TRUYỆN KIỀU với minh hoạ cổ bản
12. Kim Trọng đi tìm Kiều
2739. Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới
thương.
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã
rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy
Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết
bao!
Vội han di trú nơi nao,
Đánh đường
chàng mới tìm vào tận nơi.
Nhà tranh vách
đất tả tơi,
Lau treo rèm
nát trúc cài phên thưa.
Một sân đất cỏ
dầm mưa,
Càng ngao ngán
nỗi càng ngơ ngẩn đường!
Đánh liều lên
tiếng ngoài tường,
Chàng Vương
nghe tiếng vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội
rước vào nhà,
Mái sau viên
ngoại ông bà ra ngay.
Khóc than kể hết niềm tây:
Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia biến lạ dường,
Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
Dùng dằng khi bước chân ra,
Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
Trót lời hẹn với lang quân,
Mượn con em nó
Thúy Vân thay lời.
Gọi là trả chút
nghĩa người,
Sầu này dằng
dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên
đã phụ duyên,
Dạ đài còn biết
sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú
đinh ninh,
Ghi lòng để dạ
cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
Chàng Kim về đó
con thì đi đâu?
Ông bà càng nói
càng đau,
Chàng càng nghe
nói càng dàu như dưa.
Vật mình vẫy
gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt
ngọc thẫn thờ hồn mai!
Đau đòi đoạn
ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại
khóc khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau
nỗi biệt ly,
Nhẫn ngừng ông
mới vỗ về giải khuyên:
Bây giờ ván đã
đóng thuyền,
Đã đành phận
bạc khôn đền tình chung!
Quá thương chút
nghĩa đèo bòng,
Nghìn vàng thân
ấy dễ hòng bỏ sao?
Dỗ dành khuyên
giải trăm chiều,
Lửa phiền càng
dập càng khêu mối phiền.
Thề xưa giở đến
kim hoàn,
Của xưa lại giở
đến đàn với hương.
Sinh càng trông
thấy càng thương.
Gan càng tức
tối ruột càng xót xa.
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi
trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề
thốt đã nhiều,
Những điều vàng
đá phải điều nói không!
Chưa chăn gối
cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡ
dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của
mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi một
gặp nàng mới thôi!
Nỗi thương nói
chẳng hết lời,
Tạ từ sinh mới
sụt sùi trở ra.
Vội về sửa chốn
vườn hoa,
Rước mời viên
ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn chăm
chút lễ thường,
Dưỡng thân thay
tấm lòng nàng ngày xưa.
Đinh ninh mài
lệ chép thơ,
Cắt người tìm
tõi đưa tờ nhắn nhe.
Biết bao công
mướn của thuê,
Lâm thanh mấy
độ đi về dặm khơi.
Người một nơi
hỏi một nơi,
Mênh mông nào
biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm
thiết khát khao,
Như nung gan
sắt như bào lòng son.
Ruột tằm ngày
một héo don,
Tuyết sương
ngày một hao mòn hình ve.
Thẩn thờ lúc
tỉnh lúc mê,
Máu theo nước
mắt hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo
sợ biết bao,
Quá ra khi đến
thế nào mà hay!
Vội vàng sắm
sửa chọn ngày,
Duyên Vân sớm
đã se dây cho chàng.
Người yểu điệu
kẻ văn chương,
Trai tài gái
sắc xuân đương vừa thì,
Tuy rằng vui
chữ vu quy,
Vui nào đã cất
sầu kia được nào!
Khi ăn ở lúc ra
vào,
Càng âu duyên
mới càng dào tình xưa.
Nỗi nàng nhớ
đến bao giờ,
Tuôn châu đòi
trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ
thư phòng,
Đốt lò hương
giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ
tiếng tơ,
Trầm bay nhạt
khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên
nóc trước thềm,
Tiếng kiều đồng
vọng bóng xiêm mơ màng,
Bởi lòng tạc đá
ghi vàng,
Tưởng nàng nên
lại thấy nàng về đây.
Những là phiền
muộn đêm ngày,
Xuân thu biết
đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn,
Vương, Kim cùng
chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời rộng
mở đường mây,
Hoa chào ngõ
hạnh hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ
đến xa gần,
Sang nhà Chung
lão tạ ân chu tuyền.
Tình xưa ân trả
nghĩa đền,
Gia thân lại
mới kết duyên Châu Trần.
Kim từ nhẹ bước
thanh vân,
Nỗi nàng càng
nghĩ xa gần càng thương.
Ấy ai dặn ngọc
thề vàng,
Bây giờ kim mã
ngọc đường với ai?
Ngọn bèo chân
sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh
hiển thương người lưu ly.
Vâng ra ngoại
nhậm Lâm Truy,
Quan san nghìn
dặm thê nhi một đoàn.
Cầm đường ngày
tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng
hạc tiếng đàn tiêu dao.
Phòng xuân
trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm
bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ
cùng chàng,
Nghe lời chàng
cũng hai đường tin nghi.
Họ Lâm thanh
với Lâm Truy,
Khác nhau một
chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
Ở đây hoặc có giai âm chăng là?
Thăng đường chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
Sự này đã ngoại mười niên,
Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về.
Thúy Kiều tài sắc ai bì,
Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.
Phong trần chịu đã ê chề,
Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
Phải tay vợ cả phũ phàng,
Bắt về Vô Tích toan đường bẻ hoa.
Rứt mình nàng phải trốn ra,
Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
Thoắt buôn về thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại gặp một người,
Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy
linh.
Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy.
Tóc tơ các tích mọi khi,
Oán thì trả oán ân thì trả ân.
Đã nên có nghĩa có nhân,
Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
Chưa từng được họ được tên,
Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
Nghe lời Đô nói rõ ràng,
Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc
Sinh.
Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá tính danh là gì?
Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly,
Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
Đại vương tên Hải họ Từ,
Đánh quen trăm trận sức dư muôn
người
Gặp nàng khi ở châu Thai,
Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm nên động địa kinh thiên đùng
đùng.
Đại quân đồn đóng cõi đông,
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao.
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn
thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây.
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng còn chút xa xôi,
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau .
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nam bình,
Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú
Dương.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó
quan .
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiết
Giang.
Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau
xưa.
Hàng Châu đến đó bây giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan!
Thương ôi! không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một
nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc
gieo.
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét