Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2022

MƯU SÂU NGHĨ XA

 


Phế Hán Thiếu đế hôn ám, lập Trần Lưu vương
là “tội ác” thứ nhất của Đổng Trác

Tập thứ sáu: MƯU SÂU NGHĨ XA

 

Tác giả Dịch Trung Thiên

 

Đổng Trác phế lập, Viên Thiệu lập người khác, Viên Thuật tự lập, điều đó nói rõ, nhiều lắm họ chỉ là “Kiêu hùng thời loạn”, ngược lại, Tào Tháo mới là nhà chính trị thiên tài. Bởi vì chỉ có Tào Tháo mới đưa ra được sách lược chính trị với vốn liếng thấp nhất, mạo hiểm ít nhất và lợi ích cao nhất trong thời buổi hỗn loạn đó. Vậy, sách lược của Tào Tháo là gì?

 

 

Tập trước, chúng ta đã nói tới ba vị “kiêu hùng thời loạn”. Đổng Trác và Viên Thiệu, Viên Thuật, có ba thái độ ba cách làm trong vấn đề hoàng đế: Đổng Trác phế lập, Viên Thiệu lập người khác, Viên Thuật tự lập. Ba cách này không thể nói là sai, nhưng ít nhất cũng là không quang minh vì giá thành cao, mạo hiểm lớn và lợi ích thấp. So sánh một chút thì thấy, biện pháp của Tào Tháo rõ ràng là cao minh hơn nhiều. Tháo không phế lập, cũng không lập người khác, càng không tự lập. Tháo nghênh đón hoàng đế hiện tại về căn cứ địa của mình rồi chăm lo, cung phụng. Sau đó lợi dụng cờ hiệu của hoàng đế, với danh nghĩa là quốc gia để hiệu lệnh thiên hạ, đánh phá bốn phương.

 

 

Cái gọi là “Ép thiên tử để lệnh chư hầu” thông thường là như vậy. Chúng ta có thể bàn thêm về vấn đề “Ép thiên tử”. Bao gồm cả Tào Tháo, Tào Tháo có định làm và có thể làm được như vậy hay không, đều có thể bàn. Bởi vì Tào Tháo và cả những mưu sĩ của mình, chưa ai nói như vậy, cũng chưa ai “Ép thiên tử”. Câu này là do người khác nói. Gia Cát Lượng nói Tào Tháo “Ép thiên tử để lệnh chư hầu”, người bên Tôn Quyền cũng nói Tào Tháo “Ép thiên tử để đánh bốn phương”, Viên Thiệu thì nói Tào Tháo còn muốn “Ép thiên tử để lệnh ta”. Chúng ta đều biết, cuộc đấu tranh chính trị thời đó là vô cùng ác liệt. Lời nói của đối phương chắc gì đã đúng.

 

 

Cách nói bên phía Tào Tháo là “Phụng thiên tử” là “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục” (Mao Giới) hoặc “Phụng thiên tử để lệnh thiên hạ” (Giả Hủ). Mới nhìn thì thấy hai cách nói có phần giống nhau, nhưng thực ra là khác nhau rất xa. Vậy “Phụng thiên tử” và “Ép thiên tử” khác nhau những gì? Vì sao Tào Tháo lại làm như vậy? Đó là chủ ý của ai? Tào Tháo đã thực hiện như thế nào? Và thực hiện như vậy có lợi gì?

 

 

Có điều, trước khi trả lời những câu hỏi này, chúng ta nên giới thiệu sơ qua về tình hình lúc đó. Năm Sơ Bình thứ III (năm 192) thời Hán Hiến đế, tư đồ Vương Doãn liên hợp với Lã Bố phát động chính biến cung đình, mưu giết Đổng Trác. Tam quốc diễn nghĩa nói thành, Vương Doãn thực hiện mĩ nhân kế và kế li gián. Đây đương nhiên là tiểu thuyết gia nói, Điêu Thuyền cũng là nhân vật trong hí kịch từ thời Nguyên; vở tạp kịch Liên hoàn kế thời Nguyên nói, Điêu Thuyền là con gái Nhiệm Ngang tên là Hồng Xương, làm nhiệm vụ giữ mũ điêu thuyền ở trong cung, nên gọi là Điêu Thuyền. Có điều việc Đổng Trác và Lã Bố hay tư tình với mấy nàng hầu có thế là có; Đổng Trác vì việc nhỏ đó đã nổi giận lôi đình, cầm kích ném Lã Bố, cũng có thế có. Vì việc đó, Lã Bố đến kể khổ với Vương Doãn nói, đã mấy lần Đổng Trác định giết nên rất sợ. Những câu chuyện này đều ghi trong Tam quốc chí. Tam quốc chí. Lã Bố truyện nói, Vương Doãn biết vậy, muốn Lã Bố tham gia vào hành động của mình và là sát thủ. Lả Bố do dự nói: “Đã coi nhau như cha con”. Vương Doãn nói: “Ngài họ Lã, không phải tình cốt nhục, việc gì phải sợ, đâu còn là cha con”. Nhân lúc lên triều Lã Bố đã giết Đổng Trác.

 

 

Câu chuyện xảy ra, mọi người lấy làm hồ hởi. Theo chú dẫn Anh hùng kí của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí. Đổng Trác truyện, sau khi Đổng Trác chết, người ta ném xác hắn ra đường, người trông xác, nhét bấc đèn vào rốn hắn, biến cái bụng đầy mỡ kia thành một đĩa dầu và châm lửa cho cháy suốt đêm. Nhưng sau này Vương Doãn lại phạm phải sai lẩm tựa như Viên Thiệu, tức là giết nhiều người, giết người vô cớ, cha của Sái Văn Cơ, đại học giả Sái Ung cũng bị giết. Theo Tam quốc chí. Đổng Trác truyện, lúc chú dẫn Hậu Hán thư của Tạ Thừa, Bùi Tùng Chi nói, lúc giết Sái Ung rất nhiều người phản đối, từng đến khuyên. Vương Doãn nói, năm xưa Hiếu Vũ hoàng đế không giết Tư Mã Thiên, nên đã có cuốn sách rất xấu. Lúc này vận nước đang xuống, loạn lạc khắp nơi, quân lính của Đổng Trác còn ở ngoài thành, sao có thể đế kẻ gian cầm bút đứng cạnh hoàng đế nhỏ tuổi? Bùi Tùng Chi không thừa nhận việc này, nhưng Vương Doãn giết Sái Ung, giết nhiều người khác, đả kích hàng loạt, lại là việc có thực.

 

 


Sái Ung bị Vương Doãn giết.
Sái Ung là danh sĩ nổi tiếng cuối Đông Hán.
 Rất nhiều ghi chép lịch sử về sau đều dẫn ý kiến bình luận Sái Ung

Điều này buộc bộ hạ cũ của Đổng Trác phải liều mạng đánh vào Tràng An. Đến lượt Vương Doãn bị bêu xác, chỉ có Lã Bố, mở đường chết ra Vũ Quan, chạy sang Viên Thuật ở Nam Dương, triều đình rơi vào tay bộ hạ cũ của Đổng Trác là Lý Thôi, Quách Dĩ. Hai người này còn thô lỗ hơn cả Đổng Trác, thương cho Hán Hiến đế vừa thoát khỏi hang hùm đã rơi luôn vào ổ sói. Điều tệ hại hơn là hai con sói còn đấu với nhau ngay trong ổ. Lý Thôi đưa hoàng đế về doanh trại, Quách Dĩ cướp trăm quan vào trong quân, đúng là “một kẻ cướp thiên tử, một kẻ giật công khanh”. Về sau hai bên đánh nhau đến sức cùng lực kiệt, thương vong lên tới hàng vạn, tình hình mới tạm yên. Tháng bảy năm Hưng Bình thứ II (năm 195) bộ tướng của Lý Thôi là Dương Phụng mới cùng Đổng Thừa cháu của Đổng thái hậu, hộ tống thiên tử về kinh (Lạc Dương). Sau một năm trời phải phiêu bạt, lưu ly, thiên tử nay đã biến thành lãng tử. Tháng bảy niên hiệu Kiến An năm đầu (năm 196), hoàng đế đã về tới Lạc Dương. Nhìn thấy kinh thành bị Đổng Trác tiêu hủy không còn gì, thiên từ muốn khóc nhưng không còn nước mắt.

 

 

Đất nước và dân tộc đứng trước một cục diện hỗn loạn, là điều bất hạnh lớn, nhưng lại là cơ hội lớn cho chư hầu tranh giành bá nghiệp. Từ đây họ được thử nghiệm, thử xem ai trung thành với đất nước với nhân dân, thử nghiệm xem ai có thể nắm bắt được cơ hội phát triển của mình. Lúc này nhìn lại mới thây rõ, tập đoàn Tào Tháo thử nghiệm hợp cách nhất. Sau khi đến Duyện châu, Tào Tháo cùng mưu sĩ tạo dựng nền móng cho chiến lược chính trị, chiến lược kinh tế, chiến lược quân sự trong một thời gian dài. Có thể coi đó là “Long Trung đối” theo “Bản của Tào Tháo” hoặc “Bản của Mao Giới”.

 

 

Trước hết Mao Giới phân tích tình hình cho rằng, lúc này xã hội loạn lạc (thiên hạ đại loạn), đất nước mất ổn định (quốc chủ di dời), kinh tế suy sụp (dân sinh bại hoại), tai họa hoành hành (đói rét lưu vong), có thể nói quốc không thái (kho tàng nhà nước rỗng không), dân không yên (dân chúng không được yên). Đây không phải là kế lâu dài (khó giữ được). Như lúc này cần có người hùng tài đại lược đứng ra lo liệu. Đây là việc được gọi là “nghiệp bá vương”. Nhưng một số người có điều kiện như Viên Thuật, Lưu Biểu, quân dân đều mạnh, nhưng không nhìn xa trông rộng, không có được nền tảng cơ bản. Cơ bản là cái gì? Một là chính nghĩa, hai là thực lực. Thực lực, phải nói tới thực lực về kinh tê. Bởi phải tính chuyện lương thảo trước khi tính tới chuyện binh mã. Lương thảo không đủ thì đừng nói tới chuyện đánh nhau. Thực tế thì đấu tranh không chỉ là so sánh về lực lượng quân sự, còn là sự so sánh về kinh tế. Đương nhiên chiến tranh không chỉ là thực lực mà còn là nhân tâm. Được lòng người là được thiên hạ. Có ngọn cờ chính nghĩa thì ra quân được danh chính ngôn thuận, mới có thể phá giặc giành thắng lợi, gọi là “người có nghĩa quân là người thắng”. Có kinh tế tức là tài lớn khí mạnh, tiến thoái dễ dàng, tức là “giàu mới giữ được địa vị”. Tóm lại, nếu có hai điều kiện đó thì tiến có thể đánh, thoái có thể giữ.

 

 

Vì vậy, Mao Giới đưa ra ba ý kiến với Tào Tháo: phụng thiên tử, lo cấy trồng, trữ quân lương. Mao Giới nói “có nghĩa quân mới thắng, giàu mới giữ được địa vị, phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục, lo cấy trồng, trữ quân lương, như vậy nghiệp bá vương sẽ thành”. Vì sao lại phải “Phụng thiên tử”? Vì, thời đó hoàng đế không chỉ là nguyên thủ quốc gia, mà còn là dòng chính của trời xanh, tức là “thiên tử”, còn là người cha của thiên hạ, tức là “vua cha”. Quan niệm này được hình thành từ rất sớm, từ thời Tây Chu. Thời Tây Chu không có hoàng đế chi có thiên tử, Chu vương là “chủ chung của thiên hạ”, về sau, Tần diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ “Vương chế” biến thành “đế chế”, “chủ chung” biến thành “chủ riêng”, còn hoàng đế thay cho “vua” thì vẫn là “thiên tử”. Lúc này, dòng chính của trời xanh, chủ của người thiên hạ đã phiêu bạt lưu ly, ăn không đủ no, ở không cố định, chư hầu cát cứ một phương không giơ tay cứu vớt, rất nhiều người căm phẫn bất bình, không muốn như thế. Nếu có ai có thể tôn phụng thiên tử thì người đó sẽ được lòng người. Mao Giới là người mưu sâu nghĩ xa. Còn như “lo cấy trồng, trữ quân lương” đã nói rõ ở phần trước. Tóm lại “phụng thiên tử” là chiến lược chính trị, lo cấy trồng” là chiến lược kinh tế, “trữ quân lương” là chiến lược quân sự, nên như lời Mao Giới, đây là “văn kiện có tính cương lĩnh”.

 

 

Tào Tháo nghe ngay lời của Mao Giới. Tam quốc chí nói là “kính theo lời đó”, và cho thi hành luôn. “Đồn điền” nói ở phần trước chính là “lo cấy trồng, trữ quân lương”. Còn việc cần làm khác chính là “phụng thiên tử”.

 

 

Nhưng làm được điều này không phải dễ. Sau khi Mao Giới có ý kiến, Tháo đã phái sứ giả đến Tràng An liên lạc với triều đình. Nhưng Thái thú Hà Nội là Trương Dương đã cản trở sứ giả, không cho quá cảnh. Lúc này, có một người tên là Đổng Chiêu ra giúp. Theo Nhàn thoại tam phân của Trần Nhĩ Đông thì Đổng Chiêu còn không được coi là nhân vật thứ yếu trong Tam Quốc. Nhưng theo tôi, “vai diễn” của Đổng Chiêu tuy không quan trọng nhưng lại thường xuất hiện vào những lúc mấu chốt. Như lúc Tào Tháo nghênh đón thiên tử, Trần Nhĩ Đông nói “Đổng Chiêu bảo lấy “chiêu bài hoàng đế”; về sau Tào Tháo trở thành “Ngụy công”, “Ngụy vương”, (Tam quốc chí) cũng nói “Do Chiêu bày ra”. Thực tế thì những việc của Tào Tháo không phải là công của riêng Đổng Chiểu. Như “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục” đầu tiên là ý kiến của Mao Giới. Có điều để làm được như vậy Đổng Chiêu đã có tác dụng rất lớn.

 

 

Đổng Chiêu vốn là người của Viên Thiệu, Thiệu nghe lời dèm đã sinh nghi. Đổng Chiêu phải bỏ Thiệu đến Lạc Dương nửa đường thì Trương Dương thu nhận. Sau khi biết sứ giả của Tào Tháo bị Trương Dương cản, Đổng Chiêu liền nói, tướng quân không nên nghĩ Thiệu và Tháo là người một nhà, theo tôi, một ngày nào đó họ sẽ trờ mặt và người thắng sẽ là Tào Tháo, vì Tào Tháo chính là anh hùng thiên hạ lúc này. Nay Tháo ở Duyện châu, phái sứ giả triều kiến thiên tử, đường qua chỗ tướng quân (kỳ thực đã bị Trương Dương ngăn lại) thì đây là duyên phận giữa tướng quân và Tào Tháo! Chi bằng tướng quân cứ thuận theo lòng dân thì sau này hai người sẽ trở thành bè bạn. Trương Dương bèn dâng thư lên triều đình tiến cử Tào Tháo. Đổng Chiêu còn tự bỏ tiền ra dâng lễ lên Lý Thôi, Quách Dĩ với danh nghĩa của Tào Tháo, từ đó Tào Tháo đã có quan hệ đi lại với triều đình. Đó là việc của năm Sơ Bình thứ III (năm 192) thời Hán Hiến đế.

 

 

Đến tháng mười năm Hưng Bình thứ II (năm 195), Tào Tháo chính thức là Duyện châu mục, lực lượng càng thêm mạnh; và vào khoảng tháng bảy niên hiệu Kiến An năm đầu (năm 196) thời Hán Hiến đế, tức là sau đó một năm, trải qua bao năm gian nan vất vả, hoàng đế đã về đến Lạc Dương, điều kiện nghênh đón thiên tử đã chín muồi. Tào Tháo phái người em họ của mình là Dương Vũ tướng quân Tào Hồng đi Lạc Dương, nhưng đã bị Vệ tướng quân Đổng Thừa và Viên Thuật ngăn cản. Lúc này may sao lại có Đổng Chiêu, Đổng Chiêu đi tìm Dương Phụng. Đổng Chiêu phát hiện thấy số quân phiệt như lang như hổ bên cạnh hoàng đế có Dương Phụng thực lực tuy mạnh nhưng địa bàn lại mỏng đang hy vọng có ngoại viện. Đổng Chiêu thay mặt Tào Tháo viết một bức thư, trước hết là những lời ca ngợi Dương Phụng, sau mới nói, nay thiên hạ hỗn loạn “Những người hiền phải làm sạch vương pháp, nhưng việc không phải của một người”, cần phải liên hợp lại. Liên hợp như thế nào? “tướng quân là nội chủ, tôi ngoại viện. Nay tôi có lương, tướng quân có lính, điều gì còn thiếu, ta giúp đỡ nhau”. Hơn nữa Đổng Chiêu còn thay Tào Tháo có lời thề “thề cùng nhau sống chết”. Dương Phụng đọc thư, luôn gật đầu cho là phải, liền cử Tháo là Trấn đông tướng quân và được thừa tập tước của cha là Phí Đình hẩu. Vừa lúc Đổng Thừa gây mâu thuẫn với nhiều người trong triều, còn phái người đến mời Tào Tháo ra quân đến Lạc Dương. Tào Tháo không còn trở ngại gì trong việc nghênh đón thiên tử.

 

 

Ngày 18 tháng 8 Kiến An năm đầu (năm 196) thời Hán Hiến đế, Tào Tháo vào Lạc Dương bái kiến Hán Hiến đế. Tào Tháo mang đến cho hoàng đế lời thăm hỏi li biệt lâu ngày, đem đến cho hoàng đế lương thực, rượu thịt lâu nay chưa thấy. Quân thần gặp nhau cảm khái muôn phần. Tào Tháo không ngờ rằng thiên tử chí tôn mà bấy lâu nay ăn uống chẳng khác gì ăn mày. Hoàng đế cũng không ngờ, trong thời buổi loạn lạc thế này mà vẫn có người nhớ tới mình. Thiên tử liền xuống chiếu ban cho Tào Tháo phù tiết và hoàng việt, chức Lục Thượng thư sự. Cầm phù tiết là có quyền chấp pháp trong quân, cầm hoàng việt là có quyền chi huy trong ngoài, Lục Thượng thư sự có quyền chấp pháp tối cao. Bước đầu, Tào Tháo đã thành công.

 

 

Nhưng chỉ có thể coi đây là bước đầu tiên của cuộc vạn lý trường chinh. Bởi lúc này hoàng đế đang trong tay người khác thì quyền uy gì. Tào Tháo đang phải dựa vào địa bàn người khác và hoàng đế thì không có quyền uy. Vậy thực hiện quyền chấp pháp với ai, lấy gì để thực hiện quyền chỉ huy, quyền hành chính tối cao! Phụng thiên tử lệnh kẻ chưa thần phục, đơn giản chi là việc ngày rộng tháng dài. Vì vậy; Tào Tháo cần phải bước tiếp bước thứ hai, đưa hoàng đế về bên cạnh mình.

 

 

Trong bước thứ hai cũng có công sức của Đổng Chiêu. Sau khi đến Lạc Dương, Tào Tháo có cuộc trò chuyện với Đổng Chiêu. Tào Tháo mời Đổng Chiêu ngồi cùng, cảm tạ Đổng Chiêu vì đã âm thẩm giúp đỡ, đồng thời hỏi kế tiếp theo. Đổng Chiêu nói, tướng quân cử nghĩa quân trừ bạo loạn, đưa thiên tử vào triều, phò tá hoàng thất, đó là sự nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công năm nào! Nhưng lúc này số tướng lĩnh bên cạnh thiên tử “khác người khác lòng, chắc gì họ đã phục tùng”. Nếu cứ ở lại Lạc Dương phò tá hoàng thượng “sự thể sẽ bất tiện”. Biện pháp duy nhất “Di giá về Hứa”, tức là mời hoàng thượng về huyện Hứa, căn cứ địa của tướng quân. Có điều, Trương Chiêu cũng nói, việc này chẳng dễ dàng gì. Bởi vì Đổng Trác đã ép hoàng đế đến Tràng An, dân chúng đã oán than bội phần. Chẳng dễ dàng gì hoàng đế mới về được Lạc Dương, thiên hạ cúi đầu mong chờ, hy vọng từ nay thiên hạ sẽ yên ổn. Nếu lúc này lại đi giá, e người người sẽ không phục. Đúng là “một việc khó khăn”. Sau đó, Đổng Chiêu nhân mạnh “Làm việc phi thường, mới có công phi thường, mong tướng quân cân nhắc kỹ”.

 

 

Rõ ràng đây là một thử thách với Tào Tháo. Tào Tháo nói luôn, tôi đã nghĩ tới chuyện này. Có điều, Dương Phụng ở ngay bên, nghe nói quân lính Dương Phụng quá lợi hại, sợ lại bị ngăn cản. Đổng Chiêu nói, không hề gì, Dương Phụng hữu dũng vô mưu, lại không có phe đảng, không phải lo lắng. Tướng quân nên có thư cho Dương Phụng với hậu lễ và nói, Lạc Dương không có lương thực, phải đi lấy lương ở Lỗ Dương. Lỗ Dương cách huyện Hứa trong gang tấc, nhưng đâu phải nói đi là đi được ngay? Lỗ Dương cách huyện Lương, địa bàn của Dương Phụng cũng không xa, Dương Phụng tất chẳng nghi ngờ, việc gì còn phải e ngại. Tào Tháo làm theo kế, quả nhiên đưa được hoàng đế về huyện Hứa!

 

 

Lúc này, Dương Phụng mới biết là mình bị lừa. Lúc Đổng Chiêu với danh nghĩa là Tào Tháo gửi thư đến, Dương Phụng nghĩ, Tào Tháo sẽ hợp tác với mình như lời lẽ trong thư, Phụng xuất quân, Tháo xuất lương. Dương Phụng chủ trì triều chính, Tào Tháo là ngoại viện. Dương Phụng đâu có ngờ, lẽ nào Tào Tháo lại chịu làm bộ tướng hậu cần cho người khác? Mà gần như người khác phải làm bộ tướng hậu cần cho Tào Tháo! Đương nhiên, Dương Phụng càng không ngờ Tào Tháo với danh nghĩa là “tạm về Lỗ Dương” nhưng thực chất là đã “dời đô về Hứa huyện”. Dương Phụng bực tức muốn thanh toán nợ nần với Tào Tháo, nhưng lại bị Tào Tháo đốt mất sào huyệt, cuối cùng đành phải chạy sang với Viên Thuật.

 

 

Hoàng đế dời đô về Hứa huyện ở tạm trong hành viên của Tào Tháo, thiên tử đã cảm thấy mãn nguyện. Trước khi về Hứa huyện, hoàng đế và các quan chẳng khác gì những kẻ ăn xin. Theo Hậu Hán thư. Hiến đế kỷ, lúc ở Lạc Dương, hoàng đế ở tạm trong nhà lão thái giám Triệu Trung, còn “trăm quan thì chẳng biết ăn đâu ở đâu”, các quan từ thượng thư lang trở xuống phải đi kiếm rau dại về ăn, có người đã chết vì đói, có người bị loạn quân giết chết. Tào Tháo đã cải thiện nhiều cuộc sống của họ, Tào Tháo làm việc gì cũng chu đáo tỉ mỉ khác gì một quản gia! Điều khiến thiên tử càng thêm cảm động là, những lúc cung cấp vật dụng hàng ngày cho thiên từ, Tào Tháo luôn dùng phương thức “vật dụng được trở về” và với một đạo “Dâng lên vật sơ mọn”. Tào Tháo nói, đây là mấy thứ tiên đế ban tặng cho ông của thần. Đây là ân sủng của tiên đế, lúc ở nhà, ông của thần đâu dám dùng tới. Nay hoàng thượng ăn ở bất tiện, thần chăng có chút công lao nào, sao dám giữ lại? Cần được trả về.

 

 

Đây là điều rất hay. Nên nhớ, khi giúp đỡ ai, điều quan trọng là đừng đế người ta cảm thấy như đang nhận của bố thí, thiếu hẳn tình người, càng không như người đến nhắc nhở người khác là họ đang được mình giúp đỡ. Hứa Du đã sai lầm từ điều này và phải chết sớm. Đương nhiên, thần tử dâng vật dụng lên hoàng thượng, xưa nay đều gọi là “hiếu kính”. Nhưng trong những thời điểm đặc biệt thế này thì “hiếu kính” và “bố thí” khác gì nhau đâu. Lúc này, thần tử nói được chữ “hiếu kính” coi như đã khá đủ. Nhưng ờ đây Tào Tháo lại nói “trả về”! “Trả về” và “hiếu kính” là khác nhau. Nói “hiếu kính” thì vật đó là của bạn, hoàng đế đã phải nợ một chút tình người. “Trả về”, ý nói vật đó vốn là của hoàng thượng, Tào Tháo không mất một chút tình người, Hoàng thượng nhận mà không hổ, Tào Tháo thì nên làm. Như vậy là tình người đã đủ. Có tình người mà như không có, Tào Tháo thật là cao minh.

 

 

Phần tinh tế của Tào Tháo khiến hoàng đế phải cảm động, khiến người khác cảm nhận Tào Tháo là một đại trung thần. Hoàng đế cảm thấy sung sướng vì có một trung thần như vậy, sung sướng hơn vì trời xanh đã ban cho mình một cứu tinh như vậy. Từ nay không phải lưu ly khổ sở, không còn là món hàng ký gửi trong tay bọn quân phiệt, không lo sẽ bị phế truất, bị sát hại bất cứ lúc nào. Đã có vị thần hộ vệ, được sống những ngày yên ổn.

 

 

Thế rồi, thiên tử lại xuống chiêu, bổ nhiệm Tào Tháo làm Đại tướng quân, phong Vũ Bình hầu. Vũ Bình hầu cao hơn hai cấp so với Phí Đình hầu (trên đình hầu là hương hầu, trên hương hẩu là huyện hầu). Quan Đại tướng quân là chức vụ thực quyền cao nhất của vương triều Đại Hán kể từ thời Vũ đế sánh với “Tam công” địa vị cao hơn, quyền lực lớn hơn. Thế là Tào Tháo đã hoàn thành trình tự “phụng thiên tử”, đạt tới địa vị cao quý “dưới một người, trên vạn người”, Tào Tháo đã có thể “lệnh chư hầu” được chưa?

 

 

Chưa. Thứ nhất, Viên Thiệu không nghe lời Tào Tháo. Sau khi là Đại tướng quân, có thể vì muốn có sự cân bằng hoặc vì muốn an ủi bạn cũ, Tào Tháo, mượn danh nghĩa hoàng đế, bổ nhiệm Viên Thiệu làm thái úy, phong Nghiệp hầu. Viên Thiệu đã nhảy lên cự tuyệt không tiếp nhận, vì thái úy tuy là chức quan cao nhất nắm quân sự trong cả nước, là một tam công, nhưng địa vị lại ở dưới Đại tướng quân. Theo chú dẫn Hiến đế Xuân Thu của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí. Viên Thiệu truyện, Viên Thiệu đã phẫn nộ nói với người khác, Tào Tháo đã suýt chết mấy lần, lần nào ta cũng cứu hắn, sao giờ hắn lại dám đái lên đầu ta, hắn là cái thá gì vậy! Chẳng lẽ lại muốn “Ép thiên tử để lệnh ta”?

 

 

Con người Viên Thiệu tuy xuất thân cao quý nhưng lại rất hẹp hòi. Có thể đây là một trong số những nguyên nhân khiến cuối cùng Viên Thiệu thất bại. Ngược lại, Tào Tháo rất đại lượng. Biết rằng lúc này không thể trở mặt với Viên Thiệu, Tào Tháo đã dâng biểu xin từ chức Đại tướng quân để nhường cho Viên Thiệu. Lúc này, Viên Thiệu thấy mình không mất sĩ diện, mới không phá nữa. Thực tình, thì Viên Thiệu cũng không ở trong triều, nên dù có hiệu lệnh thì hiệu lệnh đó cũng chỉ quanh quẩn trong địa bàn của mình, nên Đại tướng quân hay Tiểu tướng quân có khác gì nhau? Huống hồ đây là chức vị Tào Tháo nhường cho thì có gì là sĩ diện, chỉ để cho hậu thế chê cười.

 

 

Hơn nữa Tào Tháo chỉ giữ “sĩ diện” cho Viên Thiệu, không hề cho Viên Thiệu thực quyền và cũng không nghe Viên Thiệu chỉ huy. Theo chú dẫn Ngụy thư của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Vũ đế kỷ, lúc đó Viên Thiệu còn muốn Tào Tháo tìm bừa ra tội gì đó để giết Dương Bưu và Khổng Dung, Tào Tháo không nghe lời Thiệu. Tào Tháo biết Viên Thiệu có thù với Dương Bưu và Khổng Dung, bản thân mình cũng chẳng thích gì Dương Bưu và Khổng Dung, nhưng biết lúc này không phải là lúc giết người, càng không thê giết bừa danh sĩ, mà dù có giết thì đó đâu phải là việc của mình, đâu cần đến sự chỉ huy của Viên Thiệu? Tào Tháo liền có thư nói rõ tình hình hiện nay cho Viên Thiệu, “Thiên hạ đang lúc băng tan núi lở, hào kiệt nổi lên khắp nơi”, quân thần nhìn nhau, đã không cùng lòng cũng không cùng đức “trên dưới còn nghi ngờ lẫn nhau”. Là người chấp chính, nếu không thành tâm cư xử với người khác, sẽ không có được lòng tin của mọi người. Nếu lại muốn giết hai người đó, thì tránh sao khỏi mọi người sẽ lo lắng? Nhớ trước đây, để ổn định cả triều đình, Cao hoàng đế đã phong hầu Ưng Si - người đã xích mích với mình, chẳng nhẽ các hạ lại quên chuyện này sao? Viên Thiệu được tin, tức đến muốn chết, cho rằng, bề ngoài Tào Tháo là chí nhân vô tư, thực tế trong lòng đầy quỷ kế, còn muốn giở trò trách móc người khác, thực đáng hận!

 

 

Đương nhiên, Tào Tháo cũng hiểu rõ tâm tư của Viên Thiệu và sẽ có một ngày hai bên công khai trở mặt. Có điều, qua việc quậy phá của Viên Thiệu, Tháo ý thức được việc không đơn giản như suy nghĩ. Đừng tường rằng cứ nắm được tiểu hoàng đế, cứ làm Đại tướng quân thì thiên hạ sẽ là của mình. Không hề gì! Thực tế, Viên Thiệu không theo, Viên Thuật cũng không theo, lũ quân phiệt nhỏ như Lã Bố, Trương Tú cũng không theo, chưa nói đến những người ở xa như Lưu Biểu và Tôn Sách. Cờ hiệu của hoàng đế không thể thay thế gươm giáo, muốn có thiên hạ phải giở nắm đấm ra.

 

 

Vì vậy, nếu nói Tào Tháo sau khi về Hứa Đô đã “Ép thiên tử để lệnh chư hầu” là không đúng. Vào thời đó, Tào Tháo chưa có bản lĩnh và cũng chưa chắc đã nghĩ tới điều đó. Vì vậy Mao Giới kiến nghị “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục” không phải “Ép thiên tử để lệnh chư hầu”. Hai điều đó khác nhau về bản chất. Phụng là tôn phụng, ủng hộ; ép là ép buộc, lợi dụng, lệnh kẻ chưa thần phục là muốn địa phương phục tùng trung ương; lệnh chư hầu, là muốn người khác phải phục tùng mình. Vì vậy, “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục” là cương lĩnh chính trị với mục đích là thực hiện thống nhất đất nước; “Ép thiên tử để lệnh chư hầu” là sách lược chính trị, mục đích là thực hiện dã tâm cá nhân. Hai cách nói đó sao có thể hỗn hợp làm một?

 

 

Vậy, Tào Tháo thực lòng muốn “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục” hay là “Ép thiên tử để lệnh chư hầu”?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét