Thứ Ba, 28 tháng 3, 2023

truyện ký mái Tây

 


Tây sương ký
 "truyện ký mái Tây"

Tây sương ký "truyện ký mái Tây", còn có tên đầy đủ là Thôi Oanh Oanh đãi nguyệt Tây sương ký "truyện về Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới mái Tây", là vở tạp kịch của Vương Thực Phủ, sáng tác (1297-1307) đời Nguyên Thành Tông, miêu tả cuộc tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi phong kiến của nàng Thôi Oanh Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thụy.

Câu chuyện Tây Sương Ký, có nguồn gốc từ tiểu thuyết truyền kỳ thời nhà Đường có tên Oanh Oanh truyện. Chuyện kể rằng có anh thư sinh Trương Hồng ở trong Phổ Cứu Tự, cùng con gái tướng quốc là Thôi Oanh Oanh tình đầu ý hợp. Được sự giúp đỡ của thị nữ Hồng Nương, hai người hẹn gặp ở Tây Sương, Oanh Oanh lấy thân mình thề nguyện trọn đời với Trương Sinh. Sau đó Trương Hồng lên kinh dự thi, được làm quan, lại bỏ rơi Oanh Oanh, tạo thành bi kịch tình yêu. Câu chuyện này đến thời Tống, Kim được lưu truyền rộng rãi, có một số nhà văn, nghệ nhân cải biên câu chuyện thành hát nói và hí kịch. Sau Vương Thực Phổ viết lại Tây Sương Ký dựa vào sự tích lũy phong phú về nghệ thuật cộng thêm công sáng tác mà thành.



Tây sương ký/ Lời dẫn truyện của Thánh Thán.

- Mái Tây là gì?

- Là tên sách.

- Sách sao lại đặt tên là Mái Tây?

- Sách cốt để chép chuyện: Có chuyện ấy nên có sách ấy: Không có chuyện ấy tất không có sách ấy. Nay trong sách ấy có chuyện, mà chuyện xảy ra ở Mái Tây, nên đặt tên nó là Mái Tây. Mái Tây là khu nhà phía Tây chùa Phổ Cứu. Mà chùa Phổ Cứu thì là một tòa công đức lớn, lập nên do đức bà Kim Luân hoàng đế đời Vũ Chu. (tức Võ Tắc Thiên)

Chùa Phổ Cứu có cái Mái Tây. Phía Tây Mái Tây ấy lại có một cái biệt thự. Biệt thự gần chùa nhưng không thuộc về chùa, vì là của quan Tướng quốc họ Thôi bỏ lương tháng làm ra. Nguyên trước có nhà sư Pháp Bản, là người mà quan Tướng quốc đỡ đầu, tức là đồ đệ của quan Tướng quốc. Ngài nhân nghĩ đến một ngày kia ta được thôi quan để nhường lối cho người tài giỏi, thì gậy tre, dép cỏ, trừ cửa Phật ra ta biết chơi đâu. Thế nhưng ngài muốn mình làm người khách tình cờ, chứ không muốn đồ đệ làm ông chủ tình cờ. Vì thế mới chiếm lấy cảnh chùa ấy, để làm nơi tĩnh dưỡng cho ông lão. Nào ngờ đâu khi lạc thành cầu đảo không khéo, chẳng nghe tiếng hát, lại nghe tiếng khóc; chẳng được đem đai ngọc làm đẹp cho cửa Không, mà lại đem minh tinh đưa đường cho người vợ góa … Vì thế mà bà lớn mới có thể quàn linh cữu ngay trong chùa. Cho nên Mái Tây là lớp nhà ở phía tây chùa Phổ Cứu. Mà phía Tây Mái Tây lại có nơi biệt thự, thì là chỗ bà lớn ở tang. Thế rồi: vì tang mà người đẹp ở, vì người đẹp ở mà tài tử ở... Tài tử ở Mái Tây ấy là vì người đẹp ở phía tây Mái Tây. Người đẹp ở phía tây Mái Tây, là vì tang ở đấy; mà tang ở phía tây Mái Tây, thực ra là vì ở đấy quan Tướng quốc có làm một nơi biệt thự riêng. Vì quan Tướng quốc làm biệt thự ở phía tây Mái Tây, mà Mái Tây bên chùa Phổ Cứu mới có chuyện … Đến nỗi vì có chuyện để ra có sách để cho muôn nghìn, muôn đời, người ta truyền nói vô cùng. Thế thì bỏ tiền lương ra làm biệt thự lại có thể không cần thận mà được sao! Thánh Thán sở dĩ nói thế là vì có hai cớ:



Cớ thứ nhất: Cốt cứu người thiên hạ, phải cẩn thận về "nhân duyên"... Phật dạy rằng: "Nhất thiết ở cõi đời, đều sinh ra bởi "nhân". Có nhân thì được sinh; không có nhân thì rút lại không sinh. Chưa từng thấy có nhân mà không sinh, không nhân mà lại tự nhiên sinh. Cũng chưa từng thấy nhân đậu sinh ra dưa, hay nhân dưa mà sinh ra đậu. Cho nên đức Như Lai dạy các kiện nhi, chớ có tạo nhân. Than ôi! Có không sợ sao được. Tục ngữ nói: "Cha báo thù thì con ăn cướp!" Nghĩa là: kẻ báo thù tất phải giết người; đến đời con nó, không thấy mang thù, chỉ thấy giết người, thì nó cũng tập giết người chơi! Giết người rồi, nhà nước bèn đem pháp luật buộc nó. Nó sợ vướng pháp luật bèn trốn mạng vào trong rừng rú. Trong rừng rú không kiếm ăn vào đâu được, bất đắc dĩ lại lấy sự giết người làm nghề nghiệp! Như vậy thì thù ta cũng chớ có trả. Vì Thánh Thán hiện đã thấy những chuyện đó luôn luôn... Hiện đã thấy đời cha vì nửa đời kém vui, mượn đàn sáo khuây khỏa nổi lòng. Thế mà chỉ chớp mắt là đời con đã tay cầm sênh phách, lần cửa hát rong! Như thế thì Tạ Thái Phó ta cũng chớ có nên học! Hiện đã thấy đời cha rạc người vì lo phiền, mượn chén rượu ngọt, trốn vào làng say! Thế mà chỉ chớp mắt là đời con đã chửi càn bị đánh, ngã xe gẫy tay! Như thế thì Nguyễn Tự Tôn ta cũng chớ có nên học! Hiện đã thấy đời cha ở nhà nhiều lụy, sang chùa thăm sư, nói chuyện qua về kinh sách. Thế mà chớp mắt là đời con đã dắt díu lũ trọc, làm ô lọa cả buồng the! Như thế thì Trương Vô Cấu ta cũng chớ nên có học! Hiện đã thấy đời cha mong xa lánh cuộc đời, chăm chỉ ruộng vườn, trông cày coi cấy. Thế mà chớp mắt là đời con đã gánh phân, theo trâu, mặt mắt nhem nhọ! Như thế thì Đào Uyên Minh ta cũng chớ có nên học! Kìa như quan Thôi Tướng quốc hồi bấy giờ bỏ tiền lương làm biệt thự, nhất thời các tân khách ở trong tiệc, ai là không tấm tắc khen người hiền: thế mới thực ngoài mặt Tể tướng mà trong lòng Bồ Tát! Vậy mà không hay, không biết, chính ngài, sau khi mất, đã làm viễn nhân cho câu chuyện dưới trăng ở Mái Tây! Chẳng thế thì ta đổ cho Song Văn (tên tự của Oanh Oanh) gây chuyện sao? Hay ta đổ cho tài tử gây chuyện sao? Đổ cho Song Văn, Song Văn không tạo nhân. Đổ cho tài tử, tài tử không tạo nhân. Vậy thì câu chuyện dưới trăng ở my, chẳng phải quan Tướng quốc tạo nên nhân, thì còn ai vào đấy nữa! Than ôi! người ta sinh trong trời đất, cất chân đặt tay, còn có một ly một tý gì là có thể cứ làm bừa đi mà được? Một cớ nữa là dạy người đời về thể lập ngôn: kìa như bà lớn thì là một vị nhất phẩm phu nhân nghiêm trang giữ lễ; còn Song Văn thì là một trang sắc nước nghìn vàng. Cho đến con Hồng nhất thời cũng là một nhan sắc thượng lưu. Mà Phổ Cứu thì là một tòa chùa lớn ở Phủ Hà Trung, lớp trong lớp ngoài, tăng đồ kể hơn nghìn cũng có. Lại thêm người vãn cảnh tứ xứ, khách lễ bái thập phương, họp lại như mây, kéo đến như nước. Trong chỗ đó, mắt họ trông, tay họ chỉ, lòng họ động, miệng họ nói, ta có thể liệu biết thế nào được! Nay người già chưa thật già, người bé cũng không còn bé, tuy là trong cảnh sô quy tang tóc, song cao sang đài các, có phải là vẻ thường quen mắt cho kẻ ngoài đâu! Vậy mà nghiễm nhiên mà không rủ, trướng không che, ở chen vào đấy, bà lớn kia có dễ là một bà vãi nhà quê sao, nếu không thì sao lại không biết giữ lễ đến như thế? Cho nên Thánh Thán xét kỹ ý tác giả, thì thực là phía tây Mái Tây, lại có riêng một biệt thự. Biệt thự ấy ở gần chùa, là để có lối vì cây dây quấn. Biệt thự ấy không thuộc vào chùa, là để giữ kẽ cho Song Văn. Người quân tử lập ngôn, dù là viết tuồng nữa, cũng cần đắc thế. Đáng kính biết mấy!

(KimThánh Thán (1608? - 1661), tên thật là Kim Vị là nhà phê bình văn học nổi tiếng của Trung Quốc.)

----


Tích Duyên Kỳ Ngộ

Trong lần "Xem trong âu yếm có chiều lả lơi". Kiều vẫn dùng lời đoan chính khuyên Kim Trọng, có câu:

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay

Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương

Mây mưa đánh đổ đá vàng

Quá chiều nên đã chán chường yến oanh

Trong khi chắp cánh liền cành

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên

Mái Tây để lạnh hương nguyên

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng

Ðế sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

Vội chi ép liễu hoa nài

Còn thân ắt lại đền bồi có khi

(Câu 511 đến 522)

            Lý luận đanh thép nhưng vẫn chan chứa tình cảm trước lập luận dẫn chứng "Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương"

            "Thôi, Trương" tức là nàng Thôi Oanh Oanh và chàng Trương Cung tức Trương Quân Thuỵ

            "Tây sương ký" (Mái Tây) của Vương Thạch Phủ đời nhà Nguyên có chép:

            Ðời Trinh nguyên (785- 805) có chàng Trương Cung tự Quân Thuỵ, người mỹ mạo tuấn tú, tính tình nho nhã. Một hôm sang chơi đất Bồ vào trọ chùa Phổ Cứu. Trong khi đó có người vợ goá họ Thôi sắp về Trường An (kinh đô nhà Ðường), đường đi qua đất Bồ, cũng vào trọ ở đây. Bà vợ của họ Thôi là họ Trịnh, Trương Cung là cháu ngoại họ Trịnh. Kể họ thì bà là dì họ của Trương.

            Năm ấy, tướng Hồn Hàm mất tại đất Bồ, viên hoạn quan Ðinh văn Nhã thay thế, không đủ tài điều khiển, nên quân sĩ quấy nhiễu, cướp phá dân chúng. Nhà họ Thôi của cải rất nhiều, tôi tớ cũng lắm, nay ở chốn quê người, không biết nương tựa ai, lấy làm lo sợ. May mắn, Trương Cung nguyên trước có quen thân với tướng ở Bồ, liền xin nhờ bảo hộ. Nhờ đó, gia đình họ Thôi mới thoát nạn. Nửa tháng sau, nhà vua sai người đem cờ thống nhung ra lệnh nghiêm cho quân lính, bấy giờ cuộc loạn mới yên.

            Bà họ Trịnh cám ơn Trương lắm, bày tiệc nhà trên đãi Trương, nói:

- Dì chẳng may goá bụa, phải đùm bọc lũ con côi, rủi gặp lúc hỗn quân hỗn quan chắc gì giữ được thân mạng. Hai đứa con thơ yếu của dì sống được là nhờ cháu, ơn này đâu phải tầm thường. Nay xin cho chúng nó ra chào anh để biết mặt, mong có ngày đền báo.

            Bà liền cho gọi đứa con trai là Hoan Lang, tuổi mới lên mười ra chào, mặt mày thuỳ mị. Kế gọi người con gái tên Oanh Oanh, tuổi lên 17 ra chào. Nàng lấy cớ trong mình không mạnh, từ chối. Bà mẹ nổi giận, bảo:

- Anh Trương mày cứu được mạng mày. Không có anh, giặc nó lôi mày rồi. Còn gì mà giữ kẽ nữa.

            Bấy giờ nàng Thôi mới chịu ra. Nàng trang phục tầm thường, vẻ mặt bơ phờ, không trang điểm gì cả. Mái tóc lơi, đôi mày nhạt, chỉ đôi má ửng hồng. Thế mà nhan sắc đẹp lạ, vẻ lộng lẫy choáng người. Trương giật mình đáp lễ, rồi dần dà đưa lời khơi chuyện, nhưng nàng vẫn không đáp, im lặng mãi đến tan tiệc mà thôi.

            Từ đó, Trương say đắm nàng, muốn bày tỏ tâm tình nhưng không biết làm thế nào được. Nhân có con hầu thân tín của Thôi Oanh Oanh là cô Hồng, Trương lén ngỏ ý mình, nhờ cô đưa tin. Hồng bảo:

- Lời cậu nói, con chẳng dám nói mà cũng không dám để lộ. Vả, dòng họ Thôi thì cậu đã rõ. Sao không nhân chuyện có ơn mà nhờ người mối mai?

    Trương thở dài:

- Tôi từ tấm bé, không ưa thích chuyện trai gái. Có khi ngồi bên bạn lượt là cũng chẳng để ý nhìn ai. Không ngờ nay lại có người làm say mê lòng mình, đến đỗi suốt mấy hôm, không còn tha thiết đến ăn đến ngủ, sợ ngày một ngày hai là không sống được nữa. Nếu nhờ người mai mối, nào hỏi nào cưới ít ra cũng vài ba tháng một năm, bấy giờ tôi chết đã xanh đám cỏ!

            Hồng nghe cảm động, bày Trương viết ít thơ tình sẽ trao cho Thôi. Trương cả mừng, nghĩ ngay hai bài thơ xuân nhờ Hồng làm cánh chim xanh trao cho người đẹp. Chiều hôm ấy, Trương được Hồng cầm một tờ hoa tiên đưa đến bảo là của nàng Thôi. Mở ra xem thấy có bài thơ 4 câu, đầu đề là "Trăng sáng đêm rằm":

Cửa hé theo luồng gió
Trăng chờ dưới Mái Tây
Chạm tường hoa động bóng
Người ngọc đến đâu đây

            Trương hơi hiểu ý thơ.


            Tường phía đông chỗ ở của họ Thôi có gốc cây hạnh, Trương nhân trèo lên bước qua tường, lần đến mái phía Tây thì thấy cửa hé mở. Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng y phục chỉnh tề, vẻ mặt nghiêm nghị, đanh thép bảo:

- Anh cứu sống nhà tôi, ơn ấy to lắm, nên mẹ tôi mới đem trai thơ gái dại mà uỷ thác cho anh. Nhưng sao anh lại nhờ đứa hầu những lời nhảm nhí? Ban đầu thì lấy việc cứu người làm tốt, rốt lại nhân việc người ta khỏi nạn mà đòi hỏi chuyện nọ kia... Lấy loạn thay loạn, anh có hơn bọn giặc là mấy. Muốn nhờ con hầu chuyển lời thì sợ không nói gì hết chân tình, nên tạm mảnh hoa tiên tìm lời bày tỏ. Nhưng ngại anh sinh lòng khó dễ nên phải dùng lời lẳng lơ để anh thế nào cũng sang. Việc làm trái lễ sao khỏi thẹn lòng. Chỉ xin anh lấy lễ giữ mình, chớ nhúng mình vào chuyện không đẹp.

            Nói xong, nàng ngoe nguẩy đi vào.

            Trương ngồi ngẩn người, một lúc vượt tường trở ra, lấy làm tuyệt vọng!

            Vài hôm sau, Trương đương ngủ ngoài hiên, chợt có người đánh thức. Chàng giật mình ngồi dậy thì thấy Hồng bảo: có cô Thôi đến. Trương bàng hoàng, tưởng mình chiêm bao nhưng vẫn thành tâm chờ đợi. Một lúc Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng e thẹn, ngượng ngùng, nũng nịu... Không có vẻ nghiêm khắc như trước. Trương phơi phới lòng xuân, tưởng như mình được làm bạn với tiên, nhân gian đâu có con người như thế.

            Chuông chùa đổ, trời sắp sáng, Hồng đến giục nàng Thôi về. Nàng rấm rứt khóc, suốt đêm không nói lời nào. Sáng dậy, Trương nửa tin nửa ngờ, cho là chiêm bao chăng? Nhưng sáng rõ ra thấy cánh tay mình còn vấy chút phấn son, áo còn phảng phất mùi hương, mấy giọt nước mắt của nàng còn đọng trên gối .....

            Từ đó, cả hai hẹn gặp nhau âu yếm tại mái Tây, thời gian có trót tháng, Trương tối lén vào, sáng lén ra.


            Nhưng rồi mộng công hầu, Trương từ giã lên Trường An ứng thí. Thế là có cuộc chia ly. Và, cuộc chia ly nào lại chẳng não lòng đối với đôi bạn tình trai gái. Nhưng Trương đi vẫn không một lời hứa hẹn gì. Buổi tiễn đưa Trương, Thôi có đọc mấy câu thơ:

Rẻ rúng thôi đành phận
Van lơn nhớ buổi đầu
Xin đem lòng lúc trước
Thương lấy kẻ về sau

            Năm sau Trương thi không đỗ, ở lại kinh đô, viết thư về an ủi Thôi Oanh Oanh. Thôi có thư phúc đáp. Thư khá dài bày tỏ lòng ân hận chua xót của nàng.

            Sau đó, Trương Quân Thuỵ lấy vợ. Thôi Oanh Oanh lấy chồng. Duyên tình Thôi, Trương bẽ bàng như thế, vì Trương đã "mây mưa đánh đổ đá vàng" mà nàng Thôi lại "quá chiều nên đã chán chường yến oanh", dẫn đến hậu quả "để duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng"

            Dẫn điển tích "Thôi, Trương" Kiều lại cũng dẫn điển tích để nhấn mạnh thêm ý trên theo thế tương phản:

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng
Ðể sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

            "Gieo thoi" là cầm cái thoi diệt cửi ném. "Tấm thư" là chép người tên Tạ Côn tỏ vẻ bỡn cợt, trêu ghẹo một cô gái láng giềng. Cô đương ngồi dệt cửi nổi giận, cầm cái thoi ném vào mặt Tạ Côn làm gãy hai cái răng cửa. "Gieo thoa" nguyên ngữ là "Ðầu thoa chi cự" nghĩa là gieo thoi để cự tuyệt, tức là chống cự một cách quyết liệt đối với người con trai lả lơi, trây trưa. Không kháng cự quyết liệt để giữ gìn mình đối với chàng trai nào- kể cả ý trung nhân- tất bị người khinh là người con gái không trinh thục, đoan chính.



           "Thẹn cùng chàng", tuy Kiều nói mình sẽ bị hổ thẹn, nhưng cũng gián tiếp nói Kim Trọng cũng bị hổ thẹn. Mà bị hổ thẹn này "bởi ai"? Bởi Kiều hay bởi Kim Trọng hay bởi cả hai. Nhưng chắc chắn ý Kiều muốn nói là bởi Kim Trọng, đổ lỗi cho anh chàng này. Mà sự thực là chàng có lỗi. Như vậy biết lỗi thì phải chừa. Dùng hai tiếng "bởi ai" ở cuối câu rất khéo, dùng thế tấn công quyết liệt nhưng hết sức đậm đà, thú vị... Cho nên chàng Kim phải chịu bó tay quy hàng:

Thấy lời đoan chính dễ nghe
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân

(câu 523 và 524)

            Gặp phải một gái đẹp như thế, một tay có bản lĩnh như thế thì không thêm nể, thêm vì hoàn toàn sao được. Kiều dám mở cuộc chiến vẻ vang có nhiều thử thách, tất Kiều phải biết vượt qua để kết thúc cuộc chiến cũng phải vẻ vang

            Giá phỏng ở hoàn cảnh này, Kiều chiều theo ý muốn của Kim Trọng diễn lại cảnh "Thôi, Trương" Mái tây thì sau khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, rồi trở lại vườn Thuý tìm lại Kiều, biết Kiều đã bán mình rồi thì chàng Kim đâu phải quá nặng tình đau đớn, vừa mến vừa tiếc đến nỗi

Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao!

(câu 2835 và 2836)

            Vừa giáo dục đạo lý, vừa giáo dục tâm lý ái tình giữa trai gái tiếp xúc nhau để dẫn đến một sự việc cụ thể: Kim Trọng phải theo đuổi mãi đến 15 năm sau mới:

Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy

            Phải chăng tác giả Truyện Kiều khéo sắp xếp.

(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)

 

 

Tây sương ký/Phép đọc vở Mái Tây

Phần này do Kim Thánh Thán (1608 - 1661) viết.


1. Ai bảo vở Mái Tây là dâm thư, người ấy ngày sau nhất định phải sa xuống ngục "nhổ lưỡi"! Sao vậy? Vở Mái Tây không phải bỡn, mà là văn hay của trời đất... Từ khi có Trời Đất tất nhiên trong khoảng đó phải có áng văn hay như thế. Không phải ai viết ra cũng được cả, mà là Trời Đất có phép tự mình không kết bỗng soạn lên. Nếu nhất định muốn bảo là của một người viết ra, thì Thánh Thán xin coi người ấy tức là hiện thân của Trời Đất.

2. Vở Mái Tây quyết không phải là dâm thư mà nhất định là một áng văn hay. Từ rầy trở đi, ai bảo là văn hay, ai bảo là dâm thư, Thánh Thán cũng mặc kệ! Kẻ thích văn xem đến cho là văn! Kẻ đã dâm xem đến cho là dâm, thế thôi!

3. Họ sở dĩ cho Mái Tây là dâm thư, chẳng qua chỉ vì trong vở có câu chuyện ấy… Nhưng thử nghĩ kỹ: chuyện ấy thì ngày nào không có? Chỗ nào không có? Có dễ trong Trời Đất có chuyện ấy, thì phế cả Trời Đất đi hay sao? Lại hỏi vì đâu mà có thân ta? Dễ cũng vất cả thân ta đi hay sao? Một bộ sách có vô số là những văn chương phong phú xinh đẹp như vậy, ta nên xét xem phong cảnh xinh đẹp như thế, là hạng văn chương gì? Sinh ra từ đâu? Đi đến chỗ nào? Đi thẳng ra sao? Uốn quanh ra sao? Mở ra thế nào? Chỗ nào đàng hoàng? Chỗ nào lẩn lút? Chỗ nào chấm giải? Chỗ nào bay qua? Đến như chuyện ấy, ta nên gác ra một bên, không nên bàn đến nữa!

4. Ai bảo Mái Tây là dâm thư, người ấy chỉ nên đánh đòn, không cần dậy! Sao vậy? Chỉ vì từ bé hắn đã học một thầy đồ cùn, tai nghe vào rồi, nhớ chôn trong ruột. Chính mắt hắn cũng chưa được trông đến vở Mái Tây! Đánh đòn ra nghĩ cũng còn là oan!

5. Nếu mắt được coi đọc Mái Tây rồi mà cũng bảo là dâm thư, thì hạng đó có nên đánh đòn không? Thưa rằng: Đánh thế cũng là đánh oan! Vì hắn là hạng đồ cùn đó thôi. Lúc viết Mái Tây, người viết đã phát nguyện không cho họ đọc. Quả nhiên ngày nay họ không đọc!

6. Bảo Mái Tây là dâm thư, người ấy thế mà có công đức lớn! Khi xưa viết Mái Tây, đã phát nguyện chỉ để cho các tài tử gấm vóc đời sau cùng đọc chứ không cho hạng gánh rong, hạng lính lệ cũng xúm vào đọc... Nay nếu không có hạng người ấy nắm tay, vung cánh, vỗ giường, đập ghế, chửi là dâm thư, thì thế tất ai ai cũng đọc, để tiết lộ hết cả cái hay, cái kín của Trời Đất! Thánh Thán rất không thích.

7. Sách Thế Thuyết Tân Ngữ nói: "Thiên Tiêu Dao Du" trong Trang Tử, rất là khó giải. "Đầu xuân rỗi việc, không lượng sức mình; cùng anh Trần Thụy Cung, mưa gió ngồi liền giường, đốt lò hương, rót chén rượu, đùa đẫy sung sướng, giải được suốt thiên. Từ nay trở đi, các bạn tài tử trong đời, đồng thanh tương ứng, hiểu cái lạ, tìm cái mới, hai chúng tôi xin đóng vai Chi Công Hứa Sử. (Điều này chắc chắn lạc ở bản phê bình cuốn Trang Tử - Nam Hoa Kinh của Thánh Thán sang).

8. Vở Mái Tây của Thánh Thán, chỉ cần nhận rõ được người xưa, cái đó không dám nhún mình. Đến như những câu phê trước và sau, đều là miệng đọc cho học trò, để mặc hắn viết, tịnh không có sửa chữa lại, nên câu văn có nhiều chỗ không được vừa ý. Vì: một là Thánh Thán vốn tính đại lãn! Hai là văn Mái Tây như châu ngọc bày ra trước mặt. Thánh Thán dù có sửa văn mình đến đâu đi nữa mà được việc gì! Thiên hạ đời sau tha thứ cho tôi những chỗ không được vừa ý, và xem cho tôi nhận rõ được cổ nhân.

9. Thánh Thán có phê sáu bộ sách tài tử (Trang-Tao-Sử ký-Luật thi Đỗ Phủ-Thủy Hử-Tây Sương). Vở Mái Tây tức là một. Nhưng thực ra thì cả sáu bộ Thánh Thán chỉ dùng một cặp mắt mà đọc vỡ. Ví như đọc Mái Tây, chính là dùng cặp mắt đọc Trang Tử, Sử ký mà đọc vỡ. Mà đọc Trang tử, Sử ký, cũng chỉ dùng cặp mắt đọc Mái Tây mà đọc vỡ. Các bạn tin tôi, hãy đưa vở Mái Tây cho học trò đọc thay cho Trang Tử, Sử ký.




10. Con em khi đến mười bốn, mười lăm: Như mặt trời ở phương Đông, sách nào chả đọc, quyết không có lẽ không đọc vở Mái tây. Nếu không mau đem vở này của Thánh Thán cho đọc thì thật là để cho chúng đọc vụng Mái Tây. Nếu để chúng đọc vở Mái Tây của Thánh Thán, thì cũng y như là đọc Trang Tử, Sử ký.

11. Con em khi muốn xem vở Mái Tây, nên dậy cho đọc Quốc Phong trước. Vì chuyện tả trong Mái Tây toàn là chuyện tả trong Quốc Phong. Nhưng văn Mái Tây viết, không có câu nào là không nhã nhặn, mà lại toàn bắt chước lối tả trong Quốc Phong, không có câu nào là không thấu thoát. Có thể chữa được cái bệnh viết văn nhã nhặn thì không thấu thoát, hay thấu thoát thì không nhã nhặn của các trẻ em.

12. Các con em trầm tĩnh, viết văn tất nhã nhặn, khổ về nỗi không thấu thoát! Các con em thông minh, viết văn tất thấu thoát khổ về nỗi không nhã nhặn! Như thế tuy là rẽ cương chia lối, nhưng thực là cùng bệnh mà khác chứng... Thế nào là cùng bệnh? Ấy là bệnh không biết biến đổi. Không biến đổi tức là không thấu thoát. Thế nào là hai chứng? Một chứng là đứng lại mà không biến đổi. Hai là chứng chạy đi mà không biến đổi. Đứng là mà không biến đổi, tuy có ra vẻ nhã nhặn, nhưng thực ra thì không nhã nhặn. Chạy đi mà không biến đổi, tuy có ra vẻ thấu thoát, nhưng thực ra không thấu thoát. Nếu thật nhã nhặn, nhất định phải thấu thoát. Nếu thật thấu thoát nhất định phải nhã nhặn. Hỏi ai có thể viết được như thế? Thưa rằng người viết Mái Tây có thể viết được như thế. Mà sở dĩ viết được như thế, chỉ là biết biến đổi đó thôi.

13. Các trẻ em đọc vở Mái Tây này rồi, sau sẽ luyện riêng được cặp mắt để đọc các bộ sách lạ khác. Tính ra vài trăm năm nữa, sách trong trời đất, bản nào cũng như mười mặt trời cùng mọc. Bấy giờ thì bao nhiêu những sách bất tất đọc, không đáng đọc, không thể đọc được cũng đã bỏ đi hết cả rồi! Đó thật là một chuyện rất sung sướng! Nhưng thực là bắt đầu tự vở Mái Tây này!

14. Tôi trước vì các con và các cháu, muốn cho chúng biết viết văn, có nhặt trong Tả Truyện, Chiến Quốc Sách, Trang Tử, Ly Tao, Công Cốc, Sử Ký, Hán Thư, cùng các văn của Hàn, Liễu, Tam, Tô, tất cả hơn một trăm bài, đề là "Tài Tử tất độc thư" vẫn muốn đem in, nhưng chẳng may gặp loạn, nhà nghèo không đủ tiền. Nay đã in được bản Mái Tây này cũng không cần nghĩ đến bộ ấy nữa.

15. Viết văn hay nhất là mắt nhìn chỗ này, tay tả chỗ kia, nếu có lúc mắt muốn nhìn chỗ này thì tay tất phải tả chỗ kia... Nếu không hiểu ý ấy, mắt nhìn chỗ nào, tay tả chỗ ấy, thì xem xong là hết ngay… Người viết Mái Tây thì hiểu ý ấy lắm.

16. Văn chương hay nhất là mắt nhìn chỗ này, song không tả ngay, lại từ xa tả lại. Khi thong thả tả tới nơi rồi, hãy dừng lại đó, lại từ chỗ xa khác, lại thong thả tả lại và khi sắp tới nơi rồi, lại dừng lại đó... Cứ thay đổi vài ba lần như thế, lần nào cũng từ chỗ xa xa, thong thả tả lại, khi sắp tới nơi, lại dừng lại đó… Chứ cũng không đủ chỗ mắt mình nhìn nữa, để cho người đọc thoáng trông thấy chỗ đó ở ngoài văn chương... Văn Mái Tây thuần dùng cách ấy. Văn Tả Truyện, Sử ký cũng thuần dùng cách ấy...

17. Văn chương hay nhất là trước hết nhằm vào một chỗ làm mục đích, rồi đem ngọn bút lượn đi, lượn lại, lượn lại lượn đi ở chung quanh nơi mục đích đó, không bắt lấy hẳn, cũng không buông ra hẳn, y như con sư tử bỡn quả cầu vậy. Cầu vốn chỉ có một quả. Nay ta thả con sư tử ra, nó lấy hết sức nhảy múa lượn quanh... Nhất thời bao nhiêu người trong rạp nhìn vào con sư tử đến hoa cả mắt... Thế nhưng nào có bởi đâu con sư tử!... Mọi người đem mắt nhìn sư tử. Sư tử chú mắt nhìn vào quả cầu. Nhẩy lượn tuy là sư tử, nhưng sư tử sở dĩ nhẩy lượn như thế, chính là vì quả cầu vậy. Vở Mái Tây cũng như Tả Truyện, Sử ký, thuần dùng phương pháp ấy.

18. Văn chương hay nhất là trong một phút ấy, con mắt linh lợi đã nhìn thấy, thì ngay trong phút ấy, bàn tay lanh lợi phải bắt lấy ngay. Vì rằng hơi sớm một phút cũng không thấy, hơi muộn một phút cũng không thấy, chẳng hiểu tại sao, vừa hay đến phút ấy bỗng dưng nhìn thấy. Nếu không bắt ngay lấy thì rồi không tìm ra nữa! Bao nhiêu văn của Mái Tây đều là tác giả tả trong một phút nào đó, con mắt linh lợi bỗng dưng nhìn thấy, liền bắt lấy cho mau. Vì thế mà truyền mãi đến bây giờ. Thử nghĩ từ nghìn muôn năm trở lại đây, biết bao nhiêu là văn hay mà người ta đã nhìn thấy... Chỉ vì không ai bắt lấy, để mặc cho nó như con trâu đất chạy xuống bể, chả còn tăm hơi gì nữa!

19. Từ rầy trở đi dù ai là tay tài tử tuyệt đời cũng chớ có nói rằng: Vở Mái Tây này giá tôi viết cũng nổi... Ví phỏng tác giả còn đến ngày nay, bảo đốt bản này đi, lại viết bản khác, cũng không thể viết lại được nữa! Ví phỏng tác giả là bậc người trời viết nổi một bản khác nữa, nhưng là thứ văn nhìn thấy ở trong một phút khác, lại bắt lấy bằng một cách khác, tức là lại có một lối viết khác, một lối văn khác, nghĩa là một bản khác chứ không phải bản này nữa!




20. Tôi nói con mắt linh lợi nhìn thấy bàn tay! Chợt nghĩ đến con em nhà người ta, có phải không nhìn thấy đâu, chỉ là vì không biết bắt lấy… Trông thấy là trời cho, nhưng bắt lấy phải cần đến người làm. Người viết Mái Tây, thật là vừa hiểu trông thấy lại vừa hiểu bắt lấy, nhưng khi các bạn đọc tìm đến bất tất phải học chỗ nhìn thấy, mà chỉ cần học cách bắt lấy của tác giả. Thánh Thán rất tiếc xưa nay bao nhỉêu là văn hay đã bị người đời nhìn thấy rồi mà không ai bắt lấy cả, để cho nó tự chìm đắm đi không còn có tăm hơi gì. Nay cho in vở Mái Tây này ra đời. Khắp trong thiên hạ ai cũng học được cách bắt lấy. Tôi tính ra xa một vài trăm năm nữa, thế gian tất thêm ra vô số là văn hay. Thật là một chuyện rất sướng!

21. Một lần tôi đương ăn cháo, muốn viết một bài. Lỡ vì cớ khác; không viết ngay được. Đến khi ăn cơm rồi mới viết, thì đã thấy tiếc cái bài mà mình nghĩ khi ăn cháo! Cái đó cũng ví như ta gieo con xúc xắc, hơi sớm, hơi muộn, hơi nặng, hơi nhẹ, hơi Đông, hơi Tây, một chút, tức là không phải sáu mặt ấy nữa rồi! Vậy mà kẻ ngu ngốc còn toan tranh lại, thật đáng tức cười biết mấy!

22. Sao tôi lại nói vậy? Tôi đã nghĩ: Nghìn muôn năm nay, ngày nào là ngày không có mây... Thế nhưng quyết không có chuyện mây hôm nay lại giống với mây hôm nọ. Sao vậy? Mây chỉ là hơi nước ở non sông bốc lên trên không bị làn gió nhẹ thổi dạt ra từng đám. Gió đã không có ý nhất định thì mây cũng không có khuôn nhất định. Hai bên không biết lẫn nhau, chẳng qua ngẫu nhiên như thế. Văn Mái Tây vốn không có ý nhất định và khuôn nhất định. Chẳng qua ngày đẹp song mát, bút tốt, tay rỗi, bỗng dưng viết lên, như gió thổi mây. Ví phỏng lúc khác lại viết có lẽ cũng có nhiều câu hay lắm. Thế nhưng lần này kể đã hay tuyệt rồi! Ta đừng bảo: lúc khác viết, không thể hay hơn thế! Nhưng cũng đừng bảo lúc khác viết còn có thể hay hơn thế vậy!

23. Tôi lúc nhỏ rất ghét hai câu thơ: "Kim vàng ta chẳng bảo mình! Uyên ương thêu đó mặc tình mình xem!" Nếu quả biết được kim vàng, bảo cho nhau biết đã sao? Nay xem vở Mái Tây, uyên ương đã thêu rồi, kim vàng cũng bảo ta biết hết... Cho biết kẻ viết câu thơ kia chỉ là nói bậy!

24. Tôi lúc nhỏ, nghe họ nói một câu truyện cười như thế này: "Ngày xưa có một anh nghèo lắm, nhưng cả đời thờ Lã Tổ rất thành tâm. Cảm tấm lòng ấy, ngài bỗng hiện xuống nhà. Thấy hắn nghèo quá, ngài thương lắm, nghĩ muốn giúp hắn liền thò một ngón tay ra, chỉ vào tảng đá ở ngoài sân. Tảng đá hóa ra tảng vàng đỏ ối! Ngài liền hỏi: Anh có thích không? Anh ta lạy hai lạy mà rằng: Bẩm ngài, con không thích. Ngài mừng lắm phán: Anh biết nghĩ vậy tôi sẽ truyền cho anh biết được đạo cả. Anh ta nói: Thưa không! Con chỉ muốn được cái ngón tay của ngài mà thôi!" Tôi khi ấy nghĩ bụng: Đó chẳng qua là một chuyện bầy trò cười. Chứ nếu thật phải đức Lã Tổ, thì tất cho cả ngón tay ấy! Nay trong vở Mái Tây này, tức là ngón tay của Lã Tổ. Ai biết dùng, sẽ có thể chỉ khắp mọi chỗ, chỗ nào cũng hóa ra vàng...

25. Tôi nghĩ văn chương thì hoặc ở trước đề, hoặc ở sau đề, chứ chính trong đề thì quyết không có văn chương. Ai không tin thử xem mười sáu chương Mái Tây, mỗi chương chỉ tả đề bằng một, hai câu, còn ngoài ra đều là những văn kéo quanh ở trước đề, sau đề cả.

26. Nếu biết văn ở trước đề, thì nên mặc tình kéo quanh mãi không để cho tới đề ngay. Nếu biết văn ở sau đề, thì nên lướt qua ngay đề, rồi ta lại kéo quanh, kéo quanh! Nếu không hiểu cách đó, mà tả thêm một dòng, đôi dòng vào giữa đề, thì như vẽ tranh người chết ngồi xếp bằng, nếp quần áo đã ngay sõng, mà còn tốn bao công tô điểm nữa! Tôi đây trông thấy muốn vào ngay trong nhà mới mà khóc quan Thái phó họ Chung.

27. Ngang, sổ, phẩy, mác họp lại thành chữ. Chữ ghép vào với nhau thành ra câu. Câu trộn lộn với nhau thành ra chương. Trẻ con năm, sáu tuổi phải dậy nó biết chữ. Biết chữ rồi phải dạy nó chắp chữ thành câu. Chắp năm, sáu chữ thành câu rồi phải dạy nó sắp thành chương. Trước hãy sắp năm, sáu, bảy câu thành một chương: kế dạy đến sắp mười câu trở lên làm một chương! Khi đã sắp được hơn mười câu thành một chương rồi, lại dậy cho sắp năm câu hay bốn câu thành một chương, ba câu, hai câu cho đến một câu thành một chương: Khi đã hiểu sắp một câu thành một chương, thì đưa vở Mái Tây cho nó đọc!

28. Sau khi đọc vở Mái Tây các con em sẽ hiểu ba chữ cũng có thể thành một chương, hai chữ một chữ cũng có thể là một chương; mà đến không chữ nào cũng có thể là một chương! Khi đã hiểu không chữ nào cũng có thể là một chương, bấy giờ nghĩ lại khi sắp mười câu trở lên làm một chương thì thật là "thối" quá!

29. Khi đã hiểu như thế rồi thì thể chất đã cao và hay lạ! Khi đó thì phương pháp cũng thay đổi lạ! Khí sắc cũng xinh xắn lạ! Mà kiêng cữ cũng hoạt thoát lạ! Cái công cải hóa các con em của Mái Tây thật là không bé!




30. Đã là chữ thì là chữ... Đã là câu thì không phải là chữ nữa! Đã là chương thì không phải là câu nữa! Có những là không phải chữ không thôi đâu, vở Mái Tây thật là tịnh không có chữ nào cả! Có những là tịnh không có chữ nào cả thôi đâu, mà còn là tịnh không có câu nào cả! Cả vở Mái Tây chỉ là một chương...

31. Nếu là chương thì đáng phải có bao nhiêu chữ... Nay vở Mái Tây không là một chương chỉ là một câu, cho nên tịnh không có bao nhiêu câu cả...! Cho đến không là một câu nữa, chỉ là một chữ, cho nên cũng tịnh không có bao nhiêu chữ cả... Kỳ thực vở Mái Tây chỉ là một chữ...

32. Vở Mái Tây là một chữ gì? Ấy là một chữ "không"! Có người hỏi nhà sư Triệu Châu rằng: "Con chó có tính Phật không?" Đáp rằng: "không"! Vở Mái Tây là chữ "không" ấy.

33. Người ấy lại hỏi: "Phàm những giống có linh hồn đều có tính Phật cả, sao con chó lại không có?" Triệu Châu đáp: "Không!" Vở Mái Tây là chữ "không" ấy.

34. Lại có người hỏi: "Cột đồng trụ có tính Phật không?" Triệu Châu đáp rằng: "Không!". Vở Mái Tây là chữ "không" ấy.

35. Nếu lại hỏi: "Đức Thích Ca có tính Phật không?" Triệu Châu đáp rằng: "Không!" Vở Mái Tây là chữ "không" ấy.

36. Nếu lại hỏi: "Thế chữ không có tính Phật không?" Triệu Châu đáp rằng: "không!" Vở Mái Tây là chữ "không" ấy.

37. Nếu lại hỏi: "Thế trong chữ không có chữ không hay không?" Triệu Châu đáp rằng: "không!" Vở Mái Tây là chữ "không" ấy!

38. Nếu lại hỏi: "Thế là hắn không hiểu?" Triệu Châu đáp: "Ấy chính là bác không hiểu. Còn lão thì không!" Vở Mái Tây là chữ "không" ấy!

39. Vì sao vở Mái Tây lại là chữ "không" ấy? Vì chữ "không" ấy, chính là vở Mái Tây!...




40. Khổ nhất, là con nhà người ta, chưa cầm lấy bút, trong lòng đã có chữ rồi! Như vậy là hạng người không biết viết văn. Vở Mái Tây không có chuyện đó!

41. Khổ nhất là con nhà người ta, khi cầm bút rồi, mà trong lòng chửa có chữ nào cả. Như vậy cũng là hạng người không tự biết cách viết văn! Vở Mái Tây không có chuyện đó!

42. Nhà sư Triệu Châu, nếu không có người hỏi: "Con chó có tính Phật không?" thì ông cũng không biết có chữ "không!"

43. Khi người ta hỏi ông câu ấy rồi, ông cũng không nhớ có chữ "không" ấy nữa.

44. Người viết Mái Tây, khi đương ta chương "Gặp gỡ", cũng không biết chương "Xin trọ" nên tả thế nào... Tóm lại là lúc tả chương trước, thì không biết đến chương sau nên tả thế nào... Đem cả hai mươi phần trí nghĩa, hai mươi phần sức lực, chỉ biết có hai chương trước mà thôi!

45. Khi tả đến chương "Xin trọ", cũng không nhớ chương "Gặp gỡ" như thế nào nữa... Tóm lại là khi tả đến chương sau thì không nhớ đến chương trước là thế nào nữa. Đem hết trí nghĩa và khí lực, chỉ cốt tả lấy chương sau mà thôi!

46. Thánh Thán đem chữ "không" của Triệu Châu mà bàn vở Mái Tây, ấy là nói cái thực tài, thực học của tác giả, chứ không phải nói về đạo Phật! Mà chữ "không" không phải là chữ "không" theo nghĩa "có, không". Nên biết chỗ "không" của Triệu Châu cũng không phải có nghĩa "có, không", mà là thực tài, thực học của Triệu Châu vậy!

47. Vở Mái Tây chỉ tả được có ba người: một là Song Văn, hai là cậu Trương, ba là con Hồng. Còn ngoài ra các vai khác, đều không dùng một câu, hay nửa câu nào để tả họ cả, chẳng qua họ là những món bỗng dưng cần dùng đến trong khi tả ba người kia, thế thôi!

48. Ví như văn chương, thì Song Văn là đầu đề; cậu Trương là văn; còn con Hồng là những chỗ khai, thừa, chuyển, hợp của văn. Có những chỗ khai, thừa, chuyển, hợp ấy, thì đề mới ăn vào văn, văn mới ăn vào đề... Còn ngoài ra các vai khác, chỉ là những tiếng "chi, hồ, giả, dã" ở trong văn mà thôi!

49. Ví như thuốc thì cậu Trương là bệnh, Song Văn là thuốc, con Hồng là việc bào chế. Có bào chế thì thuốc mới đến với bệnh, bệnh mới đến với thuốc... Ngoài ra các vai khác, chỉ là những món gừng, dấm, rượu, mật cần dùng trong lúc bào chế!

50. Ta lại suy tính kỹ càng, thì vở Mái Tây chỉ tả có một người. Người ấy là Song Văn. Nếu trong lòng không có Song Văn thì sao dưới bút lại có vở Mái Tây? Vở Mái Tây không chỉ là để tả Song Văn, thì còn tả ai? Vậy thì vở Mái Tây khi tả Song Văn rồi, còn tả ai nữa?

51. Vở Mái Tây vì muốn tả một người ấy, cho nên không thể không tả đến một người nữa. Người nữa ấy là con Hồng. Nếu không tả con Hồng thì sao tả được Song Văn. Vậy thì con tả Hồng ta nên hiểu chính là ra sức tả Song Văn vậy.

52. Vở Mái Tây sở dĩ chỉ cần tả một người ấy, là vì có một người nữa muốn tả một người ấy. Một người nữa ấy là cậu Trương. Ví phỏng cậu Trương không cần tả Song Văn thì có việc gì mà tả Song Văn. Vậy thì đôi khi tả đến cậu Trương, ta nên hiểu chính là tả cái cớ sở dĩ cần phải tả Song Văn vậy.

53. Nên ta hiểu tả con Hồng chỉ là tả Song Văn, mà tả cậu Trương cũng là tả Song Văn, thì sẽ hiểu rằng quyết không rỗi hơi tả đến các vai khác.

54. Nếu ta hiểu vở Mái Tây chỉ là tả Song Văn, thì sẽ hiểu Mái Tây quyết không chịu tả đến Trịnh Hằng.

55. Vở Mái Tây tả cậu Trương, thật là con nhà quan lớn! Thật là học trò cụ Khổng! Tài bộ cao lạ! học hành chịu khó lạ! hào mại lạ lại thuần hậu lạ! Xem khắp người từ trong đến ngoài, tuyệt không có mảy may nào là trai lơ, là gian giảo! Tuổi tuy đã ngoài hai mươi mà vẫn chưa biết bên dưới dải quần có duyên cớ gì! Tuy "mắt trông kể vạn kể nghìn" song lòng vẫn không động. Tả cậu Trương mà tả đến mực ấy, nên hiểu toàn là không phải tả gì cậu Trương, mà toàn là để tả Song Văn! Các bạn tài tử gấm vóc tất rõ lẽ đó.

56. Vở Mái Tây tả con Hồng, ba lần dùng ngọn bút đắc ý. Lần thứ nhất trong chương "Xin trọ", cự thẳng cậu Trương; lần thứ hai trong chương "Tiếng đàn", lòe dọa Song Văn; lần thứ ba trong chương "Khảo hoa", biết trách bà lớn!... Nhất thời coi ra, tưởng chừng bao nhiêu lễ phép của cụ Chu, ở cả trong lòng con Hồng, cứng cỏi nghiêm trang, không thể nhu nhơ được một chút nào hết! Tả con Hồng đến mực ấy, nên rõ không phải là tả gì con Hồng cả, mà toàn là tả Song Văn đó thôi. Các bạn tài tử tất biết lẽ đó!

57. Vở Mái Tây chẳng qua ngẫu nhiên mà tả giai nhân, tài tử đó thôi! Tôi đã nghĩ kỹ đến phép dùng mắt, phép dùng tay, phép dùng bút, phép dùng mực của tác giả, thì chẳng phải là chỉ biết có cách tả giai nhân, tài tử mà thôi! Đổi đầu đề nào nữa bảo tả, tác giả cũng tả được cả.

58. Nếu bắt tả ông Gia Cát, chịu lời ở Bạch Đế, đem quân ra Ngũ Trượng, thì tác giả sẽ tả ra được gan dạ cùng nước mắt của vô số các bậc lão thần trung nghĩa của khắp thiên hạ trong muôn muôn đời! Sao biết vậy? Đọc vở Mái Tây này thì biết!




59. Nếu bắt tả nàng Chiêu Quân hăng hái xin đi. Ôm cây tỳ bà bước ra cửa ải, thì tác giả sẽ tả ra được gan dạ cùng nước mắt của vô số những kẻ tài cao bị áp bức của khắp thiên hạ trong muôn muôn đời! Ta cứ đọc vở Mái Tây này thì biết!

60. Nếu bắt tả ông Bá Nha lên cù lao, cụ Liên Thành bỏ đi thẳng, thì tác giả sẽ tả được gan dạ cùng nước mắt của vô số những người khổ tâm chịu học của khắp thiên hạ, trong muôn muôn đời! Ta cứ đọc vở Mái Tây thì biết!

61. Đọc Mái Tây, phải quét đất cho sạch. Quét đất cho sạch, cho trong lòng không còn vướng một hạt bụi nào!

62. Đọc Mái Tây tất phải thắp hương. Thắp hương để tỏ lòng thành kính, mong quỷ thần thấu cho!

63. Đọc Mái Tây tất phải ngồi trước tuyết. Ngồi trước tuyết để lấy nhờ vẻ trong sạch!

64. Đọc Mái Tây tất phải ngồi trước hoa. Ngồi trước hoa để giúp cho vẻ xinh tươi!

65. Đọc Mái Tây tất phải hết sức một đêm, một ngày, đọc làm một hơi. Đọc làm một hơi để có thể tóm được từ đầu đến cuối.

66. Đọc Mái Tây tất phải bỏ ra nửa tháng, một tháng, đọc cho kỹ càng để tìm xét lấy những chỗ tỷ mỉ.

67. Đọc Mái Tây tất phải cùng ngồi với người đẹp. Cùng ngồi với người đẹp để nghiệm lấy vẻ trìu mến đa tình!

68. Đọc Mái Tây tất phải cùng ngồi với thầy tu. Cùng ngồi với thầy tu để phục cái tài giải thoát vô phương!

69. Văn Mái Tây nửa trên là tả cậu Trương; nửa dưới là tả Song Văn; quãng giữa là tả con Hồng.

70. Văn Mái Tây là văn Mái Tây, chẳng phải là văn Hội Chân Ký.

71. Vở Mái Tây mà Thánh Thán phê bình là văn Thánh Thán, không phải văn Mái Tây...

72. Các bạn tài tử muôn đời đọc vở Mái Tây của Thánh Thán phê bình ấy là văn của các bạn, không phải văn của Thánh Thán.

73. Vở Mái Tây chẳng phải là một mình cái ông họ Vương tên Thực Phủ viết ra... ta bình tâm tĩnh khí đọc coi, thì ra chính ta vừa mới viết nên: Câu nào, chữ nào cũng vậy, trong lòng ta vừa định tả như thế, thì Mái Tây cũng tả đúng như thế.

74. Nghĩ ra cái ông họ Vương tên Thực Phủ, một mình cũng sao viết nổi vở Mái Tây! Chẳng qua là ông bình tâm tĩnh khí mà đánh cắp lấy vở ấy ở trong lòng người đời!

75. Tóm lại thì văn hay ở đời, là thứ của báu chung của tất cả mọi người trong muôn muôn thủa... Quyết không phải là tập văn riêng của một người nào!

76. Ví ở trong đời lại có thứ văn không hay, thì đó không phải là thứ văn ở trong lòng tất cả mọi người trong muôn muôn thủa. Ta có thể mặc kệ, cho là văn tập của một người!

77. Mái Tây, nên gọi tên là Mái Tây. Hồi xưa thấy người ta gọi là Bắc Tây Sương Ký! Đó là một lỗi lớn!

78. Đọc Mái Tây thì cứ bảo mọi người là đọc Mái Tây. Hồi xưa thấy người ta thường nói thác rằng: coi sách nhảm! Đó là một lỗi lớn!

79. Mái Tây có một tinh thần như thế, hồi xưa thấy người ta thường cho những phường hề nhọ đem đóng trò ở trên sân khấu, đó là một lỗi lớn!

80. Đọc Mái Tây rồi, không lấy cốc lớn rót rượu thưởng cho tác giả, đó là một lỗi lớn!

81. Đọc Mái Tây rồi không lấy cốc lớn rót rượu tự thưởng cho mình, đó là một lỗi lớn!...

Cặp đôi trời sinh Bảo Ngọc – Đại Ngọc cùng đọc Tây Sương Ký






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét