Ba anh em nhà Lưu Bị, tranh lụa của Sekkan Sakurai (1715-1790). |
II. Môn phiệt gặp phải quân phiệt
Tác giả Dịch Trung Thiên
Quân phiệt là lũ cường hào địa phương
có lực lượng vũ trang độc lập của riêng mình. Loại cường hào này đã có từ rất sớm,
là loại thổ hào được sinh ra do vương triều Đông Hán đã không lưu tâm, không khống
chế nổi. Cuối thời Đông Hán, nhất là sau lúc Khăn vàng khởi nghĩa, năng lực khống
chế địa phương của chính phủ trung ương trở nên yếu ớt, thế lực bọn thổ hào
càng thêm mạnh. Trong số họ, có người xưng hùng xưng bá ở địa phương, gọi là
“hào bá”; có người xây dựng đội vũ trang riêng, gọi là “hào soái”; có người lợi
dụng quan chức được triều đình bổ nhiệm để cát cứ, trở thành “chư hầu”. Vì họ đều
có lực lượng vũ trang, nên đều là “quân phiệt”. Có điều, trước lúc Hán Linh đế
tạ thế, họ chưa là gì cả.
Cần có điều kiện tiên quyết để quân
phiệt trò thành một lực lượng, đó là chính phủ trung ương phải đổ, hoặc danh
còn, lực hết. Trung ương không khống chế được địa phương, cường hào liền xưng
bá; quan văn không trị lý được quốc gia, quân phiệt liền hoành hành. Suýt nữa
thì họ trở thành sĩ tộc của giai cấp thống trị, chỉ có thể trao lại quyền thống
trị. Trên thực tế sĩ tộc (bao gồm cả các thế lực chính trị khác) thế lực đã rất
lớn, nhưng nguyên nhân cơ bản là tập đoàn trung ương, triều đình còn có thể hiệu
lệnh thiên hạ. Nhưng nếu hoàng đế đã thực sự trở thành đơn độc, thậm chí “thiên
tử” đã biến thành “lãng tử”, mục thú các địa phương không theo sự chỉ huy, họ
cũng chẳng còn cách nào khác. Lúc này, đơn thuần là môn đệ danh vọng cao cũng
vô dụng, đến như ân tín cũng vứt, chỉ còn có súng là nói chuyện được. Ai cầm chắc
cây súng? Quân phiệt. Ai cho chính phủ trung ương còn cái danh nhưng quyền thì
hết? Cũng chính là quân phiệt. Và chúng ta biết rõ đó chính là Đổng Trác.
Đổng Trác là quân phiệt đầu tiên đánh
vào vũ đài lịch sử. Đổng Trác vốn là cường hào địa phương ở Lương Châu, là người
sớm biết dùng binh. Bộ thuộc của Đổng Trác, như lời ngài Phạm Văn Lan, là “thổ
bá” một số địa phương, là “hào thủ” của tộc Khương tộc Hồ. Đó đều là quân phiệt.
Đổng Trác vào Lạc Dương không phải để làm quân phiệt, mà để xây dựng một trật tự
mới. Vấn đề ở chỗ, Đổng Trác không hề biết trật tự mới phải xây dựng như thế
nào, bản thân Đổng Trác cũng chẳng có chủ ý gì. Kết quả, chưa xây dựng được trật
tự mới thì mệnh của trật tự cũ lại sắp hết.
Món nợ này đương nhiên không thể đổ hết
lên đẩu Đổng Trác, nói đến cùng thì vì vương triều Đông Hán đã quá mục nát chỉ
cần đụng nhẹ là đổ. Trong tập “Đường riêng đồng quy” chúng ta đã nói, đế quốc Đại
Hạ của vương triều Đông Hán có ba cây cột chống đỡ. Ba cây cột đó là ai? Ngoại
thích, Hoạn quan và sĩ tộc. Ngoại thích là nhà mẹ của hoàng hậu, hoàng thái hậu,
nói thông thường là hoàng thân quốc thích. Một người con gái nếu được làm hoàng
hậu thì người nhà mẹ cô ta chẳng khác gì gà, chó được lên trời. Nếu hoàng đế chết
sớm, tân hoàng đế tuổi nhỏ phải lo liệu việc nước, thái hậu phải lên triều, triều
chính dễ dàng rơi vào tay người nhà thái hậu, tức là ngoại thích. Thời Đông Hán
là như vậy. Thời Đông Hán có mười ba vị hoàng đế, bao gồm cả thiếu đế Lưu Biện.
Ngoài Quang Vũ đế đẩu tiên thọ 62 tuổi, thứ đến Hán Minh đế thọ 48 tuổi, cuối
cùng là Hán Hiếu đế thọ 30 tuổi, mười một người khác đều không đến 20 tuổi. Tuổi
lớn nhất, Hán Chương đế 19 tuổi; tuổi ít nhất, Hán Thương đế chỉ có 100 ngày.
Hán Xung đế chỉ có 2 tuổi. Triều Đông Hán có sáu lần thái hậu lâm triều, ngoại
thích chấp chính. Thòi Hán Hoà đế, Đậu thái hậu lâm triều, Đậu Hiếu chấp chính;
thời Hán An đế, Đặng thái hậu lâm triều, Đặng Chất chấp chính; Thời Bắc Hương hầu,
Diêm thái hậu lâm triều, Diêm Hiển chấp chính; Thời Hán Hoàn đế, Lương thái hậu
lâm triều, Lương Ký chấp chính; Thời Hán Linh đế, Lương thái hậu lâm triều, Đậu
Vũ chấp chính; Thời Hoằng Nông vương, Hà thái hậu lâm triều, Hà Tiến chấp
chính. Thấy rõ, vương triều Đông Hán có tới gần nửa thời gian do thái hậu và
ngoại thích lo việc nước.
Ngoại thích cầm quyền, đương nhiên
hoàng đế không vui. Vì vậy số hoàng đế nhỏ tuổi này sau khi thân chính đều muốn
đoạt quyền. Họ được các hoạn quan giúp đỡ. Hoạn quan vì lợi ích của mình, có thể
giúp hoàng đế, thậm chí thay hoàng đế giết ngoại thích. Ví dụ, Công nguyên năm
92... giết Đậu Hiến, Công nguyên năm 121 giết Đặng Chất. Công nguyên năm 125 giết
Diêm Hiển, Công nguyên năm 159 giết Lương Ký, Công nguyên năm 168 giết Đậu Vũ,
Công nguyên năm 189 giết Hà Tiến. Điều này rất có ý nghĩa. Vương triều Đông
Hán, sáu lần thái hậu lâm triều, ngoại thích chấp chính. Cả sáu vị ngoại thích
chấp chính đều bị giết do hoàng đế dựa vào hoạn quan hoặc hoạn quan giúp hoàng
đế, thậm chí tự hoạn quan có chủ trương giết họ.
Vì vậy hoạn quan và ngoại thích mâu
thuẫn rất lớn. Sử cung đình Đông Hán, gần như là sử đấu tranh giữa hoạn quan và
ngoại thích. Trong cuộc đấu tranh này, sĩ tộc luôn thiên về ngoại thích, tuy họ
chẳng thích gì cách lấn quyền của ngoại thích, nhưng họ còn căm ghét hơn lũ hoạn
quan tham lam, lũ tiểu nhân theo chân hoạn quan, tranh đoạt quyền lợi hòng làm
quan. Vì vậy, sau khi Hán Hiến đế qua đời, sĩ tộc mà đại biểu là Viên Thiệu đã
liên hợp cùng ngoại thích mà đại biểu là Hà Tiến để đấu tranh sống mái với tập
đoàn hoạn quan. Kết quả là hoạn quan giết chết Hà Tiến, Viên Thiệu giết hoạn
quan, ngoại thích lẫn hoạn quan đều hết đời. Ba cột chống của đế quốc Đại Hạ đã
đổ mất hai, còn lại một cây rất khó chống.
Lúc này thì Đổng Trác được sĩ tộc
(Viên Thiệu) mời đến. Đây là thời khắc mấu chốt. Nếu Đổng Trác là sĩ tộc, hoặc
là người sĩ tộc có thể tiếp nhận thì có lẽ lịch sử đã sang trang. Mặc cho Đổng
Trác muốn dựa vào sĩ tộc để xây dựng lại một trật tự mới cho đế quốc, nhưng sĩ
tộc không muốn hợp tác với Đổng Trác và Đổng Trác cũng chẳng biết phải làm gì để
hợp tác với sĩ tộc. Đổng Trác là kẻ làm bừa, hoành hành lấn quyền, không tuân
theo pháp chế, không giữ lễ nghĩa, nên đã bị sĩ tộc hô hào “cả nước cùng giết,
thiên hạ cùng đánh kẻ thù của nhân dân”. Vương Doãn cầm đầu triều quan tìm cách
ám sát; Viên Thiệu cầm đầu ngoại quan, khởi binh đánh đuổi. Triều dã một phen hỗn
loạn.
Lúc này, đế quốc vốn đã lộn xộn bất an
càng thêm lộn xộn, thiên hạ của môn phiệt biến thành thiên hạ của quân phiệt. Một
mặt triều đình phái châu mục, thứ sử, thái thú đến các vùng, cầm quân tự lo tự
làm, cát cứ một phương; mặt khác thế gia đại tộc cũng vứt bút bỏ bừa đua nhau
chiêu binh mãi mã, kéo bè kết đảng, chiếm núi xưng vương, “to lớn thì liền quận
quốc, trung bình thì chiếm thành ấp, nho nhỏ thì tụ tập cả trăm cả ngàn” (Tào
Phi Điển luận), danh nghĩa là đánh Đổng Trác, thực tế là chiếm địa bàn. Đổng
Trác, một quân phiệt không muốn là quân phiệt, đã khiến nhiều người thành quân
phiệt.
Lịch sử đã bước vào thời đại quân phiệt,
nên, chỉ có quân phiệt mới giải quyết được cục diện, môn phiệt phải bó tay. Thế
nào là môn phiệt? Là các gia tộc đời đời hiển hách được quý trọng. Thế nào là
quân phiệt? Là những tập đoàn dùng binh tự liệu. Đời đời hiển quý hoặc dùng
binh tự liệu đều có địa vị và lực lượng đặc biệt, chi phối toàn bộ xã hội, vì vậy
đều gọi là phiệt. Nhưng môn phiệt dựa vào danh vọng môn đệ trở thành phiệt, còn
quân phiệt lại dựa vào lực lượng vũ trang để thành phiệt. Danh vọng môn đệ
không đấu nổi với lực lượng vũ trang, vì vậy, môn phiệt cũng đấu không lại với
quân phiệt. Môn phiệt gặp quân phiệt như tú tài gặp lính, có lý mà không được
nói, trừ phi họ đều là quân phiệt.
Sĩ tộc không phải là không cố gắng về
mặt này. Viên Thiệu và Viên Thuật đều là “môn phiệt kiêm quân phiệt”. Lưu Biểu
và Lưu Yên lại là “Tông thất kiêm quân phiệt”. Đúng là họ đã một thời phong
quang. Nhất là Viên Thiệu, áo mão vọng tộc, bốn đời tam công, môn sinh là quan
lại khắp thiên hạ, còn có cả đất của bốn châu Ký, Thanh, Tinh, U, hơn nửa phương
bắc, có thể coi là trời đã hậu đãi riêng, nhưng vì tài lớn khí thô, nên không
thể trọn đời. Thiệu trở thành minh chủ liên minh đánh Đổng Trác. Rõ ràng là
giai cấp sĩ tộc đã khoác bảo giáp lên người Thiệu. Nhưng rồi thế nào? Đều đã thất
bại. Vì sao lại thất bại? Vì Tào Tháo vừa xuất hiện.
Quý thích thời Đông Hán thường xuyên là địch thủ chính trị của hoạn quan |
Tào Tháo không phải sĩ tộc, Tháo xuất
thân từ gia đình hoạn quan từng bị sĩ tộc miệt thị và căm ghét nhất. Tào Tháo vốn
không phải là quân phiệt, Tháo tay trắng chạy đến Lạc Dương, không quân, không
tướng, không quan chức, về sau “vung tiền, tập hợp nghĩa binh” ở Trần Lưu, thực
lực là có hạn. Vì vậy, “tập đoàn công ty” liên quân Quan Đông mới không coi
Tháo là “cổ đông”. Tào Tháo tự biết mình chẳng mấy vốn liếng, nên, cam chịu làm
quân tốt trong liên quân. Nhưng chư hầu Quan Đông lại là lũ tự tư tự lợi, mắt
chuột mơ hồ, lại rụt đầu rụt cổ, khiến Tháo vô cùng thất vọng. Cuối cùng thì
Tào Tháo đã hiểu, thế gia đại tộc chỉ là hư danh, môn phiệt đấu không lại quân
phiệt. Tào Tháo quyết định biến mình thành quân phiệt, sau đó mới giành lấy
giang sơn.
Trên thực tế, người không để sĩ tộc diễn
trò chính là Tào Tháo. Sau nhiều năm cố gắng, Tào Tháo đã biến thành quân phiệt,
nhưng là quân phiệt khác hướng. Rất nhiều quân phiệt thời đó (như Lưu Yên) chỉ
muốn cát cứ một phương xưng hoàng đế. Riêng Tháo lại muốn thống nhất thiên hạ.
Đây là điểm một. Điểm hai, Tháo còn suy nghĩ khác sau khi Trung Quốc được thống
nhất. Suy nghĩ của Tháo, như đã nói trong tập Đường riêng đồng quy, xây dựng một
“chính quyền không sĩ tộc”, ít ra không đi vào đường cũ của Đông Hán, phải đổi
mới về mặt chính trị. Đây là điều khác với Viên Thiệu. Viên Thiệu cũng muốn lập
lại trật tự và là thứ trật tự cũ đại diện cho lợi ích giai cấp địa chủ sĩ tộc.
Đó là điều khác biệt giữa Đổng Trác, Viên Thiệu và Tào Tháo. Đổng Trác phá vỡ
trật tự cũ, Viên Triệu ủng hộ trật tự cũ, Tào Tháo muốn xây dựng một trật tự mới.
Đổng Trác chỉ biết phá hoại, không biết xây dựng, vì vậy Tào Tháo liên hợp với
Viên Thiệu chống lại Đổng Trác và ra sức xây dựng lại trật tự bị Đổng Trác phá
hoại. Nhưng phải xây dựng lại một trật tự như thế nào thì họ lại khác nhau về lập
trường về quan điểm, cả về đường lối, vì vậy họ phải hậm hực chia tay, thậm chí
quyết một trận sống mái.
Vậy, với Tào Tháo có dễ dàng gì không?
Không dễ dàng.
Giai cấp sĩ tộc phản đối kịch liệt
hành vi của Tào Tháo. Biểu hiện rõ nhất trong hai trận chiến, Duyện châu và
Quan Độ. Trận đánh ở Duyện châu chúng ta đã nói rõ trong tập “Tiến thoái hết chỗ
tựa”, đó là mùa hạ thời Hán Hiến đế Hưng Bình năm đầu (Công nguyên năm 194),
Trương Mạc và Trần Cung nhân lúc Tào Tháo đi đánh Từ châu đã phản biến, liên hợp
với Lã Bố cướp căn cứ địa của Tào Tháo. Nếu không có Tuân Úc và Trình Dục, Hạ Hầu
Đôn giữ vững Quyên Thành, Phạm huyện, Đông A thì Tào Tháo đã như chó nhà có
tang. Trương Mạc và Trần Cung là bạn cũ của Tào Tháo, vì sao phải làm phản? Vì
trước đó, Tào Tháo đã giết Biên Nhượng danh sĩ Duyện châu, khiến sĩ tộc và danh
sĩ công phẫn (điều này Hậu Hán thư và Tư trị thông giám nói khác nhau). Ở đây
nói theo Tư trị thông giám. Tháo giết Biên Nhượng nhằm uy hiếp sĩ tộc, kết quả
suýt nữa chết không có đất chôn. Phản đối sĩ tộc đâu có dễ dàng!
Nhưng sĩ tộc vẫn chưa đè bẹp được Tào
Tháo và lực lượng của Viên Thiệu cũng ngày một mạnh hơn. Vì vậy trận chiến Quan
Độ mới xảy ra. Nếu nói trận chiến Duyện châu là sự tập kích đột xuất của thế
gia đại tộc vào Tào Tháo, thì trận chiến Quan Độ là trận quyết chiến lớn giữa
hai đường lối của hai giai cấp. Ngài Điền Dư Khánh nói đúng, chiến tranh giữa
Viên và Tào là chiến tranh giữa sĩ tộc và hàn tộc trong xã hội, về hình thái ý
thức là chiến tranh giữa Nho gia và Pháp gia (“chiến tranh Tào Viên và thế gia
đại tộc”). Viên Thiệu thắng, thiên hạ là sĩ tộc và Nho gia; Tào Tháo thắng,
chính quyền mới và trật tự mới sẽ do hàn tộc và Pháp gia xây dựng. Vì vậy, chiến
tranh Quan Độ là chiến tranh quyết định vận mệnh và tiền đồ Trung Quốc lúc đó.
Trận chiến đó thực kinh điển và quyết
liệt. Bấy giờ không chỉ có giai cấp địa chủ sĩ tộc mặc giáp trụ cho Viên Thiệu
mà ngay cả một số người không là sĩ tộc cũng xem trọng Viên Thiệu, xem thường
Tào Tháo. Đổng Thừa chính biến, Lưu Bị phản chạy, Dự Châu nhiều nơi hỗn loạn, Từ
châu quận huyện hàng Viên, Lưu Biểu ngấm ngầm làm phản, Tôn Sách mưu mô đánh
lén, lãnh tụ danh sĩ Khổng Dung đồn thổi tin tức ra khắp Hứa Đô, nói rằng không
thể đánh bại được Viên Thiệu, xung quanh Tào Tháo là lời ca của nước Sở. Nếu
không được Tuân Úc và những người khác kiên quyết chống đỡ e Tháo khó bề đứng vững.
Trong tập “Thiên hạ quy tâm”, chúng ta nói tới chuyện, sau khi chiến thắng Viên
Thiệu, Tháo cho đốt hết tất cả thư tín vừa thu được, là “giấy tờ tư thông với
Viên Thiệu”. Tào Tháo giải thích “cô còn không tự giữ được”, sao trách người
khác! Việc này luôn được xem là Tào Tháo rộng lượng hoặc quyền thuật. Kỳ thực
là rộng lượng hay quyền thuật là do buộc phải thế, về cơ bản Tào Tháo không dám
truy cứu tiếp.
Cuối cùng thì Tào Tháo đã thắng, Viên
Thiệu thất bại. Lúc này thì lịch trình lịch sử đã rối loạn đến tận cùng. Lúc Đổng
Trác đánh tới, giai cấp địa chủ sĩ tộc tuy bị trọng thương, nhưng họ vẫn có thể
kỳ vọng ở Viên Thiệu “sĩ tộc kiêm quân phiệt”, được coi là kỳ ngộ và khiêu chiến
để sinh tồn. Viên Thiệu bại trận thì mọi hy vọng đều biến thành mây khói. Họ
Viên là vọng tộc lợi hại nhất trong sĩ tộc đã không thể thành công thì những
người khác sẽ ra sao? Xem ra, trong thời đại quân phiệt này, người xuất thân từ
sĩ tộc không còn trò để diễn, trừ phi họ tự biến mình thành quân phiệt. Chỉ có
thể là người xuất thân không phải sĩ tộc mới nên chuyện, như Lưu Bị và Tôn Quyền.
Lưu Bị và Tôn Quyền đều không phải sĩ
tộc và đều là quân phiệt, đây là điểm họ giống với Tào Tháo. Cái khác là, chính
quyền của họ đều xây dựng ở miền Nam. Và cũng chính vì họ ở miền Nam, mới có thể
thành thế chân vạc của Tào Tháo. Vì vậy, Tào Tháo chiến thắng Viên Thiệu là hàn
tộc chiến thắng sĩ tộc; Tôn Lưu chống lại Tào Tháo là miền Nam chống lại miền Bắc.
Vậy, vì sao miền Nam có thể chống lại miền Bắc? Đằng sau sự chống đối này có điều
gì là huyền diệu?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét