Xuân
Sách Và Tập Thơ Chân Dung Nhà Văn
Đỗ
Ngọc Thạch
Tập thơ Chân
dung nhà văn gồm 100 chân dung 100 nhà văn, nhà thơ được viết bằng thơ (đa
phần là thơ tứ tuyệt) của Xuân Sách (1) viết từ năm 1962 đến 1992 mới được in
thành sách, tính đến nay đã gần 20 năm tuổi. Song, ngay từ khi ra đời từng chân
dung thì Chân dung nhà văn đã được “truyền miệng” rộng rãi không chỉ trong giới
văn nghệ mà cả trong đông đảo công chúng văn nghệ. Sự tiếp nhận của người đọc,
nhất là trong giới văn nghệ, đặc biệt là những người có tên trong danh sách 100
chân dung thật đa dạng với đủ các cung bậc phản ứng khác nhau. Có một chi tiết
thật bất ngờ là có một số người phản đối Chân dung nhà văn chỉ vì không có chân
dung của mình, cứ như là phải được Xuân Sách viết chân dung thì mới là nhà văn
có giá!
Có
thể nói tập thơ Chân dung nhà văn của Xuân Sách là một hiện tượng văn học độc
nhất vô nhị của văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một
sự phê bình, phán xét thỏa đáng của giới nghiên cứu văn học trên diễn đàn công
khai. Và do vậy, cách hiểu Chân dung nhà văn còn bị nhiễu cũng như những giá trị
đích thực của nó vẫn chưa được phân định rõ ràng. Và xung quanh việc ra đời và
tồn tại của Chân dung nhà văn cùng Tác giả của nó có ngàn lẻ một câu chuyện vừa
thật, vừa có tính giai thoại, khiến cho việc tiếp nhận và thẩm định tác phẩm
ngày càng khó khăn… Dường như tiên đoán được “sẽ có ngày hôm nay” nên Xuân Sách
đã để lại một cuốn Hồi ký (2) nhằm giúp chúng ta giải mã tập thơ Chân dung nhà
văn. Vì nhiều lý do, cuốn Hồi ký của Xuân Sách chưa được xuất bản mà mới chỉ
công bố một phần nhỏ trên một vài trang Web. Cuốn Hồi ký của Xuân Sách có nhan
đề Giải mã Chân dung, bao gồm 20 phần: Khúc mở đầu và 19 phân đoạn được đánh số
từ 1 đến 19. Đọc xong tập Hồi ký Giải mã Chân dung của Xuân Sách, tôi nghĩ rằng
tập Hồi ký này, xét về toàn cục còn vượt xa tập thơ Chân dung nhà văn về giá trị
văn học bởi nó vừa “điểm nhãn” cho 99 chân dung nhà văn, nhà thơ ở tập Chân
dung Nhà văn, vừa viết thêm những chân dung mới dù chỉ bằng những nét phác họa.
Và tất nhiên, đời sống văn học, cả một thời kỳ dài gần nửa thế kỷ, chỉ tính từ
khi Xuân Sách về làm việc ở Tạp chí Văn Nghệ Quân đội là năm 1960, cho đến khi
ông qua đời (2-6-2008), được tái hiện thật là sống động. Vì thế, bài viết này của
tôi sẽ gồm hai phần: Phần Một là về tập thơ Chân dung Nhà văn và phần Hai là về
Hồi ký Giải Mã Chân dung. Tuy nhiên, do đây chưa phải là một bài viết theo thể
loại nghiên cứu với đủ các trình tự lớp lang nên việc diễn đạt còn tùy hứng và
các ý kiến chưa phải là đã hoàn chỉnh mà còn phải bổ khuyết.
*
Thơ
Chân dung được hình thành như thế nào? Phản ứng với thơ Chân dung truyền
khẩu? Tập thơ Chân dung Nhà Văn được xuất bản ra sao? Phản ứng với tập
thơ Chân dung Nhà văn? Đó là những vấn đề mà bài viết này sẽ cố gắng thể hiện một
cách đại lược trong một “rừng câu chữ” của cuốn Giải mã Chân dung của
Xuân Sách, trong đó, tác giả đã “trả lời những bạn đọc yêu quý xa gần của tôi
là tôi đã nghĩ, đã viết những bài thơ chân dung như thế nào? Tôi còn muốn làm
thêm cái khung cho những bức tranh ấy. Đấy là hoàn cảnh, môi trường, có thể gọi
là chân dung một thời các nhà văn chúng tôi đã sống và viết”.
*
Bài
thơ chân dung đầu tiên Xuân Sách viết năm 1962 trên vỏ bao thuốc lá Tam Đảo
trong một buổi chỉnh huấn của quân đội phê phán chủ nghĩa Xét Lại. Bài thơ thuộc
dạng hiền lành, vậy mà tức thì anh Nguyễn Khải nhận xét nghiêm túc: “Thằng này
không đùa nữa rồi”. Chân dung số l đó là thiếu tướng nhà văn Hồ Phương, đã từng
giữ chức TBT tạp chí Văn nghệ Quân đội. Bức chân dung số 1 như sau:
Trên biển lớn
mênh mông sóng nước
Ngó trông về
Xóm mới khuất xa
Cỏ non nay
chắc đã già
Buồn tênh lại
giở thư nhà ra xem.
Trong Hồi
ký Giải mã Chân dung, Xuân Sách viết: “Tôi viết về Hồ Phương khi ấy mới ngoài
tuổi 30, mới đeo quân hàm đại úy, nhưng uy tướng chẳng liên quan gì đến chuyện
hay dở của văn chương. Sự thật ai cũng biết cho đến lúc đó những tác phẩm của
anh chưa có cái nào vượt được Thư nhà, điều đó ai chả buồn nhưng rất nên biết.
Thời chống Mỹ, Cồn cỏ là hòn đảo nhỏ giữa biển khơi, là tiền đồn theo dõi máy
bay địch của ta, nên Mỹ đánh phá ác liệt. Bộ đội ta ở đấy đương đầu với gian
khó, với hiểm nguy từng giờ. Anh Nguyễn Trọng Oánh là phóng viên của tạp chí tự
liên hệ với đơn vị để ra Cồn Cỏ. Tôi vốn quý anh là con người ít nói nhưng có
suy nghĩ sâu sắc, gan dạ và nhất là tính trung thực, đúng chất ông Đồ Nghệ. Khi
trở về đất liền, anh viết cho báo bài bút ký dài. Với đường hướng văn nghệ thời
đó, bài bút ký của anh không được ủng hộ, vì anh viết thật về người lính, dù rất
dũng cảm nhưng không phải là không có tâm trạng gọi là yếu đuối hay tiêu cực.
Nhưng yêu cầu của tuyên truyền lúc đó, báo chí hay văn nghệ cũng vậy, chỉ tập
trung miêu tả những con người phải có ý chí cao, tư tưởng chỉ hướng tới tiêu diệt
quân thù. Sau đó ít lâu, đồng chí Bí thư chi bộ của Đảo vào đất liền để báo cáo
thành tích. Nhà văn Hồ Phương vốn là người nhanh nhẹn hoạt bát, anh “bắt” ngay
đối tượng của mình để hỏi han ghi chép. Và rất nhanh quyển sách “Chúng tôi ở Cồn
Cỏ” hoàn thành, được NXB Quân đội nhân dân in với số lượng hàng vạn bản. Quyển
sách và tác giả trở nên nổi tiếng và được biểu dương khen ngợi. Không ra Cồn Cỏ,
chỉ nghe lời kể của một bí thư chi bộ mà viết được quyển sách hàng trăm trang
phải nhận là anh Hồ Phương có tài. Nhưng với tôi, tôi vẫn thấy tác phẩm ấy
không bằng “Thư nhà”. Chẳng lẽ thật lòng tôi nghĩ thế và tôi biết người anh lớn
càng nghĩ thế, nhưng anh không nói ra - ít nhất là trước mặt tác giả - còn tôi
nói ra là thiếu lễ phép. Lại một chuyện nữa, hồi ấy anh Nguyên Ngọc chưa vào
Nam, anh làm thư ký tòa soạn. Anh làm cái mục điểm sách hàng tháng trên tạp
chí. Thời đó sách được xuất bản ít quá nên quyển nào ra làng văn đều quan tâm.
Anh Hồ Phương cũng có một tập truyện ngắn mỏng. Sau khi điểm một vài tác phẩm
khác, mỗi quyển mười dòng. Đến quyển của anh Hồ Phương, nhà phê bình Nguyên Ngọc
chỉ hạ một dòng sửng sốt: “Tôi không có ý kiến gì về quyển sách này vì nó không
phải là văn học”.
Người
xưa dạy: “Người khen ta đúng là bạn ta. Người chê ta đúng là thầy ta”. “Không
biết Hồ Phương có coi Nguyên Ngọc là thầy? Nhưng tính anh vốn nhẹ, xởi lởi, bên
ngoài coi như qua mưa lại nắng. Đó là một nét đặc biệt trong mối quan hệ của đồng
nghiệp trong cơ quan mà tôi cho là lành mạnh. Như anh Vũ Cao, thủ trưởng của
chúng tôi, nói: “Ở cái nhà số 4 này thằng nào ra thằng ấy, lãnh đạo một tập thể
như vậy khó nhưng rất thú vị”
Nhà
văn Hồ Phương vẫn viết đều in đều, có quyển anh viết người thực việc thực như
truyện dài về nữ sinh Kan Lịch rồi một pho tiểu thuyết nghìn trang “Những tầm
cao” viết về Hà Nội thời chống Mỹ chia làm hai tập. Thành phố Hà Nội đặt ra giải
thưởng Hồ Gươm năm năm một lần, xét tặng những tác phẩm xuất sắc của anh chị em
văn nghệ sĩ thành phố. Anh Hồ Phương gốc Hà Nội tham gia Hội Văn nghệ thành phố
và được bầu vào Ban chấp hành. Lần đó anh có chân trong Ban Giám khảo xét thưởng
do nhà văn Tô Hoài làm chủ tịch. Đây không phải cuộc thi nên những người trong
Ban Giám khảo cũng được nộp tác phẩm để dự xét. Hồ Phương gửi “Những tầm cao” .
Nhưng có điều trớ trêu: theo quy định chỉ được xét những tác phẩm in ra trong 5
năm đó, tập một Những tầm cao không nằm trong thời gian xét nên Hồ Phương gửi tập
hai, trúng giải A. Phần thưởng là một chiếc xe đạp Thống Nhất vừa xuất xưởng.
Thời đó chiếc xe này là loại quý hiếm, là ước mơ của những nhà văn đi bộ. Trong
buổi lễ phát thưởng có một nhà văn thắc mắc: “Tôi thấy bất hợp lý, tác phẩm phải
xét toàn bộ, sao lại chỉ xét tập hai, nếu tập một có vấn đề thì sao? Làm thế
này chẳng khác gì thi hoa hậu chấm từ rốn trở xuống”. Ý kiến ấy cũng chỉ là nói
ra tràng cười vui vẻ chứ không làm thay đổi được kết quả cuộc xét tuyển. Buồn
tênh lại giở thư nhà ra xem vậy…”.
*
Chân
dung nhà văn Vùng mỏ Võ Huy Tâm cũng hình thành như một “Tia chớp”. Hãy nghe lời
kể lại sự ra đời bài thơ chân dung Võ Huy Tâm và phản ứng của nhà văn vùng mỏ bằng
lối văn “phong cách Võ Huy Tâm” của Xuân Sách trong Hồi ký Giải mã Chân dung:
“Năm
1998, nhà văn vùng mỏ Võ Huy Tâm qua đời, nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn có viết bài
báo: “Nhà văn của những người thợ mỏ đã ra đi” đăng trên tờ Tiền Phong chủ nhật
số 44 ra ngày 3/11/96 trong đó có một đoạn liên quan đến tôi và bài thơ chân
dung viết về nhà văn họ Võ. Tôi xin trích:
“Tôi
có một kỷ niệm nho nhỏ với nhà văn Võ Huy Tâm. Năm 1993 nhân ra Bãi Cháy dự Đại
hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh, tôi đã chứng kiến cuộc hội ngộ lý thú giữa
Võ Huy Tâm và Xuân Sách, tác giả tập thơ Chân dung nhà văn đầy tai tiếng xuất bản
một năm trước đó. Nhưng tôi thấy hai nhà văn chuyện trò với nhau khá vui vẻ, có
thể nói là tâm đắc nữa. Võ Huy Tâm là vậy, luôn luôn hồn hậu và độ lượng, khác
xa những ai kia được khen cả trăm lần vẫn chưa “đã” mà mới bị chê dù chỉ một lần
là lập tức nhảy xếch lên, khiếu kiện đủ cửa” .
Mãi
đến năm 1960 tôi về công tác ở Hà Nội mới gặp anh Võ Huy Tâm, tác giả Vùng mỏ nổi
tiếng từ lâu. Anh Tâm là một người không ưa la cà nên chúng tôi ít lần gặp nhau,
nhưng chúng tôi lại có thể chơi với nhau được. Tôi rất thích cách nói chuyện của
anh, ít lời nhưng lại cung cấp cho người nghe nhiều thú vị. Chúng tôi hợp nhau
trong cách gây cười và nói thật, không e dè xã giao. Sau khi cuốn Vùng mỏ được
in, được giải thưởng, được dư luận khen ngợi, anh được điều về Hà Nội, rồi làm
biên tập ở tờVăn Nghệ. Trò chuyện với tôi, anh thường thân mật xưng mày tao,
còn tôi gọi anh là đại ca:
-
Xem chừng đại ca về đây đeo cái đèn ló trên
trán đi vào hầm lò văn chương, hành trình rất vất vả phải không?
-
Vất vả lắm nhưng phải cố, cuốc văn còn khó
hơn cuốc than. Mà từ cách ăn ở đi lại, giao tiếp tao vẫn chưa quen. Giống như mấy
anh ở miền núi về thành phố xem phố xá cũng vui mắt nhưng chóng chán, đi đường
nhựa không quen, ăn không quen, nói cũng không quen, lớ ngớ lắm. Tao cũng học
được nhiều điều hay, nhưng khó tiêu hóa nên vẫn viết như cũ thôi.
Sau
đó Võ Huy Tâm viết Những người thợ mỏ, rồi một số truyện vừa, trong đó có tập
Chiếc cán búa. Rồi các nhà phê bình chính thống không thích lối viết quá trần
trụi của anh, cách biểu hiện suy nghĩ của người thợ mỏ không đi đúng vào quỹ đạo
“tuyên truyền”, thật quá, gay cấn quá. Có lần anh nói với tôi, có lẽ tao phải
trở về than đá thôi, mày đi với tao ra chợ Đồng Xuân ăn lòng lợn chấm mắm tôm
đi. Và quả thật tôi thấy anh có vẻ hoang mang bất định.
Vào
một ngày mùa đông, tôi đang đứng ở cổng tòa soạn chợt thấy một người mặc bộ com
lê màu gạch non, tay khoác chiếc áo khoác cùng màu. Thời đó ít người ăn mặc như
vậy. Ông khách rảo bước vào cổng, tôi nhận ra đó là Võ Huy Tâm. Có việc gì mà
ông đến đây với bộ dạng trịnh trọng như vậy? Tôi cầm tay anh kéo vào phòng
khách, anh khum tay che miệng ghé vào tai tôi: “Sách ơi, cho mình đi ỉa nhờ một
cái”. Tôi nhận ra tình trạng khẩn cấp của ông anh, liền vội đưa anh ra khu vườn
cỏ dại phía sau tòa soạn.
Ngôi
nhà số 4 Lý Nam Đế là một trong hai ngôi nhà sang trọng của Hà Nội có kiến trúc
Á Đông, mái cong, lợp ngói ống, sàn nhà, cửa bằng gỗ tốt, nhưng quân ta ăn ở thế
nào mà qua mấy năm hệ thống ống nước hỏng hết, toilet không đi được. Chúng tôi
cải tiến thành phòng văn mini. Mùa hè đánh trần trên nền nhà gạch non mát lạnh.
Phía sau là khu đất trống, trước đây quân đội Pháp xây dựng một số phòng giam
nhỏ để nhốt binh lính bị kỷ luật. Chúng tôi cải tạo những phòng giam ấy thành
nhà xí, đặt một tấm bê tông có lỗ tròn, bên dưới đặt thùng “đặc dụng” bằng sắt
tây quét hắc ín, do một công ty vệ sinh thành phố quản lý, gọi nó là hố xí
thùng, tiền thân của hố xí hai ngăn. Cứ khoảng 4 giờ sáng chị nhân viên vệ sinh
đi ủng cao su, quần áo bảo hộ màu xanh đậm, một tay xách chiếc thùng rỗng, một
tay cầm đèn bão đến đập vào cánh cổng rầm rầm rồi gọi to: “Số 4, thùng”. Đó là
cách rút gọn một câu văn dài: “Nhà số 4 mở cửa để đổi thùng”
Nhà
văn Võ Huy Tâm đã trở ra, mặt mày phởn phơ, cười hơ hơ:
-
Sách ơi, các cụ tổng kết con người có “tứ
khoái” cấm sai. Cám ơn, mình đi!
Tôi
nhìn theo ông “Tây gỗ” bước thẳng đơ trên đường phố, vừa buồn cười vừa thương cảm.
Tôi lên phòng, viết ngay bài thơ về ông:
Đem than từ
vùng mỏ
Về bán tại
thủ đô
Bị đập chiếc
cán búa
Hóa ra thằng
ngẩn ngơ!
Tôi
cười một mình nghĩ sẽ tới gặp Võ Huy Tâm đọc cho anh nghe và bổ sung vào bộ tứ
khoái thêm cái nữa là ngũ khoái, tức là viết được cái gì vừa ý cũng là cái
khoái đáng kể của giống người.
Hôm
sau, anh bạn thơ trẻ Định Nguyễn đến: - Anh ơi, có bài nào mới cho em xin. Tôi
đưa bài vừa viết. Định Nguyễn đọc hai ba lần rồi cười phá lên bình : - Hay,
đúng là thơ ông Võ, cái chữ “thằng” rất ngon, đích thị ngôn ngữ thợ mỏ. Ngày
mai chủ nhật em lại được một chầu bia hơi-bánh tôm ở Hồ Tây rồi. Chủ nhật trước
có mấy ông cỡ bự bên Viện Sử, Viện Triết cũng tới nghe em đọc, hay ngày mai anh
đi cùng em xem sao?
-
Tuyệt đối không được, có mặt mình ở đó trở
nên vô duyên. Không có mình cậu mới nghe được những lời bình phẩm thật, nghe
các bố ấy bình tán rồi về kể lại cho mình nghe mới có lợi!
-
Ai ngại quá, em chỉ mang cái mồm đi hưởng nhuận
khẩu, còn anh nát óc ra mà chẳng được gì, có khi lại bị tai họa.
-
Sao lại không được gì? Hãy đợi đấy!
Trở
lại sự việc trong bài báo của anh Nguyễn Hoàng Sơn. Năm 1993 tôi là đại biểu
duy nhất phía Nam, kể từ Huế trở vào được mời đi dự Đại hội Văn học nghệ thuật
tỉnh Quảng Ninh. Khi tôi di chuyển xe ôm từ Hòn Gai sang Bãi Cháy dừng trước cửa
khách sạn Anh Đào, nơi diễn ra Đại hội, người đầu tiên chạy ra đón tôi là nhà
văn lão thành Võ Huy Tâm. Ông ôm chầm lấy tôi, cười nói oang oang trước đông đảo
quan khách văn nhân:
“Hoan
hô mày, mày chửi tao làm tao nổi tiếng. Tao sướng! Rồi ông hạ giọng: Mà từ ngày
tao trở về vùng mỏ thì hết ngẩn ngơ”.
*
Đoạn
nói về viết chân dung nhà thơ Chính Hữu thật sâu sắc và cảm động. Tuy là viết về
Chính Hữu nhưng ta thấy được cả một thế hệ những nhà thơ, nhà văn mặc áo lính
như Thanh Tịnh, Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu… đã phải “lao tâm khổ tứ” như thế nào
để cho ra đời những câu thơ “gan ruột” của mình:
…
“Cho nên thời kỳ ấy, năm 1951 ấy tôi rất khâm phục Chính Hữu khi đọc hai bài
thơ của anh “Hà Nội đêm 51” và “Đồng chí”. Hai bài thơ hay, hai câu tuyệt tác
“Mái buồn nghe sấu rụng” và “Đầu súng trăng treo”.
Nhưng
rồi Chính Hữu cũng không vượt qua được bế tắc, không thấy anh công bố bài thơ
nào nữa. Sau hàng chục năm, sau năm 54 anh về làm biên tập cho Nhà xuất bản
Quân đội và anh cho in quyển tiểu thuyết “Tấc đất” dịch của Liên Xô. Chính Hữu
cũng không tránh khỏi hệ lụy nhưng anh vốn là người chỉn chu, mẫn cán, anh chuyển
về làm cán bộ phòng văn nghệ trong đó có bọn chúng tôi. Trong chống Mỹ anh bắt
đầu sáng tác trở lại. Thơ anh vẫn thế, ngắn, súc tích nhưng thiếu cái bay bổng
của thời trước. Anh được đề bạt làm cục phó Cục Tuyên huấn quân đội đặc trách
giới văn nghệ mặc áo lính về văn học, âm nhạc, hội họa, các đoàn văn công quân
đội. Lũ chúng tôi rất vui, thời buổi đó có được vị thủ trưởng như Chính Hữu thì
còn mong gì nữa. Một người có bản lĩnh, trình độ vừa nguyên tắc tỉ mỉ nhưng
cũng rất tế nhị, chỉ trộm lo cái con người “vào trong phong nhã ra ngoài hào
hoa” kia lại chưa có vợ. Liệu có thoát khỏi cái vòng vây của hàng trăm chị em
văn công dưới trướng. Anh Nhị Ca là nhà phê bình của tạp chí chúng tôi, người bạn
của Chính Hữu từ thời trên chiến khu nói :
-
Ông này ngoài thì tươi nhưng trong lại khô,
mình đang mong có em nào vật ngã được gã quân tử lạc thời này mới khoái.
Nhị
Ca nói đúng. Chính Hữu không làm việc tại công đường trong thành mà chuyển ra ở
cùng chúng tôi. Ông ở một căn phòng trong dãy nhà cấp 4 phía sau tạp chí, như một
nhân viên cấp thấp vậy, mà tự nhiên thoải mái.
Nhưng
rồi một sự kiện xảy ra với ông, có nhiều người cho là nhỏ nhưng với tôi lại là
lớn: Chính Hữu cho in một tập thơ của mình. Ông viết ít và thơ thường ngắn. Một
tập thơ mỏng, in bình thường. Ông tặng tôi một quyển. Tôi vốn thích thơ ông nên
đọc kỹ. Cả tập thơ chỉ có một chỗ sửa chữa câu: “mái buồn nghe sấu rụng” thành
“phố dài nghe sấu rụng”. Hai chữ phố dài làm hỏng câu thơ, tôi đinh ninh rằng
Chính Hữu phải biết điều đó hơn tôi. Vậy tại sao ông lại chữa? Tại sao vậy? Tôi
muốn hỏi ông nhưng lại ngại. Buổi tối nhà số 4 thường vắng, phần đông anh em đều
có gia đình ở Hà Nội, tối về nhà, còn lại một bác quản gia vợ con vẫn ở Nghệ
An, một cậu thường trực, còn cả tầng gác mênh mông chỉ có tôi và nhà thơ Thanh
Tịnh, người ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Tôi nằm trong phòng đọc sách
nghe tiếng chân đi ngoài hành lang, hé cửa nhìn ra thấy hai người, Nhị Ca đang
đưa Chính Hữu về phòng mình. Lát sau tôi nhẹ nhàng đi tới, nếu hai người chỉ
tán chuyện thì ghé vào, tôi rất thích hóng chuyện các bậc đàn anh, học được rất
nhiều điều. Đến cửa tôi dừng lại vì nghe Nhị Ca hơi to tiếng: - Tại sao ông phải
chữa câu thơ ấy? Húy kị thì không, đầu đề ông đã ghi rõ Đêm Hà Nội năm 1951 tức
là khi thủ đô Hà Nội còn bị tạm chiếm chứ có phải hôm nay đâu! Và kể cả ngay
hôm nay ông cứ hơn hớn suốt ngày đêm không bao giờ buồn chứ? Mà mái buồn thành
phố dài thì hỏng mẹ nó câu thơ rồi, điều đó ông biết rõ hơn tôi. Vậy vì cái gì?
Tôi hiểu rồi, vì cái chức vụ mới của ông, cái chức cục là cái… gì, ông là nhà
thơ kia mà. Tôi biết có người còn tự tuyên bố, còn viết ra giấy từ bỏ những tác
phẩm nổi tiếng của mình thì bỏ 2 chữ của ông chẳng là gì, nhưng vì tôi là bạn của
ông, tôi quý ông, quý thơ ông, làm thế tôi không chịu nổi…
Nhị
Ca nổi tràng ho, anh vốn bị lao phổi đã phải sang Trung Quốc chữa cắt đi một lá
rồi. Chính Hữu nói gì đó tôi nghe không rõ.
Tôi
trở về phòng buồn thấm thía. Một lần Nguyễn Minh Châu đã nói: “Mình buồn thật,
mà cũng không được viết, được nói ra cái buồn ấy, quỷ quái thật”. Có niềm an ủi
là Nhị Ca đã nói ra điều đó, lại là nói với người đang lãnh đạo trực tiếp, lại
nói tới vấn đề lớn là mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, giữa bản lĩnh người
viết và nỗi sợ hãi đớn hèn…
Lúc
sau 2 người ra về, trả lại sự vắng lặng. Có tiếng gõ cửa, anh Thanh Tịnh ở cạnh
phòng tôi, anh nói nhỏ: - Sách có diêm cho mình xin một que, một que thôi!
Không
phải anh muốn xin que diêm mà muốn được nghe tiếng người. Anh Thanh Tịnh trở về
phòng mình. Tôi chợt nhận ra tôi đang có một khoảnh khắc tự do sáng tạo một
mình, không có gì ràng buộc. Tôi viết bài thơ chân dung Chính Hữu.
Cơ
quan chúng tôi có tục lệ sau các cuộc họp sơ kết tổng kết thường có mục vui cười.
Lần này cũng vậy, Nguyễn Khải khởi xướng: Tôi đề nghị anh Sách đọc những bài
thơ chân dung mới ra lò. Thời phong kiến vua uy quyền đến thế mà vẫn để một khe
hở, tha chết cho quan ngự sử khi có lời trái ý hoàng thượng, anh Sách cũng được
hưởng cái quyền miễn trảm ấy nên cứ đọc thoải mái. Xin đọc về tôi trước. Thực
ra lúc đó tôi chưa chính thức viết chân dung Nguyễn Khải, chỉ có mấy câu đùa tếu,
Nguyễn Khải vẫn cứ đọc làm mồi. Rằng trước khi tôi đi ra đảo Cồn Cỏ, vợ tôi lo
lắng, tôi có an ủi: “Em đừng tính quẩn lo quanh, họ chiến đấu chứ có phải anh
đâu”, rồi khi tôi gặp đồng chí bí thư huyện ủy Hòa Vang được triệu tập ra Bắc để
báo cáo thành tích chiến đấu, vợ tôi lại tưởng tôi đi B nên tôi phải nói: “Anh
đi một lát về ngay. Hòa Vang chính ở ngoài này đó em”. Chờ mọi người cười xong,
Nguyễn Khải tiếp: “Tôi chỉ nhớ có vậy, vả lại tôi vốn nhạt nên ông Sách khó viết
hay, bây giờ đề nghị anh đọc bài mới, những bài về anh em ngồi đây càng tốt.
Và
tôi đọc bài về Chính Hữu:
Tấm áo hào
hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng
chí tự bao giờ
Trăng còn một
mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan
trường giết chết thơ.
Mọi
người đổ dồn mắt nhìn thủ trưởng. Tôi cũng nhìn và thấy anh hơi nhếch mép, mắt
nháy nhanh sau cặp kính cận như thường thấy ở anh. Không khí chùng xuống một
lát. Nguyên Ngọc bảo tôi đọc lại rồi anh vỗ bàn khen hay.
Tôi
biết mình đã chọc vào nỗi đau của Chính Hữu, nhưng tôi biết anh đã chấp nhận.
Tôi chắc rằng anh đã hối hận kể từ bữa gặp Nhị Ca.
Sau
buổi đó, anh Nhị Ca gặp riêng tôi: - Cậu chọc đúng vào vết thương của Chính Hữu.
Đau lắm, nhưng không sao. Cậu đừng lo, ông ấy là bậc quân tử. Nhưng thánh còn
sai, tôi cũng khen cậu bạo miệng đấy, coi chừng sinh ư nghệ tử ư nghệ. Này còn
bài nào độc hơn, đọc mình nghe!
*
Chân
dung Tố Hữu là một trong những “độc chiêu” của Xuân Sách. Được viết từ năm 1973
khi Tố Hữu có bài thơ “Máu và Hoa” nhưng không được “phát hành miệng” như những
chân dung khác mà phải nằm đợi 19 năm sau, tức năm 1992 khi sách thơ Chân dung
Nhà văn được in ra mới được mọi người biết đến. Đó cũng là một “Kỷ lục”. Trong
câu chuyện về bức chân dung đặc biệt này, có nhiều chi tiết thú vị:
“Ông
Tố Hữu là người ngồi ở ngôi cao trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với
văn nghệ ông là đại thủ lĩnh, không có gì phải bàn cãi. Về thơ, ông là ngọn cờ
đầu của thơ ca cách mạng, của hiện thực xã hội chủ nghĩa như những nhà phê bình
có tên tuổi xưng tụng. Về nghệ thuật thơ cũng vậy: “thì treo giải nhất chịu nhường
cho ai” như một nhà thơ lão làng đã viết. Hai câu thơ trong bài Điện Biên của Tố
Hữu đã viết “Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam/ Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng”,
theo phân tích của nhà thơ nọ là hai câu thơ mẫu mực vừa kinh điển vừa hiện đại.
Ai dám cãi hoa mơ không trắng, cam không vàng. Các cán bộ đi thuyết giảng ai
cũng có thuộc và trích dẫn vài câu thơ của Tố Hữu, để thêm phần hấp dẫn cho bài
nói. Tôi đã một lần bị một đồng chí chính trị viên đơn vị mời tôi về nói chuyện
thơ với bộ đội, gửi thư lên Tổng cục Chính trị phê phán tôi là nói thơ mà chỉ
trích thơ Chế Lan Viên mà không trích thơ Tố Hữu. Hú vía! Bài thơ văn trung học
đại học năm nào mà chẳng có đề về thơ Tố Hữu, nó đã trở thành sổ gạo của từng
nhà. Tôi cũng được biết, vào những năm “Nhân văn giai phẩm”, có một nhà thơ bộ
đội viết bài phê bình thơ Tố Hữu có câu: “Thơ Tố Hữu như cốc xi rô pha loãng”.
Như thế thì nhiều phen “lên bờ xuống ruộng”, thân bại danh liệt một đời là phải.
Cũng chẳng biết kêu ai, cũng chẳng ai nói cho biết vì tội gì. Anh có viết một vở
kịch có tên là “Mưa bóng mây”. Tôi đùa, ông nên coi tai nạn như là mưa bóng mây
dù đó là mưa đá. Tôi cũng được nghe kể lại hồi còn ở trên chiến khu Việt Bắc, một
lần Tố Hữu định đọc thơ cho nhạc sĩ Văn Cao nghe, nhưng ông nhạc sĩ vội gạt đi:
“Thơ cậu như ca dao, hò vè có gì mà đọc!”. Chết là phải, tôi lập lại câu nói của
ông bác tôi mắng bọn con cháu mỗi khi lười biếng hoặc mắc lỗi. Vì thế khi làm
thơ chân dung về các nhà văn tôi phải nghĩ tới ông, làm thế nào để bài thơ xứng
tầm với ông. Có thể nói, đó là bài tôi viết đi viết lại hoài mà vẫn chưa ưng ý.
Hơn nữa, viết về ai ngoài đọc tác phẩm của họ ra tôi cũng tìm cách tiếp xúc với
họ để biết ý kỹ hơn về tính cách con người họ. Tôi đã từng được hầu chuyện các
bậc đàn anh, bằng cách này hay cách khác, và học hỏi được nhiều điều. Nhưng với
Tố Hữu thì không.
Tôi
biết ông, thấy ông thì nhiều lần đều là trong những buổi họp hành về văn nghệ,
tôi còn nhớ một lần ông đến cơ quan tôi nhân tập thơ “Cửa mở” của Việt Phương mới
ra đời. Khi nói đến tập thơ, đôi mắt ông lim dim nhìn xuống chúng tôi, giọng
cao lên một chút: “Đó là tập thơ ba lăng nhăng, tư tưởng ba lăng nhăng”. Tôi
không thể bắt chước nhà văn nọ, có tiếng là “đãng trí”, quên nhiều chuyện nhưng
ông lại nhớ kỹ ngày sinh của Tố Hữu. Hàng năm tới ngày đó ông lại tới nhà tặng nhà
thơ lớn một bông hoa hồng. Tôi cũng không thể lấy cớ có tác phẩm mới in đem tới
tặng Đại thủ lĩnh của mình. Tôi nhớ đời một chuyện. Một hôm tôi cùng một ông bạn
vàng cùng cơ quan đạp xe đi dạo ở đường Phan Đình Phùng. Con đường có ngôi biệt
thự có “cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt”, có truyện ngắn “cây táo ông Lành”
của anh thương binh viết và cái truyện đó đã khiến anh bị “trúng thương” nặng
hơn nhiều vết thương anh mang trong chiến tranh.
Khi
đi qua đó, anh bạn nói với tôi:- Này, cậu có nghĩ đến là bao giờ cậu được ở
trong một biệt thự như thế này không?
Tôi
trả lời:- Cậu tưởng mình nằm mơ chắc? Ba mươi tuổi rồi mới là thằng trung úy
quèn, sao lại nghĩ được ở ngôi nhà như thế này, có họa là làm đảo chính!
Không
ngờ trong một buổi họp chi bộ sau đó ông bạn vàng của tôi đem câu chuyện đó ra
trình làng:
-
Tôi cũng biết đồng chí Sách nói đùa, nhưng đùa như thế là xuất phát từ tư tưởng
không lành mạnh!
Cũng
còn may, tôi chưa bị ghép tội có tư tưởng phản động.
Vậy
thì làm sao tôi còn dám vào ngồi nhà đó. Nhưng rồi tôi cũng hoàn thành bài thơ
về ông vào năm 1973 sau khi có Hiệp định Paris về Việt Nam, nói đúng hơn là sau
khi nhà thơ Tố Hữu viết bài “Máu và hoa”, do cảm xúc của sự kiện đó. Tôi còn nhớ
sau khi đọc bài thơ đó tôi cứ lẩm bẩm máu và hoa… máu và hoa, rồi bật ra cảm hứng
viết: “Máu ở chiến trường hoa ở đây”.
Hằng
năm rồi mỗi khi Tết đến hầu như tất cả các tờ báo đều đăng thơ Tết của Bác Hồ
và đăng thơ Tố Hữu, và các báo đều đăng một bài thơ ấy, mà nếu theo quy ước thì
các tác giả không được gửi đăng một bài trên nhiều tờ báo cùng một thời điểm.
Ai làm thế sẽ bị cắt nhuận bút và bị nhắc nhở phê bình. Nhưng thơ Tố Hữu là ngoại
lệ: ai cũng thấy thế là phải, thơ hay càng đăng nhiều càng tốt! Thơ hay trả nhuận
bút cao bao nhiêu cũng chưa xứng! Một bài thơ bình thường lúc đó được trả từ
tám đến mười đồng ở báo Trung ương. Cỡ như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên… có
thể được trả từ mười hai đến mười lăm đồng. Như thế cũng là tươm, vì theo Nguyễn
Tuân lấy giá bát phở chín làm bản vị ba hào một bát thì một bài thơ cũng được
vài ba chục bát, đủ ấm bụng hàng tháng trời ăn điểm tâm buổi sáng. Còn nhuận
bút báo Tết của thủ lĩnh thì sao? Tôi được biết một tờ báo nọ phải đưa ra ban
biên tập bàn bạc, đi đến thống nhất là: tiền năm trăm đồng cộng với một cành
đào, một cặp gà trống thiến. Riêng tiền, nếu tính bằng phở là một nghìn bát.
Câu này thì tôi được nghe nói lại không biết có đúng không. Khi nhà thơ nhận
nhuận bút như vậy có nói: “ Nhuận bút trả như ri các nhà thơ của ta sống khỏe
hí!”
Trở
lại với bài thơ tôi viết về Tố Hữu. Chín mươi chín bài thơ tôi viết xong đều được
anh em đem truyền khẩu (hoặc tôi đọc trước những người tôi viết, trừ bài thơ về
Tố Hữu).
Viết
xong bài thơ tôi hiểu ngay rằng không thể nào truyền bá ra được, cũng phải viết
trời viết đất chứ làm sao bây giờ. Tôi biết có một nhà văn gửi một bản tường
trình lên thủ lĩnh tố cáo tôi đã làm thơ bôi xấu các nhà văn, rồi trích ra một
số bài, nhưng ông ấy nếu không có bài thơ về Tố Hữu thì chưa đủ sức nặng. Ông
liền ghi mấy câu ở vỉa hè nhại bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu: “Bầm ơi có biết không
bầm. Vôn ga con cưỡi, gà hầm con xơi. Con nay đã khác xưa rồi (…) Bầm ra ruộng
cấy bầm run/ Con ngồi sưởi ấm mà thương lại bầm … Làm thế nhà văn nọ vô tình đã
phạm thượng. Xuân Sách đã viết về những nhà văn như thế không thể viết về tôi
như vậy, tôi chờ.
Và
tôi cũng phải chờ. Một lần nhà văn Đặng Thai Mai gọi tôi đến nhà. Cụ bảo tôi đọc
bài thơ tôi viết về Tố Hữu cho cụ nghe. Thấy tôi chần chừ, cụ nói: “Cậu sợ tôi
phản cậu hay sao?”
-
Thưa bác, cháu đâu dám nghĩ về bác như thế, có điều cháu nghe lời ông Hàn Phi rằng
vua là con rồng nhưng có thể gần được thậm chí có thể cưỡi lên mình nhưng tuyệt
đối không được sờ vào cái vuốt dưới hàm. Cháu muốn giữ được cái đầu để hoàn
thành tập thơ.
-
Thế là phải, nhưng cậu đọc riêng cho tôi nghe cơ mà!
-
Thưa bác- tôi lại múa mép- Cái đạo của những trí giả như bác có cái hay trong bụng
không thể truyền cho người khác. Cho phép cháu khoe một chút, bài này là bài
hay.
Chúng
tôi ngồi trên sàn nhà bằng gỗ, cụ gác cằm lên đầu gối cười khục khục rồi mắng
yêu tôi: - Thằng tiểu quỷ!
Mùa
hè năm 1982, tôi lên Tam Đảo nghỉ mát vài hôm. Hồi đó khách còn vắng. Một buổi
chiều tôi một mình đi dạo trên con đường dưới bóng thông, tôi nhìn thấy nhà thơ
Tố Hữu đang đi về phía tôi. Tôi nghĩ ông không biết tôi nên cứ lẳng lặng đi qua
ông. Không ngờ ông gọi :
-
Xuân
Sách đó à?
-
Thưa vâng, chào anh.
-
Sách lên đây để viết hay sao?
-
Dạ không. Tôi được cơ quan cho đi nghỉ
mát ít hôm.
-
Ra rứa! Còn mình thì lên đây có việc.
Tất
nhiên là tôi không hỏi ông việc gì. Ông đặt nhẹ tay lên vai tôi, nói nhẹ nhàng.
-
Bên công an họ thu thập được những bài ca dao đồng dao, và những truyện tiếu
lâm thời bây giờ, có đến gần hai trăm trang đánh máy. Mình lên đây để đọc cho
yên tĩnh.
-
Thưa anh, anh thấy thế nào? Tôi mạnh dạn hỏi.
Và
tôi nhận được câu trả lời ngắn khá bất ngờ: “Cực kỳ phản động, cực kỳ hay.”
Có
hai ông Tố Hữu trong câu nói này. Tôi nghĩ vậy và chợt nghĩ giá như lúc này tôi
đọc bài thơ viết về ông mà ông cũng phán một câu như vậy thì tôi yên lòng. Xưa
nay đã từng có những nho sĩ nhờ có câu thơ hay, vế đối hay mà thoát chết đó
sao. Nhưng rồi tôi không đọc, và đến năm 1992 khi tập thơ được Nhà xuất bản Văn
Học ấn hành mọi người mới biết”.
Bài
thơ chân dung Tố Hữu “nằm chờ” suốt 19 năm đó như sau:
Ta đi tới đỉnh
cao muôn trượng
Mắt trông về
tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp
bay vào vũ trụ
Khi trở về
ta lại là ta
Từ ấy tim
tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt
Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng
gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến
trường, hoa ở đây.
*
Trở
lại việc in ấn tập Chân dung Nhà văn năm 1992. Hãy nghe Xuân Sách kể
lại trong Hồi ký Giải mã Chân dung:
Một
ngày tháng tư-1992. Tôi nhận điện từ chi nhánh NXB Văn Học ở Sài Gòn: Sách đã
ra lò. Lên ngay!
Từ
khi cầm bút, tác phẩm ra lò của tôi chưa đến nỗi nhiều nhưng cũng đủ làm nguội
cái cảm giác hồi hộp sung sướng của thuở ban đầu. Lần này thì khác, đứa con
tinh thần của tôi ra đời là tập thơ Chân dung nhà văn. Hành trình của nó
đã đi qua một chặng đường dài đến ba mươi năm. Ba mươi năm ấy biết bao nhiêu
chuyện.
Nhưng
như cái nghiệp đã vận vào thân, không đùa thì còn biết làm gì! Các chân dung lần
lượt xuống chiếu với nhiều cung bậc khác nhau. Có bài đùa một tí, có bài đùa
dai, có bài xót xa đồng cảm, có bài nghẹn ngào uất ức, có bài “mỗi lời là một vận
vào khó nghe”. Ra bài nào truyền tay bài đấy, truyền khẩu ở mọi nơi mọi lúc, ở
giờ nghỉ các cuộc họp, ở quán nước vỉa hè, ở cửa hàng bia hơi bánh tôm Hồ Tây, ở
quán thịt chó Hàng Lược… Và tất nhiên cũng được đặt lên bàn các cuộc họp của
Ban Thường vụ Hội Nhà văn, cuộc họp Ban Tuyên huấn Trung ương và các cơ quan chức
năng về văn hóa, văn nghệ, cơ quan bảo vệ văn hóa văn nghệ. Tôi cứ ngu ngơ như
kẻ điếc không sợ súng, hay nói như nhà phê bình VTN, “ông Sách bị quỷ ám”. Cũng
có lúc bị bầm dập tôi thấy cô đơn trơ trọi, cũng có lúc ngộ ra cái khoái cảm
tuyệt vời trong sự sáng tạo văn chương, tôi lặng lẽ đi tới. Biết đâu, “Dại chốn
văn chương ấy dại khôn”!
Ba
mươi năm sàng lọc được trăm bài, chín mươi chín bài xưng tụng các anh các chị đồng
nghiệp, bài thứ một trăm tự vẽ mặt mình!
Nhưng
làm thế nào để in ra thành sách? Nhiều người góp ý cho tôi. Anh Phùng Quán nói:
Thơ ông tuy truyền miệng truyền tay cũng coi như “một sàng trong xó bếp”, in ra
mới được coi là “một miếng giữa làng”! Có người khuyên không nên in ra mà để
lưu truyền như một thứ văn học dân gian, có khi tạo nên một dòng thơ Chân dung
như dòng thơ Bút Tre vậy, tạo việc làm cho các nhà sưu tầm khảo cứu hậu thế.
Có
người cảnh báo, từ truyền khẩu mà in ra giấy trắng mực đen của loại thơ độc hại
này là một khoảng cách “chết người”. Trăm năm bia đá, nghìn năm bia miệng, đâu
phải chuyện chơi!
Tôi
ghi nhận những lời khuyên ấy. Tôi nhớ lại một chuyện: Năm 1978 , tôi đi học ở Học
viện Chính trị quân đội. Trước ngày khai giảng, các học viên nêu những thắc mắc
chính của mình. Phần lớn ý kiến là chưa hiểu quan điểm “làm chủ tập thể”. Tôi
chú ý đến một học viên là Chính ủy một sư đoàn nổi tiếng về chiến tích và vị
Chính ủy là một cán bộ tiêu biểu. Anh nhận thức cuộc đời là bể khổ, khi hết
khóa học anh nói: - Tôi cảm ơn các đồng chí trong khóa học này đã góp ý về nhận
thức của tôi. Có đồng chí nói đây là một nhân sinh quan yếm thế, không phù hợp
với tư tưởng cách mạng. Đó là một tư tưởng hơi kỳ quặc của một Chính ủy, là phần
tiêu cực trong giáo lý đạo Phật… Tôi thành khẩn tiếp thu, có thể các đồng chí
đúng nhưng với riêng tôi cho đến lúc này tôi vẫn đinh ninh cuộc đời là bể khổ.
Còn
tôi cũng đinh ninh rằng phải in được tập thơ Chân dung. Một việc cực khó. Phải
thông qua một nhà xuất bản và Tổng biên tập các báo đã có nhiều bài học chua
cay trong việc này. In một cuốn sách, đăng một bài báo có “vấn đề” mà cơ cực ở
chỗ những vấn đề ấy có khi chỉ là ý kiến một số người, không được tổ chức công
khai bàn luận rộng rãi. Lỗi nhẹ thì kiểm điểm nghiêm khắc, lỗi nặng thì các vị
Giám và Tổng lặng lẽ cắp cặp đi chơi chỗ khác. Một lần tôi được tới nhà hát dự
buổi tổng duyệt một vở kịch, khán giả là một số bạn bè do tác giả mời, một số
phóng viên văn hóa văn nghệ của các báo, và các vị có chức trách phê duyệt. Và
quan trọng hơn cả là một vị lãnh đạo ở bậc cao. Hôm đó vị lãnh đạo cao cấp
không phải là người phụ trách về văn nghệ mà là người phụ trách lĩnh vực mà nội
dung vở kịch đề cập tới. Vị này là người vốn xuề xòa không quan cách. Tác giả vở
kịch rất mừng khi ông này tới dự. Một việc bất ngờ xảy ra: lúc vở kịch đã diễn
được một nửa thì vị lãnh đạo lặng lẽ cùng người bảo vệ ra về. Từ đầu tác giả đã
để ý tới nhân vật quan trọng ấy, lúc này hết hồn. Thế là hết, chỉ vài hôm nữa,
là báo chí sẽ lên tiếng “thăm hỏi sức khỏe” vở kịch và tác giả. Cũng may tác giả
là người đã có tên tuổi, đã được vua biết mặt, chúa biết tên. Ngay sáng hôm
sau, ông đến nhà riêng vị lãnh đạo để thỉnh thị. Cấp trên cười hồn nhiên:
-
Làm gì có chuyện mình bỏ về vì vở kịch có vấn đề! Mình chưa xem hết nên chưa có
ý kiến tổng kết được. Những gì mình đã xem cũng thấy được, cái cô gì đóng vai
cô nông dân diễn vui ra phết. Ông về họp anh em lại lấy ý kiến anh em rồi nâng
tầm tác phẩm lên là được. Xin lỗi nhé, mình phải về vì cái bệnh của mình trở chứng
không chịu được. Yên tâm đi, nhà văn trước hết phải chịu trách nhiệm về tác phẩm
của mình, cốt nhất là không sai lạc về chính trị là được. Thế nhá!
Vậy
thì tác phẩm, hay dở chưa biết nhưng chắc chắn là có “vấn đề”. Làm sao mà tìm
được một ông giám đốc xuất bản dám chịu trách nhiệm với mình. Có một nhà văn
làm giám đốc một nhà xuất bản ở địa phương đã đến tuổi hưu, ông đang làm thủ tục.
Có người bạn quen đem tác phẩm đến, ông giám đốc biết là tác phẩm hay nhưng
cũng có vấn đề nên còn e ngại. Ông bạn xúi ông làm sao sách in xong đúng vào
lúc ông xách gói về vườn là yên chuyện. Giám đốc xuôi lòng, tác giả vui mừng về
nhà chờ đợi rồi một bức thư gởi tới: “Ông, sách của ông tôi đã làm xong thủ tục
chỉ còn đem xuống nhà in thì anh em trong cơ quan họp lại nói với tôi, thủ trưởng
sắp về hưu còn niêu cơm để lại cho anh em chẳng lẽ lại bị đập vỡ. Ông thông cảm
nhé, là người nhà cả mà. Tôi vẫn giữ bản thảo, nếu ông cần tôi sẽ gửi trả”.
Mấy
anh em văn nghệ ở Vũng Tàu thường hỏi tôi: “- Anh vẫn định in tập Chân Dung chứ?
Liệu bao giờ thì in được?” Một lần tôi buột miệng: “Năm 92 in được. Tôi nói vậy
bởi thường nhẩm tính, năm 30 tuổi bắt đầu viết, năm 60 tuổi in ra, vừa lúc về
hưu là đẹp. Vậy mà sau này khi sách in ra có nhà văn lên án tôi là “cố ý in
sách đúng vào năm kỷ niệm Hội Nhà văn 35 tuổi, là có dụng ý xấu”. Thật oan uổng,
tôi hơi đâu mà để ý đến tuổi tác của Hội. Nói đặng, nếu sau này tập thơ của tôi
lại được khen chẳng hạn, chắc người ấy lại nói, “Xuân Sách rất có ý thức khi in
sách của mình đúng dịp Hội ta 35 xuân”.
Cuối
năm 1991, anh Hoàng Lại Giang, nhà văn, trưởng chi nhánh Nhà xuất bản Văn Học ở
Sài Gòn xuống Vũng Tàu:
-
Tôi xuống là để bàn với ông về việc in thơ Chân dung, ông đồng ý không?
Ông
Hoàng vừa nói vừa cười.
-
Đừng đùa làm tôi tổn thọ!
-
Không chỉ ý riêng tôi mà đã được Giám đốc tôi đồng tình. Chuyện không dễ nhưng
ông thử tính xem, bây giờ là thời điểm sau đổi mới, Văn nghệ được “cởi trói”,
tôi biết ông “máu” in, chúng tôi cũng liều… Thân với ông không chớp lấy thời cơ
này thì hỏng!
Tôi
vỗ mạnh vào bàn tay Hoàng Lại Giang: - Tiên sư “Tào Tháo”. Chúng ta làm!
Việc
đầu tiên là tôi nộp bản thảo để gửi ra Hà Nội duyệt. Chợt lóe lên một ý nghĩ,
tôi nói: - Gửi ra Hà Nội, dù ông giám đốc Lữ Huy Nguyên ngồi trong phòng riêng
đóng kín cửa mà đọc cũng không ổn, ông ấy sẽ cảm thấy những ánh mắt xuyên tường
nhìn vào khiếp lắm. Hay là chúng ta mời ông ấy vào trong này coi như một chuyến
đi nghỉ mát Vũng Tàu, rồi chúng ta làm việc. Ông ấy gật đầu là xong!
Hoàng
Lại Giang đồng ý tức thì:- Ông nói có lý, tôi sẽ về Sài Gòn thực hiện ngay!
Hôm
sau, Giang gọi điện thoại với giọng hồ hởi: Lữ Huy Nguyên đồng ý và sẽ thu xếp
vào sớm.
Những
năm ở Hà Nội, tôi có quen biết anh Lữ Huy Nguyên. Anh tính lành, làm việc cẩn
trọng và chu đáo. NXB Văn học do anh làm giám đốc có uy tín lớn. Ra được nhiều
sách không chỉ đúng mà hay, có nhiều phát hiện đổi mới. Nhà văn cỡ tầm tầm như
tôi mà có sách được in ở Văn Học là hãnh diện lắm. Trong những lần gặp anh
Nguyên chuyện trò, chưa bao giờ tôi đả động đến Chân dung. Nhưng tôi biết anh
không thờ ơ với những bài “tai tiếng” ấy và anh lại càng biết nếu in nó ra thì
sẽ thế nào. Tôi còn biết cấp trên rất chú ý đến tài đức của anh và việc cất nhắc
anh lên bậc cao hơn là chuyện có thực và rất gần.
Khoảng
một tuần sau, anh Nguyên và anh Giang có mặt ở nhà tôi. Sau một buổi chiều cùng
nhau đi dạo loanh quanh thành phố, buổi tối chúng tôi làm việc. Tôi mời Lữ Huy
Nguyên ra bãi biển. Ngồi trên chiếc ghế đá, dưới ngọn đèn sáng, chúng tôi thông
qua từng bài thơ một và trao đổi một số ý kiến ban đầu. Trong khung cảnh trời
cao biển rộng chúng tôi chẳng e ngại điều gì, bộc lộ hết ý nghĩ, thỉnh thoảng
còn xen vào những chuyện đời, chuyện người, và không thiếu những tràng cười thú
vị. Đến khuya chúng tôi mới quay về.
Sáng
hôm sau, thêm anh Hoàng Lại Giang bàn bạc, có thể tóm tắt như sau. Anh Nguyên đề
nghị bỏ hai bài, không, gọi là để lại, một bài viết về nhà thơ Sóng Hồng. Lý lẽ
của anh Nguyên là bài ấy chưa đến tâm của tác giả, chưa đến tâm của đối tượng.
Bài thứ hai viết về một nhà lý luận phê bình. Bài này hay - lời anh Nguyên -
nhưng chưa nên đụng vào ông này gay lắm. Ông ấy sẽ dồn tôi và anh đến cùng.
Cũng chẳng sao, nhưng đáng sợ là ông ấy có đủ khả năng làm cho tập thơ in xong
cũng phải đắp chiếu mà nằm đấy. Ông ấy là một cây lý luận hàng đầu của Đảng về
văn hóa văn nghệ. Như tôi biết, ngoài danh xưng “nhà” ông còn một danh xưng cao
hơn với tên gọi tắt là “Trung ủy” dù chỉ là dự khuyết suốt hai khóa. Anh em văn
nghệ thường thầm thì với nhau đó là một cây quan điểm lập trường, một tay bảo
hoàng hơn vua.
Ngoài
ra, còn sửa hai chữ ở hai bài khác. Tôi chấp nhận dù hơi tiếc, và “điều” luôn
hai bài khác ngồi ghế dự bị vào sân cỏ.
Lữ
Huy Nguyên nói với tôi bằng giọng nghiêm túc và nhã nhặn vốn có:
-
Tôi đề nghị anh cho nhà xuất bản chúng tôi được ấn hành tập thơ này. Tôi muốn hỏi
anh vài chuyện bên lề có được không?
-
Vâng, mời anh.
-
Nghe nói có người nước ngoài tới mua bản thảo tập thơ?
-
Có hai người, một từ Nhật đến gặp tôi, một người Mỹ qua trung gian.
-
Họ đặt số tiền ứng trước khá lớn?
-
Với ta thì thật lớn. Tôi tính ra một nhà văn xứ ta viết được quyển tiểu thuyết
nghìn trang, với chất lượng xứng tầm thời đại thì nằm mơ cũng không nghĩ đến số
tiền nhuận bút như vậy! Người Nhật còn hứa với tôi xin phép Nhà nước Việt Nam để
xuất bản hợp pháp.
-
Và anh từ chối?
-
Đơn giản là vì tôi tâm niệm phải xuất bản
trong nước!
Nguyên
quay sang Hoàng Lại Giang:
-
Anh xem có thể ứng trước cho anh Sách một số tiền được không? Chắc chắn là
không nhiều, nhưng có lẽ anh Sách xài tiền Việt dễ hơn tiền đô!
-
Khỏi cần! Cuối năm 1967 tôi đã vào chiến trường miền Nam, NXB Giải Phóng có ý tốt
ứng trước cho tôi 200 đồng. Thời giá hồi đó một bát phở ngon Hà Nội năm hào,
còn thuốc lá thì Trường Sơn một dãy ba hào/ Điện Biên lịch sử hai bao một đồng/
Nghìn năm văn vật Thăng Long/ Một đồng một gói bằng lòng thì mua. Tôi đi dịp đó
dự cuộc Tổng tiến công Mậu Thân. Ở chiến trường ra tôi nộp cho nhà xuất bản khoảng
ba chục bài thơ. Sách in ra tôi tới lĩnh nhuận bút. Nhà thơ “Ý Nhi xinh đẹp,
biên tập viên bắt tay tôi cười. Khó cho anh rồi, thơ của anh theo barem thì nhuận
bút hẻo lắm! Cũng tại thơ anh viết ngắn, lại không “leo thang” nên ít dòng. Bọn
tôi đã ưu đãi đưa một số bài ở bậc B1 lên bậc A, ngồi chung chiếu nhất với các
cụ mà cộng lại chỉ được 180 đồng, như vậy đáng ra anh phải nộp lại hai chục,
nhưng anh khỏi lo, nhà xuất bản đã quyết định xóa nợ cho anh! Tôi nói lời cảm
ơn và tiếc rằng không có tiền mời Ý Nhi đi ăn phở. Vậy các anh khỏi ứng trước dẫu
tập thơ này của tôi có trăm bài nhưng bài nào cũng ngắn, dài nhất cũng chỉ mươi
dòng, chẳng được bao nhiêu nhuận bút đâu!
Lữ
Huy Nguyên cười rồi cầm bút ký vào bản thảo:
-
Chúng tôi sẽ làm nốt vài thủ tục cuối cùng, anh Giang sẽ bàn với anh về chuyện
in ấn, sao cho càng nhanh càng tốt.
Hoàng
Lại Giang “đế”: -“Cưới vợ thì cưới liền tay”…
Khi
tiễn chân Lữ Huy Nguyên, tôi nói với riêng anh: - Lư có gì phân vân nữa không?
(Tên cúng cơm của anh là Nguyễn Huy Lư, tôi gọi thế là để biểu lộ tình cảm chân
thành và khâm phục).
Nguyên
đáp lại: - Anh yên tâm, tôi nghĩ suốt đời cũng làm được điều gì đó!
Chúng
tôi ôm nhau chia tay.
Hai
hôm sau, Hoàng Lại Giang trở lại, đem theo bản thảo, một xấp giấy can và mấy
cây bút kim:
-
Cái khó nó ló cái khôn, tôi nghĩ ta đưa vào nhà in để họ xếp chữ là không ổn.
Cái thứ thơ ngắn của ông thế nào công nhân cũng đọc khi xếp chữ xong và in thử,
lập tức những bài thơ sẽ bay ra ngoài và điều gì đến chắc ông rõ: Chết từ trong
trứng. Vì vậy, tôi đem giấy bút đặc biệt xuống để ông viết tay các bài thơ, viết
bằng chữ thường, chữ mẫu mà hồi bé chúng ta phải tập ấy. Khi đưa vào nhà in cứ
thế họ cho vào máy chạy. Cùng lắm hai ngày là gọn ba nghìn cuốn theo số lượng
mà nhà xuất bản đăng ký. Đúng ra thơ ông đã được truyền miệng rộng rãi, có thể
số lượng bản in gấp nhiều lần ba ngàn, nhà xuất bản có lãi và tác giả cũng được
ấm chân răng, nhưng làm thế nguy hiểm lắm, bị nghi ngờ ngay lập tức.
-
Cảm ơn Giang nhá, ông quan tâm chu đáo với tôi quá!
-
Mà tôi nói để ông rõ: Thường ở nước ngoài, phải là tác giả có cỡ lắm tác phẩm mới
được in bút tích của mình, mà cũng chỉ vài ba trang thôi, còn ông cả trăm bài,
nhất ông rồi đấy!
-
Đúng là mèo mù vớ cá rán!
Tôi
bắt tay ngay vào việc. Tôi nắn nót viết cái thứ chữ tập viết hồi xưa ở trường
làng với ông hương sư mặc áo dài the đen đứng lớp cầm tay thước gõ vào ngón tay
học trò với lời dạy: “Các con nên nhớ luyện chữ là luyện tâm tính con người”. Gọn
một ngày tôi viết xong, Hoàng Lại Giang ưng ý đem về Sài Gòn và êm đẹp làm sao,
sau một tuần tôi nhận được điện đi lấy sách.
Ngồi
trên xe từ Vũng Tàu lên Sài Gòn tôi mừng nhưng vẫn canh cánh nỗi lo. Đã sống một
thời gian dài trong chiến tranh, nhiều hoàn cảnh, nhiều luật lệ khắc nghiệt éo
le khiến số phận con người gặp nhiều bất trắc; cái sướng cái khổ, cái rủi cái
may đến bất ngờ không kịp đối phó. Trong cõi văn chương chẳng lấy gì làm to lớn
cũng đã có quá nhiều chuyện. Một cây bút trẻ có tài, lại chịu khó đi vào những
nơi là mũi nhọn của cuộc sống viết những trang sáng giá được biểu dương, sách
được đưa vào loại in số lượng tính bằng vạn. Ít lâu sau anh biến mất. Anh bị đi
tù mà chẳng kịp biết vì sao không có phiên xử, cứ lặng lẽ lên đường không kịp từ
biệt gia đình. Phúc cho anh sau bảy năm tu nghiệp trong nhà tù khi trở về viết
được gần nghìn trang sách thuộc loại có giá trị. Nhưng cũng khốn khó lắm mới in
ra được, cũng nhờ một ông giám đốc xuất bản có lương tâm và dũng khí. Dù quyển
sách không hề được dư luận công khai bình luận, bị thu gom không công bố, nhưng
bằng mọi cách tác phẩm vẫn đến được với người đọc. Sang thế kỷ 21, không khí
văn nghệ được dễ thở hơn, chúng tôi đã được đón tiếp tác giả Chuyện kể năm 2000
- nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại Vũng Tàu.
Năm
1973, một nhà văn ở cùng tạp chí Văn nghệ Quân đội với tôi đeo quân hàm đại úy,
được cử đi trong đoàn đại biểu Việt Nam dự đại hội Liên hoan Thanh niên thế giới
được tổ chức tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Rất mừng. Được cử đi đã là một niềm vui
lớn vì sự tín nhiệm chính trị. Trong thời chiến lại được đi dự một ngày hội lớn
thế giới còn phải nói gì nữa. Dù hoàn cảnh khó khăn, anh bạn tôi vẫn cố gắng tổ
chức vài cuộc liên hoan nhỏ để khao bạn bè. Tôi lúc đó đêm đêm đeo một balô gạch
tập hành quân chuẩn bị cho cuộc đi B dài. Anh chở tôi đi ăn một bát mì hoành
thánh đặc biệt ở cửa hàng người Tàu ngõ Hàng Lược. Chạm chén rượu, anh nói:
-
Mình với Sách cùng đi. Sách đi vào , mình đi ra. Là người viết, được đi là vui
rồi!
-
Anh đi Đông Đức, tôi đi Đức Cơ, chúng ta cùng đi, cùng vui.
Một
tuần trước khi lên đường anh bỗng nhận được lệnh ở lại. Người ta phát hiện ra
trong lý lịch của anh có chút tì vết ở mức độ “đi Liên Xô thì được nhưng đến Đức
nơi tuyến đầu giáp giới giữa hai phe có thành phốBerlin phân chia đông tây hai
phe thì không được.”
Lại
một chuyện xảy ra ở sân bay. Một cậu sinh viên được chọn đi du học nước ngoài.
Cậu ta con một gia đình bình thường nhờ học giỏi mà được đi. Việc lo hành
trang, thủ tục giấy tờ quá vất vả, cuối cùng được ra sân bay. Làm thủ tục xuất
cảnh, gửi hành lý xong, chỉ còn chờ giờ tàu cất cánh. Không biết ma xui quỷ khiến
thế nào, khi ngồi xuống chiếc ghế ở phòng chờ, cậu ta ngả lưng vươn vai kêu lên
một câu cảm thán : “Thế là sắp được làm người”. Chợt từ phía sau e é - đôi tay
cậu ta bị xiết chặt và cậu bị nhấc bổng ra khỏi ghế, và rời khỏi sân bay , tan
biến giấc mơ làm người do cậu ta dại dột thốt ra. Số phận chàng trai bất hạnh ấy
sau này như thế nào thì tôi không rõ…
Nghĩ
lan man thế rồi chột dạ, biết đâu cuốn sách của mình bị trắc trở phút chót, hãy
đợi đến lúc được cầm nó trên tay mới chắc ăn.
Xe
dừng trước nhà xuất bản gần chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi không xuống vội, qua cửa kính
tôi nhìn vào trong sân thấy đông người, trong đó có nhiều nhà văn mà tôi quen.
Họ đến mua sách của tôi, người cầm vài ba cuốn, có người ôm nách hàng chồng. Có
chuyện gì vậy, chẳng lẽ tác phẩm của tôi được chào đón đến vậy ư? Hoặc là cái của
này không nhanh tay mà bị cấm thì hết mua? Tôi có một tâm trạng, một động thái
kỳ cục, nhờ một người đi cùng vào nhận sách bản quyền và mua thêm đem ra rồi
quay đầu xe dông thẳng về Vũng Tàu.
Trên
xe, tôi nâng niu cuốn sách vừa vặn bàn tay, giống loại sách bỏ túi. 99 nhà văn
và tôi nằm mỗi người một trang, chật chội một chút nhưng không ai chen lấn ai,
nhòm ngó ai. Bìa cũng khá đơn giản, trên nền hoa văn li ti màu xám nhạt điểm một
bông hoa màu đỏ. Tôi giở nhanh từng trang - chưa cần đọc lại vì in đúng như bản
tôi viết tay nên không sợ mắc lỗi đến cuối sách thì hiện ra sự cố. Một tờ in rời
dán vào, đó là “Lời cuối sách” của nhà xuất bản mà tôi chưa được biết. Tôi xin
trích ra một số đoạn chính:
“…
Đây là những ký họa có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ
biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích
danh một ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả và người làm văn học vẫn
có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những
đặc điểm và khi nhìn vào những nét đặc tả ấy - tuy mất cân đối và đôi khi phiến
diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.
Chất
vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách
thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó..
Chúng
tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra
những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng
đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình, học hiểu mình thêm qua
cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong
truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy
đi tới phía trước.
…
Rất mong độc giả và các nhà văn nhận xét ra mối chân tình trong cuộc vui của
làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.”
Một
lần nữa tôi lại thông cảm với Lữ Huy Nguyên. Anh đã kịp thời dùng chiến thuật lập
lá chắn phòng ngự trong bóng đá. Còn có cách nào khác khi đối phương có một
hàng tiền đạo đông đảo và hăng hái tranh nhau bắn phá khung thành đối phương
không thương xót, cố mà phòng thủ kéo dài được thời gian không bị thủng lưới chừng
nào hay chừng ấy để có thể đưa sách ra thị trường.
Sự
cố thứ hai còn bi hài hơn. Ở trang cuối nơi ghi những người chịu trách nhiệm về
cuốn sách có một mảnh giấy trắng dán kín một dòng, như người bị vết xước phải
dán miếng băng keo y tế. Đó là chỗ in tên người chịu trách nhiệm về bản thảo (Nguyễn
Bảo). Mãi đến phút cuối khi sách đã in xong, nghe ngóng thấy có sự bất an, ông
này năn nỉ với giám đốc cho rút tên ra, ông sắp về hưu rồi, muốn được hạ cánh
cho an toàn.
Đề
nghị của ông ấy được chấp thuận, nhưng tiếc rằng sách đã in xong không thể in lại
nên bất đắc dĩ phải làm chuyện cắt dán. Cầm sách soi lên có thể đọc được dòng
tên người chịu trách nhiệm bản thảo, giống như con trẻ trong trò chơi trốn tìm
sau khi có chỗ ẩn nấp kín đáo rồi lại kêu tướng: Xong!
Thế
là đứa con ra đời. Vì mẹ nó không được “tròn” nên nó cũng không được “vuông”,
phải mang dị tật, báo hiệu những ngày sắp tới không bình yên. Mấy hôm sau, tôi
nhận được những thông tin không tốt lành: có lệnh mồm xuống nhà xuất bản, phải
giữ lại và niêm phong những tập thơ chưa kịp phát hành. Ở Hà Nội có nhiều cuộc
họp phê phán tập thơ, một số nhà xuất bản viết kiến nghị xử tội tác giả. Tuy
nhiên, tác giả không nhận được trực tiếp bản kiến nghị ấy. Họ gửi vào một số cơ
quan Trung ương và hai bản gửi về Vũng Tàu, một cho lãnh đạo và một cho Hội Văn
nghệ.
Xin
trích nội dung bản kiến nghị ấy:
Chân dung
nhà văn dẫu không nêu tên người, nhưng Xuân Sách đã lấy tên tác phẩm để
miêu tả thì chẳng khác gì gọi tên người đó ra.
Dưới con mắt
của Xuân Sách, chân dung nhà văn trở nên méo mó dị dạng. Cố nhiên Xuân Sách
cũng tỏ ra xu phụ nịnh một số ít người.
Bằng giọng
thơ châm chọc, giễu cợt, bằng thái độ cao ngạo răn dạy kẻ khác, kích động kẻ
khác, Xuân Sách đã mượn cách tả Chân dung để:
- Bôi nhọ,
phỉ báng, thậm chí vu khống đối với nhiều nhà văn đáng kính đã quá cố.
- Xuyên tạc
lăng mạ đời tư nhà văn một cách vô trách nhiệm, đặc biệt là các nhà văn nữ, gây
những hậu quả cực kỳ xấu đối với họ.
- Với vị trí
văn học hạn chế của mình, Xuân Sách đã gây không khí bất lợi cho sự đoàn kết nội
bộ của Hội.
Chúng tôi
coi đây là một vết xấu trong sinh hoạt văn hóa của chúng ta, đặc biệt trong quản
lý xuất bản.
Chúng tôi
xin kiến nghị lên các cấp thẩm quyền mấy điểm:
1. Xem xét lại
trách nhiệm của người cấp giấy xuất bản, của giám đốc Nhà xuất bản Văn Học và
các biên tập viên đã cho in cuốn sách.
2. Phải có
biện pháp thực sự thu hồi và hủy bỏ cuốn sách.
3. Ban chấp
hành Hội Nhà văn xem xét tư cách của nhà văn Xuân Sách và có kỷ luật thích đáng
chiếu theo điều lệ Hội vì đã xúc phạm nhân cách gây mất đoàn kết nội bộ. Kỷ luật
cần được thông báo cho toàn thể hội viên biết.
Kính mong
Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao, Ban Chấp hành Hội
nhà văn xem xét bản kiến nghị này”.
Sau
những lời luận tội đanh thép và các biện pháp xử lý nghiêm túc là mấy trang chứa
đựng những chữ ký như rồng bay phượng múa của Bốn Mươi Mốt nhà văn đáng kính. (Tôi
chợt nhớ tới bộ phim Người thứ bốn mốt khá hay của Liên Xô trước đây ). Có nhà
văn còn ghi thêm trước khi ký. “Tôi không thể nào tưởng tượng được, với nội
dung toàn nói xấu gần như toàn bộ Hội nhà văn như vậy lại có thể được in tới
3000 cuốn và nghe nói đã “lập tức” bán được 600 cuốn rồi. Ông ấy nghĩ thế cũng phải,
sự thật nhiều khi khác xa trí tưởng tượng của nhà văn.
Tôi
phát hiện ra trong số 41 người ký tên có ông ấy và 26 nhà văn nữa không có chân
dung trong tập thơ. Tôi không hiểu làm sao lại thế.
Một
nhà văn bậc đàn anh giải thích cho tôi. Hoặc giả họ có tính bầy đàn cao, đụng tới
đồng loại là đụng tới họ. Hoặc giả… chuyện này có thật, một ông nhà văn tai tiếng
thì to nhưng tác phẩm lại nhỏ nói với mình “cái thằng Xuân Sách văn thơ tầm tầm
chẳng ai chú ý, nên bày trò Chân dung để chơi trội. Chẳng qua hắn mượn tên tác
phẩm và vài câu thơ, ý thơ của người ta rồi xào xáo lắp ghép vào, có gì sáng tạo
đâu”. Nghe vậy mình bảo “thế thì ông quan tâm làm gì cho rách việc?”. Bất ngờ,
ông ấy cao giọng: Nhưng một người như tôi tại sao nó lại không đưa vào? Láo!”.
*
Đối
với các “Bậc Trưởng Lão” từ thời 30-45, những tưởng Xuân Sách sẽ bị mắng mỏ là
“phạm thượng”, “hỗn láo” hay đại loại như vậy. Nhưng Thơ Chân dung đã nhận được
sự đối xử rất quân tử. Chỉ ví dụ như với ba Đại gia là Nguyễn Tuân, Xuân Diệu
và Hoài Thanh:
Chân
dung Nguyễn Tuân:
Vang bóng một
thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng
muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu
tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại
trót lỡ ưu phiền.
Cụ
Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách... cao sang và thâm trầm, thích
ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem, nghe thơ và phán: “Hóm, thằng
này hóm”.
Chân
dung Xuân Diệu:
Hai đợt sóng
dâng một khối hồng
Không làm
trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói
mới nhà không mới
Riêng còn chẳng
có, có gì chung.
Và
phản ứng của Xuân Diệu: Xuân Sách kể: Một lần gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi,
tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ
thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc: Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu
đi vào cõi bất tử!
Chân
dung Hoài Thanh:
Vị nghệ thuật
nửa cuộc đời
Nửa đời sau
lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn
một chút duyên
Lại vò cho
nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới
thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể
tất nổi câu nhân tình
Giật mình
mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh
rượu bóng hình cũng tan.
Trong Lời
cuối sách nhân NxbVăn học tái bản cuốn Thi Nhân Việt Nam, nhà phê
bình văn học Từ Sơn viết: “Một lần khác,
vẫn ở bên giường cấp cứu, sôi nổi, vui vẻ, chúng tôi bàn về thơ “chân dung nhà
văn” đang lưu hành trong giới văn chương. Cha tôi khe khẽ đọc lại mấy câu “thơ
chân dung” nói về ông mà ai đó đã đọc cho ông:
Vị nghệ thuật
một nửa đời
Nửa đời lại
phải vị người cấp trên
“Thi nhân”
còn một chút duyên
Chẳng cầm
cho vững lại lèn cho đau!...
Đọc xong,
cha tôi bình: “Tay này nó biết mình mê Kiều nên nó dùng lối lẩy Kiều để vẽ chân
dung mình thì khéo thật. Tuy vậy câu thứ hai nói oan và nói ác quá. Cha biết có
không ít người nghĩ như thế về cha”. Nói xong, cha tôi có vẻ hơi buồn buồn”.
Trong
bài viết Lời cuối sách này, Từ Sơn cũng đã nói rõ tại sao Hoài Thanh lại có cái
“nhìn lại” rất nghiêm khắc với “Thơ Mới” và nhất là tự phê phán Thi Nhân Việt
Nam tới mức như Xuân Sách đã viết “Thi nhân còn một chút duyên / Lại vò cho nát
lại lèn cho đau”!
*
Những
câu chuyện về Nguyễn Minh Châu, Phù Thăng và chân dung về hai nhà văn này, theo
tôi là hay nhất về cả chân dung bằng thơ và chân dung bằng văn xuôi. Với hai
nhà văn này và cộng thêm Xuân Sách ta có “Bộ ba” điển hình độc đáo về cả văn
tài cũng như cuộc đời đầy bất trắc của những nhà văn chân chính. Tôi sẽ trở lại
ba nhà văn này khi có điều kiện…
Xuân
Sách có bài thơ “triết lý” rất nhẹ nhàng mà sâu sắc về nhân tình thế thái và
tuy thường nói là mình liều mạng “điếc không sợ súng” nhưng chính Xuân Sách là
một trong số ít nhà văn, nhà thơ rất “biết mình, biết người”, đã tự nhận thấy hạn
chế của mình trong sự nhận thức thế giới, câu đầu bài thơ cũng là nhan đề bài
thơ:
Có nhiều điều
mà tôi chưa biết
Hòn núi kia
có tự bao giờ
Con kiến bé
tí teo đến vậy
Còn con voi
to lớn khổng lồ?
Có nhiều điều
mà tôi chưa biết
Lá mâm xôi
giống lá mãn đình hồng
Một bên nảy
ra chùm quả dại
Một bên hoa
rực rỡ đến nao lòng?
Có nhiều điều
mà tôi chưa biết
Nước suối
trong mát ngọt lịm người
Rồi suối chảy
ra sông ra biển
Muối ở đâu
mà biển mặn biển ơi?
Có nhiều điều
mà tôi chưa biết
Tằm ăn dâu
xanh lại nhả tơ vàng
Nguyễn Du viết
Kiều bao đêm trắng
Bao sợi tóc
xanh bạc trắng bên đèn?
Một cô Kiều
sắc tài nhường ấy
Trải qua nhiều
chìm nổi truân chuyên
Không dứt được
lòng tham danh lợi
Khiến Từ
công chết đứng trận tiền.
Nhưng có lẽ
cuộc đời vốn vậy
Biển cứ mặn
mòi, suối cứ ngọt êm
Voi cứ khổng
lồ, kiến thì bé tẹo
Cái tốt dù
nhiều cái xấu vẫn kề bên.
Sài
Gòn, tháng 10-2010
Chú
thích:
(1)
Xuân Sách (4/7/1932 - 2/6/2008) tên thật là Ngô Xuân Sách, bút danh khác: Lê
Hoài Đăng, là hội viên Hội Nhà văn VN. Ông được nổi danh khi là tác giả phần lời
các ca khúc Đường chúng ta đi (dựa trên tứ thơ của Hoàng Trung Thông và Chế Lan
Viên), Cùng anh tiến quân trên đường dài (nhạc Huy Du), đặc biệt nổi bật qua tập
thơ Chân dung nhà văn.
Quê
tại xã Trường Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở trước khi ông qua đời:
TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Quá
trình hoạt động: Từ năm 1960 đến 1980: Biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Từ năm 1981 - 1984: Phó giám đốc NXB Hà Nội. Từ năm 1985 đến 1995: Chủ tịch Hội
Văn nghệ Bà Rịa -Vũng Tàu...
Đêm
2 tháng 6 năm 2008, ông qua đời tại bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội), sau hai
tháng nằm viện tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội do tai biến mạch máu não. Ngày 6
tháng 6 năm 2008, linh cữu nhà văn Xuân Sách được đưa về an táng tại quê nhà
Thanh Hóa, theo nguyện vọng sinh thời của ông.
Tác
phẩm: Cô giáo làng (truyện ngắn, 1962); Đội du kích thiếu niên Đình Bảng (truyện,
1964); Mặt trời quê hương (tiểu thuyết, 1971); Đêm ra trận(truyện ngắn, 1974);
Con suối mặt gương (thơ, 1974); Phía núi bên kia(tiểu thuyết, 1977); Nơi đi và
đến (thơ, 1979); Rừng bên sông (tiểu thuyết, 1984); Đường xa (thơ, 1986); Cuộc
hôn nhân bị đánh tráo (tiểu thuyết, 1991); Chân dung nhà văn (thơ, 1992); Người
ơi, người ở lại (truyện ngắn, 1995); Cõi người (thơ, 1996).
100.
Xuân Sách (Tự họa)
Cô giáo làng
tôi đã chết rồi
Một đêm ra
trận đất bom vùi
Xót xa Đình
Bảng người du kích
Đau đớn Bạch
đằng lũ trẻ côi
Đường tới
chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa
sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm
đạm quê hương cũ
Ở một cụm đường
rách tả tơi.
(2)
Tập Hồi ký Giải mã Chân dung của Xuân Sách do ông Nguyễn Hòa vcv cung
cấp. Những dẫn chứng không đánh số chú thích là đều lấy từ Hồi ký Giải mã
Chân dung ./.
ĐỖ NGỌC THẠCH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét