3 cha con Tôn Kiên, Tôn Sách, Tôn Quyền |
Tập thứ bốn mươi nhăm: TÌNH TRỜI HẬN BIỂN
Tác giả Dịch Trung Thiên
Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị, Gia Cát
Lượng là người lãnh đạo chủ yếu thời Tam Quốc. Đặc điểm của họ là biết dùng người,
vì vậy mới được mọi người ủng hộ, tạo nên thế chân vạc. Nhưng tác phong và cách
làm của từng người là khác nhau. Vậy đặc điểm của Tôn Quyền là gì? Tác phong của
Tôn Quyền biểu hiện ở mặt nào? Và được hình thành như thế nào, đã đầy đủ chưa?
Ở tập trước, chúng ta đã nói sơ qua về
con đường thành công của Tôn Quyền. Ở đây, chúng ta nhìn thấy nguyên nhân về mặt
sách lược chính trị và tố chất con người Tôn Quyền, tức là lòng có chí lớn,
không lộ sự sắc bén, hiểu đời biết thế, co được duỗi được. Như lời Triệu Tư - sứ
thần nước Ngô, tức là “hùng lược”. Nhưng đây chỉ là một trong những nguyên nhân
khiến Tôn Quyền thành công. Muốn nói tương đối toàn diện e phải dùng tám chữ
trong lời bình Ngô chủ truyện của Trần Thọ là “Uốn mình nhẫn nhục, sử dụng kế
hay”. Trần Thọ cho rằng, vì thế nên Tôn Quyền mới có thể độc chiếm Giang Đông (tự
chiếm Giang Biểu), hình thành thế chân vạc. Cũng tức là nói, Tôn Quyền thành
công vì có ba nguyên nhân: nhẫn nhục với trọng trách, túc trí đa mưu, khéo biết
dùng người. Hai nguyên nhân đầu, ít nhiều đã nói ở tập trước. Ở tập này, chúng
ta nói tới cách dùng người của Tôn Quyền.
Chúng ta đều biết, Tam Quốc là thời đại
nhân tài như mây gió gặp gỡ. Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị, Gia Cát Lượng là những
người lãnh đạo chủ yếu của thời Tam Quốc và đều là những người giỏi dùng người.
Đúng như lời Triệu Dực nói trong Nhị thập nhị sử trát ký, “nhân tài thịnh nhất ở
thời Tam Quốc, chủ của thời Tam Quốc đều biết dùng người, nên được nhiều người ủng
hộ, mới thành được thế chân vạc”. Nếu cần có “bảng xếp thứ tự” (chỉ là việc
dùng người; không phải đánh giá toàn diện) thì Tào Tháo là người xếp hàng đầu.
Tào Tháo giỏi dùng người, từng nổi tiếng thời đó. Tôn Quyền nói về cách dùng
người của Tào Tháo “Từ xưa ít có”. Tôn Quyền đã nói với Gia Cát Lượng như vậy,
ý muốn nói, Tào Ngụy ngày một sa sút “Phi so với Tháo, vạn lần không bằng, nay
Duệ không bằng Phi, do Phi không bằng Tháo vậy”. Nhưng Tôn Quyền đánh giá Tào
Tháo lại rất “nghiêm khắc”. Theo Tam quốc chí - Gia Cát Cẩn truyện, Tôn Quyền
nói với Gia Cát Lượng, Tào Tháo có phần quá đáng khi sát phạt (dùng sát phạt là
hơi quá); về phần li gián thân tình cốt nhục thì thực khốc liệt (li gián cốt nhục
người khác quá khốc liệt). Còn như việc dùng người (Khanh tướng), xưa nay ít thấy
(từ xưa ít có).
Lời của Tôn Quyền có thể nói lại. Nói
Tào Tháo “sát phạt có phần quá đáng” là không đúng, phải nói là “rất quá đáng”.
Bản thân Tôn Quyền cũng giết người, nên đã nói như vậy. Còn việc đánh giá cách
dùng người của Tào Tháo, cần phải nói công bằng khách quan, vì đây là cuộc chuyện
trò giữa những người trong nhà với nhau, không cần phải nịnh bợ Tào Tháo - vừa
là “kẻ thù” vừa là kẻ “sát nhân”. Vả Tôn Quyền cũng là “chủ nhân” cũng biết
dùng người, việc gì phải cố ý tâng bốc người khác? Trên thực tế, mức độ dùng
người của Tôn Quyền cũng chỉ ở dưới Tào Tháo. Trong Lưu Bị truyện, ngài Trương Tác
Diệu cũng nói, “đạo dùng người của Tôn Quyền cao hơn Lưu Bị”. Ngay như nước địch
cũng không thể không bái phục Tôn Quyền giỏi dùng người. Vào tháng chín, niên
hiệu Hoàng Võ thứ III (Công nguyên năm 224), lúc thống lĩnh đại quân chuẩn bị
đánh Ngô, Tào Phi từng đứng trên bờ Trường Giang mà cảm thán “Đây có người tài,
chưa thể lấy được”, rồi cho lui quân. Trong Tam quốc chí - Ngô chủ truyện có
ghi lời này. Cũng vậy, khi Gia Cát Lượng nói vì sao không thể trở mặt với Đông
Ngô, một trong những lí do là “ở đó người tài quá đông, người người tập mục”.
Xem lời chú dẫn Hán Tấn Xuân Thu của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Gia Cát
Lượng truyện. Tập mục là hoà mục. “Ở đó người tài quá đông, người người tập mục”
là người tài chật ních, trên dưới cùng lòng cùng đức. Đó là đặc điểm thời đầu của
tập đoàn Tôn Quyền (thời cuối thì ngược lại, sau này sẽ nói). Hơn nữa, nhân tài
là thủ hạ của Tôn Quyền nhiều không kể hết. Về võ tướng, sau Chu Du có Lỗ Túc,
sau Lỗ Túc có Lã Mông, sau Lã Mông có Lục Tốn, về năng lực trình độ, trên dưới
gần như nhau. Lục Tốn văn võ toàn tài. Về văn thần có Trương Chiêu, Cố Ung, Gia
Cát Cẩn, Bộ Trắc, một thời nổi danh.
Thực kỳ lạ, vì sao Đông Ngô lại có sức
hút mạnh như vậy?
Đương nhiên, nguyên nhân có ở nhiều mặt
nhưng khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng là Tôn Quyền giỏi
dùng người. Vì sao Tôn Quyền lại giỏi dùng người? Phải nói thế này, Tôn Quyền
hiểu rất nhiều người tài ở nước khác và rất muốn có họ. Ví dụ Tôn Quyền từng
đoán rằng một khi Gia Cát Lượng qua đời thì Dương Nghi và Ngụy Diên “tất sẽ nhiễu
loạn”, chuyện này đã nói trong tập “Hoạ từ bên trong”. Tôn Quyền trò chuyện với
Phí Y; Tôn Quyền rất tán thưởng Phí Y. Lần đầu Phí Y sang sứ nước Ngô, Tôn Quyền
rất xem trọng, theo Tam quốc chí - Phí Y truyện, lúc đó với thân phận là “Chiêu
tín hiệu úy”, Phí Y sang sứ nước Ngô, theo lệ Tôn Quyền mở tiệc khoản đãi. Tôn
Quyền vốn là người giỏi ăn giỏi nói (tính tình vui vẻ), bắt đầu những câu chuyện
vui (hết sức trào lộng). Bọn thủ hạ của Tôn Quyền như Gia Cát Khắc, người người
mồm mép ghê gớm. Kết quả bữa tiệc thành nơi “cười cợt không dứt”, về phần Phí Y
vẫn “đáp lại bằng những lời đầy lý lẽ, nghĩa tình chân thành”. Tôn Quyền vô
cùng tán thưởng, nói với Phí Y, trên đời này, ngài là người đức tài đầy đủ
(thiên hạ hiền minh) nhất định sẽ trở thành rường cột của nước Thục (tất là bầy
tôi chủ chốt của triều Thục), từ nay e sẽ khó được gặp lại.
Phí Y đã đấu lại với quần nho ra sao,
không thấy ghi trong Phí Y truyện. Nhưng lời chú dẫn Khắc biệt truyện của Bùi
Tùng Chi trong Gia Cát Khắc truyện có ghi, còn là chuyện vui chưa từng nghe.
Nghe nói lúc Phí Y vào phòng tiệc, mọi người đang cúi đầu ăn uống, riêng Tôn
Quyền đứng dậy ra đón, trước đó Tôn Quyền đã vẫy gọi Phí Y. Vừa gặp mặt, Phí Y
đã đọc bốn câu thơ: “Phượng hoàng bay lượn, kỳ lân vất vả. Lừa kia vô tri, mải
ăn những gì”. Như vậy, bên phía Đông Ngô còn mặt mũi nào nữa! Thế rồi Gia Cát
Khắc cũng đọc luôn mấy câu: “Thích trồng Ngô đồng, chờ đón phượng hoàng. Có con
chim sẻ, cũng đến lượn lờ. Sao không bắn ngay, chốn cũ đuổi về”, coi là sự trả
miếng. Ở đây, Phí Y chỉ cười cợt quần thần Đông Ngô (họ cũng “đáng bị như vậy”)
và vẫn giữ sĩ diện cho Tôn Quyền (kỳ lân vất vả), về cách điệu rõ ràng là hay
hơn Gia Cát Khắc.
Tôn Quyền trêu Gia Cát Cẩn “mặt dài như lừa”, Gia Cát Khác nhanh chóng ứng biến |
Loại “Khẩu thuỷ chiến” như thế này là
chuyện thường tình trong lịch sử ngoại giao của Ngô - Thục, không trở ngại gì đến
tình cảm bang giao giữa hai nước. Đây chỉ là một “bông hoa”, không phải là nội
dung đàm phám ngoại giao. Sứ Ngô Phí Y nhất định sẽ còn nhiều biểu hiện tinh tế
hơn, Tôn Quyền hết sức tán thưởng. Theo chú dẫn Phí biệt truyện của Bùi Tùng
Chi trong Phí Y truyện, Tôn Quyền còn “tặng luôn cả bảo đao cầm trong tay”. Một
việc làm hết sức tình cảm. Trung Quốc xưa có câu nói, bảo đao tặng liệt sĩ,
hàng cốt bán cho người sành. Quân nhân tặng nhau vũ khí, bước đầu coi nhau như
hảo hán. Huống chi một nguyên thủ quốc gia tặng sứ thần nước ngoài và tặng phẩm
lại là thứ vũ khí đeo trên người. Điều đó bao hàm rất nhiều ý nghĩa: là kính trọng,
tán thường, tín nhiệm. Phí Y vô cùng xúc động. Phí Y nói, thần tài đức gì mà được
coi trọng nhường ấy? Có điều, đao, dùng để “đánh kẻ chưa phục, câm bạo loạn”, vậy
cung kính không bằng tuân lệnh. Mong đại vương “xây dựng nghiệp lớn, cùng hưởng
với Hán thất”. Thần tuy ngu muội, nhưng nhất định sẽ không phụ sự trông đợi của
đại vương.
Ở đây, chúng ta thấy rõ đặc điểm dùng
người của Tôn Quyền, tức là “bằng tình cảm”. Với mười hai chữ, tôi có thể khái
quát được đặc điểm dùng người của những vị lãnh đạo chủ yếu trong thời Tam Quốc
(bao gồm cả Gia Cát Lượng, thực thế chỉ là hạt nhân lãnh đạo, không phải quân
chủ): Tháo lấy trí, Quyền lấy tình, Bị lấy nghĩa, Lượng lấy pháp. Tức là, Tào
Tháo dựa vào trí tuệ, Tôn Quyền dựa vào tình cảm, Lưu Bị dựa vào nghĩa khí, Gia
Cát Lượng dựa vào pháp chế. Và, chính vì Gia Cát Lượng công khai, công minh,
công bằng trị nước theo phép, dùng người theo phép, vì vậy trong chính phủ mới
không có quan lại tham ô (lại không dung gian), ai nấy cần mẫn, quên mình vì
công việc (cần phải quên mình). Có thể nói, chính phủ của Gia Cát Lượng giống
chính phủ nhất.
Chính phủ của Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu
Bị không ra một chính phủ. Tào Tháo có chút giống như xa lông, Lưu Bị hơi giống
bang hội, đó cũng là ý muốn của họ. Bởi vì Tào Tháo, Lưu Bị và cả Tôn Quyền nữa,
đều là một quá trình từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ quân phiệt đến đế
vương. Tương ứng với đó, bộ hạ của họ cũng có một quá trình diễn biến, trước đó
là tướng quân mạc phủ, sau này mới là triều đình đế vương. Mạc phủ mang nhiều sắc
thái cá nhân. Quan tính cách thế nào thì mạc phủ cũng có phong cách tương tự.
Tháo lấy trí nên mạc phủ tựa như xa lông; Bị lấy nghĩa, đương nhiên mạc phủ giống
bang hội, cũng giống như “cái bang”.
Vậy, mạc phủ của Tôn Quyền là thế nào?
Giống một gia đình. Trương Chiêu là
“trọng phụ”, Chu Du là “huynh trưởng”. Địa vị “trọng phụ” của Trương Chiêu được
xác định ngay từ thời Tôn Sách, chúng ta đã nói tới trong tập “Giang Đông cơ
nghiệp”. Chu Du từ bé chỉ “chơi bời hữu hảo” với một mình Tôn Sách, hai người từng
“thăng đường bái mẫu, vô cùng hoà hợp”, là anh em keo sơn. Về sau, mẹ Tôn Quyền
là Ngô phu nhân đã dặn dò, ta coi Chu Du như con ruột (coi như con), muốn Tôn
Quyền phải gọi Chu Du là anh (người cùng anh lo việc), trong tập “Để trụ giữa
dòng nước”, chúng ta đã nói tới. Chu Du cùng Tôn Quyền thân như người nhà, cùng
Lỗ Túc thân như anh em, vì vậy Tôn Quyền cũng thân tình với Lỗ Túc. Thực tế thì
Lỗ Túc chạy sang với Tôn Quyền, Tôn Quyển đã chu cấp cho mẹ Lỗ Túc quần áo,
chăn màn, đồ dùng sinh hoạt, giống như cháu đối với thím vậy. Việc này có ghi
trong Lỗ Túc truyện, còn Lỗ Túc thì sao? Đã nhận mẹ Lã Mông là mẹ, Lỗ Túc và Lã
Mông khác gì anh em. Việc này có ghi trong Lã Mông truyện. Lã Mông và Lỗ Túc là
anh em, Lỗ Túc và Chu Du là anh em, Chu Du và Tôn Quyền là anh em, nên gọi là
gì? “Anh em liên hoàn”.
Cũng giống như bên phía Lưu Bị, thân
như anh em, trọng tình trọng nghĩa. Nói chung là, Lưu Bị trọng nghĩa hơn, Tôn
Quyền trọng tình hơn. Có thể đây là sự khác biệt trong văn hoá Nam và Bắc. Người
miền Nam trọng tình, người miền Bắc trọng nghĩa. Vì vậy, quan hệ giữa Lưu Bị và
Quan Vũ, Trương Phi, trước sau xuyên suốt qua chữ “nghĩa”, bên phía Tôn Quyền
thì tình cảm là màu sắc nồng hậu nhất. Trong Chu Du truyện nói, lúc Chu Du qua
đời, Tôn Quyền “mặc tang phục cử lễ tang, người người đều cảm động”, Tôn Quyền
đến tận Vu Hồ nhận linh cữu. Mãi về sau, Tôn Quyền không thể quên được Chu Du,
nói Chu Du đã có công đánh bại Tào Tháo, đoạt Kinh châu, vì vậy “cô nhớ Công Cẩn,
lẽ nào quên được” (Đó là sự hàm ơn, nhớ chuyện cũ, tình cảm vô cùng).
Tôn Quyền đối với Lỗ Túc, Lã Mông cũng
vậy. Theo Lỗ Túc truyện, lúc Lỗ Túc qua đời, Tôn Quyền “cử ai” và “tham gia
chôn cất”. Lã Mông truyện nói, lúc Lã Mông bệnh nặng, Tôn Quyền đón Lã Mông vào
trong điện, tìm danh y khắp nơi đến cứu chữa. Lúc đó, bệnh của Lã Mông phải được
châm cứu. Mỗi lần kim châm, Tôn Quyền đều thấy đau đớn (khi châm kim, Quyền thấy
đau đớn). Tôn Quyền muốn xem sắc thái của Lã Mông như thế nào, nhưng lại sợ như
vậy Lã Mông phải hành lễ, phải vất vả, đành phải chọc lỗ ở trên tường, lén nhìn
sang. Thấy Lã Mông ăn được chút gì đó thì Tôn Quyền mặt mày rạng rỡ. Nếu Lã
Mông không ăn được, Tôn Quyền liền thở ngắn than dài, suốt đêm trằn trọc. Thế
chẳng phải như đối với người thân sao?
Bộ ba của Tôn Quyền đều có cảm giác
đó, ít ra cũng được như Chu Du. Chu Du nói quan hệ của mình với Tôn Quyền
“ngoài là nghĩa vua tôi, trong là tình cốt nhục”. Đó là lời Chu Du nói với Tưởng
Cán. Theo chú dẫn Giang Biểu truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Chu
Du truyện, Tưởng Cán đẹp người, tài mạo song toàn, “có nghi dung, tài biện luận,
cả vùng Giang Hoài không ai bì kịp”, Tưởng Cán người Cửu Giang, Chu Du ở Lư
Giang. Bấy giờ Cửu Giang và Lư Giang đều thuộc Dương châu, hai người coi là đồng
hương. Đồng hương gặp đồng hương, hai mắt ứa lệ. Tào Tháo liền cử Tưởng Cán làm
thuyết khách. Theo Tư trị thông giám, thời gian cụ thể là vào năm Kiến An thứ
XIV, không thể có cái gọi là đạo sách. Cụ thể là sau thất bại ở trận chiến Xích
Bích, Tào Tháo biết Chu Du là nhân vật lợi hại, mới có bụng sách phản, muốn để
Tưởng Cán đến lôi kéo Chu Du.
Tạo hình Tiểu Kiều vợ Chu Du trên màn ảnh
Chu Du biết rõ bụng dạ của Tào Tháo.
Vì vậy, lúc Tưởng Cán vừa đến doanh trại, Chu Du đứng ở cửa đã cười ầm lên,
nói: Tử Dực thực vất vả! Đường sá xa xôi tới đây, để làm thuyết khách cho Tào
Tháo phải không? Ba hôm sau, Chu Du còn đưa Tưởng Cán đi tham quan và mở tiệc
khoản đãi. Trong tiệc, Chu Du nói với Tưởng Cán, nam tử hán đại trượng phu thực
khó để có được “người chủ tri kỷ”, có thể “ngoài là nghĩa quân thần, trong là
tình cốt nhục, cùng nhau lo liệu, hoạ phúc cùng hưởng”. Có được buổi quân thần
gặp gỡ như vậy thì ngang như Trương Nghi, Tô Tần, Lệ Thực sống lại, Chu Du còn
sờ vai Tưởng Cán, cười hì hì từ chối Tưởng Cán (sờ vào vai, cắt lời nói), huống
chi là túc hạ? Tưởng Cán biết là không lay chuyển được Chu Du, nên chỉ vui vẻ
mà không nói gì cả (chi cười và không nói). Sau khi trở về, Tưởng Cán nói với
Tào Tháo, Chu Du là người khoan dung đại lượng, phẩm hạnh cao thượng (nhã lượng
rất cao), không hề li gián bằng mấy lời hoa mỹ, giảo hoạt (không thể li gián bằng
lời), cho qua việc này.
Đương nhiên, Chu Du “nhã lượng rất
cao”, nhưng Tôn Quyền đã biểu hiện “tình như cốt nhục”. Rõ ràng, không phải mọi
người đều có cảm nhận của Chu Du. Chẳng phải là trong một gia đình, một gia tộc
cũng luôn có sự thân sơ, xa cách hay sao? Lúc này ở Tôn Quyền đã hình thành phong
cách dùng người như vậy, cũng là chuyện thường, bởi vì chính quyền Đông Ngô của
Tôn Quyền vốn là một “công ty gia tộc”. Tôn Quyền, từ bé đã lăn lộn trong “công
ty” đó, cùng với số tướng lĩnh Hoài Tứ vào sinh ra tử, kết nối tình hữu nghị
sâu sắc rất tự nhiên. Huống chi tập đoàn Tôn thị khi đó cũng chỉ là một đội
ngũ, không phải vương triều, không có gì là phức tạp, nhiều vẻ. (Chu Du truyện
nói lúc Tôn Quyền thay thế “chủ tướng, tân khách cùng làm lễ đơn giản”) thân
như người nhà, không có gì là lạ. Lúc đọc Tam quốc chí, chúng ta luôn phát hiện
thấy Tôn Quyền thường uống rượu vui vẻ với quần thần, có thể đó là tình hình
lúc sáng nghiệp còn rơi rớt lại.
Điều khó thấy là Tôn Quyền lại có thể
đưa tình cảm vào trong lĩnh vực chính trị. Ví dụ sau đây nói rõ điều đó. Theo
Tam quốc chí - Chu Thái truyện, vào năm Kiến An thứ XVIII (Công nguyên năm
213), Tào Tháo lui quân về Nhu Tu khẩu. Tôn Quyền nhiệm mệnh Chu Thái, một người
xuất thân bần tiện là Bình Lỗ tướng quân ra trấn giữ vùng đó, Chu Nhiên và Từ
Thịnh là phó. Tôn Quyền biết là Chu Nhiên và Từ Thịnh không phục, nên mới mượn
cớ đi tuần sát, yến tiệc với chư tướng. Tôn Quyền lần lượt rót rượu cho từng
người. Lúc đến trước mặt Chu Thái, Tôn Quyền bảo Chu Thái cỏi áo ra, mọi người
không hiểu, giương mắt nhìn. Thì ra trên người Chu Thái đầy những vết thương,
không còn chỗ nào lành lặn. Tôn Quyền chỉ tay vào từng vết thương và hỏi lý do.
Chu Thái lần lượt trả lời từng bị thương ở những chiến trường nào. Theo chú dẫn
Giang Biểu truyện của Bùi Tùng Chi, lúc đó Tôn Quyền đã khóc. Tôn Quyền ôm Chu
Thái, miệng gọi tên cúng cơm, Ấu Bình ơi Ấu Bình, ngươi liều mạng chiến đầu vì
anh em cô! Sao cô lại không thể coi ngươi như anh em thân thiết (sao cô lại
không đãi khanh như tình cốt nhục), sao lại không thể giao ngươi trọng trách (uỷ
khanh nắm trọng quyền binh mã)? Cứ yên tâm, đừng vì xuất thân nghèo hèn mà e ngại
(đừng vì nghèo hèn mà chùn bước), cô và ngươi có tình thân thích, vinh nhục
cùng chịu (cô và khanh cùng vinh nhục, như thân thích)! Mọi người đều khâm phục,
kể cả Chu Nhiên và Từ Thịnh.
Tôn Quyền lấy “tình cốt nhục” xử sự với
các tướng lĩnh Hoài Tứ, những người đã cùng Tôn Sách giành giang sơn như Chu
Du, Chu Thái, xử sự với nhiều người khác như Gia Cát Cẩn. Theo Tam quốc chí -
Gia Cát Cẩn truyện. Trước trận chiến Di Lăng, Gia Cát Cẩn là anh Gia Cát Lượng
từng có thư khuyên Lưu Bị lui quân. Có người phao tin nói Gia Cát Cẩn “thông với
nước ngoài”. Và theo lời chú dẫn Giang Biểu truyện của Bùi Tùng Chi, sự việc trở
nên ầm ĩ (truyền ra ngoài), ngay như Lục Tốn cũng cảm thấy khó chịu, kiến nghị
Tôn Quyền tìm cách dập tắt tin đồn. Tôn Quyền một mặt nói rõ, “Cô và Tử Du có lời
thề sống chết bên nhau”, Tử Du sẽ không phản cô, cô cũng vậy không hề phản Tử
Du. Đồng thời Tôn Quyền còn có thư gửi Lục Tốn, cô và Tử Du đã nhiều năm “tình
như cốt nhục”, hiểu rõ Tử Du là người “không làm điều trái đạo, không nói lời
phi nghĩa”. Nhớ năm nào khi ngài Khổng Minh sang sứ nước ta, cô muốn Tử Du giữ
Gia Cát Lượng lại (chọc phá đối phương), cô nói với Tử Du, em phải theo anh,
xưa nay vẫn vậy! Nếu Khổng Minh ưng thuận, cô sẽ nói rõ với Lưu Huyền Đức. Biết
Tử Du nói gì không? Tử Du nói, xá đệ đã theo Lưu Dự Châu thì sẽ “không hai
lòng”. Xá đệ sẽ không ở lại đâu, giống như tại hạ sẽ không bao giờ chạy sang với
Lưu Dự Châu. Thấy chưa, lòng thành đó đã được thần thánh chứng giám! Vì vậy, cô
đã trao hết số thư cáo giác đó cho Tử Du. Lá thư này của khanh cô cũng sẽ gửi
đi, để Tử Du là “thần giao”, sẽ không có lời đường mật nào li gián nổi.
Rõ ràng là “dùng người thì không nghi
ngờ”. Đó cũng là nguyên tắc cơ bản trong cách dùng người. Nhưng Tôn Quyền có điều
hay riêng của mình, tức là “ngôn hành theo kế” và “tình như cốt nhục”. Tôn Quyền
với Gia Cát Cẩn là “tình như cốt nhục”, với Chu Du, Chu Thái “tình như cốt nhục”,
mạc phủ tướng quân của Tôn Quyền lẽ nào còn khác một gia đình? Tôn Quyền tín
nhiệm ngoài lý tính ra (biết đối phương và tín nhiệm) còn có cả tình cảm nữa.
Lúc Tôn Quyền biểu lộ tình cảm với Gia Cát Cẩn, lẽ nào những người khác lại
không cảm nhận được những tình cảm đó? Và một khi tất cả đều cảm nhận được, lại
không “bốn biển đều là anh em sao”? Thực tế đã có người từ nước khác, vì cảm động
trước tình cảm của Tôn Quyền mà sau này trở thành trọng thân của Tôn Quyền như
Phan Tuấn.
Phan Tuấn vốn là người của Lưu Bị, là
một viên quan nhỏ. Lúc Quan Vũ bị giết đã theo Tôn Quyền. Theo lời chú dẫn
Giang Biểu truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Phan Tuấn truyện, lúc
đó quan lại Kinh châu đều quy thuận Tôn Quyền, riêng Phan Tuấn “cáo bệnh không
gặp”, thực tế là không chịu đầu hàng. Sau khi biết chuyện, Tôn Quyền đã sai người
đến mời, cho nằm lên giường khênh ra tận nơi. Phan Tuấn cúi đầu, nằm bất động,
nén đau thương, nước mắt giàn giụa. Tôn Quyền gọi tên Phan Tuấn, thăm hỏi an ủi
(có lời uý lạo), còn cho người lấy khăn lau nước mắt cho. Phan Tuấn vô cùng cảm
động, sau này đã hết lòng phò tá Tôn Quyền. Nhân đây nói thêm, sau này lần nữa
Phan Tuấn lại cảm động, như chuyện của Gia Cát Cẩn, có người tố cáo, nhưng vẫn
được Tôn Quyền tín nhiệm như cũ.
Việc dùng người của Tôn Quyền còn nhiều
điều hay, cũng giống Tào Tháo, dùng người không câu nệ, không nhìn gia cảnh,
không nhìn thân phận, bỏ qua oán thù, cứ có tài là dùng. Như Bộ Trắc “Trồng dưa
tự cung tự cấp”, Hán Trạch “đời đời làm nông nghiệp”, Trần Biểu “thuộc chi thứ
tướng gia”, Trương Lương “chưa từng biết tiếng”, Lưu Cơ là con của kẻ thù, Cam
Ninh là tướng của nước thù địch, Lăng Thống hay giết người, Hồ Tông Thị coi rượu
như mệnh, Tôn Quyền đều sử dụng hết khả năng của từng người. Ngoài ra Tôn Quyền
còn biết nghe lời can gián, biết tự xét về mình, chẳng khác gì Tào Tháo.
Còn một điểm nữa hai người cũng khá giống
nhau, những ưu điểm của họ thường bộc ra từ sớm, thời kỳ đầu; sau này thực khó
nói. Những năm cuối, Tôn Quyền không còn “tình cốt nhục” với quần thần, ngay cả
với người nhà cũng vậy. Tôn Quyền có cả thảy bảy con trai. Con đầu là Tôn Đăng,
thứ hai là Tôn Lự, thứ ba là Tôn Hoà, thứ tư là Tôn Bá, thứ năm là Tôn Phấn, thứ
sáu là Tôn Hưu, thứ bảy là Tôn Lượng. Tôn Đăng nhiệm thái tử, chết trước mặt
Tôn Quyền, được coi là phạm tội không quá lớn. Tôn Lự mất lúc hai mươi tuổi được
coi là vô tội. Tôn Hưu là hoàng đế thứ ba của nước Ngô, ở ngôi được sáu năm thì
mất lúc ba mươi tuổi, Ích hiệu là Cảnh hoàng đế, được coi là có tài. Nhưng
hoàng hậu và hai người con của Tôn Hưu đều bị Tôn Hạo giết rất thảm. Đó là chuyện
sau này.
Thảm nhất là bốn người khác. Người con
thứ ba là Tôn Hoà (người thứ hai là thái tử) và người thứ tư là Tôn Bá (Lỗ
vương), vì tranh giành nên một người bị phế (Tôn Hoà), một người bị ban cho chết
(Tôn Bá). Tôn Hoà không chỉ bị phế về sau còn bị giết bởi quyền thần Tôn Tuân
(là cháu Tôn Tĩnh và là em Tôn Kiên). Người con thứ năm là Tôn Phấn, sau này
cũng bị Tôn Hạo giết chết. Người con thứ bảy là Tôn Lượng làm hoàng đế lúc mười
tuổi. Năm mười sáu tuổi bị quyền thần lật đổ, sau này bị Hoàng đế thứ ba (cũng
là ngươi anh) Tôn Hưu bức chết hoặc đầu độc. Tôn Hưu giết em là Tôn Lượng, còn
hoàng hậu và con của mình lại bị Tôn Hạo là con của anh trai Tôn Hoà giết chết.
Nói xem, như thế là thế nào? Cha giết con (Tôn Quyền giết Tôn Bá), anh giết em
(Tôn Hưu giết Tôn Lượng), cháu giết chú (Tôn Hạo giết Tôn Phấn), Tôn thất giết
hoàng tộc (Tôn Tuấn giết Tôn Hoà), đó là “tình cốt nhục” chăng? Không! Là “cốt
nhục giết lẫn nhau”.
Đó là việc trong gia đình. Lại nói tới
việc triều đình. Tình hình triều đình Tôn Quyền về sau ra sao? Quân vương có bụng
nghi kỵ, quần thần lo lắng kinh hãi. Vì sao vậy? Vì lúc này Tôn Quyền bắt đầu
thống trị bằng đặc vụ. Giữa những năm Gia Hoà (Công nguyên năm 232 đến năm
237), tức là sau lúc Tôn Quyền 51 tuổi, Tôn Quyền bắt đầu tín nhiệm quan hiệu sự
là Lã Nhất. Hiệu sự còn gọi là điển hiệu, hiệu tào, hiệu lang, hiệu quan. Tào
Ngụy, và Tôn Quyền đều có loại quan này. Theo lời giải thích trong Tam quốc chí
tuyển chú thì người này là tai mắt của Hoàng đế, theo dõi việc làm và lời nói của
quân dân, nói thẳng ra là đặc vụ. Lã Nhất là đặc vụ và là đặc vụ điên cuồng nhất
– Cố Ung truyện nói: “Huỷ diệt đại thần, hại người vô cớ” - Bộ Trắc truyện nói:
“Bới lông tìm vết, vu cáo trọng tội”. Nhưng Tôn Quyền lại nghe Lã, kết quả triều
đình đều thấy nguy cấp. Theo Tam quốc chí - Thị Nghi truyện, một lần Lã Nhất vu
cáo Điêu Gia nguyên là thái thú Giang hạ, đã phỉ báng triều đình. Tôn Quyền lập
tức nổi giận, hạ ngục Điêu Gia, tra xét đồng đảng. Những người liên lụy đều rất
sợ, đều nói Điêu Gia công kích ác độc triều đình, chỉ có Thị Nghi nói không
nghe thấy. Tôn Quyền càng giận, bức hỏi càng gấp, tất cả sợ hãi đến hết hơi (quần
thần sợ hãi không dám thở), Thị Nghi nói, dao đã kề cổ tôi còn dối trá gì nữa?
Không nghe thì bảo là không nghe, vậy thôi! Lúc này Tôn Quyền mới thả Điêu Gia.
Khó mà tưởng tượng nổi, nếu không có Thị Nghi thì vô duyên vô cớ một cái đầu nữa
đã lìa khỏi cổ!
Hồi 86.Tần Bật biện bác, hỏi vặn Trương Ôn.
Từ Thịnh hoa công phá tan Ngụy chủ
Thực tế thì sau này Tôn Quyền quá mẫn
cảm, nghi thần nghi quỷ, buồn vui thất thường. Như danh sĩ Ngu Phiên suýt nữa
đã bị Tôn Quyền giết, chỉ vì trong tiệc dám giả vờ say (xem Tam quốc chí - Ngu
Phiên truyện). Thái tử thái phó Trương Ôn trước khi sang sứ nước Thục, Tôn Quyền
“rất coi trọng”. Sau khi về nước, không hiểu vì sao Tôn Quyền sinh nghi, nghi
Trương Ôn “tư thông với nước ngoài”, còn ghen tị vì người này “danh tiếng quá lớn”
và cho rằng “không thể dùng được nữa” rồi bằng trăm phương ngàn kế tìm ra sở hở
để trị. Nhân có vụ án liên can đến Trương Ôn, Tôn Quyền cho bắt Trương Ồn giam
vào đại ngục, sau đó thì trừng phạt bằng cách cho làm lao dịch ở huyện nhà (xem
Tam quốc chí - Trương Ôn truyện). So với lúc trẻ; thời kỳ đầu hay “tình như cốt
nhục” thì Tôn Quyền lúc này như biến thành người khác. Vì vậy trong Tam Quốc sử
thoại tuỳ bút, ngài Nghiêm Lãnh nói, e Tôn Quyền đã mắc bệnh si, bệnh ngớ ngẩn
của người già.
Đương nhiên đó là lời nói đùa. Đằng
sau chuyện của Ngu Phiên, Trương Ôn còn có nguyên nhân chính trị vô cùng phức tạp,
sau này sẽ nói tỉ mỉ hơn. Nhưng chế độ quân chủ vẫn là nguyên nhân cơ bản. Chế
độ quân chủ là chế độ gia trưởng mở rộng, Tôn Quyền có tác phong gia trưởng điển
hình. Những người này luôn coi mình là độc tôn, thường trở mặt với mọi người.
Trên thực tế, cái gọi là “hùng lược chi chủ” xưa nay vẫn thế, nhất là vào những
năm cuối cùng. Như Tào Tháo, Lưu Bang và cả Câu Tiễn trước kia đều là vậy. Trần
Thọ nói trong lời bình về Ngô chủ truyện, Tôn Quyền “anh tài kỳ lạ như Câu Tiễn”,
một lời mà có hai mặt. Thực tình thì Tôn Quyền rất giống Câu Tiễn, có thể nhẫn
nhịn gánh vác, cũng có thể trở mặt với người khác. Đó là đặc điểm chung của loại
người này, mặc dù họ một người là Việt vương, một người là Ngô đế.
Huống hồ, con người Tôn Quyền rất hay
nghi ngờ, Trần Thọ nói “tính đa nghi, ưa giết chóc”, càng về cuối đời lại càng
nghiêm trọng (càng về sau càng trở nên nghiêm trọng). Không có gì là lạ. Bất kỳ
sự vật nào cũng có hai mặt, bất kỳ đặc điểm nào cũng như dao hai lưỡi. Tôn Quyền
rất trọng tình cảm, nhưng người ta đa tình thì hay đa nghi, tình trời luôn đi
đôi với hận biển. Tình sâu hận cũng nặng, vì vậy “Tình như cốt nhục” và “ưa giết
chóc” chỉ là hai mặt sấp ngửa của đồng tiền. Vì vậy Tôn Quyền trở nên ghê gớm,
cũng là hợp lý, kể cả việc Tôn Quyền lạnh nhạt với Trương Chiêu, bức chết Lục Tốn.
Vì sao hai vị trọng thần này bị đãi ngộ
bất công đến như vậy?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét