Ngô
Nhật Đăng
1/ Hôm nay tròn 30 ngày cha tôi rời cõi tạm, tôi vẫn giật mình vì cứ ngỡ ông vẫn còn đâu đây. Dù rằng những ngày cuối cùng ông nằm trên giường bệnh tôi biết không thể níu kéo ông ở lại thêm nữa. Mười ngày cuối cùng ông không chịu tiêm, uống thuốc, không chịu ăn (phải dỗ dành rất lâu ông mới ăn một chút) và nhất định không chịu nói gì nữa chỉ cười và giả vờ ngủ. Khi chúng tôi đưa ông vào bệnh viện với ý định kiểm tra phổi thì ông bị hôn mê luôn, bác sỹ nói với tôi: Hỏng hết rồi anh ạ tim, gan, phổi, thận vv… tức là lục phủ ngũ tạng không còn gì nữa. Tôi choáng váng, nó ngược hoàn toàn với kết quả khi bố tôi ra viện trước đó một tháng. Anh ta còn nói thêm “em không hiểu tại sao lượng Natri trong người cụ nhiều thế, anh có thể đưa cho em xem tất cả các đơn thuốc và phác đồ điều trị của cụ từ trước đến giờ được không?”. Để mà làm gì, tôi nghĩ. Ngay đêm đó bố tôi qua đời. Hôm sau khi làm thủ tục tôi phải viết một tờ giấy đại ý: Cám ơn bệnh viện đã tận tình cứu chữa và xin không khám nghiệm tử thi, họ còn nói thêm anh khai chính xác ngày sinh, hộ khẩu cho cụ để còn làm chế độ vì “Giấy chứng tử” chỉ cấp một lần.
Để
mà làm gì, tôi lại nghĩ.
Khi
quay về nhà anh em tôi thấy một tờ giấy ném qua khe cửa của anh bác sỹ vẫn đến
chăm sóc cho ông vào mỗi buổi tối. Anh viết “Các em ơi¸các em mang ông đi đâu
mà không báo cho anh biết”.
Ngày
bé tôi có được nghe câu thơ:
Dấu hỏi (?) bâng
khuâng đứng giữa đời
Sên bò quanh quẩn giọt
máu rơi
Chấm than(!) một dấu
chiều nay hiện
Đinh đóng vào săng
câu trả lời
Sau
này biết câu thơ trên không giống hoàn toàn với câu thơ của Vũ Hoàng Chương
nhưng tôi vẫn thích hơn vì tính “hội họa” của nó như ông anh (học ở Tổng
hợp Văn) khi đọc cho tôi nghe có nói “Em thấy dấu hỏi (?) có giống con sên
đang bò quanh giọt máu và dấu chấm than (!) có giống cái đinh đang đóng vào cỗ
quan tài không?” .
Lớn
thêm một chút biết câu “Cái quan định luận” chỉ cảm nghĩ sống trên đời
cho đúng thật khó. Đi học Tử Vi thày dạy loại người chia làm 6 loại: Hiền,
Lương, Anh, Hùng, Tuấn, Kiệt.
1 -
Toàn danh và tòan thân như Trương Lương, Phạm Lãi
2
- Toàn danh mà không toàn thân như Hàn Tín, Ngũ Viên
3
- Toàn thân mà không toàn danh thì là loại vứt đi.
Bác
còn nói “Bác là loại hai, Hàn Tín thôi, bố cháu mới là loại một, bác phục bố
cháu ở điểm đó."
Khi
đi học vẽ để cho đủ “Cầm, Kỳ, Thi, Họa, Lý số” (rút cuộc biết rất nhiều
thứ mà thật ra chẳng biết gì).Thầy dạy vẽ lại dạy: Bác chia loài người làm hai
loại, số đông và số ít và nói thêm cháu chọn đứng ở phía nào là tùy cháu. Va đập
với cuộc đời tơi tả, lấy vợ, đẻ con, kiếm tiền… có những lúc “ngồi trên đống tiền”
có những lúc không một xu dính túi, nợ nần ngập mặt vợ lo cho từng điếu thuốc.
Bốc một quẻ Dịch thì kết quả lại là: “Người quân tử bị hại đến nơi giường chiếu”
tức là đến mất nơi cư trú. Kỳ lạ, không hiểu “ma xui, quỷ khiến” thế nào đùng
đùng bán nhà đưa tiền cho người khác dắt díu vợ con đi xuống Kim Mã thuê nhà ở.
Cũng chỉ mong vợ con sẽ đỡ khổ hơn, vào Sài Gòn với điều kiện “Tao sẽ giải quyết
mọi việc cho bọn mày và chúng mày phải lo cuộc sống tối thiểu cho vợ con tao
ngòai Hà nội” “OK, no problem”. Khi đi Hà Nội còn là đầu hè quay ra đã cuối
thu, từ sân bay về đến Quang Trung vợ con ra đón trông như hình nhân.
-
Anh ơi không có tiền chủ nhà đuổi, bạn em đón ba mẹ con về ở, bây giờ mình về đấy.
-
Chúng nó đâu, những thằng em, thằng bạn anh ấy?
-
Làm gì có ai
Giận
đời, giận mình, thương vợ con, mình là lọai người gì đây trong bảng xếp hạng.
Nhớ bố, có lần ông nói “Sống là người lương thiện mới là điều đáng kể con ạ”.
Muốn
kêu lên như Chí Phèo: “Ai cho tao làm người lương thiện”.
Hôm
bố mất sau khi đưa ông xuống “nhà lạnh” hai vợ chồng về nhà, bật laptop đọc
Chân dung tự họa của ông, rùng mình thấy sự đáng sợ của chữ nghĩa. Tự nhiên
khóc tu tu như trẻ con, vợ bảo anh ơi cứng rắn lên để còn lo cho bố.
Chúng
tôi đưa ông về quê cho ông được ở gần ông bà, nhìn dòng người dài dằng dặc đưa
ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, những giọt nước mắt chân thành của những người
nông dân ăn mặc tồi tàn, họ đâu cần biết ông là người nổi tiếng và ông đã bỏ
quê ra đi từ ngày còn trẻ. Ông không kể nhưng tôi biết khi ra đi ông đã thề sẽ
không quay trở lại và một sự thật nữa là ông lại tha thiết muốn được về nằm
vĩnh viễn ở mảnh đất này. Tôi tự nhủ: Bố ơi con có thể khắc trên bia mộ bố
dòng chữ “Nơi đây an nghỉ một người lương thiện”.
Khi
ra về vợ tôi nói:
-
Anh
nhìn kìa, mấy chục ngôi mộ đều xếp hàng dọc, một mình mộ bố lại nằm ngang, ông
“ngang” cho đến lúc chết.
Rồi
cô ấy thì thầm:
-
Anh
Ái đưa em hai triệu và bảo cả làng lo cho đám ma của bố em, không có người nấu
cơm, anh đã đặt cơm ở một nhà hàng ngoài thành phố Thanh Hóa rồi. Về đó chỉ mất
nửa tiếng em cầm tiền này để thanh toán.
Chao
ôi, họ sợ rằng những người ở Hà Nội về sẽ không nuốt nổi những món ăn nhà quê.
Tôi ứa nước mắt, bố tôi là người thế nào, chúng tôi là người thế nào có xứng
đáng nhận những tấm lòng như vậy không?
Tôi về đến bến sông
xưa
Hút tàn điếu thuốc mà
chưa gọi đò
Nhìn theo ngọn khói
vu vơ
Nhớ thương thì có đợi
chờ thì không
(Thơ
bố tôi )
*
*
*
Mấy
hôm trước chú Trần Hoàng Bách phone cho tôi:
-
Cháu
đọc chưa, chú ức quá bọn nó viết về bố mày có nhiều bịa tạc ẩu tả lắm.
Ồ!
Tôi thóang nghĩ bây giờ thiếu gì lọai kên kên chuyên nghiệp ăn nhuận bút. Nhưng
rồi tôi tò mò vào google, kiên nhẫn đọc hàng trăm bài viết về bố tôi. Chân
thành có, sâu sắc có, hời hợt có, hiểu đến gan ruột ông cũng có và tất nhiên giả
dối cũng có. Thậm chí có người còn gọi ông là “lương tri thời đại”, là “người
cõi khác”…
Hôm
nay cô Nam gọi điện “Đăng ơi đến nhà cô nhé”, khi tôi đến cô nói sắp
49 ngày của bố cô muốn viết một bài về bố, rồi cô đưa tôi xem lá thư cuối cùng
bố tôi gửi cho cô, tôi cảm động khi nhìn nét chữ quen thuộc của ông đề ngày
25-10-2007, nội dung chỉ là thăm hỏi bình thường và thậm chí vẫn hài hước “anh bây giờ hàng ngày vẫn hát câu: Những
binh đoàn nối nhau ra tiền - liệt - tuyến” và hẹn khi nào vào Sài Gòn
nhớ gọi cho ông. Nhưng dòng cuối cùng ông viết ra giữa trang: "Nhớ không được vào chậm em nhé."
Hôm
ở nhà tang lễ cô ôm tôi khóc: "Vô
duyên quá Đăng ơi, cô hẹn gặp bố ở Sài Gòn thì lại gặp ở bệnh viện Hà Nội và
hôm nay lại là ở đây."
Cả
buổi sáng hai cô cháu chỉ ngồi nói về ông, cô bảo sao cháu không ghi lại những
chuyện này của bố,để lâu quên mất Đăng à.
Thì
viết, đơn giản chỉ là cố hiểu ông là người thế nào.
2/
Dân mình háo danh một cách kỳ lạ, tôi đã đi khắp nuớc “Từ Mục nam quan đến
Mũi Cà mau” sống gần đủ hết với 50 “dân tộc anh em” nước ngoài cũng từng
đi, nhưng cũng chưa dám nói con người là giống háo danh mà chỉ dám nhận thuộc
tính ấy là của đồng bào mình (tất nhiên là có cả tôi). Trong 1, 2 thập
niên gần đây nước ta có phong trào họ họ làm gia phả và cố moi ra trong họ mình
phải có ông quan nào đó (dù là quan hạng bét). Họ nhà tôi cũng vậy, mở cuốn
gia phả dày cộp ra dòng đầu ghi: Cụ viễn tổ tên là Ngô Nhật Đại từ Châu Ái (tức Thanh
hóa) sau bao nhiêu đời không rõ di ra Đường Lâm Sơn Tây đến đời ông Ngô Đình
Mân thì lấy con gái ông Phùng Hải mở ngoặc tức là cháu gái vua Phùng
Hưng (kinh chưa) đến năm 40 tuổi đẻ ra Ngô Quyền (khiếp
chưa) và họ nhà tôi chọn Ngô Quyền làm ông tổ.
Vào
các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu sẽ lấy ngày giỗ vua Ngô Quyền là ngày giỗ tổ và tính
từ đó đến tôi là đời thứ 47.Tôi không dám hỏi nếu ông Ngô Quyền không làm vua
thì có được chọn làm ông tổ không vì sợ các cụ đánh cho bỏ mẹ. Lại nhớ một lần ở
Budapest đứng trên quảng trường Anh hùng nơi đặt tượng các vị vua của đế quốc
Áo Hung. Ông bạn Hungary bảo tôi: dòng họ tao vinh dự được đóng góp 7 vị vua
cho đất nước này. Tôi bảo dòng họ tao cũng cống hiến được hai ông vua một bà hoàng
hậu và một ngài tổng thống, rồi cũng vênh mặt lên trước con mắt khiếp đảm và
ghen tỵ của mấy ông bạn Việt Nam đi cùng, nhưng trong đầu tôi thì nhớ đến câu
chuyện trong Trung Hoa xú lậu nhân à quên Người Trung Quốc xấu xí chứ, hay là tạp
văn Giả Bình Ao nhỉ? đại khái có một thằng ăn mày chỉ vào nhà một ông
quan lớn và gào to: Hồi ông nội tao làm tể tướng thì ông nội mày còn đi ăn mày.
Chi
họ nhà tôi được gọi là dòng Ngô Trảo Nha (nanh vuốt) do câu nói của chúa
Trịnh Tùng: “Khanh là trảo nha của xã tắc”. Ông tổ được gọi là “trảo
nha” đó là một quận công (lại quận công) tôi nhớ ông chỉ vì trong gia
phả ghi (lại gia phả) ông có 9 bà trong đó có bà chính thất là quận chúa con Trịnh
Tùng, nhưng ông lại mê bà giúp việc hơn ông 11 tuổi và cưới luôn làm thiếp, bà
quận chúa ghen tuông nên ông đem bà trả lại phủ Chúa, chúa Trịnh tức giận cách
chức ông và tước quyền được mang họ Ngô. Nhưng vì tiếc tài của ông nên một thời
gian lại được phục chức, lấy lại họ và vào trấn thủ bờ bắc sông Gianh. Kể ra Trịnh
Tùng cũng là người liên tài, chứ tội ấy thì dễ “tru di tam tộc” lắm (nhân
vật này được đánh giá như Tào Tháo của Việt Nam). Một chi di cư vào Đồng
Hới và sinh ra gia đình khét tiếng đó là nhà ông Ngô Đình Khả cha đẻ của Tổng
thống Ngô Đình Diệm (ông Ngô Đình Khôi và con là Ngô Đình Huân bị xử bắn
năm 1945). Còn chi nhà tôi do một ông quận công (lại quận
công nữa) quay về Yên Lai nay là xã Trường Giang, huyện Nông Cống Thanh
Hóa lập nghiệp. Dòng họ bắt đầu suy vi theo nghĩa không còn ông quan lớn nào nữa
vì cả quãng thời gian dài dằng dặc (đến tôi là đời thứ 11) chỉ có một người mà
tôi gọi là cụ cố ngũ đại làm đến chức “án sát” Ninh Bình rồi Bố chánh tỉnh Quảng
Bình và sau đó vào Huế làm chức tương đương “cục, vụ viện” gì đó
trong Bộ Giáo dục theo cách gọi như bây giờ. Có lẽ do phẫn chí ông bỏ về theo
phong trào Cần vương phò vua Hàm Nghi. Tôi kính phục về cái chết của ông, sau
khi thất bại, học trò yêu bị giết, con trai bị bắt ông lên chiếc thuyền trên
con sông cạnh làng uống rượu, đọc thơ, đến ngày thứ 3 khi không nghe thấy tiếng,
dân làng ra thì thấy ông đã chết. Một ông bác tôi đã bỏ ra hàng 10 năm chạy vạy
khắp nơi chỉ để xin cho cụ được cái “Bằng” chứng nhận là Danh
nhân lịch sử “cấp tỉnh” rồi mới yên lòng nhắm mắt. Nhưng dòng nhà tôi học
giỏi khét tiếng, bác ruột tôi đã từng được Công sứ Pháp công kênh trên vai chụp
ảnh vì “can tội” học giỏi nhất xứ Trung Kỳ, bố tôi cũng được gọi là “thần đồng”.
Còn giáo sư, tiến sĩ cả ở Anh, Pháp, Úc thì nhiều vô kể. Ở quê thì cứ đứa nào
đi thi đại học là đỗ, chỉ riêng nhà tôi ngoài một cô em gái còn lại chả có đứa
nào học qua đại học dù nổi tiếng học giỏi. Có lần một bà tiến sĩ người Đức hỏi
tôi : "Anh là tiến sĩ ngành gì ?" Tôi trả lời : " ... tôi
là tiến sĩ ngành lang thang."
Không
ai được lựa chọn quê hương và cha mẹ, với tôi hồi còn trẻ khái niệm quê thật mơ
hồ, năm 12 tuối được về quê lần đầu tiên, lần thứ hai thì đã ngòai 40 mà lại do
vợ dẫn về. Vợ tôi kể: hôm cưới con o Can (em bố tôi ở Hải Phòng) em
nói với các o các chú, cháu lấy chồng hơn 10 năm mà chưa biết quê chồng ở đâu. Thế
là các bà cô phải tổ chức một chuyến cho vợ tôi về quê nhận họ hàng.
Chưa
ai giải thích được nguyên do sự kỳ thị vùng miền ở nước ta, ngày nhỏ đi học thì
sách giáo khoa đổ lỗi cho chính sách chia để trị của “thực dân Pháp” bây giờ thực
dân đã không còn tồn tại gần thế kỷ trên đất nước ta mà sự kỳ thị ấy còn nặng nề
gấp bội. Như quê tôi chẳng hạn nào là “ăn rau má, phá đường tàu” rồi “cờ bạc
Thanh Hóa” thậm chí trong cộng đồng xuất khẩu lao động ở các nước Đông Âu thời
XHCN còn có câu đối :
Trâu toi bò dại trai
Thanh Hóa
Lợn sề chó cái gái tỉnh
Thanh
Bây
giờ cứ rảnh rỗi là vợ chồng con cái lại kéo nhau về quê, thấy ấm lòng nhưng
cũng day dứt .
3/ Ông
bà nội tôi có 6 người con, sau khi sinh bác tôi ông sang Pháp 4 năm, khi quay về
đẻ liền tù tì bố tôi và 4 người em nữa chỉ cách nhau chỉ một và hai năm.
Ông
tôi chắc là đi lính vì được gọi là ông Đội và còn được thưởng cả huân
chương nữa. Dân làng kể có lần một tốp lính Pháp vào làng, có người báo ông tôi,
ông ăn mặc chỉnh tề đeo huân chương đi ra, viên chỉ huy nhìn thấy đứng nghiêm
giơ tay chào rồi rút thẳng. Một ông anh họ của tôi giờ cũng đã gần 70 tuối khốn
khổ vì hồi cải cách ruộng đất bị “đội” tra hỏi xem huân chương của ông tôi và sắc
phong của cụ cố giấu ở đâu. Bảng sắc phong của cố tôi giờ vẫn còn; nhưng huân
chương của ông tôi đã mất nên không biết là lọai gì. Một ông anh họ khác của
tôi khẳng định với tôi là Bắc Đẩu Bội Tinh, tôi nói em nghe đó là Huân chương
cao quý nhất của nước Pháp nếu người Việt Nam mình có được thưởng thì chắc phải
cỡ “Đại Việt gian” như cụ Thượng Phạm Quỳnh chẳng hạn, chỉ có thế mà ông ấy
giận tôi mãi.
Bố
tôi rất ít kể về ông nội ngoài chuyện có lần còn bé đánh cờ với ông bị xách 2
chân ném ra ngoài sân vì tội bố bị mất xe xin hoãn mà ông con không chịu và
thói quen đi ngủ là phải sờ dái tai bố. Bà bác họ tôi kể có lần ông tôi mải
chơi tổ tôm đến giờ bố tôi đi ngủ ông phải nhờ người khác giả vờ là ông tôi nằm
cạnh để cho bố tôi sờ tai, phát hiện không phải bố tôi hét ầm lên thế là lại bị
ăn đòn. Ông còn một thói quen kỳ cục nữa là sau khi đi ỉa là ông nội
tôi phải chùi đít, một lần ông nội tôi đang có khách, bố tôi đi xong cứ đứng
đòi ông tôi phải chùi đít không chịu cho ai thay thế và lại ăn thêm 1 trận đòn.
Bà bác ấy là người chăm sóc bố tôi từ bé, cho bố tôi bú vì bà nội không có sữa,
khi bố tôi đi học xa nhà bà là người gánh gạo theo ông để chăm sóc. Có lần bà kể
với tôi : "Ba cháu răng mà ăn khỏe rứa, mỗi bữa phải 3 bát “ôtô” cơm và 6
con cá kho thật to, nó đo cá bằng cách để lên miệng bát nếu đầu đuôi không thừa
ra ngoài là dứt khoát không ăn". Ông tôi mất sớm từ năm 1948, chú tôi
kể đám ma ông to lắm cả 4 xã gọi là Tứ Trường đi đưa ông. Bà tôi một mình nuôi
đàn con nhỏ trừ bác tôi đã lớn và đi học xa, ông học Trường Cao Đẳng Sư Phạm ở
Hà Nội, ngày đó sinh viên trường Thuốc và Sư phạm có giá lắm. Các thiếu nữ con
nhà giàu Hà Nội có tiêu chuẩn kén chồng: “Phi Cao đẳng bất thành phu
phụ”. Nhưng ông về quê lấy vợ cũng là con một gia đình nổi tiếng, bố vợ bác tôi
bị bắt hồi cải cách ruộng đất vì bị quy là đại địa chủ cường hào ác bá, ông bị
chết tại trại giam và đến bây giờ vẫn chưa tìm được mộ.
Con
trai lớn của ông là một cán bộ cách mạng uất ức treo cổ tự vẫn. Một lần về quê,
tôi có đi qua làng ông. Nhiều người vẫn kể về những việc ông đã làm như mở xưởng
dệt, xưởng nấu “xà- phòng” bằng dầu dừa vv… Cơ ngơi của ông qua các đợt
cải cách ruộng đất rồi “sửa sai” chẳng còn lại gì, thậm chí những người được
chia “quả thực” cũng rỡ đến từng viên gạch ra bán. Chỉ còn lại cây cầu bắc
ngang con sông vào làng gọi là cầu “Ông Hội đồng Thận”. Bác dâu tôi kể hồi
xây cây cầu đó ông thuê mấy trăm lính công binh từ miền Nam ra làm ròng rã mấy
tháng trời. Thế hệ tôi không biết gì về cải cách ruộng đất và đến bây giờ đó vẫn
là một khỏang trắng trong lịch sử. Chưa có một đánh giá nào về những đau thương
mất mát đó. Nhớ ngày tôi còn nhỏ cứ mỗi năm vào ngày 26 -10 Âm lịch lại thấy bố
tôi tìm một chỗ kín đáo trong nhà thắp một nén hương và khóc, ngày đó đảng viên
Cộng Sản mà thắp hương là phiền phức lắm. Khi tôi đi bộ đội, một lần về phép
tôi có hỏi bố tôi về chuyện này mới biết đó là ngày giỗ của bà nội. Ông im lặng
một lúc lâu rồi buột mồm nói với tôi: “Bà nội của con bị chết đói trong cải
cách ruộng đất”. Tôi bàng hoàng một điều như thế mà sao ông giữ im lặng lâu vậy
sao. Một tuần sau khi bố mất, đến nhà ông chú út tôi mới được biết tường tận cái
chết của bà. Chú tôi kể: Bà nội không chết đói đâu mà bà tự tử vì quá uất ức. Chú
nhỏ nhất nên suốt ngày chỉ ở nhà quanh quẩn bên mẹ, hôm đó thấy bà ra vườn sau
hái một nắm lá ngón, chú cũng không nghĩ được bà hái làm gì, sau đó bà tắm rửa
sạch sẽ nấu cơm cho chú ăn và nói mẹ đi ngủ đây. Đến chiều không thấy bà dậy
chú vào buồng gọi thì bà đã đi rồi. Hơn tháng sau bố mày về phép, vào đến nhà
câu đầu tiên là “Mẹ đâu?”. Chú khóc chỉ lên bàn thờ, bố mày đổ vật xuống
giường nằm lì 7 ngày không ra khỏi nhà, đến ngày thứ 8 vùng dậy lôi trong ba lô
ra một cái áo bông và một cái áo len mua về cho mẹ lấy dao chặt nhỏ, châm lửa đốt
rồi đi thẳng. Đến năm mày 12 tuổi mới quay về đấy. Tôi hỏi :" Bố cháu có
biết bà chết như vậy không?"
-
Không cả nhà không ai biết ngoài chú và bây giờ chú mới kể với mày.
Trời
ơi cái gì thế này, bố tôi và chú tôi được cấu tạo bằng cái chất gì vậy?
Trong
cuốn “Phía núi bên kia” của bố tôi có đọan: “Con đê ngăn nước mặn của làng tôi có trồng một lọai cây gọi là cây uốp,
quả rất độc ăn chết người, những người làng tôi muốn thoát cảnh đời cơ cực
thường ăn quả uốp tự tử.”
Bố
tôi kể năm 16 tuổi đã tham gia họat động, làm phó bí thư Tỉnh đòan,17 tuối kết
nạp Đảng, đến năm 18 tuổi học xong Thành Chung thì được giới thiệu đi bộ đội và
đi học luôn Trường Sĩ quan Pháo binh. Đọan đời này của ông tôi chỉ biết vậy. Mẹ
tôi là một cô “văn công” bố mẹ tôi lấy nhau khi vẫn ở trong quân đội, khi có
mang tôi mẹ phải về quê, lúc ấy bà nội tôi đã mất. Nhưng khi đẻ tôi được khoảng
hai tháng, không chịu nổi khổ cực bà cho tôi vào ba lô trốn thẳng một mạch ra
Hà Nội.
4/ Tôi
được sống với bố rất ít, năm 1964 lên 6 tuối bắt đầu có nhận thức thì đi sơ
tán. Ba anh em tôi lên bà ngọai ở một thị trấn nhỏ ở Bắc Giang, được môt thời
gian thì Mỹ ném bom xuống kho lương thực của thị trấn. Bà tôi sợ hãi mang tôi
vào gửi nhà người quen ở một làng cách thị trấn hơn 10 cây số, bà bảo hai em
còn nhỏ thì ở với bà, còn cháu ở đây nhỡ chết đứa này thì vẫn còn đứa khác. Bà
đưa tôi cái lọ đựng thuốc cảm APC đầy vàng (về sau lớn tôi mới biết đó là vàng)
và dặn: “nếu bà chết thì mỗi tháng cháu lấy ra một lá đưa cho cụ Phó, cụ ấy sẽ
lo nuôi 3 anh em, cháu nhớ dấu kỹ đừng để ai biết”. Nhưng rồi tôi cũng không
bao giờ phải làm việc đó. Sau 4 năm khi Mỹ ngừng ném bom Miền Bắc tôi lại đưa
bà nguyên vẹn lọ vàng. Bà ngoại tôi là một người khá đặc biệt, tôi nhớ cứ mỗi
buổi trưa ngồi nhổ tóc bạc cho bà (mỗi cái 2 xu) bà lại đọc truyện Kiều, Hoàng
Trừu, cả thơ Nguyễn Bính nữa (mà bà không biết chữ). Chuyện ngày bà còn trẻ
đi buôn bằng thuyền lớn từ Hải Phòng (bà quê Hải Phòng) vào Nghệ An
ra Móng Cái rồi Hồng Kông. Bà kể có ông trùm cướp biển ở Móng Cái quý bà lắm, mỗi
lần thuyền của bà ra ông lại đi áp tải. Giương cánh buồm đen lên thì kể cả nhà
Đoan cũng không dám chặn lại.
Bà
tôi bị cắt một bên lá lách, một quả thận, khi ra viện bác sĩ nói chỉ sống được
một năm. Có một ông em nuôi của bà là người dân tộc ở Cao Bằng về đón bà lên
nuôi một năm, không hiểu dùng thuốc gì mà bà sống được trên 20 năm đến tận năm
1979 bà tôi mới mất. Cả tuổi thơ tôi được sống trong tình yêu thương vô bờ bến
của bà. Bà dạy tôi từng ly từng tý, từ cách dọn mâm cơm, cách cầm đũa, cách để
cái muôi múc canh như thế nào, cách ăn uống từ tốn ra sao, ăn cá thì phải gắp
phần đầu trước, sau đó đến đuôi, còn phần giữa ngon nhất phải nhường người
khác. Mỗi lần thịt gà tôi ngồi giữ cho bà cắt tiết bà đều nói câu “Hóa kiếp cho
mày làm kiếp khác nhé, đừng làm kiếp gà nữa nhé”. Cứ khoảng 4h sáng là bà dậy
việc đầu tiên là thắp hương trên bàn thờ khấn vái rất lâu tôi chỉ nhớ được mỗi
câu: “Con ăn ở có quỷ thần hai vai chứng giám”.
Bà quý bố tôi lắm, toàn gọi là con và xưng là “Đẻ” rất ngọt ngào.
Tôi
nhớ năm 1967 trước khi đi B bố lên ở với chúng tôi mấy ngày, bà bảo “Con cứ
yên tâm ra đi, đẻ sẽ nuôi các cháu, đẻ có chết thì các cháu mới phải khổ”. Lúc
này bố tôi lấy bút hiệu là Lê Hoài Đăng (tên 3 anh em tôi). Bố bảo nếu con
nghe đài hay đọc báo thấy có tên Lê Hoài Đăng thì là bố đó. Suốt thời
gian đó bố tôi chỉ lên thăm chúng tôi được một lần vì ông phải đi suốt từ Hàm Rồng,
Thanh Hóa, Quảng Bình, Vĩnh Linh. Cuối năm 1968 khi đi B ra ông lên đón tôi về
Hà Nội, thấy tôi đội nón mê cầm cây sào tre buộc túm lá chuối chăn vịt trên đồng,
ông ngồi trên bờ ruộng khóc rưng rức.
5/ Người ôm chí lớn đi tìm bạn
Ngồi hát bâng quơ chợ
vãn người
Bướm ong xiêm áo chiều
chạng vạng
Gặp khách tri âm khúc
khích cười
(Thơ
bố tôi)
Bố
tôi có khi cả ngày chả nói câu nào, nhưng cũng có khi nói cả ngày không cần nghỉ.
Nhiều lúc tôi cũng ngạc nhiên trước khối kiến thức đồ sộ của ông, giấu sau vẻ
ngoài hiền lành, đôn hậu là một tính cách rất quyết liệt. Ông cũng rất hài hước,
có những chuyện ông kể sau này tôi mới hiểu còn lúc đó chỉ thấy buồn cười. Ví dụ
ông kể: Có buối tối bố cùng bác Xuân Thiều đi dọc phố Phan Đình Phùng qua nhà
ông Tố Hữu, bác Thiều nói: Sách này! có bao giờ mày nghĩ được ở trong những
ngôi nhà này không? Bố tôi trả lời mình mới là úy quèn, mơ đến bao giờ mới lên
tướng, họa có mà đảo chính. Vậy mà bác ấy về báo cáo, bố bị mang ra chi bộ kiểm
điểm. Chuyện năm 1972 khi bố tôi phụ trách đoàn thanh niên các lực lượng vũ
trang đi dự Festivan thanh niên sinh viên thế giới ở Đức. Trong đoàn có anh
hùng Thái Văn A, bố tôi hỏi: Cậu cũng gan đấy nhỉ đứng đếm bom nổ chậm như vậy
mà không sợ à? anh A trả lời: “Anh
giấu đừng nói nhé, ngay loạt bom đầu đã bay mẹ nó mất thang rồi, sợ bỏ mẹ nhưng
xuống thế đếch nào được, bọn ở đơn vị cũng sợ còn bom nổ chậm có dám vào cứu em
đâu. Mấy ngày sau mới đưa em xuống, đổ nước cháo vào mồm mới sống lại được, không
thì cũng chết đói."
Bố
tôi cũng tự nhận mình chỉ là người viết chuyện chứ chưa phải viết văn, trong đời
văn của ông có hai tác phẩm là Đội du kích thiếu niên Đình Bảng và Mặt
trời quê hương là ông coi là có giá trị, không phải về mặt nghệ thuật mà
là đã “chiêu tuyết” cho những người có công lao mà bị quên lãng. Về Đội du
kích Đình Bảng tôi chỉ nghe nói khi cuốn sách ra đời thì lúc đó Nhà nước mói nhớ
tới công lao và khôi phục cho những thiếu niên đó. Hôm bố tôi mất các ông cũng
sang đưa tiễn, toàn những ông lão đã xấp xỉ 70 cả. Làng Đình Bảng coi bố tôi
như là công dân danh dự của làng, nhiều người nói nhờ ông mà làng nổi tiếng
nhưng ông lại nói ngược lại, nhờ có làng Đình Bảng mà ông được nhiều người biết.
Có lần ông nói khi chết đi mà vẫn còn được dân làng nhớ tới là mãn nguyện lắm rồi.
Còn Phạm Ngọc Đa thì nỗi oan khiên còn lớn hơn nhiều, anh bị tra tấn đến chết
mà không khai nơi trú ẩn của các cán bộ. Vậy mà sau khi hòa bình người anh hùng
bỗng hóa thành tên phản bội. Gia đình người chị của anh (anh mồ côi nhà chỉ có
hai chị em) sống thật khốn khó, không được chia ruộng trong cải cách ruộng đất,
không được vào Hợp tác xã sau này, con cái không được học hành. Năm 1970 khi bố
tôi về vùng đó được một linh mục coi sóc xứ đạo cung cấp những bằng chứng minh
oan cho anh, trong khi một trong những người cán bộ được anh bảo vệ lúc đó đang
là Bí thư Huyện ủy mà không có một lời nào giải nỗi oan tày trời đó. Khi cuốn Mặt
trời quê hương ra đời, anh được phong anh hùng, được dựng tượng ở trung tâm huyện.
Xã, Huyện được tặng Huân chương vv…
Một
lần tôi đi Lào Cai, trong lúc chờ tàu ở ga Phố Lu vào ăn cơm ở một quán bụi, chủ
quán là một người đàn bà lam lũ, khi biết chị quê ở Tiên Lãng Hải Phòng, tôi hỏi
chị có biết Phạm Ngọc Đa không? Thật tình cờ hóa ra chị gọi anh Đa là cậu ruột.
Khi biết tôi là con của bố, chị dắt hai đứa con ra quỳ xuống lạy tôi và
nói “Xin chuyển lời tới ông, gia đình con đội ơn ông nhiều lắm, ông như
người đã sinh ra gia đình con lần thứ hai”.
Mấy
anh em tôi cũng được bố dẫn đến mộ anh Đa một lần.
Tôi
thì lại thích cuốn “Cuộc hôn nhân bị đánh tráo” viết về chuyện con của một
người đánh xe bò lấy con gái một vị bộ trưởng. Chuyện này có thật, xảy ra ở nơi
ba anh em tôi sơ tán tôi thích thú vì khi đọc thấy gặp rất nhiều nguyên mẫu mà
tôi có quen trong đời thật.
Tác
phẩm mang lại sự nổi tiếng và cũng nhiều hệ lụy nhất cho cha tôi là “Chân
dung nhà văn”. Ông viết từng bài và chép vào cuốn sổ tay nhỏ loại bỏ túi. Ngày
còn nhỏ tôi thường lén đọc mỗi khi ông đi vắng, một lần bị bắt gặp ông nói con
chưa nên đọc cái này và đem cất kỹ. Các nhà văn hiện lên chỉ bằng vài câu thơ,
những tượng đài văn học mà chúng tôi phải ra rả đọc suốt ngày trên lớp bỗng hiện
ra dưới hình ảnh khác. Tôi còn nhớ kỷ niệm về bài học phân tích lão Am trong
Cái sân gạch, vì nhớ tới chân dung Đào Vũ mà tôi đã làm cho cô giáo dạy văn ngơ
ngác. Một lần nữa năm học lớp 10 phải phân tích Chí Phèo tôi lười nên
nhờ ông viết hộ, thầy giáo đã phê: “Vì em
quá hiểu rộng biết nhiều nên câu văn có nhiều ẩn ý làm người đọc không phát hiện
ra” và thầy cho … 2 điểm khi tôi kể lại với bố, ông cười lớn có vẻ thú vị lắm
ông bảo: “Bác Nguyễn Khải làm văn hộ
thằng Huỳnh cũng được1 điểm”. Con gái lớn của tôi hồi đi học cũng là học
sinh giỏi văn Thành phố có lần làm bài dám chê thơ của một “nhà thơ lớn” là
thơ “con cóc” cô giáo vội nói: “Con
ơi biết vậy nhưng đừng nói với ai, cả hai thầy trò mình đều chết". Khi
nó kể chuyện này với ông nội, ông khoái lắm và kể ngày nhỏ ông cũng phải làm
bài luận tả đức Kim Thượng (tức vua Bảo Đại) lúc này dư luận
đang xôn xao vì vụ
‘Ngài
lên Đà Lạt đi “mò” bà đầm bị ông Tây bắn què chân' -- bố tôi đưa luôn sự kiện
này vào bài luận. Thày xé đi và bảo đầu tiên là con chết sau đó là thầy cũng chết.'
6/ Cung
Thê trong Tử Vi của bố tôi có sao Cự Môn. “Cự Môn cư
Thê đa hoài bất mãn”. Biết làm sao, Thày Khổng Tử là người dạy lễ giáo cho đời
mà cũng phải thay đến 7 đời vợ, chỉ vì ông Cự Môn quái ác đóng giữa cung
Thê.
Bố
tôi có hai người vợ, mẹ tôi là một cô “văn công” xinh đẹp hát hay. Hai người
yêu nhau lắm, mẹ kể ngày còn ở đơn vị ông tiểu đoàn trưởng mê bà, ông ta ra điều
kiện hoặc là phải lấy ông ta hoặc là xuất ngũ, khi bố tôi nghe tin chạy lên thấy
mẹ đang khóc thu dọn ba lô quần áo, ông xông vào tiểu đoàn bộ tát ông tiểu đòan
trưởng hai cái. Nhưng rồi cũng êm đẹp cả, mẹ kể đám cưới vui lắm do chính bác
Phùng Thế Tài làm chủ hôn. Năm 1968 khi bố tôi ở chiến trường ra thì hai người
đổ vỡ, chúng tôi còn nhỏ chỉ biết ngơ ngác nhìn mẹ khóc còn bố thì lầm lỳ không
nói câu nào. Tôi nhớ một buổi chiều ở nhà số 4 Lý Nam Đế khi cô cấp dưỡng của Tạp
chí lên gọi hai bố con xuống ăn cơm thì bố tôi khóc và nói “Bưởi ơi chị bỏ anh
rồi”. Sau đó anh em tôi theo mẹ lên Bắc Giang, mẹ tôi vào làm y tá ở Bệnh viện
Huyện gần nhà bà ngọai nơi ba anh em ở hồi sơ tán. Trong lúc dọn dẹp nhà cửa
tôi tìm thấy trong đống sách có quyển nhật ký của mẹ ghi lại những kỷ niệm tình
yêu của hai người,rất nhiều bài thơ bố làm tặng mẹ và tờ Đơn xin ly hôn trong
đó có ghi rõ lý do vì sao hai người bỏ nhau. Chỉ cảm thấy tê dại, cảm giác đầu
tiên là thương bố và hận mẹ. Sau này lớn lên hiểu chuyện đời, thấy thông cảm
cho mẹ và vẫn kính trọng nhưng tình yêu phải có của đứa con đối với mẹ thì
không thể lấy lại được. Thế mới biết có những ấn tượng thời thơ ấu sẽ theo người
ta suốt cuộc đời là sự thật chứ không phải mấy ông nhà văn bịa ra.
Do
vậy, tuy phải ở Bắc Giang nhưng cứ thứ bảy ,chủ nhật và ba tháng hè là tôi chuồn
về Hà Nội với bố, mới hơn 10 tuổi đầu mà tuần nào tôi cũng đạp xe gần 40 cây số
từ nơi sơ tán về Hà Nội.
Có
lần bố nói với tôi: “Bố là người ích kỷ, không làm tròn trách nhiệm với
con cái, ngày bố mẹ định ly hôn, bố nghĩ bố phải nuôi cả ba anh em, không để
các con ở với mẹ được. Nhưng nếu thế thì bố phải bỏ sự nghiệp của mình. Do vậy
bố đồng ý với mẹ không bỏ nhau nhưng hai người phải sống xa nhau một thời gian.
Đã trót theo nghiệp này bố cũng mong con cái chịu một chút hy sinh”.
Nhưng
ở đời những sự bất đắc ý thường nhiều hơn, năm 1980 khi đang ở bộ đội tôi nhận
được thư bố tôi báo tin hai ông bà chính thức ly dị, cũng chẳng có lý do gì đặc
biệt, nhiều người (trong đó có mẹ tôi) cho rằng ông đã có người đàn
bà khác nhưng tôi biết chắc rằng không có điều đó.
Trong “Với
Xuân Sách” của anh Phạm Lưu Vũ (bố tôi rất thích bài này) có
câu “Cách đây hơn hai chục năm, văn
nhân thi sĩ Xuân Sách hăm hở xách vợ con hành phương Nam”. Nhiều người phản
ứng, thậm chí có bạn đọc còn viết:
“Phạm
Lưu Vũ sai rồi không phải Xuân Sách 'xách' vợ con hành phương Nam, mà là ông bỏ
tất cả để đi với người đàn bà ông yêu”.
Lần
thứ hai trong đời tôi nhận được thư của cô Tú (vợ sau của bố tôi) chỉ
vẻn vẹn vài dòng : “Các cháu mỗi người
viết một bản ủy quyền nội dung: tôi là…. Là con của ông Ngô Xuân Sách tôi ủy
quyền cho em trai tôi là Ngô Nhật Lê cùng với bà Phạm Thị Thanh Tú vợ hợp pháp
của ông Sách đồng sở hữu căn nhà số… TP Vũng Tàu tiến hành bán căn nhà trên để
thực hiện quyền thừa kế. ".
-
Mày
là con Đát Kỷ làm hại Trụ Vương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét