Tập truyện đầu tiên của Thế Lữ, Vàng và máu (1934) là tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của ông ở thể loại kinh dị, đã trở thành một hiện tượng mới lạ ngay từ khi ra đời và để lại dư âm đến nhiều năm sau. Với tác phẩm này, Phan Trọng Thưởng đánh giá Thế Lữ là "tác giả đạt đến đỉnh cao nghệ thuật" của loại truyện ly kỳ rùng rợn, Lê Huy Oanh gọi đây là "một trong những tác phẩm thuộc loại truyện rùng rợn có giá trị lớn trong kho tàng tiểu thuyết Việt Nam". Gồm một truyện vừa (Vàng và máu) và ba truyện ngắn (Một đêm trăng, Con châu chấu tre, Ma xuống thang gác), trong đó đặc sắc nhất là Vàng và máu và Một đêm trăng, tập truyện này được đánh giá cao ở lối kể chuyện hấp dẫn, li kỳ, gây tò mò và xúc động cho độc giả, xây dựng giản dị, có kết giải, lối văn gọn gàng, thanh thoát, trí tưởng tượng và khiếu phân tích phong phú, những đoạn tả cảnh vừa tỷ mỉ lại rùng rợn mà có thi vị. (vi.wikipedia)
Hoa Mộc lan trắng- Tranh Hoàng Bá Linh |
VÀNG VÀ MÁU
Tác giả: Thế Lữ
Kể từ châu Kao Lâm ở
phía đông và miền bản Slay ở phía tây mà đến, từ mạn bản Pắc đi xuống, và từ bản
Hạ trở lên, cách non mười dặm chung quanh chỉ có quả núi đá Văn Dú là cao lớn
nhất.
Sừng sững giữa trời,
bao quát đồi cây gò đất, núi ấy trông đường bệ hách dịch như đứng làm chúa tể
cho cả một vùng phong cảnh hoang vu. Dân Thổ ở các làng gần đó, ngày nào cũng
trông thấy ngọn núi mù mù lam tím, nhô lên trên những hàng rừng xanh chi chít
um tùm.
Những buổi hoàng hôn
bóng chiều soi riêng một phía cũng như các ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra
với một vẻ riêng oai linh và mầu nhiệm.
Đối với ngọn núi lớn,
người Thổ không chỉ có tấm lòng kính cẩn phảng phất đối với mọi cảnh bát ngát
cao cả, họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật có tri giác, có quyền phép làm hại người.
Ở những miền quanh đó và trong thời bấy giờ, ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ.
Họ chỉ gọi đến tên quả núi trong những khi tức giận nhau mà chửi rủa hay những
khi thề bồi. Một người say rượu lớn tiếng xúc phạm đến Văn Dú cũng đủ làm cho
khắp cả một châu biết đến tên mình; họ thuật lại những lời nói và cử chỉ của
anh ta một cách e dè, nhưng đó là thứ chuyện họ ưa nghe ưa kể nhất.
Núi Văn Dú có một cái
hang lớn. Đó là nơi chứa những tai hoạ ghê gớm cho giống người Thổ và là cái
nguồn những sự khủng khiếp và những chuyện kinh hoàng. Người ta gọi hang là
hang Thần, vì đó là chỗ thần núi ở.
Thần núi Văn Dú linh
thiêng lắm, lại rất độc ác và hay nghi ngờ. Người nào hoặc vô tình, hoặc cả gan
đến gần thần núi là bị thần hang bắt vào giết đi. Cho nên từ Văn Dú trở ra chừng
hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng xác, đất hoang; người Thổ không dám đến khai phá
để cày cấy.
Trong một năm có nhiều
khi trời đất đang yên bỗng đùng đùng một cơn sấm sét. Trên không gió vù, chớp
loáng như gươm thiêng vung tít; cây cối vật vã tan nát, người vật lo sợ mất hồn.
Khắp mọi nhà đều khua gõ inh ỏi cùng với các bà then thầy pháp kêu khấn cho đến
khi nguôi cơn. Nhưng thế mới đỡ tai hoạ.
Lại nhiều khi, sau một
hồi giông tố dữ dội, mây đen biến hết, ánh nắng lại soi xuống; bấy giờ trên đỉnh
núi chập chờn một tầng khói phủ dần dần bay đi. Trong đám hơi trắng mà người ta
bảo là nộ khí của thần hang, có người nói rằng thường trông thấy những hình
bóng kỳ dị.
Trong trí tưởng tượng của
người Thổ thì cửa hang Thần trông như mồm con yêu hay hổ quái gở. Cái mồm ấy
phun ra những hơi độc làm thành dịch tễ, gió bão để phá huỷ các làng. Trước cửa
hang Thần, người thì bảo có toàn đầu lâu, người thì bảo có đủ các rắn rết. Lại
có người khoe đã nằm mơ vào tận trong hang xem. Qua khỏi những chỗ nguy hiểm rồi
thì đến nơi ruộng nương tươi tốt, suối chảy thong dong, cây lá rườm rà, bò lợn
từng đàn ăn trên những bãi cỏ xanh non, lại có các nàng tiên nhởn nhơ chăn dắt.
Song cái tấm ảnh đào nguyên kia, người tả cũng cho là một cảnh mai mỉa không thể
làm dịu được vẻ độc ác của núi Văn Dú gây nên bởi những truyện phao truyền từ
trước đến giờ.
Những người già cả
trong làng thì cho rằng hang Thần hoá thiêng là vì trong đó chôn cất không biết
bao nhiêu thây của quân giặc Khách. Bọn giặc này sang tàn phá nước Nam khi trước
bị quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào Văn Dú rồi bị hãm chết đói trong hang. Đứa
nào cũng mang theo rất nhiều vàng đã cướp của dân lành. Nay những của ấy hãy
còn, nhưng chúng thành thần để giữ lấy.
Về đời ông cha họ thì
dân cư vẫn thường cấy cầy được ở gần hang Văn Dú; bấy giờ những tai hoạ chưa có
mấy, nhưng mỗi khi sụt sùi mưa gió lại văng vẳng như có tiếng khóc thảm thiết lẫn
với tiếng cười gằn; chốc chốc một cơn gió là là mặt đất chạy qua, cửa hang bỗng
gầm rít lên một cách giận dữ.
Gần làng kia thuộc châu
Kao Lâm có một cái suối chảy đến. Suốt phát nguyên từ Văn Dú và chạy ngang mặt
đông bắc quả núi, là phía hang Thần trông ra. Như thế là một sự nguy khốn cho
làng ấy. Đã có một hồi, muốn phòng những tai nạn, người ta đặt ra lệ tế thần
Văn Dú hàng năm. Vật hy sinh là một người con gái đẹp. Tiếng oán khóc của các
cha mẹ những người gái trinh bị giết quăng xuống suối nghe bi thảm đầy trời đất,
nhưng không hề cảm được lòng những dân làng độc ác vì ngu dại kia.
May sao được mấy năm
sau, có một ông quan trấn người Kinh nghiêm cấm không cho giết người như thế nữa.
Về sau họ thấy trong châu động dữ và đã mấy phen toan giữ lại lệ xưa nhưng đều không thành.
Song cái tục vô đạo này
tuy mất đi, cái linh thiêng của tà thần Văn Dú mỗi ngày một lớn, lòng mê muội
và khiếp sợ của người miền ấy ngày một tăng thêm. Bao nhiêu điều huyền bí ngày
một ly kỳ. Người Thổ cứ cha truyền con nối cho nhau tin, kể đã hơn hai trăm năm
trời, cho đến bây giờ là năm Kỷ tị 1929).
I
Một buổi chiều mùa
đông, trời rét căm căm, mưa phùn bay mù mịt.
Từ miền bản Đông thuộc
châu Kao Lâm đến mạn Văn Dú, có hai người đàn ông Thổ đang rảo bước đi. Hai người
mặc quần áo vải chàm; áo cộc thắt lưng chẽn ngoài quần ngắn và chít ống. Một
người trạc ngoại bốn mươi, nét mặt già dặn, mắt sâu, miệng nhỏ, thở hơi ra như
khói, cái quai nón mắc xuống cằm đè lấy bộ râu lưa thưa còn lấp lánh những giọt
nước mưa. Thỉnh thoảng ông ta ngoảnh bảo người đi sau mấy lời. Người này không
nói gì cứ ra chân bước. Hắn còn trẻ; trông rắn rỏi và khoẻ mạnh không kém người
trước; hai môi dẩu, trán nhô và cao; đầu quấn một cái khăn lớn. Một tay hắn thủ
vào trong áo, còn tay kia thì nắm một cái lao dài.
Hai người cứ trông thẳng
phía núi đá mà tiến lên, lúc xéo lên những lối rậm rạp bên đồi, lúc giẫm gẫy những
nấm rạ cụt ở ruộng lúa. Qua hết đồi này lại đến những gò khác; những bụi cây
xanh mưa ám mỗi ngày một rậm, đồng ruộng ngày một thưa; ngọn núi đá mờ mờ trong
đám sương mù cũng ngày một rõ.
Gió bấc thổi bên tai vù
vù từng trận. Trước mấy rặng rừng hay trước những khóm cây nặng nề ướt át, những
làn mưa bụi trắng từng lớp bay qua.
Chân tay mặt mũi hai
người tái cứng đi. Giá cấu chắc không biết đau, có lẽ cũng không biết rét nữa.
Quần áo phía trước, mưa hắt nhiều nên ướt đẫm. Từ đầu gối trở xuống toàn những
đất đỏ với bùn; mỗi lúc qua một đám cây thấp nào thì cành lá gột sạch gần hết.
Đi tới miền đồi núi và
bụi cây chen chúc nhau, không còn dấu vết cày cấy nữa, hai người Thổ trông thấy
quả núi Văn Dú đứng chắn trước mặt, hình vóc cao lớn như ngăn đôi phần đất, đỉnh
núi như chạm bầu trời.
Họ dừng chân ở cạnh một
cái suối lòng sâu như vực. Nước suối xanh đặc như rêu thẫm, đang lừ lừ đi vào một
cái hốc to dưới mấy cụm cây lá xoè ra và phủ xuống như cánh tàn.
Họ cởi đôi hài xảo 1 chùi
xuống cỏ ướt rồi nhét vào trong nải. Rồi họ đứng thẳng dậy, ngoảnh trông lại
quãng đường họ vừa đi qua. Bấy giờ vào khoảng cuối giờ Thân (bốn giờ chiều),
mưa đã gần tạnh. Bao nhiêu rừng núi đằng xa đều tan thành hơi trong đám sương
dày đặc trắng đục. Chân trời một màu xám như bạc cũ, làm nổi bật những bụi rậm ở
gần bên.
Trông sang mạn bờ suối
bên kia, thì Văn Dú như sát lại cạnh mình. Quả núi lồng lộng đen sì làm át cả
những đống gò nhỏ mọn. Một vài bụi cây xơ xác chen lách dưới những tảng đá lớn
mốc rêu. Về phía trong cùng, một rặng rừng thấp và lưa thưa như không dám xanh
tốt.
Hai người lẳng lặng tìm
một chỗ đỡ trơn và hẹp nhất, lần lần bám víu lấy cành lá rễ cây mà xuống rồi lại
chậm chạp khó nhọc như thế mà leo lên bờ suối bên kia.
Từ bờ suối bên kia là địa
phận của sự ghê gớm.
Sang tới nơi, họ lại xỏ
chân vào đôi giày rơm, rồi cùng nhau đi đến chân núi.
Lần này, người tuổi trẻ
phải cầm lao đi trước. Họ bước đi rón rén, cẩn thận, bốn mắt liếc đây liếc đó.
Hơi có tiếng lạ cũng dừng lại bởi vì họ yên trí rằng họ đã đi vào nơi hoang dã
có lẽ chưa bao giờ có vết chân người.
Mưa đã tạnh hẳn rồi.
Gió cũng đã ngớt. Chim chóc bắt đầu lên tiếng ở trên mấy ngọn cây cao hay trong
ngách đá. Thỉnh thoảng một vài con quạ vừa bay ngang núi vừa kêu.
Đường đất cũng không đến
nỗi khó đi quá như họ tưởng. Nhưng họ cũng không dám bước bạo.
Đi khỏi một cái đồi,
qua mấy tảng đá nằm nghiêng trên đám cỏ lau đến một tụm cây họp lại thành gần
như một cái miếu. Thấp thoáng trong đám lá xanh um, thấy như có dấu vết một bức
tường đổ nát. Hai người không đứng lại. Dấn lên mươi bước nữa, đi về phía chân
núi, qua khỏi cái miếu nhỏ, thì hang Thần hiện ra.
Hang Thần trông cũng
không to: bề cao bằng nửa cây gạo già mọc trước cửa. Miệng hang loe ra như cái
miệng hũ. Phía trên toác ra như cái môi rách, phía dưới có hai tảng đá dài và
nhọn đâm lên ở hai bên mép như hai cái nanh. Trông vào trong hang càng xa càng
rộng, càng đen tối thêm thăm thẳm sâu vô cùng tận. Trên cửa hang chi chít các
giống thảo mộc kỳ dị lấp lánh vì nước mưa phùn mới rửa. Từ trong kẽ đá, bò ra
những khúc cây tròn và mốc, bám chặt vào miệng hang. Những dây những rễ; những
lá đỏ, lá xanh, lớn bé lẫn lộn, mọc đầy mép hang; những cụm trúc rất nhỏ với những
đám cỏ xác xơ chen nhau ở bên những khóm si con và những vừng tóc tiên xanh tốt.
Tiếng hạt nước đọng
trên cao vẫn rơi xuống lộp độp lẹt đẹt không dứt, nghe mạnh hơn tiếng chim kêu
ríu rít ở những ngọn cây nào. Bỗng chốc cơn gió thổi qua, một loạt nước đổ ào
xuống như muôn nghìn quả chín rụng.
Hai người Thổ cùng nín
tiếng, hai mắt mở lớn, người thì đưa nhìn tả, người liếc hữu, rồi lại trông vào
cái lỗ hang đen tối âm thầm. Họ đã chực lẳng lặng đi vào. Nhưng lại cùng nhau dấn
bước qua, đi sang phía hữu hang Thần đến bên lớp dứa ông xúm quanh chân mấy cây
dại hình thù kỳ quặc: những cây này đang uốn éo sát chân núi; cây thì chui ra
khỏi một tảng đá vỡ, cây thì để cho dây leo quấ chằng chịt, nhiều cây đã đổ,
gãy, bật hẳn rễ, mà vẫn còn sống như thường.
Đang tha thẩn nhìn,
không có mục đích, hai người bỗng trông thấy một vật gì màu lam ở dưới một cụm
dứa. Nhìn kỹ thì hình như một bọc vải, một cái khăn gói màu lam, nằm trong đám
lá dại với cỏ cao trên mặt đất. Nhưng không ai dám nói gì hết: nhiều vật tương
tự như nhau có thể làm cho mình trông lầm được. Họ bèn bước lại gần để xem sao.
Thì ra một cái khăn gói
thực. Một cái khăn gói đã mở, ướt như mới lấy dưới nước lên bên cạnh cái khăn
gói ấy còn thấy một con dao rừng và một cái gậy lớn.
Hai người Thổ cùng kinh
ngạc như nhau, mỗi người toan kêu lên: "Có ai tới đây rồi!" nhưng
không thể nào dám thốt ra miệng một điều quái lạ như thế.
Ông già ngập ngừng một
chút, rồi cúi xuống giở cái bọc ra xem: một cái áo chàm vải thô, gói lấy hai
nén bạc còn nguyên, với lại...
Bỗng một tiếng khiếp sợ
rú lên ở bên cạnh. Ông già đứng phắt dậy, nhìn, thì thấy người con trai mặt tái
mét, hai mắt mở to lạ, vừa chỉ về cái miếu trước mặt vừa lớn tiếng nói:
- Kòi ka! Kòi
ka! (kìa trông! kìa trông!)
Vang núi cũng đáp lại
hai tiếng "kòi ka!" nghe như lời quát tháo.
Ông già trông theo ngón
tay trỏ thì thấy trong đám miếu nhỏ, một người chết treo dưới một cây bàng trụi
lá, mọc bên một bức tường đổ nát và mốc rêu:
Người chết hình vóc to
lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng. Chiếc dây chão thõng xuống thắt nút ở gáy và lằn
vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn bộ quần áo chàm ướt, cúi gằm xuống mà nhìn
người ta bằng con mắt không có tròng đen. Hai bàn tay buông thõng, để cho nước
mưa ở năm đầu ngón rỏ xuống như giọt tranh. Hai bàn chân đen sì kiễng trên
không, như muốn với lấy đám lá sắc cỏ nhọn mọc ở mặt đất.
Các nhánh cây cao chung
quanh thỉnh thoảng lại đưa đẩy. Một đàn quạ đen sợ người không dám xuống, gọi
nhau bằng những tiếng thê thảm lạnh lùng.
Hai bác Thổ nắm chặt lấy
tay nhau, không dám tiến, không dám lùi: quanh mình chỗ nào cũng thấy toàn sự
chết.
Họ liếc nhìn vào chỗ tường
đổ, trên mặt những gạch còn lại rêu non và những lá nhỏ bám xanh lè. Ở quãng giữa
những mảnh tường, tự do mọc lên những cây lá lạ kỳ, rậm rạp. Dây bìm nửa tươi nửa
chết bò leo ra tới mấy cây ở gần và rủ xuống phất phơ bên cạnh đùi cái thây ma
in lẳn trong hai ống quần đẫm nước.
Một trận gió lạnh buốt
ào ào chạy đến làm rung động cả một phía rừng cây. Người Thổ già rùng mình một
cái, còn người con trai thì bắt đầu run. Anh ta lẩm nhẩm trong mồm những câu gì
mà người kia đứng bên cũng không nghe rõ. Dần dần ông già như đã định trí, bèn
dắt người con trai quay lại, toan cùng đi tới cửa hang. Song anh chàng càng đi
càng run thêm, phải níu lấy ông già, van đừng tiến lên nữa.
Người Thổ già đứng lại,
ngẫm nghĩ một lát, rồi lẩm bẩm mấy tiếng, trong lúc ấy người con trai một tay nắm
chặt lấy lao chống xuống đất, còn một tay nhất định không chịu buông ông già.
Yên lặng hồi lâu.
Trời đất hình như chỉ
riêng u ám ở chỗ hoang dại ấy.
Mặt ông già không còn
nét kinh hãi nữa. Ông ta đang cúi đầu nghĩ, bỗng ngẩng lên, rồi nói:
- Bây giờ đi vào trong
hang.
Anh con trai mở mắt rõ
to:
- Hử? Đi vào hang à?
- Chứ gì!
- Không! Tôi sợ lắm!
Ông già cau mặt:
- Sợ gì mà sợ! Đằng nào
cũng phải vào trong ấy xem đã, rồi còn đi về nữa kia mà?
- Không! Không! Đi về
thôi! Không vào! Vào thì chết!
Ông già lấy trong mình
ra một mảnh giấy. Trên đó có mấy hàng chữ nhỏ mà ông ta không đọc, chỉ để mắt tới
những hình vẽ ngòng ngoèo như hình sông núi của bức địa đồ. Ông ta ngẩng nhìn
thân quả núi cao, trông vào cái hang cách độ mươi bước và lãnh đạm nhìn cái xác
treo lủng lẳng kia.
Rồi ông ta thản nhiên
nói:
- Nào! Ta đi vào đi.
Người con trai lắc đầu
không thôi:
- Không có vào! Vào thì
chết! Vào chết đấy!
Ông già cứ trông kia
thì biết. (Hắn vừa nói vừa chỉ vào thây người Khách). Người ta nói không sai
đâu.
- Mày không vào thì tao
vào một mình. Đừng có nói lôi thôi. Rồi về đừng kể công đấy... Đi vào không?
- Không... vào thì chết
thôi! Vào thì chết!
Người Thổ già thấy vậy
bực mình để mặc người trẻ tuổi đấy, xăm xăm bước lại cửa hang.
Đến nơi, ông ta lấy
trong bọc ra mấy thanh củi thông, một ít bùi nhùi với một hòn đá lửa.
Lúc bó đuốc thông đã
cháy, ông già một tay cầm bó đuốc giơ lên ngang trán, một tay cầm thanh đao to
bản, quay lại mắng người con trai là nhát, rồi bước thẳng vào hang Thần. Người
con trai cuống cuồng chạy vôi lại cửa hang, cất tiếng gọi.
Nhưng ông già đã lẩn
vào trong bóng tối. Ngọn lửa đỏ ngùn ngụt cũng dần dần bé, rồi biến hẳn đi.
Ở ngoài này, anh ta lắng
nghe còn thấy đằng hắng một vài lần và thỉnh thoảng có tiếng chân thong thả
khua trong một vũng nước.
Anh con trai chợt nghĩ
đến những chuyện ma quỷ ám ảnh người chết mà dẫn vào chỗ chết. Anh ta thốt
nhiên hối hận rằng không nhẩy xổ vào mà kéo ông già lại. Chắc hẳn ông già này lại
bị thần núi bắt vào hang. Anh chàng cố nín hơi nghe tiếng chân dần dần bước còn
thấy đưa ra là ông già vẫn còn sống...
Gió bên ngoài thổi qua
không buốt bằng hơi lạnh ở hang đá. Anh ta run cầm cập, hai hàm răng va nhau
ngày một mạnh.
Bước chân đã thấy im từ
lâu.
Chốc chốc lại có tiếng
kêu "chít chít" nhỏ, với tiếng thì thầm lớn, tưởng như lời mỉa mai độc
ác của yêu quái, ngồi xổm đang vừa ngáp vừa bàn nhau. Thỉnh thoảng hình như cả
cái hang thở dài. Rồi, im lặng. Không thể nào đoán được những việc xảy ra trong
cái miệng tối bí mật ấy.
Anh Thổ nghe thấy tiếng
lạ thì sợ. Anh ta thấy yên lặng lại càng sợ già.
Anh ta muốn hắng giọng
lên, hay nói đùa một câu gì để phá cái tịch mịch nặng nề kia; nhưng không dám.
Anh ta cũng không dám nhìn về phía cái xác chết; lại tưởng người thắt cổ sắp đứng
xuống đất, sắp đi lại gần mình. Anh ta rợn người lên, khẽ ngảnh đầu nhìn lại.
Những bụi cây rậm rịt
chung quanh như vây chắn lấy mình: chưa bao giờ anh ta thấy có cái cảm giác vắng
vẻ biệt tịch bằng lúc ấy!
Thế mà có một người đi
cùng, thì lại vào trong hang mất, lại vào đấy sau khi gặp người thắt cổ! Chẳng
hiểu bụng dạ ông thế nào. Mà sao mãi không thấy ông ta ra? Mãi không thấy tiếng
gì hết! Hay lạc mất lối? Hay bị mê mẩn sợ hãi quá? Hay gặp ma quỷ? Chết rồi
cũng không biết chừng!
Trong lòng người con
trai nôn nao như điên dại.
Anh ta nghĩ: hay là gọi
thực to lên cho lão già đáng giận kia nghe thấy. Nhưng anh ta lẳng lặng trông
xuống dưới chân.
Bên những cái màng đeo
những hạt sương sáng đẹp như thuỷ tinh, anh Thổ trông thấy những hòn đá sỏi lăn
dưới cỏ. Chợt nẩy ra một ý kiến. Anh ta nhìn vào trong đám tối: cúi xuống nhặt
ba bốn hòn to nhất, nghĩ ngợi một lát, rồi đánh liều vứt mạnh vào hang. Hòn sỏi
hình như bị rơi xuống chỗ có nước, vì nghe đánh "bõm" một cái. Anh ta
lại ném hòn đá nữa, lần này ném thẳng không rụt rè.
Tức thì trong hang có
tiếng rên hừ hừ đưa ra. Anh này chưa hiểu sao, bỗng lại nghe thấy tiếng bịch bịch
rất mạnh và rất nhanh, rồi như có muôn vàn đá sỏi đổ mưa xuống một cái vũng nước
không trông thấy.
Ngay lúc đó, ông già ở
trong đám tối hiện ra, nét mặt ông đổi hẳn đi; hai mắt kinh sợ mở đến rách kẽ;
nón lật ra đằng sau, khăn buột xuống quanh vai, tóc xoã ra rũ rượi.
Người trai Thổ chưa kịp
kêu hỏi thì ông già đã loạng choạng bước vội đến bám lấy hắn, vừa rên, vừa thở
hồng hộc, lưỡi líu lại không nói được nên lời nào. Anh chàng điên cuồng vội
quăng cái lao đang cầm đi, rồi vực ông già ngồi xuống một bên, một cánh tay đỡ
lấy sau vai, tay kia rờ lên trán ông già thì thấy toát ra một thứ mồ hôi lạnh
và dính nhơm nhớp. Anh ta rối rít gọi ông già tiếng kêu vang động cả quả núi;
nhưng ông ta đã rũ xuống, chỉ lắc đầu không thưa. Ngực ông ưỡn lên, hơi thở
càng ngắn càng tức tối. Hai mắt ông trợn ngược nhìn về phía cửa hang là phía
ông quay đầu vào. Mồm thì há cứng đờ, thỉnh thoảng như muốn hớp lại. Một dòng
máu từ mũi chảy ra, đen và loãng, lẫn vào bọt dãi ở hai bên mép, rồi cùng chảy
xuống cái cổ xanh xám, đầu ngoặt ra đằng sau. Người trai thổ vừa run run kéo vạt
áo lau cho ông già, bỗng trông thấy trong cái tay co quắp của ông ta một mẩu giấy
nhỏ.
Ông già lúc ấy không thở
được nữa.
Anh ta không thể nào biết
được vì sao mà ông ta đến thế, thấy mẩu giấy lạ, bèn cậy tay ông già ra xem: đó
là một mảnh giấy khổ vuông, to bằng hai bàn tay màu hung hung vàng, dầy và dai
lắm.
Trên mặt giấy, về phía
tả, có vẽ một người quỳ, cầm một tờ giấy lớn giơ lên ngang mặt; ở phía hữu vẽ một
bó đuốc đang cháy; nét vẽ rất ngây dại. ở hai hình vẽ có mấy hàng chữ Hán,
nghĩa như sau:
Miệng có hai răng;
Ba chân bốn tay;
Mày vào trăm chân;
Mày lên ba tay;
Tên mày là đá;
Đá sinh trứng đá;
Trứng đá giữ của;
Mày có sức mang;
Mày giầu mày chết;
II
Về mạn tây nam, sau
lưng Văn Dú, là châu Nga Lộc cách xa hòn núi đá chừng ngót một phần tư ngày đường.
Nhà Quan Châu nằm trên
một cái đồi, mái lợp tranh, tường đất lèn, thấp và vững chãi. Chung quanh cây
tre bụi rậm vây kín. Dưới chân đồi là xóm làng.
Quan Châu Nga Lộc năm ấy
chừng ngoại bốn mươi tuổi; người khoẻ mạnh và tinh anh.
Trong nhà lên đèn đã
lâu. Ông xếp gọn các đơn từ đã phê xong, lấy cái nghiên mực lớn chận lên, và gạt
nhỏ ngọn đèn dầu lạc để trên một cái giá cao trên án sách. Ông tụt giầy, kéo
cái chăn dệt ngũ sắc lên tận vai, đặt cái gối xếp lại cho chỉnh, rồi vừa ngả
lưng lên bộ ván gỗ quý, vừa thở dài một cách khoan khoái nhẹ nhàng.
Rồi ông quay đầu về nhà
bên, cất tiếng se sẽ gọi:
- Tô Nang à! Tô Nang à!
Tô Nang là người thiếp
thứ năm của ông Châu Nga Lộc.
Một lát tiếng chân ở
ngoài đi tới; ông lim dim mắt nhìn lên đình cái màn chưa buông, nằm vuốt râu có
ý đợi.
Cái cảnh tù mù trong
gian phòng kín đáo kia vì đâu làm cho ông thấy thú vui của sự sống?
Cửa khẽ cọt kẹt mở, rồi
tiếng một người đầy tớ vào thưa:
- Quan Châu à!
- Hả?
- Có một thằng trông mặt
sợ hãi lắm, ở đâu hồng hộc chạy vào đây. Nó còn ở ngoài sân đấy.
- Nó vào làm gì?
- Không biết, nó không
nói được, nó cuống quýt bám lấy Noòng, chỉ một tí nữa thì bị chó cắn chết.
- Mà sao lại để cho nó
vào mới được chứ? Đuổi nó ra.
Quan Châucàu nhàu quay
lưng vào. Rồi lại gọi:
- Tô Nang à, đi đóng cửa
nhé!
Một lát, cửa lại thấy mở
hé:
- Quan Châu à!
Quan Châu ra dáng bực
mình:
- Cái gì?
- Cái người lúc nãy...
- Mặc kệ người lúc nãy!
ầy... à!
Rồi ông ta lại gắt:
- Mà làm sao cho nó vào
mới được chứ?
- Cổng sắp đóng, nó chạy
nhanh quá, đâm bổ vào, không ai giữ được. Bây giờ nó không chịu ra nữa.
- Nhưng mà nó vào làm
gì?
- Nó đã nói được rồi,
nó bảo, nó cần thưa với quan Châu một chuyện ghê gớm lắm.
Ông Châu bực tức vô
cùng. Ông chống tay chực dậy, nhưng còn mong bảo cái thằng Thổ quấy rầy kia một
lần nữa rằng: Việc quan trọng đến thế nào cũng phải để đến mai.
Người đầy tới trình:
- Nó bảo nó thấy một việc
ghê gớm lắm: Một người thắt cổ, với một người chết. Mà nó ở hang Văn Dú ra.
- Ở đâu ra?
- Hang Văn Dú!
- Hang Văn Dú?
- Phải rồi.
Ông Châu ngồi hẳn dậy,
bảo:
- Gọi nó vào đây.
Rồi ông tung chăn ra,
khêu to ngọn đèn lên, sốt sắng muốn nghe câu chuyện lạ.
Một người trần gian dám
vào hang Thần là một việc ghê gớm vô cùng. Song đối với Quan Châu thì lại là một
điều lạ thường hơn là quái gở. Vì ông là một người thổ vào hạng trí thức, đọc
quá nhiều sách chữ Hán, biết rất nhiều chuyện cũ. Những điều ly kỳ mà dân ông
mê tín, như những việc bí hiểm trong hang Thần, ông vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc
cả. Ông cho rằng đó chỉ là điều phao truyền vô lý của những người bày chuyện,
hoặc là những mưu kế của kẻ nào có vàng bạc giấu ở trong hang.
Nhiều lần ông muốn vào
tận hang xem, ông lại hy vọng sẽ tìm thấy của cải trong ấy nữa. Song những điều
dị đoan truyền lại lâu ngày vẫn có cái vẻ hiển nhiên rất vững chãi, thường khiến
những người cứng cỏi nhất cũng sờn lòng. Ông chắc hang Thần không làm hại được
mình. Thế mà biết bao lần ông hăm hở định vào thám hiểm trong hang, rồi lại
thôi không dám quyết.
Người Thổ lúc nãy đến
tưới dầu vào ngọn lửa can đảm chỉ chực những tắt trong lòng ông Châu.
Hai người đày tớ dẫn
anh ta vào, như dẫn một người tù. Ông Châu bảo họ lui ra và đóng cửa lại.
Người lạ mặt đứng trong
bóng tối, cách Quan Châu chừng năm bước, vẫn yên lặng chưa nói gì. Ông Châu quắc
mắt nhìn khắp người anh ta. Bộ mặt anh ta rõ rệt in hình ảnh sự kinh ngạc. Anh
lấm lét vừa nhìn xung quanh, vừa thở, môi mấp máy không nói được lời nào.
Một lúc, ông Châu quát
to:
- Mày vào đây làm gì?
Anh thổ choàng người
lên, rồi nhìn thẳng vào mặt ông Châu, nuốt nước bọt nói:
- Tôi trình quan
Châu... rằng ở cửa hang Văn Dú... có một người thắt cổ.
Khi nói đến tiếng Văn
Dú, anh ta tái mặt đi. Bỗng thấy ông Châu nhìn ra phía cửa gắt mắng ầm lên:
- Ai cho chúng mày nghe
trộm? Có cút đi không chết cả bây giờ?
Người lạ mắt luống cuống.
Ông Châu bảo:
- Tao mắng người nhà,
mày không việc gì.
Rồi ông lại hỏi:
- Nhưng mày đến Văn Dú
hay sao mà biết?
-Tôi ở Văn Dú về đây...
Tôi đi với một người tên là Nùng Khai...
- Nó đâu?
- Chết rồi!
- Nó chết rồi à?
- Phải!
- Chúng mày là người ở
đâu? Đến đây làm gì? Đầu đuôi thế nào, kể ra.
Người con trai chưa kịp
trả lời, ông Châu lại hỏi:
Mày không biết Văn Dú
là chỗ ghê gớm sao?
- Có chứ!
- Thế sao còn đến, đến
làm gì... nói mau?
Người con trai thưa:
- Tôi là người Châu Kao
Lâm, làm bộ hạ cho Quan Châu tôi. Tôi với Nùng Khai đến Văn Dú vì có việc
riêng, Quan Châu tôi sai làm. Chúng tôi đến nơi thấy có mọt người thắt cổ treo
trên cây, mà là một người Khách, người to béo, không biết bao nhiêu tuổi, vì
tôi không dám nhìn nó lâu.
Nói rồi anh ta rùng
mình lên. Ông Châu hỏi:
- Chỗ ấy có người nào nữa
không ?
- Không biết... Chỉ có
một mình Nùng Khai vào hang thôi.
- Vào hang làm gì ?
- Vào... có việc riêng.
Ông Châu thấy anh ta
không muốn nói "việc riêng" ấy là việc gì mỉm cười một cách hóm hỉnh,
vì ông cũng đoán được chút ít, và chỉ bảo người kia rằng:
- Được, thế rồi sao nữa
?
- Đáng lẽ tôi cũng vào
hang Văn dú với Núng Khai, nhưng tại tôi thấy người Khách, nên không dám vào nữa,
tôi chắc người Khách chết vì hang Thần. Nùng Khai không thèm nghe, vào đấy một
mình nên quả nhiên cũng bị chết.
Người lạ mặt bèn thuật
lại việc từ lúc ông già thổ đi vào trong hang tối, lúc anh ta đứng một mình chờ
đợi nghe ngóng mãi, rồi ném hòn đá sỏi thứ hai và nghe thấy tiếng chân ông già
chạy ra, cho đến lúc ông già chết cứng trong tay mình mà không nói được một lời
nào hết.
Chốc chốc quan thổ lại
chặn hỏi cặn kẽ, nhưng người này, ngoài những cái hắn trông thấy, chừng cũng chẳng
biết gì hơn nữa. Câu trả lời của hắn, bởi thế, không được vừa ý ông Châu.
Nhưng khi hắn nói tìm
thấy mảnh giấy rướm máu ở tay ông già, và đưa ra để ông Châu xem thì ông ra chiều
vừa ý lắm. Ông hăm hở cầm lấy, hình như đã nắm được đầu mối của sự dị thường
này.
Trong lúc ông Châu giở
tờ giấy ẩm ra xem thì người thổ Kao Lâm nhớ lại bước nguy hiểm sợ hãi đã qua.
Anh ta không ngờ một người yếu bóng vía như mình lại thoát được khỏi tay thần
Văn dú.
Anh ta nhớ rằng chính
lúc sợ hãi ở bên cái xác nằm cứng đờ của Nùng Khai thì trong trí vẫn tỉnh.
Bây giờ trời mỗi khắc một
u ám, người anh ta thấy lạnh lẽo, tưởng chừng như bị cái tử khí ngấm dần vào.
Nghĩ đến người Khách chết
treo, nghĩ đến cái hoảng hốt của người thổ già lúc chạy ra khỏi hang, nghĩ đến
cái hang mình ngồi trước cửa cùng với một người bị nó làm hại; lại nghĩ đến những
điều nguy khốn độc ác nó sẽ lừ lừ vây quanh mình như đêm tối ám mù cảnh vật;
anh ta liền vùng dậy, buông cái xác ông già xuống đất, như thêm táo tợn vì quá
khiếp sợ, khoa thanh lao sáng lên trước mặt rồi hết sức nhanh chạy về đường Kao
Lâm.
Đang chạy, sực nhớ ra
trước mặt mình có cái suối sâu khó lòng qua được; anh ta vội rẽ sang tay phải;
chạy được một độ, thì lại gặp khúc suối nữa chắn ngang. Anh ta thét lên một tiếng
to, rồi bán sống bán chết chạy về phía châu Nga Lộc.
Anh chàng thở không ra
hơi mà vẫn cứ luôn mồm gọi tên các chư vị "sằn slin" đến cứu. Lúc nào
sau lưng cũng ồn ào như có ai đuổi bắt; mà càng chạy càng thấy chậm, bước đuổi
càng thấy mau. Những đồi núi rừng rậm như thêm nhiều mãi ra. Đường lối gồ ghề,
vừa dính vừa trơn làm cho anh ta cứ chúi vấp hoài, trượt ngã hoài; trăm lần tưởng
chết!
Đến lúc trông thấy những
nhà cửa dưới chân đồi và cái cổng lớn ở châu Nga Lộc thì trời đã tối. Anh ta chạy
vụt ngay vào cổng. Những tiếng hò hét của bọn tôi tớ lại khiến anh ta thêm hoảng,
vì anh tưởng đó là những tiếng ma quỷ ở trong chỗ nhà cửa biến hiện ra. Nhưng
anh ta đã qua một cái sân rộng và phẳng; đã ngửi thấy mùi thóc vựa và ngựa chuồng
là những mùi quen thuộc, rồi lại nghe thấy những câu hỏi giận dữ của mấy người
nắm mình lại; lúc ấy anh ta mới dám chắc là mình thực còn ở dương gian.
Các người nhà ông châu
Nga Lộc xôn xao nháo nhác lên vì nghe thấy anh ta bảo ở Văn Dú đến. Nhưng chính
ông Châu thì không tỏ vẻ sợ hãi gì. Bấy giờ người thổ Kao Lâm thấy ông ta tì
trán vào lòng bàn tay, lẳng lặng không nói câu nào và ra chiều suy nghĩ một
cách điềm tĩnh.
Cái vẻ ấm áp trong gian
phòng sáng bởi ngọn đèn cao này đã làm cho anh ta tỉnh hẳn người lại. Anh ta xì
mũi vắt xuống đất, liếm môi một cái rồi khẽ cất thứ giọng kín đáo của người hiến
mưu kế mà nói với ông châu những thần những thánh, những thầy mo, bà then, đến
những phương cầu cúng để cho thần Văn Dú nguôi cơn lôi đình; vì hắn cho cái chết
của người Khách và Nùng Khai là do sự tức giận của thần núi. Cái lòng mê tín của
dân thổ lại thấy biểu lộ ra một lần nữa. Ông Châu trí thức kia liệu có sờn lòng
vì những điều mắt thấy của tên thổ này chăng?
Người thổ Kao Lâm cứ lải
nhải hoài.
Ông Châu thì vẫn trầm
ngâm nhìn xuống mảnh giấy dày đặt trên án. Có lẽ ông ta đang nghĩ ngợi đâu đâu
chớ không để ý đến những lời anh Thổ nói: vì bỗng nhiên ông ta đọc:
Miệng có hai răng
Mày vào trăm chân
Mày lên ba tay
Tên mày là đá...
Rồi ông hỏi:
- Mày có biết chữ đấy?
Anh ta chưng hửng một
lát rồi thưa:
- Có biết.
Ông Châu cau mày, lại hỏi:
- Mà mày hiểu những câu
này chứ?
- Hiểu à? Không!
Ông Châu thở dài:
- Thực mày không hiểu
nghĩa gì à?
- Không, mà hiểu làm
sao được.
- Mày lấy mảnh giấy này
ở tay Nùng Khai à?
Người Thổ Kao Lâm thưa:
- Nó ở hang ra tôi mới
thấy có. Tôi hỏi, nó không nói được, tôi bảo ra hiệu cho tôi hiểu ý, thì nó chết
mất rồi.
Ông Châu vừa nhìn vào tờ
giấy, vừa hỏi:
- Nùng Khai là người
như thế nào?
- Là người ông Châu Kao
Lâm sai đi đến Văn Dú với tôi.
- Nó là người tin cẩn của
ông Châu Kao Lâm phải không?
- Phải, cũng như tôi.
Ông Châu khẽ gật đầu.
Ông đặt mảnh giấy xuống bàn ngẩng đầu lên nhìn người thổ Kao Lâm rồi dịu lời bảo
hắn:
- Bây giờ, mày không được
giấu tao một điều gì, thì tao mới xét được rõ việc này. Người Khách kia chết,
người Thổ Nùng Khai chết, mà mày không chết; mày cũng đến Văn Dú; mày biết rằng
ai giết nó. Thế ngộ bảo mày giết thì sao...?
Người trẻ tuổi vội nói:
- Không! Không phải!
Không phải tôi...
Ông Châu liền chặn lại:
- Ừ, tao cũng biết.
Nhưng người ta muốn buộc tội cho mày cũng được. Tao lại biết chúng mày định vào
hang Văn Dú làm gì nữa kia... Lúc nãy mày bảo quan châu Kao Lâm sai đi có việc
riêng, tao đoán biết ngay. Đây là tao hỏi cho rõ thêm, mày không được giấu nữa...
Rồi ông Châu nhìn thẳng
vào mặt người trai Thổ hỏi một cách dõng dạc:
- Tại sao quan châu Kao
Lâm lại biết được trong hang Thần có của chôn?
Người thổ Kao Lâm giật
nẩy mình lên, không giấu được cái kinh ngạc. Trong lúc hốt hoảng, hắn đã trót
nói với quan châu rằng: Nùng Khai và hắn đi tới Văn Dú theo lệnh ông quan châu
Kao Lâm sai đi. Sau hắn nghĩ lại, định bịa đặt ra một câu chuyện nào đó: như đi
tìm người nhà lạc, hay đi qua Văn Dú tự dưng bị dủn dủi vào hang, hay là chuyện
huyền hoặc nào khác đợi ông Châu hỏi thì han sẽ đem ra mà trả lời. Không ngờ
câu hỏi của ông Châu đường đột quá, lại trúng ngay vào sự thực mà hắn muốn giữ
kín. Hắn không dám nhìn đôi mắt soi mói của ông Châu Nga Lộc nữa, và đứng lặng
thinh.
Ông Châu lại lấy lời
nói thực dịu dàng bảo hắn:
- Mày đứng lại gần đây.
Đừng sợ mà cũng đừng ngại gì hết. Mày phải nói rành mạch đầu đuôi công việc mày
định làm cho tao nghe.
Người thổ Kao Lâm vẫn
không thưa. Ông quan thổ nói tiếp:
- Tao có đủ quyền thế để
bênh vực mày, cũng có đủ quyền buộc tội mày nữa, mà tao muốn cho mày ở đây hay
đuổi mày ra khỏi châu cũng được, ở châu tao không nhà nào dám chứa một người ở
hang Thần về.
Ông châu Nga Lộc trông
thấy rõ cái sợ hãi trên mặt người trai Thổ: Hắn nhìn ông ta ra ý van lớn.
Ông ta lại dỗ:
- Thế nào? Mày nói đi.
Nói thực mọi điều cho tao nghe. Mày đã vào đây, đã khỏi chết vì ông thần Văn Dú
rồi, thì mày nói đi, giấu tao làm gì nữa? Mày giấu tao, rồi tao cũng biết được
kia mà?
° ° °
Anh chàng nuốt nước bọt,
liếm môi hai ba lần; mặt nhăn nhó ra vẻ khổ sở, tuyệt vọng. Nhưng hắn biết lời
của ông quan này chắc chắn như dây sắt ràng buộc, nên phải khai rằng:
- Cách đây ngót mười
hôm, một người lý trưởng bản Đong thuộc châu Kao Lâm đến nhà quan châu tôi để
đưa một bản địa đồ vẽ đường lối đi vào Văn Dú và biên mấy câu thần chú để khi
vào được hang ấy mày đọc thì tìm thấy vàng.
- Nhưng câu thần chú ấy
chép trong mảnh giấy này phải không?
- Phải rồi. Nhưng mảnh
giấy này lại khác. Chắc Nùng Khai lấy ở trong hang ra: chỉ thấy những chữ chớ
không có địa đồ.
- Thế nghĩa là việc này
có người khác biết chứ gì?... Có lẽ là thằng Khách?... mà sao nó lại chết, có
người nào ở trong hang nữa không?
- Tôi không biết. Tôi
biết thế nào được.
- Ừ, phải kể nốt đi.
Anh ta kể tiếp:
- Bản địa đồ ấy nguyên
là của một ông già bản Đong tên là Hoàng An Lài, lúc gần chết trao lại cho người
lý trưởng ở gần đấy, nói rằng đó là bản sao lại bức địa đồ của một người Tầu đời
nhà Minh sang làm quan bên này; viên quan tàu có của để ở Văn Dú...
- Thế nào? Một người
quan Tàu, đời nhà Minh?...
- Phải, bấy giờ là hồi
quan nhà Minh sang cai trị...
Viên quan Tàu kia tích
được rất nhiều của trong hang Văn Dú một cách rất kín, rất khéo, không ai biết
được, định sau này sẽ mang dần về Tầu; không ngờ trong nước người Kinh nổi lên
đánh đuổi quân Minh, viên quan kia phải chạy ẩn vào nhà ông tổ ba đời nhà An
Lài, rồi vì già yếu và lo nghĩ quá nên chết ở nhà ấy. Lúc hấp hối, người ấy có
để lại cho nhà họ Hoàng rất nhiều tiền bạc, và đưa ra một bức địa đồ chỉ nơi giấu
của, nhờ đưa sang cho con cháu bên Tầu.
- Thế người quan Tầu
không có bộ hạ sao?
- Nghe như có. Song người
nhà họ Hoàng thông thuộc đường lối và trong khi loạn lạc, họ có cách trốn được
ra ngoài. Người quan Tầu bắt nhà họ Hoàng thề nguyền rất độc, không bao giờ được
lộ việc ấy ra cho ai biết, mà nhất là không được tìm cách vào hang Thần. Viên
quan ấy lại cho biết rằng y đã yểm vào các của giấu ở trong núi và nhờ thần núi
giữ của trong ấy nữa, của cải chỉ có con cháu người quan Tầu mới dùng được, mà
ai cả gan hay vô tình vào hang Văn Dú sẽ bị thần vật chết ngay.
Nhà họ Hoàng không tin.
Người Tầu chết rồi, họ liền đem sao lại bức địa đồ và chép lấy những lời
"thần chú" biên lên một mảnh giấy khác.
Ông châu Nga Lộc hỏi:
- Thế thì có lẽ chính
là mảnh giấy này.
- Tôi không biết chắc.
Người nhà họ Hoàng đưa những giấy tờ của viên quan nhà Minh cùng với hai bản giấy
kia sang Tầu, rồi không thấy ai trở lại cả. Để ý dò xét ba bốn mươi năm trời,
sau lúc người Kinh đã bình định, và lúc mấy thầy địa lý Tầu đã qua lại được nước
Nam, mà vẫn không thấy tăm hơi nhà họ Hoàng, cũng không thấy bóng người Tầu nào
sang tìm của hết.
"Về sau con cháu họ
Hoàng học thuộc chú và đánh liều đi kiếm của trong hang thần. Nhưng người nào
đi cũng không thấy trở lại nữa. Có hai lần người ta đi tìm thì thấy một đứa nằm
chết ở gần suối Văn Dú, còn những đứa khác người ta chắc chết ở trong hang,
nhưng không ai dám vào. Việc ấy đồn ra và từ đấy bắt đầu có những chuyện ghê gớm
gây nên bởi thần Văn Dú. Ở làng gần suối lớn đã phải lập ra tục tế thần núi bằng
các người con gái đẹp mới được bình yên. Nhà họ Hoàng không bao giờ dám lộ chuyện
kín về sự yểm của ra vì sợ người ta đổ cho cái hoạ lớn kia gây nên tại nhà
mình...
Ông Châu chặn lại hỏi:
- Ừ, thế sao họ Hoàng
không huỷ cái giấy kia đi?
- Hình như họ muốn giữ
lại để sau này con cháu người quan Tầu có ai sang tìm của, họ sẽ đem giấy ra
làm chứng, mong người Tầu đền ơn. Song đến đời An Lài thì ông ta vẫn giữ kín
không cho các con biết, sợ chúng vì tham mà mang hoạ... Hoàng có ý đưa cho lý
trưởng bản Đong để hắn trình cho quan châu Kao Lâm biết đến nguồn gốc những cái
hoạ bí hiểm của hang Thần.
Quan châu Kao Lâm tôi lại
không sợ những điều ghê gớm kia, bàn với tôi cái kế tìm vàng trong Văn Dú, và
có ý sai tôi đi dò xét trước. Tôi mới nghe cũng đủ khiếp, nhưng Quan Châu tôi
nhất định bắt tôi phải vâng theo. Trong mấy ngày ông ấy giảng dụ các lẽ cho tôi
nghe, cắt nghĩa cho tôi không sợ những chuyện người ta đồn về hang Thần, lại hứa
cho tôi rất nhiều tiền, lại cho tôi được làm chánh tổng nữa... Nhà tôi mấy đời
nhờ vả nhà Quan Châu tôi, mà bây giờ cũng nghèo. Tôi biết chắc nếu việc thành
thì sung sướng một đời nên mới vâng lệnh ông Châu tôi...
- Thế còn Nùng Khai?
- À, phải cũng tại Nùng
Khai nữa, nên Quan Châu tôi càng muốn tìm cho được của trong Văn Dú, mà tôi được
vững lòng thêm. Nùng Khai là một tên cướp rất táo tợn, nó vẫn chửi rủa Văn Dú
mà không việc gì. Nó lại bảo rằng nếu nó biết trước Văn Dú có vàng thì nó lấy
đã lâu rồi, không phải đi cướp đâu nữa.
- Sao Quan Châu Kao Lâm
lại giao việc cho một tên cướp?
- Vì nó có họ với một
người thiếp của Quan Châu tôi. Nó bị bắt đáng nhẽ bị chết chém, nhưng Quan Châu
tôi lấy quyền thế giảm tội cho nó. Bởi thế, lúc cho gọi nó lên, nói đi tìm của
thì nó thề sống thề chết sẽ trung thành. Nó quả quyết sẽ đi vào hang Thần, sẽ
tìm cho được của trong hang Thần. Ông Châu tôi liền giao cho nó bản địa đồ kia,
lại cho tôi đi theo, vừa để coi chừng, vừa để giúp đỡ nó. Tôi thấy nó nói mạnh
bạo và khôn khéo lắm, nên quên cả sợ. Nhưng đến lúc gần thấy hang núi, tôi đã
lo ngại; lúc qua suối lớn, tôi đã ghê rợn; sau lại thấy thằng Khách thắt cổ...
Rồi lại thấy Nùng Khai hốt hoảng ở trong hang chạy ra...
Ông châu vừa nghe người
Thổ Kao Lâm vừa lấy que đẩy cho ngọn đèn dầu cháy to lên. Trên mặt ông hiện ra
cái vẻ chăm chú của một người thu hết cả tâm trí vào một công việc: Lông mày
nhíu lại, đôi mắt trong sáng lạnh lùng nhìn ngọn lửa mà hơi thở của ông làm cho
run run.
Ông khẽ nói:
- Ai giết tên Khách
kia? Trong hang còn có người nào không? Có vật gì không? Yêu quái ư? Sao Nùng
Khai lại chết?
Mấy câu đó nói nhanh,
nhưng chẳng bảo ai, như lời tự vấn; và người con trai Thổ cũng không biết đáp
thế nào được nên ngậm tăm.
Ông quay lại nhìn hắn
và hỏi to lên:
- Thế trong mình Nùng
Khai không thấy có vết tích gì chứ? Mày có thấy dấu máu nào không?
Người thổ Kao Lâm ngẫm
nghĩ một hồi:
- Không thấy gì cả...
Hay là không thấy vết thương nào nặng đến nỗi làm chết được người.
- Nhưng không có một tí
dấu vết gì sao?
- À có! Mà nhỏ lắm: chỉ
lấm tấm rớm máu như chỗ da kỳ mạnh hay bị xước mà thôi...
- Thế à? Ở chân phải
không? Nó hẳn bị cái gì quấn chặt ở chân...
- Không! Ở tay, ở hai
bàn tay, nhiều nhất là ở các ngón.
Ông Châu lẩm bẩm:
- Thế thì quái lạ, quái
lạ lắm!
Ông vừa nói vừa nhìn mảnh
giấy vuông mà ông lật hết mặt nọ đến mặt kia.
- Vết máu trên tờ giấy
này (lời người trai thổ) là ở tay Nùng Khai dính ra đấy. Nó nắm chặt quá, tôi gỡ
mãi mới lấy ra được.
Ông Châu tưởng chừng
như không để ý đến câu vừa rồi, chỉ hỏi:
- Thế còn bản địa đồ
kia?
- Bản địa đồ kia Nùng
Khai giắt trong mình nó, tôi không dám lấy. Bản địa đồ ấy chỉ vẽ lỗi đi Văn Dú
chứ không vẽ đường lối trong hang.
Ông Châu gật gù:
- Ừ, được rồi, tao hiểu
rồi. Bây giờ mày hãy lui xuống nhà nghỉ đi. Rồi ở đây với tao, tao sẽ liệu.
Chúng nó có hỏi thì không được kể điều gì về hang Văn Dú hết, nói rằng Quan
Châu bắt phải im.
- Mà Quan Châu có bảo
thầy mo...
- Được rồi. Có. Thôi xuống
đi. Noòng à! Lên dẫn nó xuống cho nó thay quần áo, cho nó sưởi, rồi bảo nó ngủ
đi.
Lúc theo tên Noòng xuống
dưới nhà, người thổ Kao Lâm còn dặn với:
- Quan Châu bảo thầy mo
nhé... Quan Châu à.
- Được, được!
III
Quan châu Nga Lộc chẳng
bảo thầy mo nào hết.
Cánh cửa vừa khép lại,
ông ta liền thắp lên một ngọn đèn nữa, hăm hở kéo tờ giấy gần lại, rồi một tay ấn
vào mồm mà nghĩ, mốt tay gãi hết bụng đến gáy, hết đầu đến lưng.
Mặt ông Châu hồng lên
và lộ vẻ mừng rỡ. Ông ta bắt đầu xét lại mảnh giấy của người thổ Kao Lâm rất cẩn
thận, vì ông biết rằng hiểu được ý tứ của những câu chữ Hán viết trên đó, ấy là
phá được cái tường bí mật của thần giữ của và cắt nghĩa rành mạch được các điều
kỳ dị xảy ra.
Những hình vẽ ngây dại
và mấy hàng chữ viết rất tốt, tuy bị nước thấm ố hoen, song vẫn rõ ràng lắm:
Nét mực cũ đã ăn sâu xuống mặt tờ giấy ướt và dầy. Hình bên trái vẽ một người
áo cộc quỳ lên, hai tay cầm một tờ giấy giơ thẳng ngang mặt như người đọc sớ.
Ông Châu đoán có lẽ nó muốn chỉ bảo phải trân trọng giữ lấy và theo những lời mầu
nhiệm của mấy hàng chữ Hán kia. Bó đuốc, vẽ ở bên trái, ngọn lửa cháy và bốc
khói lên, chắc hẳn chỉ về sự tối tăm, hiểm hóc trong hàng thần; hoặc ý bảo phải
tìm xét cho hiểu thấu những nghĩa ẩn trong mấy câu kia, mấy câu mà người thổ
Kao Lâm gọi là những lời thần chú.
Ông đọc qua một lần mấy
hàng chữ nho.
Rồi ông đọc lại lần thứ
hai và thứ ba; làm như cứ nhắc lại như thế thì sẽ thấy cái nghĩa ẩn trong đó:
Miệng có hai răng;
Ba chân bốn tay;
Mày vào trăm chân;
Mày lên ba tay;
Tên mày là đá;
Đá sinh trứng đá;
Trứng đá giữ của;
Mày có sức mang;
Mày giầu, mày chết.
Những câu kỳ lạ đến nỗi
làm cho ông ngờ là lời thần chú thực. Nhưng không có lẽ; nếu phải lời thần chú
thì tên Nùng Khai đã học thuộc tất nhiên không đến nỗi chết, ngay sau khi ở
hang thần chạy ra... Quyết nhiên đó là những bí mật, có nghĩa hẳn hoi, nhưng
cái nghĩa ấy phải dùng hết tâm lực và trí sáng suốt mà tìm thì mới thấy được.
"Hừ! (ông lẩm bẩm
nói để tiếp theo những ý tưởng vừa rồi). Bọn quan Tầu họ quỷ quyệt lắm! Cũng là
một thứ lời di lại, mà một đằng thì là những câu dặn dò để tìm ra của, còn một
đằng thì lừa cho người ta mắc phải những cái nạn gớm ghê... Nhưng ta, ta không
mắc lừa đâu. Ta không nông nổi, u mê như bọn con cháu nhà họ Hoàng, tưởng đây
chỉ là những câu có quyền phép mầu nhiệm. Không. Ta biết. Rồi ta sẽ tìm cho ra
nghĩa kín, ta sẽ khám phá cho kỳ được".
Ông lại hơi mỉm cười và
nghĩ đến cái độc kế mấy trăm năm nay sẽ bị ông huỷ đi mất, mà cái kho của kia tất
sẽ về tay ông.
"Miệng có hai
răng... ba chân bốn tay"... có lẽ đó là mô tả hình dáng thần giữ của chắc?
Không phải. Ta không được tin đến thần giữ của cũng như không được tưởng những
câu này là thần chú. Vì nếu thế thì không bao giờ tìm được đầu mối.
"Miệng có hai
răng... ba chân bốn tay..." Lạ! "Mày vào trăm chân, mày lên ba
tay". Hừ! Quái! Ai vào? Ai lên? Sao lại trăm chân, sao lại ba tay?
"Tên mày là đá, đá sinh trứng". Đá sinh trứng đá? Trứng đá giữ của.
Có lẽ họ để của ở dưới hang đá chắc? mà sao lại gọi là trứng đá? Trứng đá giữ của.
Mày có sức mang... mày giầu mày chết".
Ông càng đọc càng nghĩ
càng thấy mờ ám thêm. Chợt có một ý kiến thoảng qua, ông bèn xoay tờ giấy vuông
đủ bốn chiều đọc từ trên xuống dưới, rồi đọc từ dưới lên trên; lại đọc ngang từ
phải qua trái và từ trái sang phải. Nhưng cũng vô ích. Mấy hàng chữ vẫn trơ trơ
giữ cái bí mật cùng với hai cái hình vẽ lạ lùng.
Ông Châu thử ôn lại các
bộ truyện cổ mà ông đã xem, nhớ lại những sự tích chép ở trong ấy; bao nhiêu án
ly kỳ ra đời trước cùng với bao nhiêu phương pháp cổ nhân dùng để tra, ông đều
đem ráp vào việc cắt nghĩa tờ giấy này. Ông thấy từ cổ chí kim không bao giờ có
những cái khó hiểu hơn, mà đến những việc tương tự như thế cũng vậy.
Hai ngọn đèn dầu thi
nhau sáng, cùng nhau như nín lặng để xem ông Châu nghĩ ngợi trầm ngâm.
Ông ta ngồi trên giường
gỗ, trên án thư, khuỷu tay chống bên cạnh một cái đế đèn, nắm tay thì ấn vào mồm,
đăm đăm như đang tìm gỡ một nước cờ bí. Lông mày nhíu lại một cách dữ tợn, hai
mắt nhìn muốn thủng tờ giấy để trên bàn.
Lúc ấy vào đầu trống
canh hai. Nhưng có lẽ ông châu quên cả thời khắc.
Trong cái phòng ấm áp
kín đáo ấy, ngoài ông ra lại còn Tô Nang là cô thiếp yêu quý, vào đó chầu chực
chăn gối đã lâu. Cô chưa hề thấy quan Châu chăm chỉ miệt mài với việc quan như
thế bao giờ. Cô ngồi ghé một chỗ lặng thinh, nghe tiếng quan Châu lẩm bẩm rồi lại
im, nghe các tiếng buồn tẻ trong lúc canh khuya rồi cô dựa vào vách mà thiu
thiu ngủ.
Chốc chốc, ngọn đèn lại
nhô cao lên, rồi khẽ co thấp xuống và nhẩy chập chờn.
Ông quan thổ không nói
qua một lời gì nhưng hình như ông nghe thấy tiếng suy nghĩ của mình rõ rệt nói
trong giữa khoảng tĩnh mịch sâu xa của đêm tối.
Bỗng chốc đồng hồ trên
tường gõ một tiếng lạnh lùng vào giữa thời gian, cùng một lúc móng tay ông châu
vô tình cạo xuống cạnh án thư nghe như tiếng con mọt gặm.
Có lúc ông ngáp lên một
cái, nói khẽ mấy câu nghĩ ngợi trong trí, rồi lại trầm ngâm đắm đuối tìm những
nghĩa ẩn nó chưa chịu hiện hình.
Dưới chân tường, tiếng
chuột rúc rích chạy qua làm vểnh tai con mèo yên lặng. Ngoài sân, mấy con ngựa
buộc trong chuồng tối đập chân xuống đất xôn xao. Một trận gió làm cót két cành
tre; văng vẳng sau thềm, tiếng lá reo và tiếng sâu dế rì rì trong bụi rậm.
... Mày tên là đá
Đá sinh trứng đá
Trứng đá giữ của...
Cái đầu mối, ông mong gỡ
được, càng tìm càng thấy bối rối thêm. Đã hơn một trống canh rồi mà những chữ
này cùng với thằng người quỳ và bó đuốc vẫn cứ nhảy nhót hoài trong tâm trí ông
quan Thổ.
Lúc ấy cô thiếp của ông
ngồi dựa ở bên tường kia đang há mồm ra ngủ kỹ.
Hai chân cô duỗi thẳng
trên bộ ghế ngựa, bàn tay đặt ngửa trên đùi. Đầu vẫn chưa bỏ cái khăn vuông
chàm, trên mặt hiện ra vẻ ngây ngô và bình tĩnh.
Trái lại trên mặt quan
ông đầy vẻ lo nghĩ lẫn với vẻ bực mình. Bao nhiêu tâm lực ông đem ra hết mà vẫn
không tìm ra được mối manh gì. Ông đọc lại những câu kỳ dị:
Mồm có hai răng...
Ba chân bốn tay...
Mày giầu mày chết...
Không biết đến mấy trăm
lần rồi. Nhưng cái trí sáng suốt của ông hình như không đủ lực trước cái đêm tối
vô cùng của bí mật.
Cái cằm vuông của ông nổi
cả xương và gân lên, hai má và hai tai ông đỏ như bị nướng vào ngọn lửa đèn gần
đó.
Lần này ông không đọc bằng
mắt nữa; ông lẩm bẩm như người làm tính: "Đá sinh trứng đá, trứng đá giữ của,
mày chết... mày chết mày giàu, mồm có hai răng... mồm có hai răng... mồm có
hai...".
Tiếng ngáy bên tường cứ
rờn rờn hoạ theo, cô vợ trẻ của ông quan già đang vẩn vơ trong giấc mộng... Bỗng
một tiếng bẳn gắt theo một nắm tay đập mạnh lên bàn:
- Mệ thảu mư! 2
Ông Châu vứt giấy quay
lại đằng sau, Tô Nang tỉnh dậy.
Ông Châu thấy cô ta thì
ngạc nhiên hỏi:
- Ô kìa, thế ra Nang
không đi nằm à?
Cô thiếp đã đứng xuống
đất, kéo hai nắm tay ra sau mang tai, ưỡn ngực lên cao, ngáp rồi ỏn ẻn nói:
- Nang có đi nằm mà,
nhưng Nang còn đợi Quan Châu, Quan Châu chưa ngủ Nang cũng chưa ngủ... quan
châu sao thức lâu thế?
Bấy giờ ông quan thổ
nghe chừng đã mệt lắm, vì đã hết sức đem cảtinh thần ra để nghĩ ngợi đến gần
hai trống canh rồi, cho nên cái mình êm ái của cô hầu non với cái thú đầm ấm
trong chăn đã khéo quyến rũ ông đi nghỉ.
Ông Châu lại bên án để
tắt bớt đèn đi. Chợt thấy chén nước uống thừa đổ ướt cả tờ giấy. Ông vội cầm
lên thấm vào tập hoá từ cho ráo rồi hơ lên ngọn đèn cho khô.
Hàng chữ Hán và hai
hình vẽ bên càng nổi rõ ở trên ngọn lửa tạt đi tạt lại. Bỗng nhiên ông Châu kêu
lên một tiếng, rồi giáp cả hai ngọn đèn lại mà hơ tờ giấy lên. Ở giữa mảnh giấy
hồng hồng, ông thấy một khoảng tối hơn. Một tia sáng vừa soi qua trí ông, ông
nghĩ ngay đến một câu chuyện cũ.
- Phải, phải! (ông lẩm
bẩm nói). Cũng giống như truyện tờ di chúc trong bức tranh 3...
Phải rồi!... Cầm giấy giơ trước mặt mà đọc... mà bó đuốc lửa cháy ở sau tờ giấy...
nó bảo mình đốt lửa mà soi... mà mình cũng như anh huyện quan kia... Mình ngốc
thật!
Thế rồi ông không hỏi
gì đến cô thiếp nữa. Cô ta chẳng hiểu gì cả, đứng giương mắt thực to mà nhìn.
Ông Châu ngồi xổm trên
giường, hai tay vừa run vừa dấp nước trên bàn vào mảnh giấy, rồi cẩn thận bóc
chẻ nó ra làm đôi.
Một miếng giấy vuông sắc
trắng hơn, dán áp vào nửa giấy thứ hai và bong ra gần hết. Ông Châu cầm soi lên
ngọn lửa thì thấy chi chít những nét chữ nhỏ nằm hỗn độn. Ông xem kỹ thì biết mảnh
đó là một tờ giấy rộng gấp làm tư. Ông phải hết sức cẩn thận mới lấy móng tay
bóc mở ra được, vì tuy nó cũng dai, nhưng theo với hai mảnh ngoài bị nhầu và thủng
rách lỗ chỗ.
Trong tờ giấy mới này
viết chữ dầy gần hết. Nét chữ cũng tốt và rõ như ở tờ áp ngoài.Ông Châu đọc thấy
những lời này:
Hang Văn dú trông như
cái mồm có hai răng. Ba thước nói là chân, bốn thước nói là tay. Mày đo từ cửa
hang vào trăm chân, rồi mày đo trở lên ba tay, thì sẽ thấy chữ tên của mày là
Thạch. Đào từ chữ thạch xuống sẽ thấy một cái hang nữa mang những hòn đá hình
nhẵn như trứng. Đá này giữ kho của đó. Nhưng không được lấy sức mà mang vì mày
tìm thấy vàng nhưng mày chết.
Bên cạnh những dòng chữ
này, còn một đoạn chữ nhỏ hơn và viết đá thảo:
Phải dán giấy này như
cũ, mang theo trong mình cho đến khi vận hết của trong Văn Dú. Nếu trong hang
không có dấu vết tìm đào thì về sau tìm đến nhà con cháu họ Hoàng mà thưởng cho
họ năm nghìn vàng. Nếu thấy có người chết vào chỗ đá lở thì phải cẩn thận mà hết
sức tránh sự báo thù của họ Hoàng.
IV
Sáng hôm sau ông Châu
Nga Lộc xuống nhà sớm, người thổ Kao Lâm còn ngủ li bì trên một chiếc cói.
Mấy đầy tớ thức dậy
thưa rằng hắn cứ mê man nói đến những hang, những núi, những người chết, với những
người thắt cổ suốt đêm, nên không ai ngủ được yên vì ai cũng sợ.
Ông quan thổ gật đầu bảo
cứ để cho hắn nằm đó, rồi quay lại dặn bốn năm người đàn ông ở ngoài sân đi
vào:
- Chúng mày ăn cơm thực
nhanh rồi sắp sửa đi theo tao có việc cần. Cầm đuốc, cầm dao, cầm dây, mang xẻng
cuốc, với đóng sáu con ngựa.
Mọi người biết là có việc
quan hệ lắm, vì không mấy khi quan Châu dậy sớm như thế, mà lại ăn mặc gọn ghẽ
hẳn hoi. Mình ông vận áo bông chàm thắt ở ngang lưng, chân đi giầy, đôi bít tất
xanh kéo lên bó lấy ống quần, ngoài cùng lại quấn thêm một lần nịt vải.
Bấy giờ ông đang chít lại
cái khăn nhiễu lớn và đứng đợi xem người ta đóng ngựa.
Ngoài sân, mới lù mù
sáng.
Mấy con vật thấy người
vào chuồng thì đập chân xuống đất và phì thở rất mạnh.
Ông Châu bảo họ hẵng lấy
cỏ cho ngựa ăn.
Dưới bếp lửa cháy to,
chiếu lên mặt sân một dải ánh sáng mập mờ và lay động. Ông Châu giục người dưới
bếp thổi cơm mau lên, những người còn xùm xụp đắp chiếu ngủ trong xó hiên nghe
tiếng ông nói to lục đục trỗi dậy. Rồi người thì đi mở cổng, người thì vào bếp,
người thì ra đằng sau. Làm náo động cả cái cảnh lạnh lùng buổi sáng.
Lúc ông quan thổ cơm nước
đoạn, từ nhà trên lại đi xuống thì thấy người bộ hạ cũng đã ăn uống xong và đứng
nai nít ở bên sáu con ngựa yên cương cẩn thận.
Trong này kín gió mà
còn thấy giá lạnh, thì ở bên ngoài tất rét hơn nhiều. Ông Châu lấy một cái khăn
vải chàm to bịt kín lấy hai tai và thắt xuống cằm. Ông đeo một thanh gươm lớn
mà ông vẫn mang theo trong lúc đi xa và đội một cái nón đan to vành đã cũ. Ông
đứng trước khung cửa, giữa khoảng ánh sáng đo đỏ của ngọn đèn yếu đuối bên
trong, và dặn người nhà phải giữ người thổ Kao Lâm lại cho đến lúc ông trở về.
Rồi ông bước ra, lên
yên ngựa từ trong sân để cho mấy người hầu dắt ngựa ra khỏi cổng.
Trời mới tang tảng
sáng. Sương xuống dầy quá đến nỗi không thấy được nhà cửa ở dưới chân đồi. Người
ta bị cái thứ không khí ẩm thấp, lạnh lùng bọc lấy, và thấy mình cách biệt với
người đi bên cạnh. Ông Châu quay lại bảo hai tên bộ hạ đi lên trước, còn ba tên
kia đi sau. Sáu người cưỡi ngựa đi hàng một như ngồi trên mây, cứ thuộc lòng lần
qua con đường nhỏ hẹp mà ra khỏi Châu Nga Lộc.
Người đi đầu không biết
nên rẽ lối nào, dừng lại hỏi.
Ông Châu bèn truyền ra
một cách dõng dạc:
- Cứ thẳng mạn Văn Dú
mà tiến lên!
Ông có ý định xem họ cử
động ra sao. Nhưng mọi người đều im lặng, lại không ra dáng lấy làm kinh lạ.
Cái lệnh ông Châu mới truyền xuống, nhưng họ đã đợi nghe từ lúc mới bước chân
ra. Vả lại họ là những người can đảm và rất trung thành. Tuy họ cũng tin và sợ
những cái ghê gớm của hang thần, nhưng họ lại tin và sợ cái oai của quan Châu
chẳng kém. Giá thử bị sai phái đi vào những nơi nguy hiểm như thế thì họ còn sẵn
lòng ngần ngại, nhưng bây giờ lại có cả quan Châu cùng đi.
Không ai nói một câu
nào. Sáu cái đầu cùng chăm chú cúi trông xuống khoảng đất phía trước vó ngựa.
Chung quanh đều mờ mịt không trông rõ vật gì.
Đi khỏi những tầng ruộng
rạ cụt gần xóm làng thì những đồi đất chen nhau ở trong đám sương mù lần lượt
hiện ra rồi lại lần lượt biến mất. Sáu người càng tiến thì trời càng thêm sáng.
Sương đặc cũng dần dần loãng thêm. Đường lối trông đã rõ. Người thứ nhất ngoảnh
lại đã thấy mặt người sau cùng. Họ bèn bảo nhau thúc ngựa chạy nhanh, cho chóng
tới nơi và cho quên rét
Được già nửa đường thì
núi Văn Dú mới thấy hơi lờ mờ ở sau cái màn hơi trắng đục. Đường lối đi rất khó
vì họ chọn toàn nẻo tắt, phải đi qua hai ba rặng rừng cây thấp xơ xác, và lên
xuống năm sáu dãy đồi đất liền nhau.
Bọn đầy tớ quan Châu
chưa một lần nào dám hỏi ông ta xem đến Văn Dú làm gì. Nhưng ông ta cũng cắt
nghĩa cho họ biết rằng đến Văn Dú trước hết để khám phá những chuyện bí mật,
sau để tra xét án mạng xảy ra ở đấy. Nhưng cái cớ chính, mà ông không nói đến
là đi tìm vàng.
Lúc bọn ông Châu đến
chân núi Văn Dú thì đã vào khoảng giờ thìn (tám giờ sáng), đỉnh núi vẫn như bị
sương ăn, mà thân núi cả ngang, trông lù lù đen có vẻ hầm hầm tức giận.
Quan Châu ngửng lên
trông, rồi đưa mắt từ bên phải qua bên trái, chú ý nhìn từng cái kẽ núi lá cây
chen chúc, cho đến những gân trắng rất lớn vạch theo chiều thớ núi, nổi lên
trên mặt đá màu xám xanh.
Ông quan thổ xuống yên
cùng năm người bộ hạ dắt ngựa đi từ sau lưng ra trước mặt núi, rồi buộc dây
cương vào bốn gốc cây mọc gần nhau. Đoạn ông tuốt gươm ra, cẩn thận từng bước
đi lên, và bảo trước cho mấy người kia biết có người Khách chết treo, để họ khỏi
sửng sốt.
Ông Châu trông thấy người
thắt cổ trước nhất. Nó ẩn hiện trong cành lá nhỏ và thẫm ăn màu với bộ quần áo
chàm. Đến gần xem thì mặt và bàn chân, bàn tay của người Khách đã xám xì lại nhợt
nhạt, vì bị mưa dầm sương đượm đã lâu. Đằng sau đám cây miếu với bức tường vỡ
là cái hang Thần mà ta đã biết.
Ông Châu nhìn người thổ
già nằm ở một phía nhưng không chú ý bằng nhìn hai hòn đá cao mọc trước cửa
hang, ông nhớ đến câu: "Cửa hang Văn Dú trông như cái mồm có hai
răng" và nghĩ trước đến cách vào hang xem xét.
Nhưng ông quay lại để
khám người Khách đã.
Ông lấy gươm bảo mấy
người đứng đằng sau ông tiến lên rẽ đám cây lá dưới đất. Rồi ông bước đến bên
cây bàng trụi lá. Ông đã tưởng cái thây sẽ xông nặc lên những mùi ghê tởm,
nhưng lúc ấy ông chỉ ngửi thấy mùi ẩm mục của muôn nghìn cây lá cao ngất và
xanh um.
Nhìn kỹ thì phía mặt
bên kia của người Khách cùng với phía sau gáy và vai bị rỉa be bét, màu thịt đỏ
nhợt như ruột củ nâu non. Ông Châu đưa gươm lên cắt cái dây thừng, thì một vài
con quạ vùng lên bay mất. Lưỡi gươm sắc vừa mới cứa, cái thây nặng nề liền rơi
trên mặt cỏ, hai gối gấp lại trước nhất rồi gục đầu xuống cạnh chân bức tường.
ông Châu sai người lật ngửa cái thây ra; đất, cỏ úa và lá ướt dính vào má, vào
mồm và đuôi một con mắt đã trắng dã.
Người chết trông mặt dầy,
vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi tuổi. Cặp môi trên râu lún phún, miệng hé mở,
hai hàm răng trắng cắn chặt lấy nhau.
Ông Châu xem ra thì biết
người ấy bị giết chứ không phải quyên sinh: cái dây thừng ở cổ chặt thít vào
như có ai bám lấy chân người khách mà lôi xuống. Ở phía dưới cổ, gần xương đòn
gánh, lại có vết đâm, rộng và sâu. Ông Châu toan bảo cởi hàng cúc áo của người
Khách ra, nhưng sau lấy mũi gươm rạch xuôi xuống. Ba bốn lượt áo đã phanh mở mà
trông như vẫn còn áo trong: vì bụng người ngực người Khách đã đen xám như chàm.
ở hai bên sườn người này, bọn ông Châu lại tìm ra được vết bốn nhát dao đâm nữa.
Những vết đâm ấy cũng như vết trên cổ, sâu và rộng bằng ba đốt tay: hình như
người Khách bị giết bằng một thứ đoản kiếm.
Hơn một phút đồng hồ,
ông Châu đứng lặng, cúi đầu trên cái thây ma ngẫm nghĩ, trước năm bộ mặt sợ hãi
của người theo hầu.
Cái cảnh tượng kỳ quái
đến nỗi khiến họ không nói được lời nào; và có lẽ trong bụng họ không kịp nghĩ
và không kịp hiểu chi hết. Mấy người tự nhiên đứng sát vào nhau như cùng thấy cần
phải đồng tâm hiệp lực. Họ nhìn ông quan thổ như có ý hỏi, nhưng ông ta lặng
thinh.
Gió thổi rung cành cây
làm rụng lác đác những giọt sương trên lá.
Bỗng chốc lại thấy giọng
thê thảm của mấy con quạ núi quen thuộc nơi hoang vắng bay ngang trời vừa kêu.
- Thôi! Để nó ở đây,
bây giờ đến hang núi!
Tiếng ông Châu nói hơi
run run và hơi khà. Ông hắng giọng một cái, rồi nói to hơn:
- Thôi! đi ra!
Tiếng vang ở quả núi
đáp lại một cách rất dị thường và khiến cho cả người nói lẫn người nghe cùng có
những cảm giác lạ. Ông Châu vừa bước ra vừa truyền:
- Thằng Noòng, thằng Lường
theo tao đến Nùng Khai. Còn ba đứa kia sắp sửa cuốc, dao, dây để vào Văn Dú.
Bọn năm người thấy quan
Châu lúc bấy giờ oai nghiêm như cái gươm ông cầm trên tay. Một tiếng ông nói ra
ở chốn này họ đều coi như lời thần thánh. Trong lúc ba người chia nhau mấy bó
đuốc và mấy cuộn dây dài thì ông Châu với hai người kia đi lại bên cái xác khô
của ông già thổ.
Xác Nùng Khai nằm hơi
nghiêng, đầu trở vào phía hang, cánh tay trái đè dưới mình, cánh tay phải khuỳnh
vào đưa lên trên không, cứng như que củi gẫy; ngón tay và chân đều rút quặp lại;
chân trên duỗi thẳng; chân dưới hơi co lên. Bộ mặt xám nhăn nhó trông rất xấu;
mi mắt nhắm không liền, miệng há cứng ra, lưỡi thụt vào trong họng.
Ông quan thổ xem kỹ hai
tay hắn thì quả như lời người thổ Kao Lâm thuật, khắp bàn tay rớm những vết máu
rất nhỏ, bấy giờ đã hoá thâm. Ông sai người cởi áo người chết xem còn thương
tích gì khác nữa không. Nhưng ngoài những vết sẹo to ở cánh tay và gần vú – sẹo
của những vết thương khỏi đã lâu lắm – thì không còn thấy gì.
Ông lần trong túi áo
trong của Nùng Khai thì lấy ra được mảnh giấy cũ và nhàu, trên giấy vẽ đường lối
đi đến Văn Dú và biên những câu giống in như mấy câu ở mảnh giấy hôm trước. Hai
cái hình vẽ phóng ở hai bên trông vụng dại hơn hình mẫu. Ông cầm lấy soi lên
ánh sáng thì không thấy gì lạ. Ông lẩm bẩm một mình:
- Thì ra chúng nó không
ngờ gì... nên chúng nó tưởng rằng cứ chép lại những chữ trên mặt giấy kia là đủ...
Chúng nó chết là phải lắm. Đến ta, là người trí thức, mà nếu không vì sự ngẫu
nhiên thì đời nào hiểu cái mưu ghê gớm của người Tàu... Huống hồ, chúng nó lại
chỉ học thuộc lòng những chữ vô lý ấy mà dám xông pha vào đây...
Ông còn đang gật gù như
nhận ra một lẽ gì mới nghĩ, thì ba người bộ hạ đưa ông xem một bọc quần áo mà họ
đoán là của người Khách chết treo, cùng với bức địa đồ đã gần nát. Ông cầm lấy
xem, rũ những áo ướt trong bọc, rồi đứng lẳng lặng. Bọn người theo hầu trông thấy
cái suy nghĩ sâu xa ở cả trên những răn trán, trong hai con mắt dưới lông mày,
và cái miệng măm mắm của ông Châu. Rồi ông lại gật gù:
- Phải rồi! Ta đoán
không sai. Người này quyết là con cháu của viên quan tầu. Nhưng sao bây giờ mới
sang đây? Ta có thể ngờ là mảnh giấy "di chúc" kia khi đem sang Tàu
thì đã phải thất lạc nhiều lần, hoặc bị tay kẻ khác chiếm đoạt đến nay mới lại
tìm thấy...
"Nhưng cái đó cũng
không căn cứ vào đâu. Chỉ phải xét xem ai đến đây mà giết người kia? Mà kẻ giết
người ấy sao lại giết hắn một cách lạ lùng như thế? Cái chết của người Khách với
của Nùng Khai này cùng bí mật như nhau, nhưng mỗi người chết một cách ghê gớm
khác. Ta đọc tờ giấy hôm qua thì có thể đồ rằng Nùng Khai chết vì những hòn đá
giết người. Những hòn đá này vì đâu mà giết được người, ta cần dò xét cẩn thận
mới biết được.
Rồi ông móc túi lấy ra
tờ giấy mỏng ông tìm được ở trong mảnh giấy vuông của người thổ Kao lâm. Ông
không đọc một chữ nào vì ông đã thuộc hết. Ông chỉ tự hỏi:
- Người Khách chết ở
kia, vậy ai đem mảnh giấy vuông vào trong hang? Trong hang có những ai? Mà Nùng
Khai làm thế nào lại lấy được ra rồi chết?
Ông quan thổ nói câu
sau cùng to lên và mắt ông vô tình nhìn vào mắt một người trong bộ hạ. Họ không
biết nói gì, chỉ giương mắt to nhìn nhau.
Ông Châu bèn đứng sững
người lại, vứt cái áo của Nùng Khai lên cái xác nằm trơ đó. Rồi ông bảo đốt đuốc,
và sắp dây, sắp xẻng cuốc để vào hang thần.
Trước khi bước chân
lên, ông đứng sững lại một lát cố thả tầm mắt soi vào khoảng đen tối trong
hang, mặt ông hơi có dáng lo ngại và nghi ngờ. Ông biết rằng ông sắp dấn thân
vào trong những sự quái lạ phi thường. Nhưng ông cũng trấn tĩnh lại ngay được.
Sau bó đuốc đã cháy lên
bùng bùng, ông cầm lấy một bó nhìn năm người bộ hạ, rồi truyền:
- Bây giờ đi vào hang!
Năm người này thực là
những người có can đảm bằng thép, rèn bởi cái oai quyền và cái trí cương quyết
của quan Châu.
Họ cầm đuốc giơ cao
lên, hai người đi trước, ba người đi sau, bình tĩnh cùng với ông Châu bước vào
hang Văn Dú.
Bóng lửa khuất vào
trong đám tối đen không cùng.
Ngoài cửa hang, cây cối
lại vẫn giữ cái vẻ hoạt động vô tình và lạnh lẽo như hôm trước, như lúc hai người
thổ Kao Lâm mới bước tới, duy có khác một điều là thây người Khách đã thôi lủng
lẳng ở dưới cây bàng, và trước hang thần, thêm một người nằm chết.
V
Ánh lửa đuốc chiếu sáng
được một khoảng dài khiến cho ông Châu trông thấy trước những chỗ rẽ sắp bước tới
và làm cho bớt cái hơi lạnh trong hang.
Hang rộng chừng mười bộ,
càng vào càng thấy cao thêm. Dưới chân, đường đá rắn và trơn, nhiều quãng phẳng
dễ đi như đã sửa sang từ trước.
Lối hang khúc khuỷu, đi
chưa được mấy, ngoảnh lại đã không thấy cửa hang đâu. Ông quan thổ kỹ lưỡng xem
xét hai bên, thấy cái mỏm đá, hốc đá nào cũng chú ý đến. Trên mặt vách đá màu
rêu mốc đủ các sắc, ông Châu mỗi chốc lại tưởng như sắp thấy những dấu hiệu dị
thường. Nhưng không, chẳng có gì là ghê gớm, ly kỳ; cũng không thấy có vẻ gì là
giết người hết. Từ cửa hang trở vào, thỉnh thoảng lại có một vũng nước hoặc ở
giữa, hoặc ở cạnh lối đi hợp với hai cái lạch chỗ nhỏ, chỗ to theo chân vách
đá. Nước ở lạch trong hơn nước suối, ánh lửa đỏ soi xuống tận đáy thấy một lớp
sỏi nhỏ và trắng tinh. Nhiều lúc cả bọn cùng dừng chân, không ai nói một lời
nào, thì thấy trong hang yên lặng, chỉ nghe có tiếng giọt nước trên cao rỏ xuống,
với những tiếng dơi bám vào trong khe tối bị mất giấc ngủ vì có ánh lửa và có
người vào.
Năm bộ hạ càng vững
lòng, thì ông Châu càng lo ngại. Cái yên lặng và dáng tầm thường của hang đá
này như có vẻ lừa dối nham hiểm. Ông nghĩ đến những câu trong tờ di chúc bí mật:
những lời trong giấy này biết đâu chẳng là những câu gạt mình để làm hại mình ở
đây? Ông có ý hối hận vì không thử y lời dặn trong giấy là đo từ cửa hang vào
cho biết chừng đã sắp đến nơi chưa. Nhưng theo như ông ước đoán thì đến chỗ đó
chưa được nửa đường, vả ông còn muốn xem xét một lượt đã.
Ông không để cho bọn
theo hầu trông thấy cái lo ngại của mình. Mà họ cũng không đủ sáng suốt để
trông thấy được. Họ chỉ biết tôn trọng cái vẻ trầm ngâm của chủ họ trong lúc ấy
và hết sức vâng theo lời ông.
Giữa nơi kín đáo như thế,
trong ruột một quả núi chứa chất những điều bí hiểm, ông Châu thấy như cách biệt
hẳn với thế giới. Ông lấy làm lạ rằng lòng can đảm của mình bị lay động quá đến
thế. Ông tĩnh tâm lại để xem mình nghĩ gì. Ông ngờ rằng trong hang núi có một sức
mạnh làm tâm trí ông mê mẩn. Ông nhìn thứ ánh sáng đỏ bập bùng của mấy bó đuốc
chiếu vào bốn phía đá, rồi ông lại nhìn bọn đầy tớ, họ nhìn lại ông.
- Vô lý thực, mình lại
nạt mình chứ có ai đâu.
Ông nghĩ bụng thế, rồi
ông truyền cho họ tiến lên.
- Tắt bớt đuốc đi, khói
xông lên nhiều quá; để bốn bó cũng đủ rồi.
Họ nghe theo lời ông và
đi mươi bước nữa thì đến một vũng nước lớn lan khắp bề ngang đường hang núi.
Giơ đuốc lên soi thì thấy đến chỗ rẽ mà vẫn chưa hết. Đá chỗ ấy trơn lắm. Nước
trên những thạch nhũ sèo sẹt rỏ xuống mấy ngọn lửa và mau như giọt tranh sau trận
mưa rào.
Ông Châu sai hai người
cầm đuốc tiến lên:
- Hai thằng hãy đi xem
chỗ nước này đến đâu thì hết.
Hai người tức khắc vâng
lệnh rồi nhanh chân giẫm lên lớp đã cuội trắng ở dưới đáy mà đi vào. Hai ngọn
đuốc lảo đảo soi dần vào quãng đường tối đen rồi khuất hẳn.
Được một lát, tiếng
chân khoa nước thấy dứt. Rồi hai người thổ nói vang lên, giọng vui mừng như lấy
làm lạ:
- Quan Châu à! Chỗ này
hết nước rồi! Mà đàng kia lại sáng lắm. có lẽ chỗ này ăn ra một cửa hang khác
cũng không biết chừng!
Ông Châu liền tiến lên
cùng ba người bộ hạ. Ông để cả giầy lội xuống nước nhưng vội lùi lại ngay; nước
lạnh buốt như làm rụng mất chân. Ông chịu rét không quen nên bảo hai người cầm
đuốc cho ông và cho một người bộ hạ thứ ba, để hắn cõng ông qua cái vũng nước ấy.
Tiếng hai người đi trước
vẫn nói lớn, họ bàn nhau tắt đuốc để dành đến lúc ra.
Bọn sau đi được già nửa
đường, sắp tối chỗ rẽ. Bỗng nhiên hai tiếng kinh ngạc cùng kêu lên một lúc.
Ông châu lớn tiếng hỏi.
Hai người không đáp chỉ gọi:
- Quan Châu à! Còn
trong hang chứ?
Giọng họ run run và réo
vội lên như người sợ quá ngắn hơi thở.
- Quan Châu à! Lạ lắm!
Đi mau lên! Đi mau lên!
Ông Châu giục người
cõng bước thực mau. Những lời nói vừa rồi vang ầm lên cùng với tiếng nước reo
dưới những bước chân khua động.
Khỏi chỗ vũng nước thì
thấy ánh sáng mà hai người kia báo trước. Ông Châu ở trên lưng người cõng nhảy
xuống, vội chạy đến sau hai người kia xem. Ông cũng sửng sốt như họ, đứng lặng
không nói được gì. Ba người sau tới nơi cũng đứng đực người ra như thế.
Trước mặt họ, cách độ
hai chục bước, trong một khoảng rộng và cao như một cái động nhỏ, hiện ra một cảnh
tượng quái gở kinh hoàng:
Một bọn năm, sáu người
đàn ông nằm ngồi hỗn độn bên những tảng đá cuội cực to, gần sát chân vách đá. Một
thứ ánh sáng trắng và yên lặng như vun ở ban ngày lạnh lẽo bên ngoài mà dội xuống
bởi một cái lỗ ăn thông lên đỉnh núi; nhưng đứng chỗ ấy, ông Châu chưa trông thấy
trời.
Ông bảo bọn theo hầu tắt
hết đuốc đi, chỉ để lại một bó nhỏ. Rồi một mình ông tiến lên trước, thanh gươm
sáng lăm lăm trong tay. Ông quay lại truyền:
- Năm đứa bước theo
tao! Nhưng nếu tao không bảo thì không được làm gì đấy. (Ông lại chỉ những hòn
đá cuội lớn). Mà phải cẩn thận, không đứa nào được chạm đến những tảng đá ấy.
Nó nguy hiểm lắm đó: nó làm chết Nùng Khai và những thằng này.
Bọn theo hầu còn đang
kinh khiếp sẽ thì thào nói như chính mình lại sợ tiếng mình, thì ông châu bỗng
chú ý ngay đến một khoảng tối đen ở trên một phía vách đá, cách mặt đất độ năm
sáu thước, và to gần bằng một cái nong. Nhìn kỹ thì đó là cửa một cái hang con
bị lấp đầy những hòn đá cuội to cùng màu và hình như cùng hạng với những tảng
đá lăn lóc dưới đất.
Ông Châu bước lại gần,
ngẩng lên nhìn một hồi lâu rồi nghĩ thầm:
- Thì ra chúng nó cũng
biết đây là lối vào nơi để của và cũng đoán được cái câu: "Mày vào trăm
chân, mày lên ba tay" ở trong bài di chúc vắn tắt. Mà có lẽ bọn con cháu họ
Hoàng đã tìm thấy nghĩa câu ấy từ trước và bắt đầu phá cái hang nhỏ này rồi.
Nhưng chúng đoán ra, đào ra để tìm thấy cái chết chứ không tìm thấy của.
Rồi ông lẩm bẩm trong mồm,
nửa như nói một mình, như bảo lũ bộ hạ:
- Hừ khôn khéo, khôn
khéo mà ghê gớm lắm!
Mấy trăm năm trời nay,
những hòn đá kia giết đã bao nhiêu nhân mạng? Viên quan Tầu kia giữ của bằng
cách gieo những cái khủng khiếp, chắc tưởng rằng phi con cháu nó thì chả có ai
là người lấy được của trong này ra; chớ có ngờ đâu đến lượt ta... ta quyết phá
cho tuyệt cái kế thâm độc ấy!
Nói đoạn ông quay lại dặn
bọn người nhà lần nữa:
- Không được đứa nào động
đến những hòn đá này đó. Hãy lôi xác những thằng này để ra một nơi cho tao xét
xem.
Năm người kia vẫn đứng
yên, chưa hiểu ra sao, ông châu lại quát:
- Mau lên chứ! Lôi
chúng nó ra cả một bên!
Bọn chúng có sáu người,
gần hết trông to béo lực lưỡng, họ ăn mặc đều một loại áo vải dầy màu chàm. Da
mặt và tay họ đều xám đen như da Nùng Khai. Họ cùng đi một thứ giầy vải, ngoài
quấn những dây nịt khiến cho lá cỏ cành lau giắt đầy chung quanh chân. Coi mặt
mũi và y phục thì biết họ là người Tầu, nhưng không thể đoán được là người ở bậc
nào vì tất nhiên họ phải thay đổi hình dạng.
Người thứ nhất - bấy giờ
đã lôi ra để một chỗ - là người còn trẻ, mặt mũi nhăn nhó như người đau đớn gớm
ghê. Người thứ hai và người thứ ba ngồi dựa lưng vào vách đá, một người ngửa cổ
lên, còn một người ngả đầu xuống vai người nọ; lúc mấy tên bộ hạ thổ xốc nách
kéo hai cái xác đi lùi lại, thì đầu hai người chết vẫn ngửa; miệng thì xếch lên
như cười một cách đần độn. Người thứ tư là một ông già, mặt xương xương, mép và
quai hàm lởm chởm những râu, mắt to, mở trừng trừng, đang nằm nghiêng ôm lấy một
hòn đá cuội. Bọn người thổ phải khó nhọc mới kéo được ông già ấy khỏi chỗ cũ,
vì chân ông ta bị đè dưới bụng một người to béo – người này đâm chúi đầu xuống,
miệng hôn đất, tay quắp lại, mười ngón quào sâu vào đùi ông già. Còn người sau
cùng mở mắt nhưng lòng đen chạy lên mí trên, mồm cứng và hé mở, môi dưới trề
ra; hắn ngồi gò ruột ở một bên, vai so lên, cằm sát ngực.
Bằng ấy cái xác cứng đờ
như tượng gỗ, họ đều kéo lại cho nằm kềnh càng ở một chỗ sáng nhất, trên mặt đất
hang rắn và ẩm, mình đè lên những cái côn sắt lớn và nhọn, những thanh gươm ngắn
và trần, những bọc vải xanh đựng cơm và bánh khô với những bó đuốc đã tắt lửa.
Tuy có đông người trong
hang và tuy đã hơi dạn với cái bí hiểm, ông quan thổ cũng phải gắng sức mới
bình tĩnh được tâm thần. Trước cái cảnh tượng quái gở mà ông thấy đó, ông sẽ lắc
đầu mà tưởng đến cái ghê sợ của một người vào đây một mình. Ông tự nghĩ:
- Thế mà ta chực không
cho đứa nào theo đấy!
Cũng may mà ta nghĩ lại...
Nếu không thì những lúc này liệu còn can đảm không?
Rồi ông nghĩ đến Nùng
Khai và đến lúc hắn trông thấy bọn người chết. Ông chắc rằng khi Nùng Khai vào
Văn Dú thì đã thấy bọn Khách ở đây mà lúc ấy họ cũng đã chết rồi.
Nùng Khai có lẽ chết vì
khiếp sợ quá? (Ông nghĩ thế, nhưng lại lắc đầu). Khiếp sợ mà đã chết ghê gớm
như thế này được ư? Mà Nùng Khai có khiếp sợ không? Không chắc, mắt tên cướp
kia đã quen thấy máu đổ, quen thấy những cảnh tàn sát nhiều lần rồi; mà cái
lòng hung bạo ấy lại nhờ có sự ham chiếm được của làm cho táo tợn thêm... Vả nếu
nó biết sợ đã không dám vào đây ngay từ lúc thấy xác người Khách thắt cổ.
Lúc ấy ông Châu từ từ
đưa mắt nhìn khắp động từ trên xuống dưới, từ trái sang phải; nhưng không chú ý
đến vật gì. Ông còn đang đoán tưởng lại những cử chỉ của tên thổ già từ lúc vào
đây đến lúc chạy ra cửa hang mà chết, thì bỗng trông thấy một con dao rừng với
một bó đuốc bằng sam mộc nằm ở bên một tảng đá cuội. Con dao ấy tất nhiên không
phải của bọn Khách, vì đó là thứ dao rừng chỉ riêng người thổ quen mang. Mà bó
đuốc kia chắc cũng là của Nùng Khai, theo như người trai thổ Kao Lâm thuật lại.
- À thế thì chắc Nùng
Khai tìm thấy tờ di chúc kia ở chính chỗ này đây. Rồi tất nó phải chạm đến những
tảng đá này mới chết được... Có lẽ nó tưởng trong đá cuội có vàng ngọc nên mới
lấy tay vần xem...
Nhưng nó ngu ngốc đến
đâu cũng phải nghi ngờ chứ... Bọn Khách kia chết cứng đờ ra đó, mà những hòn đá
này thì lăn lóc ở bên...
Ông quan thổ cau đôi
mày lại, nhìn trừng trừng xuống đất, một ngón tay chập chạp gãi sau mang tai. Rồi
ông ta se sẽ một tiếng thở dài.
- Hay là tờ giấy kia bị
một hòn đá đè lên? Nùng Khai muốn cầm giấy xem nên mới mang bỏ hòn đá sang bên
cạnh? Ừ có lẽ thực thế, vì tờ giấy ta thấy thủng rách lỗ chỗ mà ở hai mặt giấy
ta còn thấy màu đất bám và phảng phất màu rêu xanh. Nhưng dẫu sao, ta hẵng cứ
biết rằng Nùng Khai cũng như bọn Khách kia, bị chết vì đã phạm tới những hòn đá
cuội ấy.
Những tảng đá này trông
nhẵn và cũng khá tròn, tự cái lỗ đang đào dở lăn ra, và nhiều tảng lăn tản mát
tận đằng xa và khuất trong đám tối.
Ông châu đến bên một tảng,
cúi xuống xem xét một hồi rất lâu, nét mặt khó khăn, chăm chú và tỏ ra chiều rất
cẩn trọng.
Ông lẩm bẩm nói:
- Cái thần giữ của của
nó mới hiểm ác chứ! Có ai ngờ đâu những vật ghê gớm này lại là những tảng đá tầm
thường.
Rồi ông đứng sững lên,
lại gần mấy cái tử thi người tầu, khạc một cái nhổ xuống đất và gọi bảo lũ bộ hạ:
- Trên mặt bàn tay lũ
này cũng như trên mặt bàn tay của Nùng Khai, có những vết máu lấm tấm đen, dấu
vết của những hòn đá giết người đó. Đứa nào phạm đến những vật ấy thì cũng phải
chết như những tên vô phúc kia. Chúng mày phải coi chừng đấy.
Lúc ấy, ông đang lom
khom cúi xuống xem cái xác người Khách già nhất. Người này trông vẻ hung ác,
hai mắt nhìn thẳng vào chân ông Châu.
Bên cạnh cái bao gươm
to bản và ngắn đeo vào cái đai vải thắt ngang lưng hắn, ông còn thấy giắt một
cái hộp thiếc mà ông không thấy ở thắt lưng bọn kia. Hộp này dài hơn hơn một
gang, ngang bằng ba đốt tay và dầy hai đốt. Ông châu liền cầm ngay lên, rút nắp
lấy ra được hai tờ giấy cuộn tròn lại. Tờ thứ nhất là một cái giấy thông hành của
quan tổng đốc Quảng Đông cấp. Tên người mang giấy đó là Thạch Dụng, ba mươi tư
tuổi, làm thầy địa lý, quán ở Bình Giang. Cứ tuổi trong tờ giấy này thì ông già
kia không phải là Thạch Dụng, mà người mang nó có lẽ là người Khách bị giết ở gần
cửa hang.
Ông Châu xem đến tờ thứ
hai.
Tờ giấy này dầy như
bìa, mầu vàng bẩn. Ông quan thổ vừa thoạt giở ra đã thấy kinh lạ: chữ trong giấy
viết bằng máu, nét gãy cứng như vạch bằng que.
Lời trong giấy như sau:
"Bọn dũng sĩ chúng
ta là Đô Bá Kỳ, Tần Du, Điền Nhị Giang, Lý Thất và Lý Nhạc, năm mãnh hổ ở vùng
Mê Sơn, xông pha hiểm trở, theo vết chân Thạch Dụng đến đây để chiếm lấy kho
vàng của y.
Năm chúng ta cùng tra
khảo y, cùng lấy được mảnh giấy chỉ cách đào lấy của, rồi cùng giết chết y.
Vậy chúng ta thề nguyền
với nhau rằng, của cùng tìm được chia đều, và phải giữ việc này cho kín. Nếu
trong bọn ta, có kẻ nào manh tâm muốn chiếm lấy phần lớn, hoặc tìm cách giữ cả
cho riêng mình, thì kẻ ấy sẽ bị chết treo trên cây vì tay chúng ta, bị năm nhát
dao trên mình, y như số mạng của Thạch Dụng.
Chúng ta lấy máu của y
để viết tờ giấy này, lại cùng chích máu mình biên tên và in dấu ngón tay vào
đây ký kết".
Năm ngón tay cái in
thành một hàng máu đỏ nhoè nhoẹt ở sau những câu ghê gớm ấy.
Ông Châu lặng yên,
không nói gì. Một lát ông quay lại nhìn bọn người tầu, thấy mặt mũi họ càng
thêm vẻ độc ác. Nhưng bọn giết Thạch Dụng chỉ có năm đứa, vậy đứa thứ sáu là
ai? Có lẽ là đứa trẻ nhất, và có lẽ là người đi theo Thạch Dụng đến đây làm
chân trong cho chúng.
Một lát ông Châu lại
nghĩ:
- Thì ra quả nhiên tên
Khách chết treo là con cháu người quan tầu thực. Nhưng tại sao mãi bây giờ mới sang
đây? Mà bọn cường bạo kia dò xét làm sao lại biết được y sang tìm của. Cái đó
toàn là một thiên bí mật khó lòng mà khám phá được ra.
Ta chỉ phục viên quan tầu
thực là người sâu sắc! Câu dặn con cháu phải gắn lại tờ di chúc, ta tưởng là vô
lý, nhưng đến nay mới rõ cái ý khôn ngoan. Viên quan tầu có lẽ muốn phòng hai
điều, một là bảo con cháu giữ lại đừng huỷ tờ giấy đi, để sau có khi phải đem
ra chứng nhận cái quyền được hưởng của trong hang Văn Dú; hai là hoặc trong khi
đi tìm của, có kẻ theo mà tra khảo thì tờ giấy kia với những câu kỳ dị viết
trên đó sẽ lừa gạt kẻ chiếm được nó và báo thù cho con cháu mình. Viên quan tầu
muốn cho của trong hang Văn Dú nếu không về tay dòng dõi nhà y, thì không về
tay ai hết. Mà của cải với nơi chứa nó sẽ là tai hoạ nghìn năm cho những kẻ muốn
tìm tòi... Ta cũng là kẻ tìm tòi đây... Nhưng cái mưu kế lập ra từ mấy trăm năm
kia đối với ta không có giá trị gì nữa!
VI
Ông quan thổ gấp cả hai
tờ giấy tra vào cái hộp thiếc như cũ và giắt vào thắt lưng mình, rồi ông sai bọn
theo hầu đem cuốc xẻng và dao trường đến phá nốt cái lỗ hang ở trong phía tối.
Họ vâng lời, tức khắc lấy xẻng và dao nậy những hòn đá từ dưới trở lên. Cứ mỗi
hòn đá rơn ra họ phải nhẩy lùi lại. Cái khó trong việc đào phá chỉ là phải
tránh những hòn đá cuội đó. Ông Châu đứng một bên, trên một tảng đá xanh, cao
và khá phẳng. Ông vừa bảo ban vừa thôi thúc họ; trong động vang lên những tiếng
cuốc xẻng, những tiếng ông Châu quát, với những tiếng đá cuội lăn ra. Lỗ hang,
sau đó một hồi lâu đã thấy mở ra được non nửa về phía dưới. Lúc ông Châu toan bảo
một người đốt đuốc lên, thì ông chợt thất kinh kêu lên một câu dữ dội:
- Này chết! Lùi ra mau!
Vừa lúc bọn đầy tớ hốt
hoảng nhẩy lại đằng sau, thì rầm một cái như sét nổ trời, cả phần trên lớp đá cửa
hang cùng lở xuống.Bọn thổ chạy tán loạn nhảy như lũ vượn, để tránh những hòn
đá tròn đuổi theo. Đá cuội cứ lăn ra tứ tung và chiếm gần nửa chỗ trong động.
Cũng may không ai việc gì. Nhưng họ mất sắc đi vì khiếp sợ.
Lúc họ đã dám quay lại
nhìn thì cái cửa hang nhỏ đã rộng mở. Hang này cách đất độ bốn, năm thước, cửa
hang to bằng một cái nong. Không thể biết hang nông hay sâu: trông vào thì chỉ
thấy mù mịt đen và phảng phất như có khói. Ông Châu bảo họ lấy dây thừng và dây
mây làm thành những thứ quang sơ sài để tải những hòn đá kia ra một chỗ. Ông đến
xem mấy hòn đá gần nhất thì thấy cũng là một thứ đá cuội như những hòn lăn ra
trước, nhưng nhỏ và nhẵn nhụi hơn. Ông lại nhìn kỹ những hòn phía gần cửa hang,
là những hòn đá rơn xuống trước tiên thì lại thấy chung quanh đá bong ra những
mảnh cát to hạt và sắc cạnh mà ông không dám động tới. Ông gật đầu mấy cái rồi
nói:
- Chỉ có lượt đá ngoài
cùng là nguy hiểm thôi.
Tuy thế song cũng bảo bọn
kia phải cẩn thận mà khiêng từng hòn một. Họ lẳng lặng theo lời ông như một bọn
người máy.
Khi đá cuội ở bên những
cái xác chết đã xếp thành một đống to và khi đã có lối đi tới cửa hang ông Châu
mới bảo đầy tớ đem cái bó đuốc gần tàn lại để nối. Ông thì cầm bó đuốc sam mộc
của tên Nùng Khai. Thấy một tên bộ hạ không đi hài xảo, ông liền bắt hắn cởi giầy
của một người chết để xỏ chân vào. Rồi ông nói:
- Bây giờ chúng mày đem
những tảng đá kia chồng thành bậc để lên. Những đá rơi ra sau thì không đáng sợ
lắm.
Mấy hòn đá xếp thành một
thứ bậc thang cũng khá tiện. Ông châu đem đuốc lại nhóm, chỉ để lại hài bó dành
đến lúc ra.
Rồi ông nhìn lại một lượt
chung quanh mình, cảnh tượng trong này thực kỳ dị. Đám người chết co quắp nằm
nghẹo đầu giơ chân ở chỗ ánh sáng ban ngày soi xuống, cùng với những hòn đá cuội
chất đống, màu đất ẩm khác với màu xanh xám của vách hang. Cách đó không xa, bọn
người thổ xúm lại với nhau đứng trong bóng tối. Họ sửa giầy rơm, đai lưng, hay
đốt thêm thuốc. Ánh lửa đỏ bập bùng chiếu một bên mặt tai tái của họ và chiếu
lên mặt hang đá làm rõ rệt thêm cái lạnh lẽo của thứ ánh sáng ngoài trời soi xuống.
Bó đuốc của ông châu và
ba bó đuốc của bọn đầy tớ đã cháy to, nổ lách tách. Hai người giụi tàn lửa lên
đá rồi theo lời ông châu, chui vào cửa hang. Ông cùng lên với người thứ ba để
cho hai người sau cầm đuốc đi tập hậu. Cái cửa hang nhỏ lúc ấy trông như miệng
một cái hoả lò đang cháy, mỗi lúc một tối dần.
Không bao lâu, cả lửa
đuốc lẫn người cũng bị cái miệng đá ấy nuốt chửng.
° ° °
Thoạt mới vào, đường đi
rất khó. Họ phải lom khom cúi; trên đầu họ, trần đá thấp như muốn đè mãi họ xuống,
mà dưới chân có nhiều chỗ hõm hốc, lại thêm đá cuội bên ngoài lăn vào làm cho họ
phải hết sức dè giữ mới dám bước lên. Họ không giơ được ngọn đuốc lên cao. Ánh
lửa trước mặt làm cho chói quá, phải đưa cánh tay lên che ngang mắt mới trông
được rõ lối đi.
Nhưng hang càng vào sâu
càng rộng, và dễ đi hơn. Vào chừng hơn mười bộ thì đuốc đã giơ lên được quá
trán; trần đá cũng cao dần và đỡ thấy nặng nề. Họ càng vào sâu thì khí lạnh
càng thấm thía. Một thứ gió lan đi rất chậm, từ chỗ đen tối cùng cực đưa ra. Họ
phảng phất ngửi thấy những mùi hôi tanh và ẩm mốc. Đứng lại độ nửa phút, ông
châu lẳng lặng nhổ bọt, rồi lại tiến lên. Lối đá rêu cũng khá rộng. Ông châu
cho hai người đi quá ông một bước, còn ông đi giữa họ, hơi lùi về đằng sau. Bỗng
nhiên ông châu dừng chân, nói một cách kỳ lạ:
- Ồ! Đứng lại, đứng lại
xem đã! ồ!... Kìa!
Họ trừng mắt trông lên.
Trong khoảng giữa tối
om, thấy phảng phất hình một người trăng trắng. Ánh lửa cử động khi mờ khi
chói, nên cái hình ảnh vừa rồi lúc biến lúc hiện rất mơ hồ.
- Cứ đi lên xem, chỗ ấy
cách đây xa quá nên không rõ.
Họ tiến lên mới được
mươi bước nữa thì cái hình lúc này thành ra một bộ xương người. Bộ xương này ngồi
ngoảnh mặt ra, ở trên một cái bệ gạch rất lớn.
Cái đầu lâu, hai mắt rỗng
đen thao láo, ngả về phía trán ở giữa hai cánh tay giao nhau. Hai tay này để
trên một cái cột, cao lên tới ngực. Hai ống cẳng đã rời, dựa vào cái bệ như hai
thanh củi: phía trên bàn chân có những xích sắt con han gỉ, chằng buộc hai ba
vòng. Màu xương thì xanh đen, mốc rêu, cũng như màu cái cột đá. Hàng xương sống
vẫn thấy liền khớp, vẫn thấy chống giữ bộ xương ngực. Trên bả vai, lúc soi đuốc
lại gần, thấy một thứ mùn nát thành bụi lẫn lộn với một vòng tóc xam xám và
dài.
Ông Châu nghĩ ngay đến
lối yểm vàng của bọn người tàu. Ông nghĩ đến cái nỗi tuyệt vọng của người mà họ
dùng làm thần giữ của; nghĩ đến cái lòng thâm độc của kẻ tin những điều vô lý
mà hại người. Sau khi tìm được những hòn đá cuội, ông không nhận là có thần
thánh gì nữa.
Nhưng ông lại nghĩ:
- Viên quan tầu kia đã
có những tảng đá để lấp cửa hang trong, hắn đã có phép giấu vàng kỳ bí hiểm rồi;
hà tất phải nhờ đến thần thánh nào khác để giữ của cho hắn. Ta cần phải biết rõ
điều ấy. Vì biết đâu rằng, sau bộ xương vô giác kia, không còn ẩn những mưu kế
gì lừa gạt mình nữa...
Ông đứng yên một lát,
trí suy nghĩ, tay vân vê xoắn suýt bộ râu cằm. Sau, ông cứ gật gù hoài, miệng
mím vào như muốn cười, mặt lộ ra vẻ khoan khoái:
- Phải, phải, chỉ có
hai lẽ ấy; chứ viên quan tầu kia giết người vô ích làm gì? Một là người tầu
nghĩ đến cách yểm vàng từ trước, từ khi mới để của ở đây... rồi dần dần mới
tính ra, mới dùng cách xây dựng cửa hang bằng thứ đá cuội nguy hiểm. Hai là bộ
xương kia chẳng qua chỉ là xương của một kẻ bộ hạ theo vào giúp việc trong này.
Mà người giúp việc ấy cũng như những kẻ tải gạch đá vào xây nên cái bệ này đã
trông thấy của cải trong này, nên phải giết đi, để triệt những tấm lòng tham và
làm câm những cái miệng không kín đáo. Thế rồi một ý kiến nảy ra, viên quan tầu
đem người bị giết đặt lên bệ sau cái cột đá ấy để làm một thứ bù nhìn. Kẻ nào
không phải là người có quyền lấy của, chẳng hạn như ta đây, mà lòng mê tín vẫn
còn thì sẽ bị cái bù nhìn kia làm cho kinh hoàng, có khi còn ám ảnh suốt đời nữa.
Cái bệ mà có bộ xương
người ngồi ở một bề thoại trông, ông Châu đã biết ngay là chỗ đựng của. Bệ này
hình chữ nhật, rộng gần bằng dài, và xây bằng gạch, trông chắc chắn nhưng rất vụng
về. Ông quan thổ lây mắt ước lượng thì mỗi bề ngang dọc vào khoảng bốn và năm
thước và về cao thì vừa bằng cái ống cẳng bộ xương. Mặt bệ cũng khá phẳng, gạch
xây toàn là những phiến rất lớn và xem ra rất dầy. Mầu gạch một vài chỗ nâu sẫm
như da sành, nhiều khoảng rêu cáu vừa xanh vừa đen, nhiều chỗ long lở như đất
khô hay mốc bám.
Ở hai bên còn chừa ra
hai lối nhỏ đi ra phía sau bệ, đến chỗ cùng hang. Ông Châu cầm đuốc bước vào.
Trần đá càng ở xa càng thấp.
Ông đứng sau bệ ngoảnh
vào, thả tầm mắt nhìn cái khoảng tối đen mà lửa đuốc không soi tới. Ông đi vào
mấy bước thì phải cúi thấp mãi xuống. Ông thấy cái cảm giác như bị đè nén mãi ở
dưới cái trần đá nặng và dày. Ông thử nghĩ xem chỗ ông đang đứng ở phía nào
trong hòn núi đá. Nhưng không đoán ra.
Khi mắt đã quen tối,
ông chợt thấy hình ba bốn bộ xương người nữa. Ông gọi đầy tớ lại và bảo cho
chúng biết là họ bị hại bởi tay người tàu... Nhưng xét kỹ thì hình như họ bị
thuốc độc chứ không phải bị chém bất thình lình như ông thoạt tưởng: bộ xương
nào cũng còn nguyên, mà cổ vẫn liền với đầu.
- Vả lại, ông Châu nói
tiếp – viên quan tầu ngoài cách đầu độc họ thì không dám giở ngón gì ra. Vì tất
nhiên y vào đây có một mình, với bọn kia... nếu họ hơi thấy viên quan có ý phản
trắc tất họ không để cho y sống.
Nói đoạn ông quay trở lại,
đưa bó đuốc cho một người đứng bên. Ông đứng sau cái bệ lớn, yên lặng một hồi
lâu, tay cầm gươm, vô tình vạch lên mặt bệ những nét nhằng nhịt.
Lần này là lần thứ năm,
thứ sáu, ông ngẫm lại những cảm giác và những điều ông suy tính trong lòng.
Lúc ấy ông thấy lòng
xôn xao. Ông dịu lời bảo đầy tớ nổi thêm đuốc lên, thì thấy giọng nói của mình
hơi khác. Quả tim ông đập nhanh và mạnh lắm. Có lẽ đó là vì mừng. Vì ông biết rằng
trong cái bệ lớn kia, có một kho của lớn mà chính ông, ông sắp được hưởng...
Viên quan Châu nhỏ mọn, danh phận mờ tối ở trong bóng những rừng hoang, nay chỉ
còn phải lật có một lần tường mỏng nữa là được trông thấy cái phú quý to nhất
trong nước... Ông sẽ làm nên tiếng tăm, ông sẽ tìm cách cùng một đồng liêu người
Kinh, làm quan trong bộ. Ông sẽ mở một con đường mới cho người cùng giống. Người
ta có của là người ta có quyền.
Ông hắng giọng cho lời
nói mạnh lên. Bọn theo hầu đã đốt thêm đuốc.
Ông sai giắt hai bó lên
kẽ đá, bảo ba người khác cầm năm bó, còn ông và hai người mạnh khoẻ nhất thì lấy
xẻng, cuốc để bổ vỡ cái mặt bệ ra. Cuốc vừa mới giáng được một nhát, bộ xương
người bỗng đổ rơi xuống, xếp lại thành một đống hỗn độn trên mặt bệ, cái đầu
lăn ra một bên. Ông châu bắt họ không được ngừng tay. Họ đang ra sức bổ nữa thì
ông Châu ngăn họ lại.
Rồi một tay cầm lấy một
con dao còn tay kia ông rờ vào chỗ kẽ vừa mới nứt ra ở một góc bệ. Ông lấy mũi
dao cắm mạnh vào đó, bảo một người nữa cùng làm thế, rồi hai người lấy hết sức
bẩy lên. Một phiên gạch dầy ước nửa gang tay, to bằng nửa cái án thư bật lên, để
lộ ra một lớp gạch nữa mới hơn ở dưới một lần vữa mỏng.
Lớp gạch phủ trên đá
phá hết. Lớp gạch dưới mới nậy được ba viên.
Ông châu vội bảo họ ngừng
tay: ông đã trông thấy những hình nén, hình thoi in nhấp nhô ở dưới một lần vải
phủ trên. Mảnh vải ấy cách lần gạch độ ba đốt: ông quan thổ cầm lấy mép vải rồi
nhanh tay lôi lên, mảnh vải mủn rách bung ra; ông châu mở mắt cực lớn.
Những thoi vàng dài,
màu xanh xanh, nằm hỗn độn bên những xâu vòng trắng muốt, đó là những vật ông
trông thấy trước nhất, bọc trong những mảnh lụa hay giấy mỏng lòi ra. Còn ở dưới
thì toàn những bọc còn nguyên, có lẽ cũng là bọc vàng, ánh lửa soi vào làm hơi
lấp lánh ở những chỗ rách.
Ông quan thổ, mười ngón
tay run lẩy bẩy, đưa cả chực bốc; ngập ngừng một lát, rồi với lấy mấy cái bọc
đưa lên tận mắt để xem.
- Chính phải rồi. Chính
vàng! Vàng! Vàng với những vòng ngọc. Vàng ngọc cao gần ngập bệ, lại còn khuất ở
dưới những phiến gạch kia!
Bỗng nhiên ông nín lặng.
Ông liếc mắt nhìn bọn tôi tớ. Chúng nó đứng mê đi như những pho tượng cầm đuốc,
chống xẻng. Ông thấy cái ghê rợn chạy khắp người.
- Nhưng mà không! (Ông
nghĩ thầm) không hề gì! chúng nó là người trung thành lắm. Ta phải bình tĩnh mới
được... ừ không sợ gì!
Tuy thế ông vẫn đề ý đến
cử chỉ của họ và nhìn lại cái gươm sáng của ông dựng ở một bên đùi. Ông kéo
hai, ba gói nữa lên thì thấy toàn là những chuỗi ngọc kim cương và bạch ngọc.
Lúc ông để cả xuống thì chú ý đến một tập giấy nhô ra ở trong bóng tối của phiến
gạch dày. Ông cầm giở ra xem thì đó là một quyển sổ mỏng.
Giở tờ thứ nhất, thấy mấy
dòng viết rất tốt;
"Thạch điền
quang – Minh triều đại thần, xung Nam bang đô đốc chi bảo"
Trang thứ hai kê những
đồ đĩa ngọc, chén ngọc bình vàng và bạc rồi đến trang kê các thứ ngọc: ngọc thạch,
ngọc trai, kim cương... Trang thứ tư và thứ năm, các đồ bằng ngà voi, bằng san
hô; ngà voi nguyên, sừng tê... Trang cuối cùng kê toàn là vàng, vàng thoi, vàng
nén, vàng diệp các hạng.
Đoạn kết
Trừ những người bộ hạ của
quan Châu nga Lộc thì không ai biết đến chuyện ông tìm thấy của. Cả ông châu
kao Lâm cũng vậy: ông quan này tưởng cả hai tên bộ hạ ông sai đi đều bỏ xác ở
hang Thần.
Người thổ Kao Lâm từ
khi gặp những điều kinh khủng trước cửa hang đá thì ở lại châu Nga Lộc, mấy
tháng ròng rã không dám bước chân ra ngoài.
Rồi một ngày kia, người
thổ ấy tự nhiên đi đâu mãi không về nữa. Người ta đổ đi tìm các ngả cũng không
thấy. Sau cùng, một người lách vào một bụi rậm gần đấy thì thấy hắn chết treo ở
dưới cây ổi lớn bên nhà ông Châu. Bọn bộ hạ theo ông Châu hồi xưa lấy làm kinh
ngạc vô cùng. Họ ngờ là ông ta lập mưu giết nó. Nhưng phần nhiều là đoán nó tự
tử, vì họ thấy nó bị cái hối hận và khiếp sợ cắt rứt ám ảnh không thôi. Và bọn
người theo ông châu sau này vẫn được sung sướng, giàu sang một cách bình tĩnh.
Còn ông Châu thì bận bịu về của cải nhiều lắm. Ông cưới thêm hai người thiếp nữa,
và thôi tưởng đến sự làm quan trong Kinh.
Những tảng đá giết người
trong hang thần thì ngay sau khi vận hết của về nhà, ông châu đã sai đem bỏ vào
một cái hang thứ hai là hang giấu của và sai xây thêm một lần đá bên ngoài lấp
kín miệng hang ấy đi. Tuy vậy, ông vẫn giữ lại một tảng nhỏ nhất làm kỷ niệm.
Ông vẫn có ý giữ kín không nói ra vì sao mà những tảng đá kia lại hại người một
cách ghê gớm như thế. Nhưng một hôm, nhân chuyện với mấy tên người nhà tâm
phúc, ông tưởg cũng không cần phải giấu mãi sự thực làm gì; ông bèn cẩn trọng
đem tảng đá ra, lấy dao cạo mạnh lên, thì thấy lở xuống, nhỏ và mỏng, những mảng
cát to hạt. Đó là một thứ cát sắc cạnh màu vàng trong lẫn màu nâu cháy, dính lại
với nhau như luyện keo. Ông nói:
- Đây là cái oai quyền
của "thần giữ của" đây, cái linh thiêng của Văn Dú cũng cả đây, thực
là ghê gớm mà khôn khéo. Bao nhiêu tai họa, bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu điều
khiếp sợ của người ta trong mấy trăm năm trời đều do những vật vô tri vô giác
này gây nên. Nhưng chẳng qua chỉ là cái kỳ mưu của viên quan tầu nhà Minh, chứ
không có thần thánh gì hết. Chung quanh tảng đá này, có một sức mạnh giết người
mau chóng hơn cả thần thánh nữa; đó là nhựa của một thứ cây độc tên là May Nôm,
thứ cây mà bọn Mán đi săn với quân giặc ở những núi hiểm gọi là Công đia đèng.
Nhựa cây này, ngâm tên
thì tên hoa độc: bắn, không cứ phải chỗ hiểm, chỉ cần làm trầy da rướm máu cũng
đủ làm cho kẻ bị thương chết không thể cứu được. Nhưng nếu chế luyện theo phép
của một vài giống rợ bên Trung Quốc thì giống bôi thuốc độc vào móng tay để cào
cấu kẻ thù thì nhựa cây đó trở nên rất mạnh và giết người một cách ghê gớm mau
chóng hơn, Viên quan tầu kia hẳn biết cách chế luyện nó.
Rồi ông Châu gắp đưa
cho mấy người bộ hạ xem những mảng cát bám trên tảng đá cuội. Ông bảo rằng đó
là một thứ cát làm bằng những mảnh sứ hoặc thuỷ tinh băm nhỏ, luyện keo lại với
thứ thuốc độc mà ông nói. Thứ keo riêng ấy, đem trát lên các hòn đá xây lấp cửa
hang, là thành một thứ quân canh gác chắn chắn không gì bằng. Cho nên những kẻ
đi tìm vàng trước ông Châu, như bọn con cháu họ Hoàng, bọn Cướp Khách với tên
Nùng khai, đều vì phạm đến vật nguy hiểm kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên đá
đâm vào da mà bỏ mạng.
Ông Châu tuy đem cái bí
mật của hang thần mà giải nghĩa cho những người bộ hạ trung hậu đã theo ông đi
lấy của khi xưa được biết, nhưng ông vẫn để cho dân trong Châu tin là ông có
oai át được cả thần quyền. Văn Dú mất thiêng là vì ông. Dân ông rất lấy làm cảm
cái ơn trừ tai phá hoạ ấy.
Từ đó, dần dần họ đã
dám khai khẩn và cày cấy ở gần quả núi đá. Lại có lần người ta rủ nhau vào tận
hang xem.
Núi Văn dú trông vẫn ngất
ngưởng cao lớn nhưng người ta chỉ coi là một ngọn núi cao lớn thường. Đến nỗi
cái tên đã làm khiếp đảm mấy châu huyện ngót ba trăm năm trời, họ cũng quên dần
đi.
Bây giờ thì không mấy
ai biết đến nữa.
--------------------------------
1. Thứ dép bện bằng rơm của người Thổ dùng đi đường xa.
2. Tiếng chửi rủa.
3. Truyện ở sách Kim Cổ kỳ quan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét