Thứ Tư, 23 tháng 8, 2023

4. SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN - Tần Thủy Hoàng Bản Kỷ

 

Tần Thủy Hoàng
秦始皇


4. SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN

(Tư Mã Thiên)

Tần Thủy Hoàng Bản Kỷ


1. Tần Thủy Hoàng là con của Trang Tương Vương nước Tần (1). Trang Tương Vương làm con tin của Tần ở nước Triệu, thấy người thiếp của Lữ Bất Vi, thích, nên lấy, sinh Thủy Hoàng, vào tháng giêng năm thứ 48 đời Tần Chiêu Vương, ở Hàm Đan, đặt tên là Chính, họ Triệu. Khi lên 13 tuổi, Trang Tương Vương chết, Chính thay, được lập làm Tần Vương (-247 trước công nguyên ).

Lúc bấy giờ Tần đã thôn tính các đất Ba, Thục, Hán Trung, Việt, Uyển, lại có đất Sinh, ở đấy đặt Nam Quận. Miền bắc lấy Thượng Quận trở về phía đông, gồm có các quận Hà Đông, Thái Nguyên, Thượng Đảng, phía đông đến Huỳnh Dương, diệt hai nhà Chu, đặt quận Tam Xuyên. Lữ Bất Vi làm thừa tướng được cấp mười vạn hộ làm đất phong, hiệu là Văn Tín Hầu, mời các tân khách du sĩ để lo việc lấy thiên hạ, Lý Tư là xá nhân(2) của Bất Vi. Bọn Mông Ngao, Vương Ỷ, Biểu Công làm tướng... (3).

...............................................

1. Đó là về danh nghĩa còn trong thực tế thì Thủy Hoàng là con của Lữ Bất Vi. Xem Lữ Bất Vi liệt truyện.

2. Xá nhân: những người khách theo hầu những vị quan to để được cất nhắc.

Bỏ một đoạn nói về việc Tần đánh lấy thiên hạ trong hai mươi lăm năm Tần Thủy Hoàng làm vua.

Đoạn1- lai lịch của Tần Thủy Hoàng và tình hình của nước Tần khi Thủy Hoàng làm vua.

.............................................

2. Năm thứ 26 (-221 trước công nguyên) Tề Vương là Kiến cùng thừa tướng là Hậu Thắng đem quân giữ biên giới phía tây, đoạn tuyệt với Tần. Tần sai tướng quân Vương Bôn đi qua phía nam nước Yên đánh Tề bắt được vua Tề là Kiến. Tần lần đầu tiên thôn tính được thiên hạ, ra lệnh cho thừa tướng và ngự sử như sau:

“Trước đây vua Hàn nộp đất, hiến dâng ấn tín, xin làm bầy tôi ở hàng rào giậu? Được ít lâu, vua Hàn bội ước, hợp cùng với Triệu và Ngụy phản lại nước Tần. Cho nên ta đem quân tiêu diệt, cầm tù vua Hàn. Quả nhân cho đó là việc tốt, hy vọng có thể dẹp tắt được binh nhung. Vua Triệu sai thừa tướng là Lý Mục đến giao ước ăn thề, cho nên ta cho con của vua Triệu đang làm con tin ở Tần về. Được ít lâu, vua Triệu bỏ lời thề, phản lại ta ở Thái Nguyên, cho nên ta đem quân tiêu diệt, bắt vua Triệu. Công tử nước Triệu là Gia lại tự lập làm Đại vương cho nên ta đem quân đánh và tiêu diệt. Vua Ngụy lúc đầu giao ước phục tùng sát nhập vào Tần, được ít lâu, lại bàn mưu với các nước Hàn, Triệu đánh úp nước Tần, nhưng bị quân quan của Tần giết chết và đánh tan. Vua nước Kinh hiến đất đai từ Thanh Dương về phía tây, được ít lâu lại phản lời ước, đánh Nam Quận của ta, cho nên ta đem binh tiêu diệt, bắt được vua Kinh, sau đó binh định đất Kinh. Vua nước Yên hôn ám làm loạn, thái tử nước Yên là Đan lại ngầm sai Kinh Kha ám sát ta(1), tướng sĩ của ta đánh tiêu diệt nước Yên, Vua Tề dùng mưu kế của Hậu Thắng, cắt đứt liên hệ với Tần và muốn làm loạn. Ta sai quân đánh cầm tù vua Tề, bình định đất Tề(2).

...........................

1. Xem Thích khách liệt truyện đoạn nói về Kinh Kha.

2. Tóm tắt việc thống nhất thiên hạ, tiêu diệt các nước.

..........................

Quả nhân, một người nhỏ bé hưng bính trừ khử bọn bạo nghịch làm loạn. Nhờ uy linh của tôn miếu, sáu nước đều chịu tội thiên hạ bình định. Nay nếu không thay đổi danh hiệu thì không sao xứng với cái công lao đã làm được và truyền cho đời sau. Các ngươi hãy bàn nên đặt hiệu đế như thế nào.

Thừa tướng là Vương Quán, ngự sử đại phu Phùng Kiếp, đình úy Lý Tư đều tâu:

-Ngũ Đế ngày xưa đất chỉ vuông ngàn dặm, ngoài ra là đất đai của chư hầu và của man di, họ vào chầu hay không thiên tử cũng không cai quản được. Nay bệ hạ giấy nghĩa binh, giết bọn tàn ác và nghịch tặc, bình định được thiên hạ, bốn biển thành quận và huyện, pháp luật và mệnh lệnh đều thống nhất ở một nơi, từ thượng cổ đến nay chưa hề có, Ngũ đế đều không bằng. Bọn thần sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với các bậc sĩ thấy rằng: Ngày xưa có Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Thái Hoàng, nhưng Thái Hoàng là cao quý nhất. Bọn thần liều chết xin dâng tôn hiệu của nhà vua là Thái Hoàng, mệnh ban ra gọi là “chế”, lệnh ban ra gọi là “chiếu”, thiên tử tự xưng gọi là “trẫm”(1).

Nhà vua nói:

- Ta bỏ chữ “thái”, lấy chữ “hoàng”, thêm chữ “đế”, của những vị đế thời thượng cổ hiệu gọi là Hoàng Đế còn những điều khác thì như lời các khanh tâu.

..........................

1. Các đời trước không dùng danh từ “chế” và “chiếu”. “chế” quan trọng hơn “chiếu”, chỉ nhà vua mới được dùng chữ ấy, còn Thái Hậu thì có khi dùng chữ “chiếu” khi thay thế nhà vua trị dân, nếu gọi là “chế” tức là có ý muốn làm vua. “Trẫm” trước là một đại từ chỉ ngôi thứ nhất dành cho mọi người. Sách đạo giáo dùng chữ trẫm để chỉ một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng không ai trông thấy. Bọn Lý Tư đề nghị dùng chữ này là vì thế.

...........................

Một đạo “chế” ban ra chấp nhận điều đó. Truy tôn Trang Tương Vương là Thái Thượng Hoàng.

Một tờ “chế” nói:

-“Trẫm nghe nói thời Thái Cổ có hiệu nhưng không có hiệu bụt (1). Thời Trung Cổ có hiệu và sau khi chết người ta căn cứ vào việc làm của nhà vua mà đặt hiệu bụt. Làm như thế tức là con bàn bạc về cha, tôi bàn luận về vua, thật là vô nghĩa. Trẫm không chấp nhận điều ấy. Từ nay trở đi, bỏ phép đặt hiệu bụt. Trẫm là Thủy Hoàng Đế, các đời sau cứ theo số mà tính: Nhị Thế, Tam Thế đến Vạn Thế truyền mãi mãi”.

Thủy Hoàng xét việc năm đức lần lượt thay đổi nhau(2) nên cho nhà Chu được “hỏa đức” nhà Tần thay đức nhà Chu thì phải theo cái đức mà “hỏa” không thắng được. Từ này là “thủy đức” bắt đầu: đổi đầu năm, việc triều cống, chúc mừng đều bắt đầu từ mồng một tháng 10. Áo, quần, cờ tiết, cờ mao (3)

................................

1. Đời Hạ, đời Thương không có “thụy” tức là “hiệu bụt”. Đến đời Chu mới đặt lệ khi vua chết các quan căn cứ vào hành trạng của vua mà đặt hiệu cho vua, cái đó gọi là hiệu bụt. Do đó vị vua nổi về văn, giáo hóa thì gọi là Văn Vương, có vũ công thì gọi là Vũ Vương, ngu tốt, độc ác, thì gọi là U Vương, Lệ Vương.

2. Đời Tần trở đi thịnh hành thuyết ngũ hành. Thuyết này có vũ trụ có năm yếu tố tạo nên đối lập nhau, thay đổi nhau là: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Nhà Chu là ứng với yếu tố hỏa, nhà Tần thắng Chu thì tất phải ứng với thủy, vì thủy thắng hỏa. Một khi đã như thế thì màu phải là màu đen (đối lập với hỏa là đỏ, kim màu trắng ), tháng phải là tháng 10, số phải là số 6 nguyên lý trị nước phải là pháp luật v. v...

Quốc kỳ Nhà Tần.


3. Cờ mao làm bằng lông thú, cờ tiết bằng lông chim.

...................................

đen, lấy số 6 làm đơn vị, các phù(1) và các mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa, đổi tên sông Hoàng Hà là Đức Thủy vì cho rằng “thủy đức” bắt đầu. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức.

Do đó, nhà Tần chú ý gay gắt về pháp luật, trong một thời gian dài không tha tội cho ai.

Bọn thừa tướng Vương Quán nói:

- Chư hầu vừa bị tiêu diệt. Nay các đất Yên, Tề, Kinh đều ở xa nếu không đặt vua thì không làm sao kềm chế được họ, xin lập các con trong hoàng tộc làm vua. Xin hoàng thượng lập theo ý của mình.

Thủy Hoàng đưa lời tâu ấy xuống cho các quan bàn bạc. Các quan đều cho là tiện, nhưng đình úy (2) Lý Tư nói:

- Vua Văn Vương, Vũ Vương nhà Chu phong con em cùng họ làm vua rất nhiều, nhưng về sau dòng họ càng ngày càng xa, họ đánh lẫn nhau, xem nhau như thù. Chư hầu càng giết nhau, đánh nhau, thiên tử nhà Chu không làm sao ngăn cấm được. Nay bốn bể đã nhờ thần linh của bệ hạ mà được nhất thống đều làm quận, huyện. Các con và các công thần đã được thu tô và thuế của nhà nước, và được trọng thưởng. Như thế là đủ lắm rồi. Làm thế thì dễ cai trị, thiên hạ không có ý gì khác. Đó là cái thuật trị an, vậy đặt chư hầu không tiện.

...........................

1. Phù là cái thẻ để làm tin, vua giữ một nửa và người nhận mệnh lệnh của vua (thường để đi đánh xa) để thực hiện việc gìn giữ một nửa. Khi nào nhà vua muốn sai một người thay thế mình thì giao cho người này cái nửa của mình. Nếu hai cái “phù” khớp lại thì đúng là người đến sau thay thế người đến trước để điều khiển quân đội.

2. Chức quan nhất về tư pháp.

..........................

Thủy Hoàng nói:

-Thiên hạ đều khổ vì việc chinh chiến liên miên, đó là do có hầu có vương mà ra. Nay nhờ tôn miếu, thiên hạ vừa mới được bình định mà lại lập các nước lên thì cũng như là tự gây ra binh đao mà muốn được thái bình nghỉ ngơi, chẳng phải là khó lắm sao? Điều của đình úy nói là đúng(1).

Bèn chia thiên hạ làm 36 quận, đặt các quan thú, úy, giám đổi gọi “dân” là “đầu đen”(2). Mở một bữa tiệc lớn, thu tất cả binh khí trong thiên hạ tập hợp ở Hàm Dương, đúc làm chuông, giá chuông và mười hai người bằng kim khí mỗi người nặng 1000 thạch, đặt ở trong cùng. Thống nhất pháp luật, các cân, phép đo lường, các thạch, trượng, thước, trục xe đều dài như nhau(3), chữ viết cùng lối như nhau.

Đất đai chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc(4), phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới và men theo Âm Sơn đến tận Liêu Đông. Sai dời các nhà hào khí trong thiên hạ đến Hàm Dương tất cả mười hai vạn nhà. Các miếu cũng như điện

........................

1. Điều này rất quan trọng. Từ Tần Thủy Hoàng trở đi, trung quốc về mặt chính trị là thống nhất từ trung ương.

2. Trước gọi là “đàn” sau gọi là “đầu đen”.

3. Trước kia xe trận trục dài ngắn khác nhau. Mỗi nước đắp đường vừa đủ cho xe của mình đi, xe nước khác trục dài không thể đi được.

4. Tức là Nhật Nam (miền Quản Nam). Ý nói miền phía Nam mặt trời cố nhiên phải mở cửa về phía bắc mới có mặt trời.

........................

Chương Đài vườn Thượng Lâm đều ở phía Nam sông Vị. Mỗi khi lấy được chư hầu, Tần thường vẽ lại các cung nhất của nước đó rồi dựng lên ở phía bắc Hàm Dương, phía nam các cung điện này nhìn ra sông Vị. Từ cửa Ung Môn đến cửa đông sông Kinh, sông Vị, các điện, các cung thất, các đường phức đạo và các đường gác(1) liền nhau. Bắt được bao nhiêu người đẹp và chuông trống của chư hầu đều đưa vào đấy.

Năm thứ 27, Thủy Hoàng đi tuần Lũng Tây, Bắc Địa, ra khỏi núi Kê Đầu Sơn đi qua Hồi Trung. Sai xây Tín Cung ở phía Nam sông Vị, sau lại đổi tên Tín Cung là Cực Miếu để bắt chước sao Thiên Cực. Từ Cực Miếu có con đường thông lên núi Ly Sơn, sai xây tiền điện Cam Tuyền đắp đường ống(2) chạy mãi đến Hàm Dương. Năm đó thưởng tước một cấp, làm những con đường nhà vua đi(3).

Năm thứ 28, Thủy Hoàng đi về phía đông đến các quận và các huyện, lên núi Trâu Dịch,, dựng đá cùng các nho sinh nước Lỗ bàn việc khắc vào đá để ca tụng công đức nhà Tần và bàn việc phong thiện(4).

.............................

1. Phúc đạo là đường đi như cầu, bắc từ điện đầu sang điện khác.

2. Con đường hai bên là tường để vua đi không ai thấy. Nó cũng là một kiến trúc phòng ngự thường dùng trong lúc vận chuyển lương thực. Vì có tường nên quân địch khó lòng cướp chặn được đường lương thực.

3. Đường rộng 51 bộ chạy từ thủ đô đến tận biên giới phía đông và phía nam, hai bên trồng cây.

4. Phong thiện là lễ tế trời. Nhà vua sai đắp đất lên một hòn núi cao, thường là núi Thái Sơn để tế. Việc phong thiện thật chỉ bắt đầu từ đời Hán Vũ Đế và tác giả có dành một chương nói tỉ mỉ về việc này (phong thiện thư).

Đoạn 2: Những chủ trương chính trị lớn và công cuộc kiến trúc của Tần Thủy Hoàng. Bỏ một đoạn về những bài thơ ca ngợi công đức của nhà Tần.

.............................

3. Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ. Ở phía tây bắc, đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn,. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện. Cấm không được thờ (1). Sao sáng (2) xuất hiện ở phương tây.

Năm thứ 31, đem đày những quan coi ngục không thanh liêm đi xây Trường Thành và đi thú ở đất Nam Việt. Thủy Hoàng đặt tiệc rượu ở cung Hàm Dương, bảy mươi vị bác sĩ đến chúc thọ. Quan bộc dịch Chu Thanh thần tiến lên ca ngợi:

- Ngày xưa đất Tần chẳng qua nghìn dặm, nay nhờ bệ hạ thần linh sáng suốt nên bình định được bốn biển, đuổi được man di, mặt trời mặt trăng chiếu đến đâu thì nơi ấy theo phục, đuổi các nước chư hầu thành quận, huyện, mọi người thấy yên vui, không phải lo về nạn chiến tranh truyền đến vạn đời, từ thượng cổ đến nay, không ai uy đức bằng bệ hạ.

Thủy Hoàng bằng lòng. Thuần Vu Việt, người Tề, làm bác sĩ đứng lên nói:

...............................

1. Câu này có lẽ thiếu một chữ nên văn không rõ.

2. Đây là sao chổi, “điềm” báo có tai họa giặc giả. Trong Sử Ký cũng như mọi quyển sử của Trung Quốc thường có những câu đột ngột như vậy.

...............................

- Tôi nghe nhà Ân và nhà Chu làm vua hơn nghìn năm, phong các con em và công thần làm chi nhánh để giúp đỡ cho mình. Nay bệ hạ có bốn biển nhưng con em vẫn là kẻ thất phu (1) nếu bổng chốc có xảy ra việc như Điền Thường hay lục khanh (2), thì không ai giúp đỡ, làm sao có thể cứu lẫn nhau được. Trong công việc, không bắt chước đời xưa mà có thể lâu dài thì đó là điều chưa hề nghe nói (3). Nay bọn thanh thần lại siểm nịnh bệ hạ để làm cho điều sai lầm của bệ hạ thêm nặng. Như thế không phải là kẻ trung thần.

Thủy Hoàng đưa lời can của ông ta xuống các quan bàn. Thừa tướng Lý Tư nói:

- Ngũ Đế không lập nhau, Tam Đại (4) không bắt chước nhau, đời nào trị dân theo cách của đời đó, không phải vì họ phản lại nhau, chính vì thời thế thay đổi cho nên như vậy. Nay bệ hạ lần đầu tiên làm nên nghiệp lớn, dựng lên cái công vạn đời, đó không phải là điều bọn nhà Nho ngu ngốc biết được (5). Vả chăng, điều Thuận Vu Việt nói là những việc của thời Tam Đại, làm sao có thể đủ cho ta bắt chước? Trước đây, các

............................

1. Ám chỉ vua Tần theo Lý Tư không chia đất cho anh em mà thống nhất tất cả theo lối cai trị theo quận, huyện do các quan lại từ trung ương bổ nhiệm.

2. Điền Thường giết vua Tề. Lục Khanh chỉ ba họ lớn ở Tấn là Hàn, Triệu, Ngụy đã cướp nước Tấn, chia làm ba nước.

3. Câu này chứng tỏ Thuần Vu Việt đã theo đạo nho.

4. Ngũ Đế: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Cốc, Nghiêu, Thuấn. Tam Đại: Hạ, Thương, Chu.

5. Lý Tư theo lập trường của phái pháp gia nên rất ghét nhà Nho.

...........................

nước chư hầu tranh nhau, hậu đãi đón mời những người du thuyết. Nhưng bây giờ thiên hạ đã bình định, luật pháp, mệnh lệnh, đều từ một nơi ban ra, trăm họ làm ăn ra sức lo về nghề nông, nghề công, kẻ sĩ thì học tập pháp luật, mệnh lệnh những điều ngăn cấm. Nay các Nho sinh không theo thời nay mà học thời xưa để chê bai thời nay làm cho bọn “đầu đen” rối loạn, thần tư này là thừa tướng xin liều chết nói rằng: Ngày xưa thiên hạ phân tán rối loạn không ai thống nhất được? Vì vậy cho nên các chư hầu cùng trị vì một lúc, khi nói thì mọi người đều nói việc xưa làm hại việc nay, trau chuốt những lời nói suông làm loạn việc thực, mọi người đều lấy cái học riêng của mình để chê bai những điều nhà vua làm (1). Nhưng nay Hoàng đế đã thâu tóm cả thiên hạ, phân biệt trắng đen mà định ra điều duy nhất được tôn trọng. Những kẻ học Nho theo cái học riêng của mình lại cùng nhau chê cười pháp luật rồi đem dạy cho người ta. Khi nghe lệnh ban xuống thì họ đều lấy cái học riêng của mình để bàn tán. Khi vào triều, thì trong bụng chê bai. Ra đường, thì bàn bạc chê vua của mình để lấy danh, làm cho khác người để tỏ là cao, bày cho kẻ ở dưới phỉ bàng. Nếu như thế mà không cấm thì ở trên uy thế của nhà vua sẽ bị giảm sút, ở dưới các bè đảng sẽ nổi lên. Nên cấm là hơn. Thần xin đốt tất cả các sách sử, trừ những sách sử của nhà Tần(2). Trừ những người làm chức

..............................

1. Một điều buồn cười là cũng chính Lý Tư trước đây lại dâng một bức thư cho vua Tần can nhà vua đừng đuổi những người du thuyết trong ấy có Tư. Xem Lý Tư liệt truyện (quyển 2).

2. Chú ý những ngoại lệ.

.............................

bác sĩ, ai cất dấu Kinh Thư, Kinh Thi, sách vở của trăm nhà đều đem đến quan thú, quan úy mà đốt đi, hai người dám bàn nhau về việc Kinh Thư, Kinh Thi thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ. Quan lại biết mà không tố cáo, thì cũng bị tội. Lệnh ban ra trong ba mươi ngày không đối sách thì khắc vào mặt cho đi thú để xây và canh giữ trường thành. Những sách không bỏ là sách thuốc, sách bói; sách trồng cây. Ai muốn học pháp luật thì thờ quan lại làm thầy.

Chế của nhà vua nói: “Được”.

Năm thứ 35, sai làm con đường thông từ huyện Cửu nguyên đến đất Vân Dương, đục núi, lấp các khe núi, nhờ vậy đường đi suốt và thẳng. Thủy Hoàng cho rằng ở Hàm Dương người thì đông mà cung đình các vua trước thì nhỏ, nói:

- Ta nghe vua Văn Vương nhà Chu đóng đô ở đất Phong và Vũ Vương đóng đô ở Cảo, miền giữa Phong và Cảo là đô của đế vương.

Bèn sai xây cung đế tiếp các triều thần ở phía nam sông Vị. Trong vườn Thượng Lâm trước tiên sai xây cái điện đàng trước của cung A Phòng dài 500 bộ từ đông sang tây, rộng 50 trượng (1) từ nam đến bắc, ở trên có thể ngồi một vạn người, ở dưới có thể cắm cờ cao 5 trượng. Xung quanh sai làm đường gác từ dưới điện chạy thẳng cho đến đỉnh núi Nam Sơn. Sai dựng một cái cửa ở núi Nam Sơn, làm đường phức đạo từ cung A Phòng vượt qua sông Vị đi mãi đến Hàm Dương để bắt chước con đường của sao Thiên Cực, sao

..........................

1. Một bộ 5 thước. Một trượng 10 thước.

..........................

Sao này qua sông Ngân Hà đến tận sao Dinh Thất. Khi cung A Phòng chưa xây xong, nhà vua muốn tìm một cái tên đẹp mà gọi. Vì cung này gần cung thất nhà vua cho nên thiên hạ gọi nó là cung A Phòng (1). Đưa những người bị tội thiến ở Ấn Cung hơn 70 vạn người(2) chia nhau xây cung A Phòng hoặc đấp núi Ly Sơn. Lấy cái quách bằng đá ở núi Bắc Sơn, lấy gỗ từ đất Thục, đất Kinh chở về đến nơi ấy.

Ở Quan Trung, số cung đến 300 cái, ở ngoài Quan Trung hơn 400 cái. Thủy Hoàng bèn sai dựng đá ở bờ biển Đông Hải thuộc đất Cù để làm cửa phía đông của Tần, nhân đấy dời 3 vạn nhà đến Ly Ấp, 5 vạn nhà đến Vân Dương, những này đều được tha việc công dịch mười năm.

Lư Sinh (3) nói với Tần Thủy Hoàng:

- Bọn thần đi tìm cây “chi” là thứ thuốc lạ nhưng thường không gặp “tiên” (4) xem ra có vật chi cản trở. Trong pháp thuật (5) có phép vi hành để tránh ác quỷ, tránh được ác quỷ thì “chân nhân” mới đến. Nếu kẻ bầy tôi biết được nơi nhà vua ở thì có hại đến thần. Bậc “chân nhân” đi vào nước không ướt, đi vào lửa không cháy, bay lên mây, cùng trường thọ với trời đất. Nay nhà vua cai trị thiên hạ vẫn chưa nghĩ ngơi

........................

1. A có nghĩa là gần.

2. Con số kinh khủng!

3. Lư Sinh được Tần Thủy Hoàng phái đi tìm thuốc tiên trước đấy 3 năm.

4. Khái niệm con người bất tử chỉ xuất hiện từ thời chiến quốc. Sách Trang Tử gọi là “chân nhân” về sau gọi là tiên.

5. Nguyên văn “trong những nguyên tắc của những người phương sĩ” phương sĩ là hạng người tương tự như phù thủy, dùng phù phép, ma thuật để mê hoặc người ta.

........................

được chút gì. Xin nhà vua ở cung nào đừng cho ai biết, thì sau đó mới có thể lấy thuốc bất tử.

Thủy Hoàng nói:

-Ta rất thích bậc “chân nhân”.

Và tự coi là “chân nhân” chứ không gọi là “Trẫm”.

Thủy Hoàng bèn ra lệnh: “Trong vòng hai trăm dặm xung quanh Hàm Dương, 270 cung điện ở đấy có đường phức đạo và đường ống liền nhau; đem màn trướng, trống chiêng cùng gái đẹp đưa vào các cung không cho xê dịch. Vua đến đâu nếu có kẻ nào nói nơi nhà vua ở thì bị tội chết”.

Thủy Hoàng đến cung Lương Sơn đứng trên núi thấy xe, quân kỵ của thừa tướng rất đông, không bằng lòng. Có kẻ nói với thừa tướng. Sau đó thừa tướng bớt xe và quân kỵ đi.

Thủy Hoàng nổi giận nói:

-Thế nào cũng có người tiết lộ điều ta đã nói.

Khi tra xét thì không ai thú. Nhà vua bèn sai bắt tất cả những người ngồi cạnh lúc nhà vua nói và giết đi (1). Từ đó về sau, không ai biết nhà vua đi đâu. Khi nghe công việc thì quần thần chỉ nhận được những điều đã quyết định, mọi việc đều giải quyết ở trong cung Hàm Dương.

Hầu Sinh và Lư Sinh bàn nhau:

-Thủy Hoàng tính khí bướng bỉnh, gàn dỡ, chỉ nghe theo mình. Xuất thân là chư hầu, thâu tóm cả thiên hạ, ý chí tự đắc, muốn gì được nấy, tự cho rằng từ xưa đến nay, không ai bằng mình, chuyên dùng bọn pháp quan. Bọn pháp quan được yêu quý, bác sĩ tuy có 70

...................

1. Đời Tần Thủy Hoàng còn có những hành động võ đoán hơn các vua nô lệ thời La Mã.

...................

người nhưng chỉ cho đủ số chứ không được dùng. Thừa tướng và các quan đại thần đều nhận được những điều đã quyết định xong còn việc làm là ở nhà vua. Nhà vua thích việc hình phạt chém giết để ra uy. Thiên hạ sợ tội muốn giữ bổng lộc không ai dám hết lòng trung. Nhà vua không nghe nói đến sai lầm của mình nên ngày càng kiêu ngạo. Ở dưới thì sợ nép một bề, nói dối để được dung thân. Theo phép nhà Tần không được làm hai nghề, làm sai là chết ngay. Những kẻ xem sao, khí mây(1) có đến 300 người đều là những người giỏi nhưng đều sợ hãi, trốn tránh a dua, không nói những sai lầm của nhà vua. Công việc trong thiên hạ không kể lớn nhỏ đều do nhà vua quyết đoán. Đến nổi nhà vua phải lấy thạch (2) mà cân giấy tờ, một ngày một đêm không làm đủ một thạch thì không được nghĩ ngơi. Con người tham quyền thế như vậy không thể nào tìm thuốc thiên cho ông ta được.

Hai người bèn bỏ trốn,. Thủy Hoàng nghe nói họ bỏ trốn thì nổi giận, nói:

- Trước đây ta thu các sách trong thiên hạ, sách nào không dùng được thì bỏ đi, sai triệu tập tất cả những người có văn học và những phương sĩ, thuật sĩ rất đông muốn làm cho thiên hạ thái bình; Ta triệu tập bọn thuật sĩ là muốn họ tìm thuốc lạ, nay nghe nói bọn Hàn chúng bỏ đi không báo với ta, bọn Từ Phúc làm tốn kém

.......................

1. Để đoán điềm lành, điềm dữ.

2. Một thạch nặng 120 cân.

3. Từ Phúc nói với vua ở ngoài biển có ba hòn đảo là Bồng Lai, Phương Trượng và Dinh Châu. Tiên ở đấy. Vua cho Phúc đem mấy nghìn người nam nữ trẻ tuổi đi đón tiên về. Từ Phúc cùng họ đi không về nữa.

Truyền thuyết Nhật Bản nói Từ Phúc đến Nhật rồi ở hẳn đấy.

.......................

hàng ức vạn, nhưng cuối cùng vẫn không được thuốc, ngày ngày chỉ nghe chúng nói nhau về việc tham lợi riêng của chúng. Bọn Lương Sinh được ta tôn quý, thưởng cho rất nhiều nhưng lại phỉ báng ta để làm nặng điều sai lầm của ta, bọn nhà Nho ở Hàm Dương được ta sai người hỏi thì có kẻ đặt ra những lời nói nhảm để làm loạn bọn “đầu đen”.

Bèn sai ngự sử xét tất cả các nhà Nho. Các nhà Nho tố giác lẫn nhau, có hơn 460 người phạm điều đã cấm. Thủy Hoàng sai chôn sống tất cả ở Hàm Dương, báo cho thiên hạ biết để làm răn. Sau đó lại sai đày biên giới nhiều người bị tội để đi thú.

Con cả của Thủy Hoàng là Phù Tô can:

- Thiên hạ mới được bình định. Những kẻ “đầu đen” ở phương xa vẫn chưa theo ta. Các nho sinh đều học theo Khổng Tử nay bệ hạ dùng theo pháp luật nặng để trói buộc họ thì thần sợ thiên hạ không yên, xin bệ hạ nghĩ đến điều đó.

Thủy Hoàng nổi giận sai Phù Tô đi lên miền bắc để giám sát Mông Điềm ở Thượng Quận.

Năm thứ 36, sao Huynh Hoặc ở vào khu vực của sao Tâm, có ngôi sao rơi xuống Đông Quận. Khi rơi xuống đất thì thành đá. Có bọn “đầu đen” khắc vào đá: “Thủy Hoàng chết thì đất bị chia”. Thủy Hoàng nghe tin ấy, sai ngự sử tra hỏi, nhưng không ai thú, bèn bắt tất cả những người ở gần đấy giết đi, và đốt chảy hòn đá. Thủy Hoàng không vui, sai các bác sĩ làm thơ ca ngợi “tiên” và “chân nhân” cùng những nơi trong thiên hạ mà mình đã đi chơi. Sai nhạc công ca và đàn hát những bài ấy. Mùa thu, sứ giả đang đêm từ Quan Đông đi qua Hoa Âm trên đường bình thư. Có người cầm ngọc bích chặn đường sứ giả mà nói:

- Ông làm ơn đưa viên ngọc cho Hạo Trì.

Nhân đấy nói rằng: Năm nay thì Tổ Long chết. Sứ giả hỏi:

- Tại sao?

Người ấy biến mất để lại viên ngọc bích ở đấy. Sứ giả cầm ngọc bích kể lại đầu đuôi cho nhà vua nghe. Thủy Hoàng nín lặng hồi lâu nói:

-Quỷ núi chẳng qua chỉ biết việc xảy ra trong một năm mà thôi.

Khi vào cung nói:

-Tổ Long(1) đó là tổ tiên của người.

Vua sai ngự phủ xem ngọc bích thì đó là viên ngọc nhà vua để chìm khi vượt qua Trường Giang năm thứ 28. Thủy Hoàng sai bói trong quẻ nói: “Đi chơi thì tốt”. Thủy Hoàng bèn sai dời 3 vạn nhà đến Du Trung ở Bắc Hà, thưởng cho các quan thêm một cấp (2).

4. Tháng mười năm thứ 37(211 trước công nguyên) ngày quý sửu, Thủy Hoàng đi chơi, tả thừa tướng Lý Tư đi theo, hữu thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng. Tháng 11, đi đến Vân Mộng, tế vua Thuấn ở núi Cửu Nghi, đi thuyền qua sông Trường Giang xem Tích Kha vược qua bãi ngoài biển, qua Đan Dương đến Tiền Đường, đi đến Chiết Giang gặp lúc sóng to nên đi về phía tây một trăm hai mươi dặm, qua sông ở nơi dòng sông hẹp, lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần(3).

............................

1. Tổ là đầu cũng như Thủy, Long là chỉ nhà vua. Tổ Long cũng như Thủy Hoàng.

2. Đoạn 3 – Cách Thủy Hoàng đối xử với đạo Nho, bách gia và bọn phương sĩ.

3. Bỏ một đoạn gồm những bài thơ ca ngợi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét