Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2022

TÀO THÁO THẬT GIẢ

 


Bản đồ thời Tam Quốc

PHẦN MỘT: NGỤY VŨ VUNG ROI                      

Tập thứ nhất: TÀO THÁO THẬT GIẢ

 

Tác giả Dịch Trung Thiên

 

Trung Quốc thông sử của Phạm Văn Lan ghi giai đoạn từ thời Hán Hiến đế niên hiệu Sơ Bình năm đầu (năm 190) đến thời Tấn Vũ đế niên hiệu Thái Khang năm đầu (năm 280) là “Thời kỳ chia cắt” trong sử Tam Quốc thời Đông Hán. Nói về “Tam Quốc” là nói về giai đoạn lịch sử này và nhân vật nổi nhất trong đó là Tào Tháo - người đã sáng lập nên nhà Ngụy. Từ hàng ngàn năm nay Tào Tháo chịu nhiều lời phê bình tố xấu khác nhau, là nhân vật được bình luận sôi nổi ngay khi chưa đậy nắp quan tài. Với Tào Tháo có nhiều cách nói cách bình luận, có nhiều ý kiến khác nhau, thực hiếm thấy, hình tượng dân gian của Tào Tháo lại càng tệ. Vậy, con người thực của Tào Tháo trong lịch sử là thế nào?

 

 

Nói đến Tam Quốc thì trước hết phải nói về Tào Tháo. Hình tượng trong lịch sử của Tào Tháo không hay lắm, nói khách khí là “gian hùng”, không khách khí là “gian thần”, thậm chí là “gian tặc”. Nhưng Lỗ Tấn lại coi Tào Tháo là anh hùng. Trong bài Quan hệ giữa Ngụy Tấn phong độ và văn chương với thuốc và rượu, Lỗ Tấn nói: “Tào Tháo là người rất có bản lĩnh, chí ít cũng là một anh hùng. Tôi không cùng cánh với Tào Tháo, nhưng rất khâm phục Tào Tháo”.

 

 

Ở đây có ba cách đánh giá và ba hình tượng: anh hùng, gian hùng, gian tặc. Vậy cách đánh giá nào là chính xác nhất?

 

 

Nên phải làm rõ con người thực Tào Tháo trong lịch sử và là người như thế nào. Thực không dễ dàng. Lỗ Tấn nói, đọc Tam quốc diễn nghĩa, xem Kịch Tam Quốc “không phải là cách bình xét Tào Tháo chân chính”. Tin tưởng nhất vẫn là lịch sử. Lỗ Tấn lại nói: “ghi chép và đánh giá trong sử sách có lúc không tin được, rất nhiều chỗ không tin được, vì thông thường thì triều đại nào dài hơn sẽ có người tốt hơn, triều đại nào ngắn ngủi thì gần như không có người tốt”. Những năm tháng của Tào Ngụy lại rất ngắn, vì vậy Tào Tháo “không tránh khỏi bị người triều sau bêu xấu”.

 

 

Lời xấu nói nhiều biến thành thành kiến. Thành kiến được truyền đi từ đời này sang đời khác, tích tụ lại thành điều khó bỏ. Cụ thể với Tào Tháo, sự việc thêm phức tạp. Bởi vì hai cuốn Tư trị thông giám và Tam quốc diễn nghĩa có ảnh hưởng lớn nhất, coi họ Tào chẳng hay ho gì. Không riêng Tam quốc diễn nghĩa coi Tào Tháo là “Quốc tặc”, trong quá trình biên soạn Tư trị thông giám cũng đã lược bỏ không ít những sử liệu có lợi cho Tào Tháo. Rõ ràng đây là loại “ý kiến thời đại”. Chừng như phần lớn người Tống không thích Tào Tháo. Chí Lâm của Tô Đông Pha nói: “khi nghe kế sách, mọi người thấy Lưu Huyền Đức bại thì chau mày, có người rơi lệ; đến đoạn Tào Tháo bại thì vui mừng ca hát”. Thời Bắc Tống là vậy. Đến Nam Tống thì gần như tất cả nói Tào Tháo là “giặc”. Nguyên, Minh, Thanh sau này, Tào Tháo bị chửi rủa là chính. Nói tốt, cũng có nhưng không nhiều. Đến thế kỷ XVII, Càn Long coi Tào Tháo là “thoán nghịch”, một đòn giáng xuống, không còn cách gì gượng nổi.

 

 

Thực tế thì ngay từ thời Tấn đã có sự đánh giá khác nhau về Tào Tháo. Ngụy thư của Vương Thầm và Độc Hán Thư  của Tư Mã Bưu còn khẳng định Tào Tháo, còn có lời ủng hộ; Dị đồng tạp ngữ của Tôn Thịnh và Tào Man truyện của Ngô Nhân lại không hề khách khí, đã bóc trần nhiều điều tàn khốc gian trá của Tào Tháo. Tập Tạc Xi nhà sử học Đông Tấn, là người đầu tiên sáng lập thuyết “Thoán nghịch”. Do đó các nhà sử học từ thời Nam Bắc triều đến Tùy Đường, khen chê khác nhau, Tào Tháo bình truyện của Trương Tác Diệu đã mô tả khá tường tận. Rõ ràng với Tào Tháo, không chỉ “ý kiến thời đại” không giống nhau, mà “ý kiến lịch sử” cũng rất khác nhau. Thêm vào đó “ý kiến cá nhân” của từng người, “bộ mặt thực” của Tào Tháo càng khó làm rõ.

 

 

Có điều, có thể khẳng định rằng, Tào Tháo đã bị chửi.

 

 

Trên đời không có tình yêu vô cớ, và cũng không có lòng hận thù vô cớ! Tào Tháo bị mắng chửi là có nguyên nhân. Nguyên nhân gì? Có rất nhiều, và nhiều nhất là chữ “gian”. Đối với người xưa mà nói thì thoán đoạt vương triều Hán là gian, xảo trá cũng là gian. Nhưng điều làm cho trăm họ hận nhất là câu nói của Tào Tháo “thà ta phụ người, chứ không để người phụ ta”. Một người, thà tự mình không tốt với người thiên hạ, không thể để người thiên hạ không tốt với mình, người đó quá xấu. Vì vậy, chúng ta phải làm rõ tội này, xem có đúng như vậy không.

 

 

Chuyện này không thấy ghi trong Tam quốc chí, chỉ thấy trong lời chú dẫn Ngụy thư, Thế Ngữ của Bùi Tùng Chi và Tạp kí của Tôn Thịnh. Đại khái câu chuyện là thế này, sau khi Đổng Trác vào kinh, có biểu để Tào Tháo là Kiêu kỵ hiệu úy. Tào Tháo cự tuyệt lệnh của Đổng Trác, chạy khỏi Lạc Dương, theo đường nhỏ về quê. Lúc ngang qua nhà người bạn là Lã Bá Sa, Tháo liền giết cả nhà người này. Vì sao phải giết? Ba quyển sách nói theo ba kiểu. Ngụy thư viết: “Bá Sa vắng nhà, người con cùng tân khách có ý giết Thái tổ để lấy ngựa và đồ vật, Thái tổ cầm dao giết luôn mấy người”. Thế ngữ chép: “Thái tổ thấy mình làm trái lệnh Trác, sợ họ có ý gì, đêm cầm kiếm giết người rồi bỏ đi”. Tạp kí của Tôn Thịnh lại nói: “Thái tổ nghe tiếng vật dụng trong bếp va chạm, ngờ có ý gì, nên giết luôn người trong đêm”. Xem ra Tào Tháo giết cả nhà Lã Bá Sa là không có vấn đề gì. Giết người vì động cơ nào đó mới là vấn đề. Theo cách nói của Ngụy thư đây là phòng vệ chính đáng hoặc phòng vệ hơi quá. Theo cách nói của hai cuốn kia, vì nghi ngờ lo lắng nên ngộ sát. Xem ra Ngụy thư có phần bảo vệ Tào Tháo, chúng ta không bàn thêm, chỉ bàn tiếp hai cách nói sau.

 

 

Trong hai cuốn nói sau, cách nói của Tôn Thịnh là cụ thể nhất. Một là Tào Tháo nghe có tiếng gì đó (tiếng động, va chạm ở trong bếp); hai là, sau khi giết người, Tào Tháo nói câu: “Thà ta phụ người, chứ không để người phụ ta”. Tiếng vật dụng va chạm không phải là tiếng rửa bát đũa, mà là tiếng mài dao. Tào Tháo nghi ngờ mới giết người. Sau khi giết người, mới biết người ta chuẩn bị giết lợn giết dê khoản đãi mình, ngộ sát người tốt, mới “đớn đau” nói: “thà ta phụ người, không để người phụ ta”. Đớn đau là thê thảm và bi thương. Tức là nói, sau khi biết mình ngộ sát, trong lòng Tào Tháo rất thê thảm, rất bi thương, đành tự an ủi, tự biện hộ, cho sai lầm của mình một cách miễn cưỡng. Đương nhiên, dù có biện hộ cũng không thể rửa sạch được tội lỗi. Nhưng đã “bi thảm” thì cũng không đến nỗi “mất hết lương tâm”.

 

 

Nhưng những thay đổi trong Tam quốc diễn nghĩa lại rất lớn. Lòng dạ đớn đau đã không còn nữa, “Thà ta phụ người, chứ không để người phụ ta” cũng biến thành “Thà ta phụ người thiên hạ, chứ không để người thiên hạ phụ ta”. Có điều gì khác biệt ở đây? Câu trước có ý là, thà ta không tốt với người khác, không để người khác không tốt với ta. “Người” ở đây là (người khác), là chỉ riêng, riêng với người nhà Lã Bá Sa, là “người cá biệt”. Câu sau muốn nói, người khắp trong thiên hạ, là “tất cả mọi người”, trong một phạm vi rất lớn. Tuy rằng đều rất ác, nhưng mức độ không giống nhau, phân lượng khác nhau. Đây là điểm thứ nhất.

 

 

Điểm thứ hai, bấy giờ nhân có việc đó Tào Tháo mới nói “Thà ta phụ người, chứ không để người phụ ta”. Ý là, tuy ta giết nhầm người ta, nhưng bây giờ ta chẳng còn cách nào khác. Bây giờ ta biết chạy đi đâu, ta đành không phải với người ta, không để người ta không phải với mình. Như vậy là Tào Tháo vẫn còn một chút thiện ý. Nhưng “Thà ta phụ người thiên hạ, chứ không để người thiên hạ phụ ta”, đã biến thành luôn là thế, biến thành cứng cỏi khí thể, và như vậy Tào Tháo biến thành gian tặc cỡ bự. Cho nên vẫn còn nghi vấn nếu chỉ dựa vào đây để nói Tào Tháo là gian ác hiểm độc.

 

 

Dù là vậy, Mao phê vẫn nói: “Đây là điểm Mạnh Đức hơn người”, “Không hổ là kẻ tiểu nhân tâm miệng như nhất”. Vì sao vậy? Vì nếu là người khác họ sẽ nói ngược lại, thà để thiên hạ không phải với ta, ta không thể không phải với thiên hạ. Nhưng thực tế là thế nào? Thực tế thì giống những gì như Tào Tháo đã làm (liệu có ai không suy nghĩ như vậy), nhưng, “đã ai dám mở miệng nói ra”? Ai cũng muốn là chính nhân quân tử, chỉ có Tào Tháo dám nói, dám công khai nói thẳng lời gian trá đó. Tào Tháo là “tiểu nhân thật” không là “ngụy quân tử”. Vì vậy Mao phê mới coi là điểm Tào Tháo hơn người. Bởi vì trên đời này ngụy quân tử quá nhiều. Cha con Mao Tông Cương không thích Tào Tháo, nhưng họ đều nói đây là điểm hơn người của Tào Tháo, vậy đó đúng là điểm hơn người.

 

 

Thực tế thì, trong xảo trá có chân thành, hoặc có lúc xảo trá có lúc chân thành, đúng là một trong các đặc điểm của Tào Tháo. Theo chú dẫn Tào Man truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí, Vũ đế kỷ, công nguyên năm 200, Tào Tháo và Viên Thiệu quyết chiến ở Quan Độ, Hứa Du sang hàng Tào. Vừa ngồi xuống Du đã hỏi luôn: Xin hỏi lương thực bên quý quân còn được bao nhiêu? Tào Tháo sợ vì bất ngờ, thuận miệng nói luôn: Còn đủ một năm. Hứa Du nói thẳng luôn: Không đúng! Nói lại! Tào Tháo chữa lại nói: Có thể được nửa năm. Hứa Du cười nhạt: Chừng như ông bạn cũ không muốn đánh bại Viên Thiệu rồi? Sao cứ nói đi nói lại lời không thực? Tào Tháo là người thông minh, biết rõ Hứa Du nếu không do thám thì chắc đã hiểu thấu tâm tư của mình, muốn giấu cũng chẳng được. Nếu không nói thực sẽ mất sự tín nhiệm và giúp đỡ của Hứa Du, nên cười rồi nói: Vừa rồi đùa vui đó thôi! Thực tình thì còn đủ cho hơn một tháng. Hứa Du thấy Tào Tháo đã nói thực, bèn nói hết những suy nghĩ của mình về tình hình chiến cục cùng những biện pháp giải quyết. Trận đó Viên Thiệu thảm bại.

 

Tào Tháo

 

Tào Tháo gian trá như vậy, không có mặt nào là thực sao? Có. Công nguyên năm 220, Tào Tháo chinh chiến cả đời bị bệnh nặng. Lúc này Tào Tháo đã 66 tuổi, theo cách nói “Nhân sinh thất thập cổ lai hi”, Tào Tháo coi là đã sống đủ. Một người khoái đạt như Tào Tháo, hẳn sẽ chẳng ngại gì với sống chết, và cũng không mấy bận tâm đến công tội, được mất của mình. Tào Tháo để lại bản “Di lệnh” (ghi ở quyển ba Toàn Tam Quốc văn trong Ngụy võ đế) rất dài, coi là lời bàn giao cuối cùng. Nhưng điều khiến mọi người ngạc nhiên là ở đó, nhà chính trị kiệt xuất không hề nói tới chính trị. Nói về công tội được mất, cũng chỉ là vài câu: Ta chấp pháp trong quân, nói chung đều là đúng (ta chấp pháp trong quân là đúng). Còn việc nổi nóng nhỏ, phạm sai lầm lớn thì đều không đáng nói. Phần còn lại của di lệnh, nói tới nhiều chuyện vụn vặt khác, như tì thiếp và các ca kỹ lúc thường đã rất vất vả, sau khi ta qua đời, cho họ ở đài Đồng Tước, không được ngược đãi họ (tì thiếp, kỹ nhân của ta cả đời vất vả, để họ ở đài Đồng Tước, đối đãi chu đáo). Những hương phấn còn thừa, thì chia ra, không dùng để cúng tế, tránh lãng phí. Người ở các phòng nếu còn rỗi thì cho họ vá may, bện giày cỏ đem bán v.v… một thôi một hồi nữa.

 

 

Một số người đời sau xem thường chuyện này. Lục Cơ người thời Tấn trong Điếu Ngụy Võ đế văn chê Tháo “Tình cảm sướt mướt, lưu luyến nơi khuê phòng”, “Thương vợ còn tiếc nuối, sau cùng mới dặn dò”. Tô Đông Pha chẳng khách khí gì, bất kể là ai, chỉ cần “không sợ khi lâm nạn, tươi cười trước cái chết” mới xứng là anh hùng. Như Tháo, trước lúc chết còn khóc lóc “lưu luyến thê thiếp, chia hương bán dép” là thế nào? Vì vậy, Tô Đông Pha nói toẹt luôn: “Bình sinh gian dối, lúc chết mới thật”. Ý trong Khổng Bắc Hải tán rất rõ ràng: Đừng thấy Tào Tháo lúc thường, giở trò, ra vẻ ta đây anh hùng hào kiệt mà nhầm, thực chất là kẻ gian hùng, tới lúc chết mới thòi đuôi.

 

 

Tô Đông Pha là người tôi rất thích, nhưng với lời bàn trên, tôi không dám đồng tình. Tào Tháo bệnh chết, không bị lôi ra chặt đầu ngoài pháp trường, vậy ông muốn người ta “lâm nạn không sợ” như thế nào? Tào Tháo không kêu trời kêu đất, khóc lóc không muốn chết, sao không phải là anh hùng? Người xưa nói: “Khảng khái xông vào cái chết, dễ; ung dung chết vì nghĩa lớn, khó”. Tào Tháo tuy không chết vì nghĩa lớn, nhưng đã chết một cách ung dung. Có thể sắp xếp nhiều việc hậu sự, đó là biểu hiện của ung dung. Đúng vậy, so với mấy lời khảng khái, hào hùng trước lúc chết của nhiều nhân vật anh hùng thì bản “Di lệnh” của Tào Tháo chẳng anh hùng chút nào, giống hệt như mấy lời của người dân bình thường, chẳng ra gì. Nhưng tôi cho rằng đó mới thật là Tào Tháo. Tào Tháo là con người, không phải là thần. Tháo vốn là một người bình thường, không phải (cũng không muốn) là “thánh nhân” siêu phàm thoát tục. Hơn nữa, với thân phận địa vị như vậy mà dám công khai bộc lộ cái “phàm phu tục tử” ra ngoài, không che che giấu giấu, ra vẻ ta đây, thì đó là chỗ hơn người, là bản sắc anh hùng của Tào Tháo: Ta là người tục, các ngươi sẽ thế nào đây? Ta nghĩ sao nói vậy, thích gì làm nấy, các ngươi sẽ thế nào đây? Theo tôi, so với những bản “Di chúc” đầy giọng quan lại, đầy khẩu hiệu chính trị thì “Di lệnh” của Tào Tháo, chân thật hơn nhiều, đáng quý hơn nhiều. Ngược lại, Tô Đông Pha giỏi giang, ít nhiều đã lòi đuôi là kẻ dung tục.

 

 

Đương nhiên, Tô Đông Pha nói cũng đúng: “Bình sinh gian dối, lúc chết mới thật”. Có điều giữa chúng ta và Tô, sự hiểu biết và đánh giá về “chân tính” không giống nhau. Theo tôi, đó là “nhân tính”. Tào Tháo không phải cỗ máy giết người hoặc phù hiệu chính trị. Tào Tháo là người, một người có máu, thịt, có tư tưởng, tình cảm. Nếu nói, lúc thường vì nhu cầu đấu tranh chính trị, tào Tháo không thể không che dấu nội tâm của mình (tức là “bình sinh gian dối”), vậy, trước lúc chết, còn gì phải ghen tị nữa (tức là “lúc chết mới thực”). “Chim sắp chết, tiếng kêu ai oán; người sắp chết, lời nói mới thật”. “Lời thật” trước lúc lâm chung của Tào Tháo nói lên sự quyến luyến với cuộc sống, tình thương nhớ những người thân.

 

 

Tào Tháo đúng là nhi nữ tình trường. Tào Tháo nam chinh bắc chiến, cả đời trên lưng ngựa, cuộc sống thường ngày với gia đình không nhiều, nên đã gìn giữ nhiều tình cảm đặc biệt với người thân. Theo chú dẫn Ngụy lược của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí – Hậu phi truyện, trước lúc lâm chung Tào Tháo còn nói, cả đời ta đã làm những việc không hề phải hối hận, ta chưa không phải với ai, duy có một việc khi xuống cửu tuyền, nếu Tử Tu đến đòi mẹ, ta không biết phải trả lời ra sao. Tử Tu là tào Ngang, con cả của Tháo. Sinh mẫu Tào Ngang là Lưu phu nhân mất sớm, Tào Ngang được Đinh phu nhân – người không sinh nở được, nuôi dưỡng. Đinh phu nhân coi Ngang như con đẻ. Về sau Tào Ngang chết trận, Đinh phu nhân khóc lóc thảm thiết, vừa khóc vừa chửi, còn trách móc Tháo: Con thiếp bị giết, ông chẳng quan tâm gì. Tào Tháo bực bội, sai đưa họ Đinh về nhà ngoại. Cho nên trước lúc qua đời, Tào Tháo đã nói như vậy.

 

 

Thực ra thì Tào Tháo cũng làm hết sức mình, đến nhà ngoại để đón Đinh phu nhân về. Đinh phu nhân ngồi yên trên khung cửi dệt vải, không hề quan tâm. Tào Tháo đến bên, để tay lên lưng Đinh phu nhân, giọng nói nhẹ nhàng: Chúng ta cùng ngồi xe về nhà được không? Đinh phu nhân không màng trả lời. Tào Tháo ra đến cửa còn quay lại hỏi: Cùng ta về, được không? Đinh phu nhân vẫn không chú ý đến Tào Tháo. Tháo đành phải chia tay. Với tính nóng nẩy, bạo ngược, hung hãn, Tào Tháo làm được như vậy thực không đơn giản. Hơn nữa, Tào Tháo không muốn Đinh phu nhân góa bụa khi chồng còn sống, đã bằng lòng để Đinh phu nhân cải giá. Đinh phu nhân không chịu, cha mẹ phu nhân cũng không dám. Đương nhiên là không dám. Dù có dám gả thì cũng chẳng ai dám lấy.

 

 

Nhưng Tào Tháo cũng đã trở mặt không nhận người. Như việc Hứa Du tự tìm đến cái chết. Hứa Du cậy mình là công thần, là bạn cũ, nên không mấy tôn kính và khách sáo với Tào Tháo, thường vẫn cười đùa với Tào Tháo trước mặt mọi người, còn thường réo tên tục của Tháo: A Man à, không có ta, ông đừng hòng lấy được Ký châu. Bề ngoài, Tháo vui cười, nói: Đúng, đúng, nhưng trong bụng thì hận đến cháy gan cháy ruột. Sau này Tào Tháo công phá Nghiệp Thành, Hứa Du lại chỉ vào cổng thành nói với người bên cạnh Tào Tháo: anh chàng này nếu không có ta thì không đi qua được cổng này! Đến đây thì Tào Tháo không nhịn được nữa. Năm đó ở Quan Độ, Tào Tháo nguy khốn một sớm một chiều, mới nhẫn nhịn tính phóng túng của Hứa Du, còn nay thì không nhất thiết phải thế. Tào Tháo đã lấy luôn mạng của Hứa Du.

 

 

Hai câu chuyện kể trên không có trong Tam quốc chí, có trong lời chú thích của Bùi Tùng Chi. Câu chuyện trước được Bùi Tùng Chi chú thích trong Hậu phi truyện, chuyện sau có trong Thôi Diễm truyện. Nhưng tất cả những cái đó đều có trong cuốn Ngụy lược do Ngư Hoạn người nước Ngụy tuyển. Rõ ràng, cùng trong một cuốn sách, Tào Tháo đã mang hai hình tượng.

 

 

Thực ra còn có những chuyện khó hiểu hơn nữa.

 

 

Hứa Du là ân nhân của Tào Tháo, nhưng đã bị Tào Tháo giết; một số người khác công kích Tào Tháo còn ác độc hơn, nhưng đã được thả. Tại trận chiến Quan Độ, Trần Lâm đã thảo hịch văn cho Viên Thiệu. Hịch văn mắng chửi Tào Tháo đến tối tăm mặt mũi. Bùi Tùng Chi đã chú thích bài hịch trong Viên Thiệu truyện. Mời các vị tìm đọc, bài hịch thật tuyệt vời. Sau khi Viên Thiệu bại trận, Trần Lâm bị bắt, và Tào Tháo cũng chỉ nói có một câu: Muốn chửi thì chửi mình ta là đủ, sao còn chửi cả tổ tiên ba đời? Trần Lâm tạ tội nói, tên đã đặt lên cung không thể không bắn. Tào Tháo cho qua, còn bổ nhiệm Trần Lâm là Tư Không quân mưu tế tửu. Việc này có ghi trong Tam quốc chí. Trần Lâm truyện, không có trong dã sử, nên tin tưởng được.

 

 

Còn có những người phản lại Tào Tháo, cũng được thả. Ngụy Chủng là người thân tín nhất của Tào Tháo. Khi Trương Mạc làm phản, rất nhiều người trở giáo chạy theo Mạc, Tháo vẫn rất tự tin: Chỉ có Ngụy Chủng là không phản ta. Ai ngờ Ngụy Chủng cũng chạy theo Trương Mạc. Tào Tháo tức đến lộn ruột: Giỏi lắm Ngụy Chủng! Có chạy lên giời xuống đất gì ta cũng không tha cho ngươi! Nhưng khi Ngụy Chủng bị bắt, Tào Tháo chỉ thở dài nói, Ngụy Chủng là nhân tài đấy! Lại bổ nhiệm Ngụy Chủng là Thái thú Hà Nội. Mẹ, em trai, vợ, con gái Tất Kham bị Trương Mạc bắt, Tào Tháo nói, lệnh đường còn ở bên Trương Mạc, hãy sang bên đó đi! Tất Kham khấu đầu nói, không bao giờ có bụng khác. Tào Tháo cảm động đến rơi lệ. Nào ngờ Tất Kham vừa quay người, quên cả chào hỏi, đã phản Tào, chạy luôn sang với Trương Mạc, về sau khi Tất Kham bị bắt, ai cũng bảo chuyến này hắn chết là chắc! Nào ngờ Tào Tháo chỉ nói: Người tận hiếu thì không tận trung được sao? Đây chính là người mà ta đang tìm kiếm! Và không trị tội, còn để Tất Kham đến Khúc Phụ - quê của Khổng phu tử, làm Lỗ quốc tướng. Hai truyện này ghi trong bản chính Tam quốc chí – Vũ đế kỷ, có thể tin được.

 

 

Đối với bạn bè phản lại mình, Tào Tháo cũng rất coi trọng tình cảm lúc trước. Trần Cung và Tào Tháp có một thời gian đi lại gắn bó. Nhờ công lao của Trần Cung, Tào Tháo mới được là Duyện châu mục. Về sau Trần Cung lại ra sức giúp Lã Bố đánh Tào Tháo, sau này khi bị bắt lại quyết không đầu hàng. Tào Tháo liền gọi tên cúng cơm của Trần Cung: Công Đài chết không đáng ngại, nhưng mẹ sẽ ra sao! Trần Cung thở dài nói: “Trần mỗ nghe nói người lấy hiếu đức cai trị thiên hạ không bao giờ giết người thân kẻ khác, mẹ già sống hay chết do chúa công quyết định. Tào Tháo hỏi tiếp: Thế còn con và vợ cậu thì sao? Trần Cung lại đáp: Nghe nói người cai trị thiên hạ bằng nhân chính không làm người khác phải tuyệt hậu, vợ con sống hay chết đều do chúa công biết nên làm thế nào. Nói xong, không hề nhìn lại, đi thẳng ra pháp trường. Tào Tháo rơi lệ, nhìn theo đưa tiễn. Sau khi Trần Cung chết, Tào Tháo trông nom mẹ già, lo gả chồng cho con gái của Trần Cung, đối đãi còn khá hơn khi xưa. Trong Tam quốc chí không có chuyện Trần Cung, truyện này có ghi trong Lã Bố truyện, Bùi Tùng Chi lúc chú dẫn Điển lược, đã nói rất rõ.

 

 


Tào Tháo -  
Kimiya Masago người Nhật vẽ

Xem ra, Tào tháo là người khoan dung đại lượng.

 

 

Nhưng, con người khoan hòa đại lượng đó, tâm địa lại hẹp hòi, đầy toan tính, có thù phải trả bất kể thủ đoạn. Tào Tháo dám giết tất cả, và cũng có thể giết được tất cả. Theo chú dẫn Tào Man truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí – Vũ đế kỷ, năm đó ở Duyện châu, Tào Tháo đã giết Biên Nhượng – một danh sĩ bấy giờ. Biên Nhượng người Trần Lưu, bác học đa tài, từng viết cuốn Chương hoa đài vũ được phổ biến rộng khắp. Đại tướng quân Hà Tiến từng có lời mời, các danh sĩ như Sái Ung, Khổng Dung, Vương Lãng đều ra sức tiến cử. bản thân Biên Nhượng từng là Thái thú Cửu Giang, sau từ quan về quê. Biên Nhượng là danh sĩ, tự nhiên sẽ xem thường Tào Tháo, người được hoạn quan nuôi dưỡng, có thể đã có lời nói nhục mạ, bất kính và cho rằng Tào Tháo sẽ chẳng dám làm gì với một danh sĩ như mình. Nào ngờ, lúc này Tào Tháo tuy chưa là Thừa tướng, trong bụng còn có phần e ngại, nhưng đã dám giết Biên Nhượng và cả nhà Biên Nhượng. Bái tướng Viên Trung và Hoàn Thiệu người đất Bái đều coi thường Tào Tháo. Sau khi Biên Nhượng bị giết, hai người chạy đến Giao châu, người thân đều rơi vào miệng cọp. Về sau Hoàn Thiệu ra đầu thú, quỳ trước mặt Tào Tháo mà cầu xin, giọng Tào Tháo trở nên hằn học: tưởng quỳ là miễn được tội chết sao? Tất nhiên không thể. Kết quả Hoàn Thiệu đã bị lôi ra chém đầu.

 

 

Việc Tào Tháo làm có ảnh hưởng xấu, đã có những cuộc phản loạn, về sau người đời còn bàn luận tiếp. Phần trước đã nói tới Trần Cung, cũng vì Biên Nhượng chết nên Trần Cung mới chạy sang với Lã Bố. Có được bài học lần này, có được quan tước cao hơn, dã tâm cũng lớn hơn, dần dần Tháo hiểu rằng “phải toan tính hơn, khoan hòa rộng lượng hơn”, lúc báo thù cũng không nên quá mức, Nhưng báo thù vẫn nên báo thù, ghen tị vẫn nên ghen tị. Cho dù là bạn cũ cũng không ngoại lệ. Như Lâu Khuê tự Tử Bá, tính tình ôn hòa, trí dũng song toàn, theo chân Tào Tháo, lập nhiều công lớn, Tào Tháo thường cảm than (kế của Tử Bá, ta theo không kịp), nhưng rồi cũng giết Tử Bá. Cái chết của Tử Bá, Hứa Du và Khổng Dung đều được ghi ở lời chú thích Tam quốc chí – Thôi Diễm truyện của Bùi Tùng Chi, độc giả có thể xem lại.

 

 

Đó là Tào Tháo. Trong lịch sử, Tháo là người tính cách phức tạp nhất, hình tượng đa dạng nhất. Tào Tháo thông minh tột đỉnh, nhưng cũng xuẩn ngốc hết chỗ nói; gian trá giảo hoạt, nhưng lại thẳng thắn chân thành; phóng khoáng rộng rãi, nhưng lại nghi thần nghi quỷ; khoan hòa đại lượng, nhưng tâm đại hẹp hòi. Có thể nói là phong thái đại gia, mặt mũi tiểu nhân, anh hùng cái thế, tình cảm nữ nhi, tính nóng diêm vương, bụng dạ bồ tát. Xem ra có mấy bộ mặt hòa quyện trong con người Tào Tháo, không hề có mâu thuẫn và đó mới là kỳ tích.

 

 

Thực tế Tào Tháo là chân thực, có bản sắc. Dù là gian trá, giảo hoạt, tàn nhẫn, bạo ngược nhưng đều biểu hiện ung dung tự tại, phóng khoáng rộng rãi, chân thành thản nhiên. Đó chính là một loại “Đại khí”. “Anh hùng lớn mới bản sắc, danh sĩ thật mới phong lưu”. Từ góc độ đó, Tào Tháo là anh hùng và là đại anh hùng. Có điều, vị anh hùng lại rất gian trá, vì vậy cũng có thể gọi là “gian hùng”, tức là “anh hùng của gian trá”. Trong lịch sử, đánh giá Tào Tháo (là anh hùng, gian hùng, gian tặc), đều phải nói tới hai chữ “gian” và “hùng”. Có người nhấn mạnh chữ gian, có người nhấn mạnh chữ hùng, cũng có người nói Tào Tháo vừa gian vừa hùng. Nên theo tôi, Tào Tháo là “gian hùng”, có điều, nên thêm vào sau ba chữ “thật đáng yêu”.

 

 

Vậy, Tào Tháo là “gian hùng thật đáng yêu” sao?

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét