính mà yên lành, uy nghiêm mà không hung tợn’,
nói về cách làm việc của Bộ Thừa tướng vậy. Chép: ‘Học chẳng cầu lộc, ý chẳng
phóng túng’ là cách học của Nghiêm Vệ úy, Trương Phấn uy vậy. Năm vị quân tử ấy,
dẫu đức có khác nhau, nặng nhẹ không giống nhau, đến như làm quan lại tiết kiệm,
không phạm đến bốn điều kia, đều là một nhóm vậy. Ngày xưa Đinh Tư xuất từ nhà
cô lẻ, Ngô Xán xuất từ trẻ chăn trâu, nhưng Cố Dự
Chương lại nêu rõ cái
hay của họ, xếp cùng hàng với Lục, Toàn, (34) cho nên dân chúng không kém tối
mà phong tục lại trọng hậu vậy. Ba vị Gia Cát sứ quân, Bộ Thừa tướng, Nghiêm Vệ
úy, lúc trước đều xuất thân từ kẻ áo vải mà cùng thân thiện với nhau, người bàn
luận đều khen tài năng của họ. Trước đây, người ta cho rằng Nghiêm Vệ úy là
hàng đầu, thứ là Bộ Thừa tướng, sau đó là Gia Cát sứ quân vậy. Sau đó họ đều
theo giúp vua sáng, cứu vớt việc đời, cái tài làm quan có chỗ không giống nhau
nhưng danh tiếng trước sau đều ngược với lúc trước, đấy là người bình thương thời
ấy bàn luận sơ qua vậy. Đến như tình bạn của ba vị, đến chết cũng chẳng vỡ mục,
há chẳng
sánh được với người
xưa sao! Lại nữa khi xưa Lỗ Hoành giang (35) lĩnh vạn quân đóng giữ ở Lục Khẩu,
lập công to ở đời vậy, dẫu là kẻ có tài hay không có tài, ai không muốn vậy? Rồi
Lỗ Hoành giang đã mất, Nghiêm Vệ úy nối thay chức, tự cho là chẳng có tài làm
tướng súy, cố gắng từ chối, rồi chẳng giữ chức. Sau làm đến bậc cửu khanh, chuyển
đến hàng Bát tọa, vinh hiển không đủ để rạng rỡ, bổng lộc không đủ để tự cấp.
Con như hai vị kia, đều làm đến bậc Thượng tướng, rất là giàu có. Nghiêm Vệ úy
đã không mong cầu, hai vị kia lại không tiến cử, đều giữ chí mà mình theo đuổi,
giữ tiếng tốt của mình. Khổng Tử nói: ‘Quân tử kiêu căng mà không tranh đua, họp
nhóm mà không kết đảng’, ấy là nói phong thái của ba vị vậy. Lại nữa danh tiếng
của Trương Phấn uy cũng đứng sau ba vị ấy, là mục thú của một vùng, nhận chức
việc Thượng tướng, chức việc khác với Gia Cát sứ quân, Bộ Thừa tướng, nhưng gắng
giúp việc nước, luận về công lao thì đều có đủ trước sau, cho nên tước vị vinh
hiển hơn người. Lại nữa Trương Phấn uy trông coi việc quân, xét rõ được bộ ngũ
của mình, lòng chẳng muốn làm mất phép tắc, việc chẳng tỏ vẻ kiêu căng, hễ lên
triều đường thì theo lễ nghi mà đi, nói lời thẳng thắn, chẳng gì không trung.
Thúc Tự (36) dẫu là tôn quý, nói về người ấy cho là tất thua, Sái Văn Chí (37)
dẫu thấp hèn nhưng bàn luận lại khen người ấy là hiền. Con gái được gả cho Thái
tử, lúc nhận lễ cưới hỏi, ý chí khảng khái, lại xét đoán mọi người, được thua
còn mất, đều như mình nghĩ, có thể nói là biết giữ phép tắc mà có cơ trí, là kẻ
sĩ ưa việc cũ vậy. Còn như giúp nhà nước, gánh vác việc quân, vào lúc rong ruổi
để lập nên công Bá vương thì năm vị ấy không hơn được người khác. Như đạo hạnh
lại chất phác, không tự ý cẩu thả, vào buổi bấp bênh mà giữ trọn tiết tháo, hơn
hẳn người khác. Cho nên bàn qua việc này để nêu rõ cho bậc quân tử đời sau”.
Chu Chiêu tự Cung Viễn, cùng với bọn Vi Diệu, Tiết Oánh, Hoa Hạch soạn Ngô thư,
sau làm Trung thư lang, bị tội giam ngục, Hạch dâng biểu xin tha nhưng Tôn Hưu
không nghe, bèn vẫn chịu tội.
CHÚ THÍCH
(21) Sái Bá Giai: chỉ Sái Ung tự Bá Giai, người
quận Trần Lưu cuối thời Đông Hán, thông hiểu kinh truyện, thiên văn, âm luật,
giỏi làm thơ phú, từng hạch tội hoạn quan mà bị đày lên miền Sóc Phương. Sau đó
Đổng Trác nắm chính sự, ép về làm quan, Trác chết, bèn bị Đổng Doãn ép chết ở
trong ngục.
(22) Quý Vũ Tử chết
thì Tăng Điểm đến cửa nhà người ấy mà hát; Tử Triết gây nạn thì Tử Sản tự suy
xét luận nghị.: Quý Vũ Tử là đại thần của nước Lỗ, chuyên quyền vun vén riêng
khiến cho nước Lỗ suy yếu, sau khi chết thì kẻ sĩ trong nước là Tăng Điểm vui mừng,
đến trước cửa nhà Quý Vũ Tử mà hát.
(23) Thần tọa: tấm
bài vị khắc họ tên người đã mất để thờ cúng thời xưa.
(24) Trọng Ni: chỉ Khổng
Khâu tự Trọng Ni, tức Khổng Tử, Khổng Phu tử, Phu tử.
(25) Vũ xạ lại: Vũ xạ
lại (武射吏) là quân giải võ nghệ
bắn tên được chọn từ các quận huyện của nước Ngô.
(26) Hai miền: chỉ hai miền Kí Châu và Tây Lăng của
nước Ngô. Kí Châu của nước Ngô ở gần nước Thục, khác Kí Châu của nước Ngụy.
(27) Chín người hiền: theo truyền thuyết, vua Thuấn
có chín viên quan tài năng giúp việc là: Vũ (禹) coi việc trị thủy; Khí (弃) coi việc trồng lúa;
Cao Dao (皋陶)
coi việc hình pháp; Thùy (垂)
coi việc chế tạo công cụ; Quỳ (夔)
coi việc âm nhạc, Bá Di ( 伯
夷 ) coi việc lễ nghi
cúng tế, Bá Ích ( 伯
益 ) coi việc chăn nuôi
chim thú, Long (龙)
coi việc can gián; Tiết (契)
coi việc dạy
dỗ dân chúng.
(28) Tây Sở: chỉ Tây Sở Bá Vương là Hạng Vũ.
(29) Hoài Nam: chỉ Hoài Nam Vương là Lưu An. Thời
Hán Vũ Đế mưu phản, sợ ý chí cứng cỏi của Cấp Ảm, nói rằng: “Ưa nói thẳng, giữ
tiết tháo mà liều chết vì nghĩa, khó mà bị mê hoặc. Đến như khuyên can Thừa tướng
Công Tôn Hoằng thì như vặt tóc rơi rụng”.
(30) Chất Đô: Chất Đô ( 郅 都 ), người huyện Dương
quận Đông, thời Hán Cảnh Đế làm Nhạn Môn Thái thú, người Hung Nô sợ oai mà
không dám vào xâm phạm biên ải.
(31) Lữ Hầu: Lữ Hầu ( 吕
侯 ) là đại thần của
Chu Mục Vương, soạn thành sách hình pháp gọi là Lữ hình (吕刑)
hoặc gọi là Phủ hình (甫刑),
trong đó có luật dùng tiền để chuộc tội chết.
(32) Trương, Vu: chỉ Trương Thích Chi (张释之)
và Vu Định Quốc (于定国
) là người thời Tây Hán, từng làm quan Đình úy coi việc xét xử tù ngục, nổi
danh là công bằng, dân không bị xử oan.
(33) Không bằng như lời ta nên đem năm nghìn con
trâu đến để cho ông làm chủ: câu này Quyền cợt ý của Chất, cho rằng quân Ngụy
bên kia sông đang suy yếu, lại không thể dùng túi đựng bao cát lấp sông được,
chỉ cần sai Chất đem năm nghìn con trâu để chống giữ cũng được!
(34) Lục, Toàn: chỉ Lục Tốn và Toàn Tông.
(35) Lỗ Hoành giang: chỉ Lỗ Túc, tự Tử Kính, từng
được bái làm Hoành giang tướng quân, cho nên gọi là Lỗ Hoành giang.
(36) Thúc Tự: chỉ Trương Hưu tự Thúc Tự, là con thứ
của Trương Chiêu.
(37) Sái Văn Chí: tức Sái Khoản, tự Văn Đức, người
quận Bành Thành, xem Bùi Tùng Chi chú Trương Chiêu truyện có dẫn Ngô lục chép về
người này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét