3.
SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN
(Tư Mã Thiên)
Thư
Trả Lời Nhâm An
Tôi, hạng trâu ngựa Tư Mã Thiên, Thái Tử Công, kính thưa Thiếu Khanh túc hạ(1).
Trước đây ông có hạ cố gửi thư dạy phải cẩn thận về việc tiếp người, cốt phải tôn người hiền, tiến cử kẻ sĩ, ý ông ân cần tha thiết, hình như trách tôi không nghe lời dạy mà lại theo lời bọn thế tục tầm thường. Tôi đâu dám thế.
Tôi tuy hèn nhát, nhưng cũng đã từng trộm nghe lời chỉ giáo của
bậc trưởng giả. Vì một nỗi thân hình tàn phế, địa vị hẫm hiu, hễ động là bị chê
trách, muốn được ích thì trở lại có hại, cho nên uất ức một mình không biết nói
cùng ai.
Tục ngữ có câu: “Làm cho ai biết, nói cho ai nghe?” Chung Tử Kỳ
chết rồi, Bá Nha suốt đời không gảy đàn nữa! Tại sao vậy? Vì kẻ sĩ ra sức với
người tri kỹ, con gái làm dáng với người yêu mình, theo tôi thì cái thân này đã
hỏng rồi, tuy tài có bằng châu của Tùy Hầu, ngọc của Biện Hòa, hạnh có cao bằng
Bá Di, Hứa Do, rút cục cũng không có cách gì mà lòe với ai, chẳng qua chỉ để
mua cười và tự làm ô nhục mình mà thôi!
Thơ của ông đáng lý phải đáp ngay, nhưng giữa lúc theo hoàng
thượng sang Đông, lại vì việc riêng cấp bách, ít có dịp gặp nhau. Vội vàng
không có lúc nào rảnh có thể tỏ hết nổi lòng. Nay Thiếu Khanh gặp tội không
biết đến thế nào. Ngày qua tháng lại, cuối đông sắp tới... (2) Tôi lại sắp phải
theo nhà vua đi Ung Châu, sợ có sự chẳng may xảy ra thì tôi rút cục đành chịu
không sao bày tỏ nỗi buồn bực để cho ông rõ, mà hồn phách kẻ vĩnh biệt (3) sẽ
riêng ân hận không cùng. Tôi xin trình bày qua tấc dạ quê mùa. Để lâu không trả
lời, xin đừng bắt lỗi.
Tôi nghe: sửa mình là dấu hiệu của trí: yêu thương giúp đỡ người
là đầu mối của nhân: định nên lấy cái gì, cho cái gì là biểu hiện của nghĩa:
gặp cảnh sĩ nhục là điều quyết định của dũng: lập danh là cái cao nhất của đức
hạnh. Kẻ sĩ có năm điều ấy thì mới có thể sống ở đời mà đứng ở vào hàng quân
tử; Cho nên tai họa tệ nhất là thiếu tiền chuộc tội, đau không có gì thảm hơn
là đau lòng: nết xấu nhất là nhục đến cha mẹ, nhục nặng nhất là bị cung hình(4)
! Con người bị hình phạt sống thừa không còn đáng đếm xỉa nữa, điều đó không
phải chỉ ở đời này mà đã có từ lâu. Ngày xưa Vệ Linh Công cùng đi với Ung Cừ,
Khổng Tử bỏ sang nước Trần, Thương Ưởng nhờ Cảnh Giám được yết kiến Tần Vương,
Triệu Lương thấy lạnh cả ruột (5); Đồng Tử ngồi bên xe; Viên Ti biến sắc mặt
(6). Từ xưa đã từng lấy điều đó làm xấu hổ. Đến kẻ tài năng bậc trung, mà việc
dính líu đến bọn hoạn quan, còn không ai không mũi lòng, huống gì kẻ sĩ có chí
khẳng khái lại không biết hay sao?
Nay triều đình tuy thiếu người, nhưng lẽ nào lại để kẻ bị cưa dao
sống sót mà còn tiến cử kẻ hào kiệt trong thiên hạ? (7)
Tôi nối nghiệp tiền nhân mà chầu chực dưới xe loan đã hơn hai mươi
năm nay. Tôi vẫn thường tự nghĩ: mình trên đã không thể tỏ lòng trung tín, được
tiếng khen là có tài, có sức, có mưu lạ, để được bậc minh chủ đoái thương, lại
cũng không biết lượm lặt cái bỏ sót, chấp vá cái thiếu thốn, đón người hiền,
tiến cử người tài, làm vinh hiển kẻ sĩ ở ẩn trong chốn núi non, ở ngoài không
thuộc vào hàng ngũ có công đánh thành xông trận, chém tướng giật cờ, cùng ra
nữa cũng không ngày ngày tích lũy công lao, để được quan cao, lộc hậu, làm đẹp
mặt họ hàng bè bạn.
Cả bốn điều đó tôi không dược điều nào. Cho nên tôi đành nương náu
qua thì, đó cũng đủ thấy tôi chẳng có gì là hay ho cả.
Tôi cũng đã thường mon men dự vào hành hạ đại phu, được dự bàn bạc
ở ngoại đình. Lúc ấy, tôi chẳng biết trình bày mối giường, dâng lên những điều
suy nghĩ. Đến nay thì thân hình đã sứt mẻ, làm người tôi đòi, ở trong đám ti
tiện, lẽ nào còn muốn ngẩng đầu, giơ mặt trình bày phải trái! (8). Thế chẳng
hoá ra khinh triều đình, làm xấu hổ cho kẻ sĩ trên đời này lắm sao! Than ôi!
Than ôi! Như tôi đây còn nói năng gì nữa, còn nói năng gì nữa;
Vả chăng, việc của tôi gốc ngọn không dễ thấy rõ. Từ nhỏ tôi mang
cái tài phóng túng (9), lớn lên không được làng xóm khen ngợi. May chúa thượng
vì cớ cha tôi, cho tôi được trổ chút nghề mọn, ra vào nơi cấm vệ. Tôi nghĩ rằng
con người đội chậu làm sao còn nhìn được trời; vì vậy cho nên không giao tiếp
với khách khứa, quên việc sản nghiệp của gia đình. Ngày đêm đem cái tài sức kém
cỏi của mình, chỉ cốt một lòng làm tròn chức vụ, để mong được chúa thượng
thương đến. Thế mà lại gặp cái việc trái hẳn ý của mình.
Tôi và Lý Lăng điều ở dưới môn hạ chúa thượng, vốn cũng không quen
thân nhau, chí hướng khác nhau, chưa từng nâng chén rượu, vui vẻ ân cần. Thế
nhưng tôi thấy ông ta là kẻ sĩ kỳ lạ, biết tự giữ mình, thờ cha mẹ có hiếu, đối
với kẻ sĩ thì tin, liêm khiết ở chỗ tiền tài, giữ nghĩa trong việc cho và lấy,
biết phân biệt nhường nhịn, khiêm tốn, cung kiệm chìu người, thường lo hăng hái
quên mình để tính việc cần kíp của nước nhà, đó là cái điều chứa chất ở trong
lòng ông ta, tôi cho ông ta có cái phong thái của người quốc sĩ.
Ôi! Kẻ làm tôi biết liều trong lúc muốn chết không nghĩ đến sự
sống của mình, lao vào nạn nước nhà như thế cũng đã là lạ vậy. Nay chỉ bị một
lần hỏng việc, thế mà những người tôi lo giữ thân mình, giữ vợ con, cứ thêu dệt
thêm cái lỗi ông ta, tôi lòng riêng đau xót vì việc đó.
Vả chăng, Lý Lăng cầm không đầy năm ngàn bộ binh, tiến sâu vào
chiến địa, chân đến nơi sân vua Thiền Du, như mồi sa miệng hổ, khiêu khích bọn
Hồ Mạnh. Ngẩng đầu (10) đón lấy quân địch ức vạn, cùng quân Thiên Vu chiến đấu
liên tiếp hơn mười ngày, giết được rất nhiều, giặc không kịp cứu người chết,
khiêng kẻ bị thương. Các chúa Hung Nô mặc áo cừu run sợ bèn đem tất cả tả, hữu
- hiền - vương (11), đem tất cả quân cung nỏ trong nước vây lại mà đánh. Lăng
chiến đấu ở ngoài ngàn dặm, lên hết đường cùng, cứu binh không đến, quân sĩ
chết và bị thương chồng chất! Nhưng Lăng hô một tiếng, tất cả quân sĩ đều vùng
dậy! Người đầy nước mắt, lau mặt bằng máu, uống bằng nước mắt, lại giơ nắm tay
không xông vào nơi mũi nhọn, quay về hướng bắc tranh nhau liều chết với giặc.
Khi Lăng chưa bị thua, các sứ về báo tin, các công, khanh, vương, hầu đều nâng
chén rượu chúc thọ thiên tử. Mấy ngày sau, nghe tin Lăng thua trận đưa về, chúa
thượng vì vậy ăn không biết ngon, ra triều không vui, quan đại thần lo lắng
không biết làm thế nào. Tôi trộm không tự liệu mình ti tiện, thấy chúa thượng
đau xót buồn rầu, lòng muốn bày tỏ nổi niềm ngu dại, cho rằng Lý Lăng vốn cùng
các sĩ, đại phu, chia miếng ngon, chịu phần thiệt, được người ta liều chết hết
lòng, tuy danh tướng ngày xưa cũng không hơn được. Thân Lăng tuy hãm vào cảnh
thất bại, nhưng xem ý ông ta là muốn lập công để báo ơn nhà Hán. Việc đã đành
như thế rồi, nhưng kể công đánh bại quân địch của ông ta, cũng đủ tỏ với thiên
hạ. Trong lòng tôi muốn trình bày điều đó, nhưng chưa có dịp. Nhân gặp lúc nhà
vua hỏi đến, tôi bèn đem ý ấy ra, trình bày công lao của Lăng, muốn chúa thượng
mở lượng khoan hồng và ngăn chặn lời lẽ dèm pha. Tôi chưa nói được hết, chúa
thượng không rõ, cho rằng tôi biện bạch hộ Lý Lăng, để ngăn trở Nhị Sư (12) bèn
giao tôi cho pháp quan trị tội.
Nổi lòng trung u uất, rốt cuộc vẫn không sao tự trình bày được, do
đó mang tội dối chúa thượng, phải xử theo lời của hình quan! Nhà tôi nghèo
không có đủ tiền của để chuộc tội (13), bạn bè không ai cứu, tả hữu thân cận,
không ai nói hộ một lời! Thân mình không phải là gỗ đá, một mình phải chung chạ
với bọn pháp lại, ở trong nhà giam âm thầm sâu kín, nổi lòng biết tỏ cùng ai?
Điều này thì bản thân Thiếu Khanh cũng tự thấy, việc làm của tôi há không đúng
sao?
Lý Lăng đã cầu sống đầu hàng, gia thanh bị sụp đổ và tôi bị đưa
xuống nhà tằm (14) bị thiên hạ chê cười lần nữa. Than ôi, thương thay! Việc này
không thể một hai nói cho bọn tục nhân nghe vậy.
Ông cha tôi không có công được chẻ phù phong tước, viết chữ son để
lại, nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch, thì cũng gần với bọn thầy bói
thầy cùng, chúa thượng vẫn đùa bỡn, nuôi như bọn con hát, còn thế lực thì vẫn
coi thường (15). Giả sử tôi có phạm pháp bị giết, thì cũng như chín con trâu
mất một sợi lông, có khác gì sâu kiến, mà thế lực lại không thể sánh với việc
tử tiết. Họ chẳng qua chỉ cho rằng vì trí cùng, tội quá nặng không thể gỡ nổi
cho nên chịu chết đó thôi. Tại sao vậy? Đó là vì danh vị của mình khiến như
vậy.
Ai cũng có một lần chết. Cái chết có khi nặng hơn núi Thái Sơn, có
khi nhẹ hơn lông chim hồng. Đó là vì cách dùng nó khác nhau mà ra.
Cao nhất thì không làm nhục đến cha ông, thứ nữa thì không làm
nhục đến thân mình, thứ nữa thì không làm nhục đến lý lẽ và dáng mặt, thứ nữa
thì không làm nhục đến lời lẽ, thứ nữa khuất mình chịu nhục, thứ nữa đổi áo
chịu nhục, thứ nữa chịu nhục đeo gông cùm, bị roi vọt, thứ nữa chịu nhục cạo
đầu mang xiềng xích, thứ nữa chịu nhục bị hủy hoại da thịt chặt chân tay. Hèn
nhất là việc bị cung hình. Sách có nói “Hình phạt không đụng đến đại phu”. Đó
là nói làm kẻ sĩ phải cố gắng giữ lấy tiết tháo. Con mãnh hổ ở trong núi sâu,
trăm thú đều sợ hải, nhưng khi nó đã vào cạm bẩy ve vẫy cái đuôi để xin ăn, thì
cái oai mấy lâu nay đã mất hết! Cho nên kẻ sĩ có khi vẽ đất làm nhà ngục, mà
cũng không thể vào, đẽo gỗ làm pháp lại, mà cũng không chịu đối đáp với nó, đó
là vì phải định liệu từ trước.
Nay tôi đã bị trói tay chân, chịu roi vọt, bị giam trong tường
ngục, lúc bấy giờ thấy viên lại coi ngục thì dập đầu xuống đất, thấy bọn lính
canh ngục thì lòng lại bồi hồi. Tại sao vậy? Đó là vì cái uy cũ đã mất, thế
đành phải chịu. Đã đến cảnh ấy mà còn nói không nhục, thì thật là hạng mặt dầy
mày giạn mà thôi. Có gì đáng quý?
Vả chăng, Tây Bá là bá bị giam ở Dĩu Lý, Lý Tư là tướng mắc cả năm
hình (16), Hoài Âm làm vương, mang gông ở đất Trần, Bành Việt, Trương Ngao quay
mặt phía nam tự xưng “Cô” (17) đều bị bỏ ngục, chịu tội. Giáng Hầu giết bọn họ
Lữ, quyền nghiêng cả ngũ bá, xưa đã từng bị tù ở Thỉnh Thất (18), Ngụy Kỳ là
đại tướng, mặc áo tù mang gông, Lữ Bố xích tay làm tên nô lệ cho Chu Gia, Quán
Phu (19) chịu nhục trong dinh thừa tướng. Những người này thân đều làm vương,
hầu, tướng quân, thừa tướng, danh tiếng vang lừng đến nước láng giềng, nhưng
khi mắc vào tội, không thể cả quyết tự sát. Trong cảnh trần ai, xưa nay đều như
thế, nói không nhục có được đâu!
Cứ thế mà xem, đủ thấy rõ dũng cảm hay nhút nhát, là ở cái thế mà
ra, mạnh hay yếu là ở tình hình mà ra. Chứ có gì đáng lạ? Con người ta không
thể sớm giữ ở ngoài quy tắc, dần dần sa sút, lâm vào cảnh roi vọt, khi ấy muốn
làm cho ra khí tiết thì sao cho được? Cổ nhân sỡ dĩ cẩn thận về việc bắt đại
phu chịu hình phạt, có lẽ là như thế. Ôi! Nhân tình ai chẳng thích sống ghét
chết, nhớ cha mẹ thương vợ con, nhưng đến khi bị nghĩa lý khích động nên mới
phải làm điều cực chẳng đã. Nay tôi không may sớm mất cha mẹ, không có anh em
thân thích, chỉ trơ trọi một mình, Thiếu Khanh xem tôi đối với vợ con như thế
nào. Vả chăng kẻ dũng không cần phải chịu chết để giữ khí tiết, kẻ nhát gan mến
nghĩa, cái gì cũng gắng làm được. Tôi tuy hèn nhát, tham sống, nhưng cũng biết
cái lẽ nên chăng, có đâu đến nổi tự dìm mình vào trong cái nhục gông trói thế
này! Kìa hạng tỳ thiếp, tôi tớ, còn biết tự quyết, huống tôi lại không làm được
sao? Sở dĩ tôi chịu nhục sống vơ vẩn, nín nhịn cố sống ở nơi dơ bẩn mà không từ
chối, là vì lòng riêng có điều chưa làm được hết, cho rằng trọn đời rồi mà văn
chương không nêu cho đời sau thấy được là sự nhục.
Người xưa giàu sang mà danh bị vùi dập kể không hết. Chỉ có những
người trác việt phi thường là được người ta nhắc đến mà thôi. Văn Vương bị giam
diễn giải Chu Dịch, Trọng Ni gặp nạn làm kinh Xuân Thu, Khuất Nguyên bị đuổi
nên ngâm Lý Tao, Tả Khâu bị mù nên có Quốc Ngữ (20), Tôn Tẩn bị chặt chân,
trình bày binh pháp, Bất Vi bị đày sang đất Thục, đất Lữ Lâm (21) còn truyền
lại ở đời, Hàn Phi bị tù ở Tần, viết Thuyết Nan và Cô Phẩn (22), Kinh Phi ba
trăm thiên phần lớn do thánh hiền phát phẫn mà làm ra. Những người này đều có
cái uất ức trong lòng không bày tỏ được đạo của mình, cho nên thuật việc cũ để
lại cho người sau này vậy. Kìa xem Tả Khâu không có mắt, Tôn Tẫn bị chặt chân,
trọn đời không thể làm được việc gì, nên lui về viết sách để hả điều căm giận,
mong lấy câu văn suông để cho đời biết đến mình. Tôi trộm không chịu nhún
nhường, cũng muốn ký thác mình vào những lời tầm thường, tìm kiếm thu nhặt
những chuyện cũ bỏ sót trong thiên hạ, xét qua việc làm, tóm tắt trước sau, xét
việc thành, bại, hứng, vọng, trên từ Hiên Viên (23) dưới đến ngày nay, làm mười
biểu, mười hai bản kỷ, tám thư, ba mươi thế gia, bảy mươi liệt truyện, cộng tất
cả là một trăm ba mươi thiên. Ý tôi cũng muốn xét trong khoảng trời đất, thấu
suốt sự biến đổi từ xưa đến nay; làm thành lời nói của một nhà. Nhưng khởi thảo
chưa xong thì gặp phải cái họa này! Tiếc sách chưa xong nên chịu cực hình mà
không có vẻ giận. Giá tôi đã làm xong sách ấy rồi, cất giấu nó vào nơi danh
sơn, truyền cho con người của nó, phát khắp các ấp lớn, đô thị to, thì tôi cũng
xin liều với cái nhục kia, dù bị giết vạn lần cũng có gì là hối hận.
Thế nhưng điều đó có thể bàn với bậc tri giả, chứ khó lòng với bọn
tục nhân. Vả chăng đã thất bại rồi thì khó ăn nói ở nơi thấp hèn bị lắm kẻ chê
bai. Tôi vì nói năng mà mắc phải cái vạ này, lại thêm bị hàng xóm chê cười, làm
nhục cả cha ông, còn mặt mũi nào mà lại bước đến nấm mồ của cha mẹ nữa? Tuy đến
trăm đời cũng chỉ có thêm ô nhục mà thôi.
Cho nên, ruột một ngày chín lần quặn đau, ngồi bâng khuâng như mất
cái gì, đi ra thì không biết đi đâu. Mỗi khi nghĩ đến điều nhục đó thì mồ hôi
vẫn cứ đầm lưng ướt áo. Thân mình làm quan ở nơi khuê các, muốn ẩn mình vào nơi
hang sâu núi thẩm nào được đâu! Cho nên đành nổi chìm theo tục, luồn cúi theo đời
để mong thỏa được cái điều điên dại này.
Nay tôi được Thiếu Khanh dạy phải cử người hiền tiến kẻ sĩ chẳng
phải ngược với lòng riêng của tôi sao? Dù muốn tô vẽ những lời phù phiếm, để tự
bào chữa thì cũng vô ích, thế lực chẳng tin, chỉ thêm nhục nhã! Dẫu sao đợi đến
ngày chết việc phải trái mới định.
Thơ không thể nói hết ý, chỉ bày qua lời lẽ quê mùa. Kính lạy hai
lạy (24)
Chú thích
1. Thiếu Khanh: tên chữ của Nhâm An – túc hạ là tiếng xưng hô đối
với người tôn trọng. Nhâm An làm thứ sử Ích Châu bị can vào việc cùng thái tử
nổi loạn, bị giam và sau đó bị giết. Nhâm An bị giam viết thư cho Tư Mã Thiên
lúc này làm lang trung lệnh có lẽ nhờ can thiệp giúp để khỏi chết. Tư Mã Thiên
nhận thấy không thể làm được bèn bộc lộ cảnh ngộ của mình. Thư này không ở trong
Sử Ký nhưng rất cần để hiểu biết tâm sự của tác giả
2. Ngày xưa cứ đến cuối đông thì xử tử tội nhân. Bấy giờ Thiếu
Khanh sắp bị hành hình
3. Chỉ Thiếu Khanh
4. Bị cắt dương vật
5. Ung Cừ và Cảnh Giám đều là hoạn quan. Việc của Thương Ưởng xem
Thương Quân liệt truyện
6. Hán Vũ Đế ngồi xe với hoạn quan Triệu Đồng, Viện Tì can. Trờ
lên kể cái nhục của kẻ hoạn quan: Ung Cừ, Cảnh Giám, Triệu Đồng đều là hoạn
quan
7. Ý nói mình không thể giúp gì Nhâm An được. Bài này nói bóng vì
không thể nói thẳng. Ý Nhâm An muốn tiến cử kẻ sĩ, tức là nhờ Tư Mã Thiên tiến
cử mình
8. Bấy giờ Tư Mã Thiên làm lang trung lệnh. Đó là một chức quan
lớn lo việc coi giấy tờ của nhà vua. Có những người tự thiến mình để được làm,
nhưng tác giả chỉ thấy xấu hổ
9. Nguyên văn: “bất cơ”
10. Đất Hồ ở cao nên lúc đánh phải ngẩng đầu lên
11. Vua Hung Nô gọi là Thiền Vu, dưới Thiền Vu có tả-hiền-vương và
hữu-hiền-vương
12. Lý Quảng Lợi là anh ruột của Lý phu nhân bấy giờ được vua yêu
làm Nhị Sư tướng quân đánh Hung Nô, Lý Lăng ở dưới sự điều khiển của Lý Quảng
Lợi, xin tự cầm một đội biệt kích. Nhà vua nghe Thái Sử Công bè phái với Lăng,
chống lại Nhị Sư
13. Đời Vũ Đế cho người ta đem tiền nộp vào kho để chuộc tội
14. Người bị cung hình đưa xuống nhà nuôi tằm cho kín gió, sợ nguy
đến tính mạng, gọi là nhà tằm
15. Tư Mã Thiên làm Thái Sử Công ngoài việc viết văn làm sự còn
xem sao, xem lịch
16. Năm hình: khắc vào mặt, xẻo mũi, cắt dương vật, chặt chân và
chặt đầu
17. Ý nói được phong tước vương – Ngày xưa vương hầu tự xưng là “cô”
18. Nơi các quan bị tội nặng ở đó để chờ vua xét xử
19. Việc Bành Việt xem Hán Cao Tổ bản kỷ, việc Giáng Hầu xem Trần
thừa tướng thế gia, việc Quý Bố xem Bố Loan Bộ liệt truyện, việc Quán Phu xem
Ngụy Kỳ, Vũ An Hầu liệt truyện
20. Tả Khâu Minh làm sách Tả Truyện và sách Quốc Ngữ
21. Sách Lữ Lâm cũng gọi là Lã Thị Xuân Thu
22. Thuyết nam, Cô Phẫn là hai thiên ở trong sách Hàn Phi Tử
23. Sử Ký bắt đầu từ Hoàng Đế. Người ta còn gọi Hoàng Đế là Hiên
Viên (vào khoảng thế kỷ XXVII trước công nguyên)
24. Nhâm An nhờ Tư Mã Thiên cứu mình. Tư Mã Thiên nhận thấy không
thể làm được đành phải bộc lộ hoàn cảnh của mình, tự mạt sát mình. Nói là trả
lời, nhưng không phải là trả lời mà là bộc lộ tâm sự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét