Tập thứ mười bốn: TRỜI SINH KÌ TÀI
Tác giả Dịch Trung Thiên
Chúng ta chưa thể xác định rõ nguyên
nhân, Tào Tháo từ một ý nghĩ sai lầm đã để sổng mất Lưu Bị. Lưu Bị như rồng xuống
biển, hổ về rừng, vận khí trở nên tốt đặc biệt. Năm Kiến An thứ XII (năm 207),
Lưu Bị mời được Gia Cát Lượng từ Long Trung, còn Quách Gia trên đường bắc chinh
đã lâm bệnh và qua đời lúc còn rất trẻ. Kết quả một người ra, một người đi là
Lưu Bị như cá muối vươn mình, Tào Tháo chí lớn khó đền đáp. Vậy Quách Gia là
người như thế nào, khác và giống với Gia Cát Lượng ở điểm nào?
Tập trước chúng ta đã nói, Lưu Bị có
chí anh hùng, có khí anh hùng, có hồn anh hùng, có nghĩa anh hùng, chỉ không có
“đất anh hùng” (địa bàn của mình), chỉ có thể bôn ba khắp nơi, phản phúc vô thường
nhờ vả người khác. Có thể vì nguyên nhân này, Tào Tháo từ một suy nghĩ sai lầm
đã để sổng mất Lưu Bị. Lúc này, Lưu Bị đã như rồng xuống biển, hổ về rừng, có
thể làm được gì không, còn phải xem vận khí của Lưu Bị.
Không ai ngờ vận khí của Lưu Bị trở
nên tốt đặc biệt. Năm Kiến An thứ XII (năm 207) là năm quan trọng đối với Lưu Bị
và Tào Tháo. Tháng chín năm đó, Quách Gia - mưu sĩ Tào Tháo quý mến nhất, bất hạnh
lâm bệnh và qua đời; và cùng năm này, Gia Cát Lượng đến với Lưu Bị, Quách Gia
qua đời năm ba mươi tám tuổi, Gia Cát Lượng hai mươi sáu tuổi xuống núi, lịch sử
bắt đầu chuyển hướng.
Vì sao lại liên hệ đến cái chết của
Quách Gia và sự xuống núi của Gia Cát Lượng? Hai điều đó có quan hệ gì?
Có. Loại quan hệ hoặc liên hệ này,
đương nhiên không phải là chúng xuất hiện trong cùng một năm. Đó chỉ là sự
trùng hợp. Điều mấu chốt là hai sự kiện đó ảnh hưởng đến cả hai phía Tào, Lưu.
Chúng ta đều biết, lực lượng quyết định sự thắng thua của chiến tranh; và lực
lượng sẽ biến đổi khi bên này mạnh bên kia yếu và bên này yếu bên kia mạnh. Gia
Cát Lượng đến bên Lưu Bị là “bên này mạnh bên kia yếu”: Tào Tháo yếu, Lưu Bị mạnh,
tính kiểu gì thì Tào Tháo cũng là người thua thiệt.
Có điều, ở đây còn có vấn đề, tức là
khả năng và trình độ hai người. Nếu không đủ khả năng thì việc tính toán trên
cũng chẳng có ý nghĩa. Cũng vậy, nếu trình độ khác nhau, hoặc khác nhau quá lớn
thì cũng không cần phải so sánh làm gì. Vậy, khả năng của Gia Cát Lượng và
Quách Gia như thế nào? Trình độ của họ như nhau chăng? Hoặc họ giống nhau ở chỗ
nào?
Đúng là Quách Gia và Gia Cát Lượng có
những điểm giống và khác nhau đến kì lạ. Thứ nhất, họ là thiên tài từ bé, lúc
xuống núi mới chỉ có hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi (Quách Gia hai mươi bảy tuổi,
Gia Cát Lượng hai mươi sáu tuổi). Nhưng suy nghĩ và mưu lược gần như đã thành
thục. Thứ hai, họ đều “chọn đúng chủ”. Trong khi mọi người chỉ nhìn thấy ưu điểm
của Viên Thiệu, Quách Gia đã nhìn thấy phần nát rữa; khi mọi người chỉ nhìn thấy
phần nát rữa của Lưu Bị, Gia Cát Lượng đã nhìn thấy phần ưu điểm. Thứ ba, họ đều
“có mưu kế, lập công lớn”. Quách Gia giúp Tào Tháo thống nhất miền bắc Trung Quốc,
Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị lập nên thế chân vạc. Có thể nói, trong hai người, một
là kỳ sĩ trời sinh, một là nhân tài trần thế. Đương nhiên, họ giống nhau ở chỗ,
trung thành hết mực, cúc cung tận tuy, chết không từ nan. Quan hệ giữa họ và
Tào Tháo, Lưu Bị bề ngoài không thể hiện như cá gặp nước, nhưng bên trong thì
tình sâu nghĩa nặng.
Sau khi Quách Gia qua đời, Tào Tháo buồn
thương khôn xiết. Theo "Tam quốc chí, Quách Gia truyện” và lời chú thích của
Bùi Tùng Chi, mỗi lần Tào Tháo dâng biểu lên triều đình, viết thư cho Tuân Úc,
trò chuyện cùng người khác, nhiều lần tưởng nhớ Quách Gia và lần nào cũng rơi lệ.
Tào Tháo nói, Phụng Hiếu chưa đầy bốn mươi tuổi, (mới ba mươi tám), thời gian
cùng ta là mười một năm. Đó là những ngày gian khổ vất vả, tất cả đều do ta và
Quách Gia chèo chống. Đúng là lúc nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc! Nhiều lúc ta
đã mất hết chủ ý, may có Quách Gia ra sức chèo lái tới thành công. Thực ra thì
Quách Gia cũng biết đi là nguy hiểm, Quách Gia không được khỏe, miền nam lại
nhiều dịch bệnh, nên thường nói đến miền nam chỉ e không còn sống mà quay lại.
Nhưng cùng ta bàn về kế lớn thiên hạ, lại nói phải bình được Kinh châu trước và
xin được liều mạng lập công! Tình nghĩa như vậy ai mà quên được! Nay, ta tuy có
luận công ban thưởng cho Quách Gia, nhưng đối với người chết thì đó còn tác dụng
gì! Người tri kỷ thiên hạ thực không nhiều, khó khăn lắm mói được một người, lại
bỏ ta ra đi. Trời xanh hỡi, bảo ta làm gì đây, làm thế nào đây!
Theo cách nói của Tào Tháo chúng ta hiểu,
quan hệ giữa họ là khác thường, có thể nói là cùng chia sẻ hoạn nạn (nguy hiểm
hoạn nạn đều cùng nhau), hai trái tim cùng một nhịp đập (chỉ có Phụng Hiếu là
hiểu được ý ta). Quách Gia đúng là nhân tài khó kiếm, có thể coi là trung thành
hết mực (hết lòng hết sức, quên sao được), lại có nhiều mưu, thành công (Bình định
thiên hạ, nhiều mưu lập công lớn). Những đặc trưng và quan hệ đó dễ dàng khiến
chúng ta liên tưởng ngay đến Gia Cát Lượng.
Sự thực, Quách Gia và Gia Cát Lượng
không chỉ có điểm tương đồng khiến người người phải kinh ngạc mà ngay cả khả
năng về nhiều mặt cũng như nhau. Sau khi có được Gia Cát Lượng, Lưu Bị nói: Ta
có được Khổng Minh như cá đã có nước”. Còn Tào Tháo sau khi có được Quách Gia
cũng đã nói: “Giúp Tào Tháo thành đại nghiệp, phải là người này”. Lưu Bị trước
lúc lâm chung đã gửi con cho Gia Cát Lượng, còn Tào Tháo đối với Quách Gia cũng
từng “muốn lo về hậu sự”. Có điều Quách Gia chết quá sớm, chúng ta không được
nhìn thấy ngày đó. Cũng vì nguyên nhân này, ngôi sao của Quách Gia không được rực
rõ bằng ngôi sao của Gia Cát Lượng. Năm hai mươi sáu tuổi Gia Cát Lượng đã xuống
núi, năm mươi tư tuổi, lâm bệnh qua đời, hai mươi tám năm phục vụ cho Lưu Bị,
trong đó mười một năm nắm trọn quyền lớn; Quách Gia phục vụ Tào Tháo chỉ có mười
một năm, chức vụ chỉ là quân sư Tế tửu (tham mưu). Điều kiện thi triển tài hoa
của hai người là khác nhau.
Nhưng chỉ trong thời gian ngắn là mười
một năm, Quách Gia để lại một cơ nghiệp thực đồ sộ. Lúc Quách Gia ở trong quân
Tào, Tào Tháo luôn nhận được tin thắng trận, khải hoàn, thống nhất miền bắc trọn
vẹn. Quách Gia vừa qua đời, thành tựu về quân sự của Tào Tháo rõ ràng là khác
trước. Như lời Chu Trạch Hùng, luôn phải đối phó với lũ “quân phiệt thảo khấu”
như Mã Đằng, Hàn Toại. Đối phó với hai “Kiêu hùng” lớn như Tôn Quyền, Lưu Bị có
phần lực bất tòng tâm, tại trận Xích Bích suýt nữa bị lửa đốt sạch. Đương
nhiên, Lưu Bị chuyển bại thành thắng không phải chỉ vì có Gia Cát Lượng; sự
nghiệp của Tào Tháo bị cản trở cũng không vì không có Quách Gia. Chúng ta không
thể nói quá về tác dụng cá nhân. Nhưng Quách Gia qua đời là tổn thất quá lớn với
Tào Tháo. Vì vậy, lúc thua trận ở Xích Bích, Tào Tháo thở dài ngửa mặt lên trời
và bỗng thốt ra câu: “Quách Phụng Hiếu còn, ta đâu đến đoạn này!”.
Đến Tam quốc diễn nghĩa, câu nói đó được
diễn tả như sau: Tào Tháo thoát thân theo hẻm Hoa Dung về đến Nam quận, Tào Phi
bày tiệc hòng xoá nỗi kinh hoàng, các mưu sĩ đều có mặt. Bỗng thấy Tào Tháo ngẩng
mặt lên trời, xúc động. Các mưu sĩ nói, Thừa tướng lúc gặp nạn không thấy sợ,
bây giờ đã an toàn về thành, người đã có cơm, ngựa đã có cỏ, có thể chỉnh đốn lại
quân ngũ, trả thù rửa hận, sao lại khóc lóc như vậy? Tào Tháo nói: "Ta khóc Quách
Phụng Hiếu! Nếu Phụng Hiếu còn, ta đâu đến đoạn này” Tiếp đến lại khóc lóc thảm
thiết hơn “Ô hô Phụng Hiếu! Tiếc thương Phụng Hiếu!”, thế rồi “Các mưu sĩ khác
đều lặng lẽ tự thấy xấu hổ”.
Cha con Mao Tôn Cương đã xỉ vả dữ dội
thái độ buồn bã khóc lóc của Tào Tháo, còn liên hệ với việc Tào Tháo khóc Điển
Vi trong trận chiến Uyển Thành, câu chuyện về trận chiến Uyển Thành, chúng ta
đã nói trong tập tám Quỷ sai thần khiến, tức là vào tháng Giêng năm Kiến An thứ
II (năm 197), do Tào Tháo sai lầm để Trương Tú vừa hàng được mươi hôm đã nghe
theo kế của Giả Hủ đột nhiên làm phản. Tào Tháo không hề đề phòng, may nhờ có
Điển Vi liều mạng tử chiến, Tào Tháo mới thoát được, con cả là Tào Ngang, cháu
là Tào An Dân và tướng yêu Điển Vi đã phải bỏ mạng trong chiến đấu. Sau đó, Tào
Tháo lập đàn, cúng tế Điển Vi, khóc lóc thảm thiết. Hồi thứ mười sáu cuốn Tam
quốc diễn nghĩa, Tào Tháo khóc như thế này: “ta mất con cả và cháu yêu mà thấy
không đau đớn lắm, ta chỉ khóc một mình Điển Vi” số tướng sĩ chung quanh hết sức
cảm kích (mọi người đều xúc động).
Đúng là “Lưu Bị vứt con” theo “kiểu
Tào Tháo”. Mọi người đều đã rõ câu chuyện Lưu Bị vứt con. Sau khi Triệu Vân cứu
được A Đẩu từ Trường Bản về, Lưu Bị đã ném con xuống đất nói: “Vì mày, xuýt nữa
ta mất đại tướng”, Triệu Vân kinh hoàng phủ phục khóc nói, nhất định phải gan
óc lầy đất. Hãy xem Tào Tháo không khóc con yêu mà thương tướng, kết quả là tướng
sĩ đều hết sức cảm kích đến rơi lệ. Cùng một điệu nhạc nhưng khác lời.
Cũng vậy, nên so sánh tiếng khóc Điển
Vi và tiếng khóc Quách Gia của Tào Tháo. Mao phê nói, Tào Tháo trước khóc Điển
Vi sau khóc Quách Gia. Khóc Điển Vì là muốn để tướng sĩ phải cảm động, khóc
Quách Gia là để các mưu sĩ phải tự thấy xấu hổ. “Tiếng khóc trước như là thường,
tiếng khóc sau như là đánh”, thực không ngờ nước mắt của kẻ gian hùng “vừa có
thể trở thành tiền lụa, vừa có thể trở thành roi gậy”. Vì vậy cha con Mao Tôn
Cương đã cười nhạt: “Cái gian của kẻ gian hùng, đúng là gian đến buồn cười”.
Lời phê bình trên đương nhiên là rất
tinh tế, chỉ đáng tiếc là lời khóc Điển Vi và khung cảnh khóc Quách Gia của Tào
Tháo cũng giống như “Lưu Bị ném con” đều là lời các nhà tiểu thuyết. Đúng vậy,
trong tang lễ của Điển Vi, Tào Tháo thân đến khóc tế, nhưng không nói: Ta mất
con cả và cháu yêu mà không thấy đau đớn lắm”. Đúng là Tào Tháo có nói “Quách
Phụng Hiếu còn, ta đâu đến đoạn này”, nhưng không khóc lóc thảm thiết. Chúng ta
không biết Tào Tháo nói trong trường hợp nào và cũng không biết lúc bấy giờ có
các mưu sĩ ở đó không. Có thể La Quán Trung đã diễn nghĩa, không thể tin được,
cùng là Tào Tháo mà cha con Mao Tôn Cương phê là Tào Tháo trong tiểu thuyết,
không phải Tào Tháo trong lịch sử.
Tào Tháo trong lịch sử không đáng buồn
cười như thế! Tào Tháo than thở chưa hẳn là muốn làm “nhục các mưu sĩ”. Thực tế,
có nhiều nguyên nhân khiến Tào Tháo bất lợi ở Xích Bích, trách nhiệm chủ yếu
không phải là do mưu sĩ. Và mưu sĩ của Tào Tháo đâu có kém cỏi! Ví dụ, từ lâu
đã có người nghĩ sẽ có liên minh Tôn, Lưu, người đó là Trình Dục. Tào Tháo sau
khi đoạt được Kinh châu đã tiếp tục xuôi xuống Giang Đông, cũng có người phản đối,
người đó là Giả Hủ. Tiếc là “Thái tổ không theo, việc quân bất lợi”. Rõ ràng là
mưu sĩ của Tào Tháo đã tận trách tận chức, lẽ nào Tào Tháo nỡ mượn cớ tưởng nhớ
Quách Gia để làm “nhục các mưu sĩ”?
Vậy, vì sao Tào Tháo phải than thở? Thực
tế thì Tào Tháo than thở mệnh khổ của mình, Quách Gia ra đi quá sớm Tam quốc
chí, Quách Gia truyện nói, “Thái tổ đánh Kinh châu về, đến Ba Khâu gặp dịch bệnh,
đốt thuyền và than rằng: “Quách Phụng Hiếu còn, ta đâu đến đoạn này!”, ý muốn
nói, nếu Quách Gia còn sống, sự việc đã khác.
Quách Gia được mệnh danh đệ nhất mưu sĩ, đây cũng là người mà Tào Tháo hết mực quý trọng, vô cùng tán dương |
Sao lại có thể không như thế này? Vì
Quách Gia là thiên tài quân sự. Quách Gia “giỏi tính toán, mọi việc ổn hơn”.
Quách Gia biết tuỳ cơ ứng biến, quyết đoán tại chỗ, thần cơ diệu toán, chiến thắng
đột xuất. Như chuyện Tào Tháo ba lần đánh Lã Bố, binh lính đã mệt mỏi, chuẩn bị
lui quân. Quách Gia chủ trương đánh tiếp và đoán rằng đánh tiếp sẽ thắng, kết
quả đã bắt được Lã Bố! Tào Tháo tiến đánh Viên Đàm, Viên Thượng, đã đánh là thắng,
lại muốn đánh tiếp, Quách Gia chủ trương lui quân, kết quả anh em Viên Đàm,
Viên Thượng hoạ đến từ trong nhà, ngư ông Tào Tháo được lợi. Tào Tháo đi đánh
Viên Thiệu, có người lo Tôn Sách thừa cơ sẽ lén đánh Hứa Đô, Quách Gia nói
chúng không dám đến; Tào Tháo đi đánh Ô Hoàn, có người lo Lưu Biểu nhân cơ sẽ
lén đánh Hứa huyện, Quách Gia nói không. Kết quả thế nào? Mọi chuyện hoàn toàn
như dự đoán của Quách Gia.
Quách Gia không chỉ liệu việc như thần
mà còn dám mạo hiểm, đi trên dây. Như hai trận chiến Quan Độ, Ô Hoàn, người người
lo lắng là hoàn toàn có lý. Theo lẽ thường, Tôn Sách và Lưu Biểu sẽ nhân có lửa
mà cướp bóc, đánh một đòn vào sau lưng Tào Tháo. Riêng Quách Gia dám quả quyết
là không và cũng chỉ có Tào Tháo mới dám theo, chơi trò mạo hiểm lớn. Thực ra
thì trong trận chiến Quan Độ, ít nhiều là may mắn, sau này sẽ nói tới. Nhưng
qua trận chiến Ô Hoàn đã thể hiện rõ thiên tài về quân sự của Quách Gia.
Ô Hoàn là dân tộc thiểu số ở miền bắc
Trung Quốc trước đây luôn theo Viên Thiệu. Sau trận chiến Quan Độ, Viên Thiệu ốm
chết, Viên Đàm và Cao Cán bị giết. Viên Thượng và Viên Hi bị Tào Tháo đánh bại
phải chạy vào Ô Hoàn, năm Kiến An thứ X (năm 205), hòng mượn lực lượng của Ô
Hoàn, đánh lại Tào Tháo. Vì vậy, để tiêu diệt thế lực còn lại của Viên Thiệu thống
nhất miền bắc, Tào Tháo không thể không đánh Ô Hoàn. Nhưng Ô Hoàn không phải dễ
đánh, nhiều người chủ trương không đánh, cuối cùng thắng được nhưng rất nguy hiểm.
Theo chú dẫn, Tào Man truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí, Vũ đế kỷ, bấy
giờ trời rét căm căm, không bóng người, không khói bếp, hành quân liên tục hàng
hai trăm dặm, không có một giọt nước, lương thảo cũng gần hết, Tào Tháo “giết mấy
ngàn con ngựa làm lương, đào sâu hàng hơn ba mươi trượng để lấy nước”. Vì vậy,
sau khi về đến Nghiệp Thành, Tào Tháo lệnh trọng thưởng cho những người từng
khuyên không nên tiến đánh Ô Hoàn. Tào Tháo nói, thắng lợi lẩn này, hoàn toàn
là gặp may. Lòi khuyên của các vị mới là kế sách vẹn toàn. Rõ ràng trận chiến
này là vô cùng kinh hiển.
Thực ra khi đó nhiều người phản đối
đánh Ô Hoàn. Theo Tam quốc chí, Vũ đế kỷ có hai lý do chủ yếu để họ phản đối.
Thứ nhất, Viên Thượng chỉ là kẻ mất nước trốn chạy. Ô Hoàn là “Di địch”, “một
mình tham lam”, chẳng có cớ gì để giúp đỡ Viên Thượng. Vì vậy chẳng cần phải
đánh. Thứ hai, Ô Hoàn đất rộng ở xa, một khi quân ta viễn chinh, Lưu Bị nhất định
sẽ khích lệ Lưu Biểu nhân cơ lén đánh Hứa huyện “Vạn nhất có biến thì hối không
kịp”. Vì vậy không nên đánh.
Nhưng Quách Gia lại chủ trương đánh,
phải đánh và đánh là thắng. Theo Tam quốc chí. Quách Gia truyện, Quách Gia nhận
định, thứ nhất Ô Hoàn rất xa, nhưng chính và ở rất xa, họ sẽ “ỷ thế xa” mà
“không phòng bị”. Nếu chúng ta xuất kỳ bất ý, tập kích bất ngờ, nhất đinh chúng
không kịp trở tay, vì vậy “có thể phá dễ dàng”. Thứ hai, không thể xem nhẹ ảnh
hưởng của gia tộc Viên thị, không thể đánh gá thấp thực lực của ba quận Ô Hoàn.
Một khi chúng liên kết với nhau, “cùng bầy tôi của vị chúa đã chết, hoàn thành
mưu kế từng mơ ước”, thì e Thanh châu và Ký châu sẽ không còn là của chúng ta nữa.
Còn như Lưu Biểu - đây là điểm thứ ba, chẳng qua chỉ là kẻ ba hoa khoác lác (ngồi
bàn suông). Lưu Biểu hiểu mình không bằng Lưu Bị, không biết phải đối xử với
Lưu Bị như thế nào. Trao quyền thì sợ khống chế không nổi, không trao quyền thì
sợ Lưu Bị sẽ không thực bụng giúp mình. Vì vậy, dù chúng ta “viễn chinh, đất nước
bỏ trống nhưng bất tất phải lo hậu phương bốc lửa. Mong Tào công cứ yên tâm!”.
Sự việc diễn biến đúng như Quách Gia dự
đoán. Theo chú dẫn Hán Tấn Xuân Thu của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc chí, Tiên
chủ truyện, vào năm Kiến An thứ XII (năm 207), Tào Tháo tiến đánh Ô Hoàn, Lưu Bị
khuyên Lưu Biểu lén đánh Hứa huyện, Lưu Biểu không làm (Tiên chủ nói Biểu đánh
Hứa, Biểu không theo). Chờ khi Tào Tháo từ Liễu Thành (gần thị trấn Triều
Dương, Liêu Ninh hiện nay) đại bản doanh vua Đạp Đốn Ô Hoàn đem quân về, Lưu Biểu
mới hối hận, không nghe lời Lưu Bị bỏ phí một cơ hội lớn. Lưu Bị đành an ủi Lưu
Biểu, đang lúc thiên hạ đại loạn, chiến tranh liên miên, sẽ còn nhiều cơ hội. Nếu
từ nay biết phản ứng nhanh (người sau có phản ứng) thì còn gì để phải tiếc nữa
(tiếc gì lần này). Sự thực thì Lưu Biểu làm gì còn cơ hội. Sau khi bình định ba
quận của Ô Hoàn, Tào Tháo nhanh chóng chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Lưu Biểu;
còn Lưu Biểu chưa kịp giao tranh với Tào Tháo đã đi gặp thượng đế rồi.
Tào Tháo nghe theo Quách Gia, không để
ý tới Lưu Biểu, đưa quân lên bắc và tháng năm đến huyện Dịch (vùng tây bắc huyện
Hùng, Hà Bắc ngày nay), lúc đó Quách Gia nói với Tào Tháo, binh quý ở chỗ thần
tốc. Lúc này quân ta hành trình hàng dặm, khí tài nhiều và nặng, tốc độ chậm, rất
khó giành được thắng lợi nhanh chóng. Một khi tin tức bị lộ, đối phương sẽ có
chuẩn bị. Chi bằng bỏ lại khí tài rồi đi suốt ngày đêm, đánh cho chúng không kịp
trở tay. Tào Tháo nghe kế đưa khinh binh đến Vô Chung (nay là huyện Tân Tô),
sau đó được danh sĩ địa phương, ngài Điền Trù hướng dẫn theo đường tắt qua Từ
Vô (phía bắc Ngọc Điền, Hà Bắc ngày nay), trại Lư Long (nay là Hỉ Phong Khẩu,
Hà Bắc), Bạch Đàn (nay là Khoan Thành, Hà Bắc), Bình Cương (nay là Bình Tuyền,
Hà Bắc), trèo lên Bạch Long Đôi (nay là Bố Hữu Đồ Sơn, Liêu Ninh) cách Liễu
Thành chừng vài trăm dặm. Lúc này mới được tin quân Tào tới, vua Đạp Đốn của Ô
Hoàn vội vàng ra nghênh chiến. Kết quả thua trận, bị giết. Viên Thượng và Viên
Hi đành phải cao chạy xa bay tới Liêu Ninh cậy nhờ Công Tôn Khang.
Xem ra Quách Gia liệu việc như thần.
Vì vậy Tam quốc diễn nghĩa mới quy công thắng lợi cuối cùng của trận đánh cho
Quách Gia. Phần trước chúng ta đã nói về chuyện này. Sau khi phá Ô Hoàn, Tào
Tháo án binh bất động, không vội đi tiêu diệt Viên Thượng, Viên Hi, ngồi chờ
Công Tôn Khang đem đầu hai kẻ đó đến nộp. Quả nhiên Tôn Khang đã làm như vậy.
Đây vốn là quyết sách của Tào Tháo, nhưng Tam quốc diễn nghĩa lại nói đó là “Cẩm
nang diệu kế” của Quách Gia, gọi là Quách Gia di kế định Liêu Đông. Tam quốc diễn
nghĩa nói vậy là không muốn để Tào Tháo quá sáng chói, muốn nói rõ Quách Gia thực
tế mưu lược hơn người.
Sự thực, La Quán Trung ghép cây chiết
cành như vậy không phải là hoàn toàn vô cớ, vì đúng là Quách Gia đã có ý này.
Theo Tam quốc chí. Quách Gia truyện, sau khi Viên Thiệu mất, Viên Thượng và
Viên Đàm đều bị Tào Tháo đánh cho tơi bời khói lửa. Lúc này các tướng đều chủ
trương nhanh chóng tiêu diệt hai kẻ đó, Quách Gia lại nói là không cần, cứ để
cho hai anh em chúng đánh lẫn nhau. Quách Gia phân tích: Viên Thượng và Viên
Đàm đang bất hoà vì tranh giành quyền được thay cha, ai cũng có mưu sĩ của
riêng mình, thế tất nội bộ sẽ loạn. Nếu chúng ta bức quá, chúng sẽ liên kết lại;
nếu chúng ta không ngó tới, chúng sẽ đánh nhau. Vì vậy, chúng ta vờ như chuẩn bị
nam chinh Lưu Biểu, chờ đợi sự biến giữa chúng, “khi có biến sẽ đánh là định được
ngay”. Quả nhiên, khi quân Tào vừa đến Tây Bình (phía Tây huyện Tây Bình, Hà
Nam ngày nay), Viên Thượng, Viên Đàm xung đột lớn vì tranh giành Ký châu, Tào
Tháo như ngư ông được lợi.
Lúc này chẳng khó khăn gì để biết vì
sao Quách Gia liệu việc như thần. Nguyền nhân rất đơn giản, Quách Gia biết quá
rõ về con người, Quách Gia hiểu thấu Viên Thiệu, hiểu thấu Lã Bố, hiểu thấu Tôn
Sách, hiểu thấu Lưu Biểu và chẳng lạ gì Viên Thượng, Viên Đàm, mới dám có chiêu
nguy hiểm đó. Chả trách Tào Tháo đã nói, Quách Gia “nhìn thời sự, binh sự, hơn
hẳn người khác”. Dù là thời sự, dù là binh sự, xét cho cùng đều là nhân sự. Phải
tinh thông nhân sự thì mới hiểu được thời sự và binh sự.
Đúng là Quách Gia giỏi biết nhìn người
không chỉ nhìn rõ kẻ thù mà nhìn rõ cả chủ nhân. Trong biểu văn Tào Tháo nói “mỗi
khi bàn bạc, phải làm gì trước kẻ địch. Thần chưa quyết được thì Gia đã quyết
xong”. Rõ ràng mỗi lần ra quyết định, Quách Gia luôn trước Tào Tháo, luôn giúp
Tào Tháo có quyết tâm. Nhưng rõ ràng ở đây phải có một điều kiện, tức là cách đối
nhân xử thế của Tào Tháo, đủ để Quách Gia yên tâm ra mưu vạch kế, có những
chiêu hiếm, những chiêu xuất thần. Nếu lại như Viên Thiệu, hẹp hòi tư lợi, nhu
nhược ít quyết, chí lớn tài sơ, ghen ghét người hiền thì có tài trí thông minh
đến mấy, Quách Gia làm gì có đất dụng võ. Có thể nói, Quách Gia thành công cũng
chính là Tào Tháo thành công. Đó là điều hiếm thấy trong lịch sử. Thực dễ hiểu,
trong trận chiến Xích Bích, nếu Quách Gia còn thì hẳn đã xuất kì chế thắng,
giúp Tào Tháo chuyển bại thành thắng, hóa hiểm thành không. Đó cũng là nguyên
nhân để Tào Tháo nói “Quách Phụng Hiếu còn, ta đâu đến đoạn này”. Tiếc là lúc ấy
Quách Gia không còn, nếu không, lịch sử e phải viết lại, Tam quốc diễn nghĩa
cũng phải viết lại. Bởi Quách Gia chưa có “một lực lượng mạnh “, ít ra thì giữa
Quách Gia và Gia Cát Lượng đã có cuộc “đấu trí” hay ho.
Với đôi mắt sắc sảo như vậy, không thể
không nhìn thấu Lưu Bị. Thực tế thì Quách Gia cũng giống như Tào Tháo, đã thấy
rõ Lưu Bị là anh hùng. Nhưng ý kiến của Quách Gia lại có phần mâu thuẫn. Có người
chủ trương giết Lưu Bị, Quách Gia nói không nên giết. Tào Tháo thả Lưu Bị đi,
Quách Gia lại nói không nên thả. Lúc chú dẫn Quách Gia truyện Bùi Tùng Chi có
hai cách nói. Ngụy thư nói, có người thưa với Tào Tháo: “Bị có chí anh hùng,
nên sớm giết đi, tránh hậu hoạ”. Tào Tháo hỏi kế Quách Gia, Quách Gia nói nay
minh công xách bảo kiếm khởi nghĩa quân là để trừ bạo yên dân, nhờ vào sự trung
thành và tín nghĩa. Như vậy mà vẫn còn sợ không mời được anh hùng trong thiên hạ
đến với chúng ta. Lúc này Lưu Bị là anh hùng hết đường lui, đến nhờ minh công,
lại bị minh công giết. Vậy thì còn ai muốn theo minh công bình định thiên hạ nữa
đây? Giết một người để mất hết hi vọng của bốn biển, điều đó nên suy nghĩ kĩ.
Phó tử lại nói, Quách Gia chủ động tìm Tào Tháo và có ý kiến “Bị không muốn ở
dưới người khác, chưa đoán được mưu gì. Người xưa nói, một ngày dung địch, cả đời
tai họa, nên sớm xử đi”. Khi đó, Tào Tháo đang “Phụng thiên tử để lệnh thiên hạ,
lấy tín nghĩa chiêu nạp anh hùng”, nên không theo ý Quách Gia. Tận khi Lưu Bi
công khai phản bội, Tào Tháo mới “Hận là không nghe Quách Gia”.
Vì vậy, Bùi Tùng Chi có lời bình: Ngụy
thư nói đã ngược lại với lời Phó tử”. Nhưng theo tôi, hai cuốn sách đó không có
ý gì ngược nhau. Cái gọi là “nên sớm xử đi” có thể hiểu là nên sớm sắp xếp, chắc
gì đã phải là muốn giết Lưu Bị. Tôi đồng ý với quan điểm của Chu Trạch Hùng về
vấn để này. Chu cho rằng ý của Quách Gia là vừa không thể giết, vừa không thể
thả. Phải làm gì? Giam lỏng. Nhưng không hiếu vì lý do gì, Tào Tháo lại không
hiểu ý Quách Gia. Có thể đây là vấn đề khá nhạy cảm, Quách Gia không thể nói thật
rõ! Cuối cùng thì Tào Tháo cũng được, Quách Gia cũng được, họ đều không phải là
thần. Dù họ có nhìn thấu con người đến mấy, có thần cơ diệu toán đến mấy cũng
không ngờ rằng Lưu Bị giỏi thay đổi, không ngờ rằng trên đời còn có Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng trong lịch sử thời Tam
Quốc là nhân vật khá đặc biệt. Trước năm Kiến An thứ XII (năm 207), chúng ta
chưa hề thấy bóng dáng, chưa hề nghe tiếng nói của Gia Cát Lượng. Điều này
không hoàn toàn vì Gia Cát Lượng còn trẻ tuổi. Thời đó, anh hùng thiếu niên có
ít đâu? Huống hồ lúc xuống núi, Gia Cát Lượng đã rất già dặn. Nhưng cũng không
thể nói rằng vì Gia Cát Lượng không muốn xuống núi. Nên nhớ, một người “luôn ví
mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị” sẽ không cam tâm “giữ mạng sống trong thời loạn,
không muốn nổi danh với chư hầu”. Rõ ràng Gia Cát Lượng đang trông mong và chờ
đợi. Nói rõ hơn, là đang nhìn thời cuộc, chờ đợi lời kêu gọi của Lưu Bị. Vậy
trong số đông các anh hùng hào kiệt thời đó vì sao Gia Cát Lượng có thể nhìn ra
Lưu Bị? Đôi mắt tinh tường của Gia Cát Lượng đã nhìn thấy gì trên con người Lưu
Bị?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét