Viên Thiệu chủ trương dùng bạo lực để đập tan lực lượng chính trị-quân sự của địch |
Tập thứ bảy: VÀO TRƯỚC LÀ CHỦ
Tác giả Dịch Trung Thiên
Tào Tháo là một thiên tài về chính trị,
tập trung biểu hiện ở việc nghênh đón thiên tử, dời đô về Hứa huyện. Có thể có
hai cách giải thích về động cơ của việc này. 1 – Để ủng hộ việc thống nhất đất
nước, cần phải ủng hộ hoàng đế, người tượng trưng cho sự thống nhất, loại bỏ
các chư hầu dẫn đến chia cắt đất nước, tức là “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa
thần phục”; 2 - Tào Tháo muốn thực hiện dã tâm chính trị cá nhân, coi hoàng đế
như một con bài, hòng tiêu diệt những kẻ khác ý, tức là “Ép thiên tử để lệnh
chư hầu”. Vậy, suy nghĩ thực tế của Tào Tháo là gì?
Tập trước đã nói, sau khi đến Lạc
Dương gặp hoàng đế, Tào Tháo nghe theo kế của Đổng Chiêu, mời thiên tử về căn cứ
địa của mình, từ đó dời đô về Hứa huyện. Nhiều người cho rằng Tào Tháo bắt đầu
“Ép thiên tử để lệnh chư hầu”. Nhưng phần trước chúng ta đã nói, cương lĩnh
chính trị của Tào Tháo là “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục”, không phải “Ép thiên tử để lệnh chư hầu”. Vậy,
câu nói ‘Ép thiên tử để lệnh chư hầu” là từ đâu ra?
Chính mưu sĩ của Viên
Thiệu đã nói.
Viên Thiệu có hai mưu sĩ đã nói câu
này, một là Thư Thụ, Hai là Điền Phong. Thư Thụ nói là “Ép thiên tử để lệnh chư
hầu, sẵn sàng binh mã đánh kẻ chưa thần phục”, Điền Phong thì nói là “Ép thiên
tử để lệnh chư hầu, chỉ cần chỉ tay là bốn biển yên bình”. Ở lời chú dẫn Hiến đế
Xuân Thu của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Vũ đế kỷ có ghi lời của Điền
Phong, lời của Thư Thụ ghi trong lời chú dẫn “Hiến đế truyện” của Bùi Tùng Chi
trong Tam quốc chí. Viên Thiệu truyện. Lời Thư Thụ nói trước nói tường tận,
chúng ta nói về Thư Thụ.
Sau khi lừa lấy được Ký châu từ tay
Hàn Phức, nhân tiện, Viên Thiệu nhận Thư Thụ làm mưu sĩ. Trình độ Viên Thiệu
cao hơn Hàn Phức nhiều. Nên Thư Thụ bằng lòng làm việc cho Viên Thiệu. Theo Tam
quốc chí. Viên Thiệu truyện, sau khi Thư Thụ về với Viên Thiệu, hai người đã có
buổi trò chuyện. Giống như lời nói của Mao Giới có thể coi là “Long Trung đối”
“Bản Viên Thiệu”, hết sức bóng bảy. Thư Thụ nói, tướng quân anh hùng cái thế,
tuổi nhỏ tài cao tuấn tú. Tuổi trẻ mới vào triều đình mà tiếng tăm đã vang xa bốn
biển “vừa đội mũ lên triều, nổi tiếng cả nước” trước Đổng Trác bạo hành phản
nghịch, ngài biểu hiện đại nghĩa lẫm liệt (cạnh sự phế lập là trung nghĩa ngời
ngời); một mình một ngựa phá vòng vây, Đổng Trác phải kinh hồn lạc phách (cưỡi
ngựa thoát vây, Đổng Trác kinh hoàng); vượt Hoàng Hà nhận chức Bột Hải (dấy
quân một trận) đã được cả Ký châu ủng hộ, thật là “uy trấn hải hà, danh cồn
thiên hạ”! Lúc này thiên hạ còn chưa thái bình (Khăn Vàng quấy nhiễu, Hắc Sơn
phá phách), nhưng liệu có ai dám ngăn cản bước tiến của ngài? Lúc này ngài “Cất
quân về phía đông, sẽ lấy được Thanh châu; quay lại đánh Hắc Sơn, Trương Yên sẽ
chết; đưa quân về phía bắc, Công Tôn tất bại; làm chấn động Nhung Địch, Hung Nô
tất phải theo”, hoàn toàn có thể “Tung hoành phía bắc sông lớn, hợp cả bốn châu
lại, thu nhận tài trí của anh hùng, quân sẽ có hàng trăm vạn” ngài sẽ trở thành
anh hùng cứu thế giữ địa vị quan trọng. Bấy giờ ngài mời hoàng đế từ Tràng An về
(nghênh giá từ Tây kinh), khôi phục xã tắc và tổ miếu ở Lạc Dương (Dựng lại
tông miếu ở Lạc Ấp), sau đó “Hiệu lệnh thiên hạ, đánh kẻ chưa thần phục”. Tướng
quân có ưu thế chính trị nhường ấy thì ai dám tranh cao thấp với tướng quân (từ
đây tranh cao thấp ai địch nổi)? Chẳng bao lâu công lớn sẽ thành. Viên Thiệu
nghe thấy mà nóng ran cả người, và biểu lộ “lời nói thực hợp lòng ta”, nhưng tiếc
là chưa được thi hành.
Sau lần đó còn có thêm một lần trò
chuyện nữa, lời nói càng rõ ràng hơn, thời gian là trước lúc Tào Tháo nghênh
đón thiên tử không lâu. Theo chú dẫn Hiến đế truyện của Bùi Tùng Chi trong Tam
quốc chí. Viên Thiệu truyện, Thư Thụ nói, từ lúc Đổng Trác gây mầm họa lớn,
thiên tử lưu ly thất sở, tông miếu bị hủy hoại, chư hầu với danh nghĩa là cất
nghĩa quân, nhưng thực tế là tàn sát lẫn nhau (ngoài là nghĩa quân, trong là
tàn sát), không ai tôn sùng thiên tử, nghĩ đến trăm họ (không biết tôn vua,
thương dân). Bây giờ, về sơ bộ, tướng quân đã giữ yên được châu vực, nên nghênh
đón thiên tử về định đô ở Nghiệp Thành rồi “Ép thiên tử để lệnh chư hầu, sẵn
sàng binh mã đánh kẻ chưa thần phục” và còn ai địch nổi với ngài?
Những lời đó, Viên Thiệu nghe rất lọt
tai, nhưng tiếc thay những người khác lại phản đối. Hán Hiến đế nói người phản
đối là Quách Đồ. Nhưng Tam quốc chí lại nói Quách Đồ là người tán thành và còn
chủ trương “nghênh đón thiên tử và dời đô về Nghiệp Thành”. Chúng ta cũng chưa
rõ về điểm này. Có điều, những người bát nháo đã nói, vương triều Đại Hán sắp
đi đứt rồi, chúng ta còn lo vực dậy há chẳng phải là mua việc hay sao? Lúc này
mọi người đang muốn chiếm Trung Nguyên. Người ra tay trước là người mạnh, có thể
là vương ngay. Nếu lại đưa bảo bối là hoàng đế đến bên mình, để ngày ngày phải
thỉnh thị, việc việc phải hội ý, thực là phiền hà. Nếu nghe theo hoàng đế thì
mình chẳng là gì cả (nghe thì mất quyền); nếu không nghe sẽ là vi mệnh (không
nghe là chống lệnh), chịu sao nổi (không phải là kế hay). Viên Thiệu thì sao,
nghĩ tới Hán Hiến đế là do Đổng Trác dựng nên (không phải ý Thiệu), trong lòng
lại thấy bực, quên ngay ý nghĩ đó.
Không thể bỏ lỡ thời cơ, thời cơ sẽ
không đến lần thứ hai. Viên Thiệu do dự. Tào Tháo đã nẫng tay trên. Phen này đến
lượt Viên Thiệu tròn xoe mắt kinh ngạc. Sau khi Tào Tháo nghênh đón Hiến đế, dời
đô về huyện Hứa, không những không mất đi một thứ gì hoặc bị người khác trói buộc,
mà ngược lại còn thu được nhiều thứ. Tào Tháo được một vùng đất rộng ở phía nam
Hoàng Hà, nhân dân vùng Quan Trung đua nhau theo về (nhận đất Hà Nam, Quan
Trung theo về). Quan trọng hơn, Tào Tháo có được nguồn vốn chính trị to lớn,
không chỉ trở thành anh hùng khôi phục Hán thất, có địa vị “Dưới một người trên
vạn người” có thể đưa phái phản đối vào vị trí bất lợi trở thành những kẻ bất
nhân bất nghĩa. Từ đó, mọi việc như bổ nhiệm quan lại, mở rộng địa bàn hoặc
đánh những kẻ khác cánh, địch thủ về chính trị, Tào Tháo đều có thể lấy danh
nghĩa của hoàng đế, việc làm bất nghĩa trờ thành việc làm chính nghĩa. Còn lũ đối
thủ thì sao? Đều rất bị động. Phản đối Tào Tháo thật nguy hiểm, chẳng khác gì
phản đối hoàng thượng. Dù có giương cao ngọn cờ “quét sạch lũ nịnh thần” thì
cũng không bằng Tào Tháo trực tiếp dùng danh nghĩa hoàng đế để xuống chiếu vừa
danh chính ngôn thuận vừa được lợi. Sau này, lúc Viên Thiệu muốn đánh Tào Tháo,
Thư Thụ và Thôi Diễm đã nói “Thiên tử ở Hứa”, đánh Hứa là “phạm điều nghĩa”.
Gia Cát Lượng cũng nói về Tào Tháo “Ép thiên tử để lệnh chư hầu, thực không thể
tranh cao thấp” Tào Tháo vào trước sẽ là chủ, được nhiều điều lợi.
Viên Thiệu chịu nhiều thiệt thòi. Theo
Hậu Hán thư. Viên Thiệu truyện, Tào Tháo vừa nghênh đón hoàng đế về huyện Hứa,
đã lập tức với danh nghĩa hoàng đế có một đạo chiếu thư cho Viên Thiệu, trách
Thiệu “đất rộng quân đông, chi lo lập phe đảng”, không thấy ra quân cần vương,
nay đánh người này, mai đánh người khác. Viên Thiệu tiếp chiếu, trong lòng giận
sôi lên, nhưng đành phải nín nhịn, dâng thư giải trình. Viên Thiệu hối hận, liền
nghĩ cách bổ cứu. Lấy lí do Hứa Đô là vùng đất trũng, Lạc Dương bị tàn phá, yêu
cầu Tào Tháo dời hoàng đế về Quyển Thành (nay là huyện Quyển Thành, Sơn Đông) gần
với chỗ của mình, mong được cùng Tào Tháo hưởng vương bài. Đúng là nằm mơ lấy
được vợ. Tháo cười thầm, rồi cương quyết cự tuyệt. Lúc đó, mưu sĩ là Điền Phong
nói với Thiệu, việc dời đô đã không thành, phải nhanh chóng đánh huyện Hứa (kế
dời đô đã không thành, phải lấy Hứa để phụng nghênh thiên tử), nếu không lại
không kịp. Viên Thiệu không theo.
Thực tế, về việc này Tào Tháo đã cao
hơn Viên Thiệu một cái đầu. Cao hơn ở chỗ nào? Cao ở cách điệu, cao ở phẩm vị.
Nên nhớ, kiến nghị của Thư Thụ (Ép thiên tử để lệnh chư hầu) là khác với kiến
nghị của Mao Giới (Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục). Ở tập trước đã
nói: phụng là tôn phụng, ủng hộ, ép là ép buộc, lợi dụng. Mục đích của “Phụng thiên
tử để lệnh kẻ chưa thần phục” là thực hiện thống nhất đất nước “Ép thiên tử để
lệnh chư hầu” mục đích là thực hiện dã tâm cá nhân. Một đường là quang minh, một
đường là ma quỷ, sao có thể giống nhau? Mao Giới nói đúng “nghĩa quân sẽ thắng”.
Về khí thế thì bất nghĩa là kém xa.
Và dù Tào Tháo nghe theo Mao Giới
nghênh phụng thiên tử không phải thực lòng muốn vực dậy Hán thất đã sụp đổ, mà
chỉ coi hoàng đế là lá bài, thì về sách lược đã cao hơn Viên Thiệu. Bời vì
hoàng đế không chỉ là lá bài, mà còn là lá bài rất tuyệt. Lá bài tuyệt ở chỗ vừa
hư vừa thực. Nói là hư, vì lúc này hoàng đế, đừng nói tới “kiên cường độc đoán”
mà ngay cả tự do về thân thể cũng chẳng có, hoàn toàn do người khác sắp đặt giống
con rối đeo dây. Vì vậy, chỉ cần giơ tay ra là có lá bài đó. Nói là thực, vì mọi
người đều biết hoàng đế là không thực, là vật để trang trí, nhưng liệu ai dám
nói không, có thể không cần, chẳng ai dám nói hoàng đế cởi truồng như trong đồng
thoại. Hoàng đế có dặn dò gì, có hiệu lệnh gì, mọi người đều phải ra vẻ phục
tùng (Có một số việc phải làm theo), không dám giương mắt, há miệng nói ngược.
Chỉ có thể là như vậy, khi hai bên đối địch, thì bên nào cũng nói được hoàng đế
cho phép. Trong triều, buộc hoàng đế phải xuống chiếu, ờ nơi khác nói khống là
mật chiếu của hoàng đế, có vậy thì hành động của mình mới đúng, mới chính
nghĩa. Như vậy, hoàng đế là lá bài rất có ích, hơn nữa là vương bài thì kể gì từ
đâu tới?
Còn như nói, để hoàng đế ở cạnh rồi việc
gì cũng phải thỉnh thị, chi bằng cứ xa ra, rồi muốn nghĩ gì thì nghĩ, muốn làm
gì thì làm, đúng là ý nghĩ điển hình của lũ tướng cướp, đầu óc chính trị rỗng
không. Trời thì cao hoàng đế thì xa, nếu vị hoàng đế này là con rối thì gần hơn
một chút chẳng tiện hơn sao? Thỉnh thị hội báo, khấu đầu hành lễ đương nhiên là
vẫn cần. Nhưng chỉ cần suy nghĩ một chút cũng hiểu ngay đó là việc nhỏ. Tiểu
hoàng đế lúc đó mới 16 tuổi, còn là một đứa trẻ. Lúc đầu nằm trong tay Đổng
Trác, về sau lại rơi vào tay Vương Doãn và những người khác, chưa hề nắm quyền.
Lý Thôi, Quách Dĩ cắn xé lẫn nhau quân binh gặp nhau ở thành Tràng An, hoàng đế
cử người đến giảng hòa, nhưng chẳng ai chịu theo. Đường đường là thiên tử, chưa
nói tới việc hiệu lệnh thiên hạ, một việc cỏn con như vậy cũng không hoàn
thành. Hoàng đế đáng thương, đến chỗ Viên Thiệu thì còn gì là dáng vẻ một thiên
tử, có thể không cùng sống được với Viên đại nhân? Đấu tranh chính trị và làm
nghề buôn bán là giống nhau, phải chiếm được cơ hội buôn bán. Vương bài chỉ có
một tấm, bạn không chiếm thì người khác sẽ chiếm. Thư Thụ từng nói: “Quyền
không thể lỡ, cốt ở thần tốc”, “Nếu để chậm, sẽ có người lấy mất”. Tiếc là Viên
Thiệu nghe không lọt tai.
Mới hay, việc nghênh phụng thiên tử
cũng có hai cách nói. Mao Giới nói một cách, Thư Thụ nói một cách. Vậy, suy
nghĩ thực của Tào Tháo là gì? Tháo muốn “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục”
hay muốn “Ép thiên tử để lệnh chư hầu” đây?
Rõ ràng các mưu sĩ của Tào Tháo chủ
trương cách nói trước. Quan điểm của Mao Giới và Tuân Úc là như vậy. Tuân Úc vốn
là người của Viên Thiệu, nhưng Tuân Úc “đồ rằng Thiệu không thành được việc lớn”,
nên ngay từ năm Sơ Bình thứ II (năm 191) thời Hán Hiến đế đã rời Viên Thiệu chạy
đến với Tào Tháo, lúc đó chỉ là Thái thú Đông quận, Tào Tháo sung sướng nói,
đây chính là Trương Lương của ta! Kiến An năm đầu (năm 196), lúc Tào Tháo quyết
định nghênh đón thiên tử, nhiều người không tán thành (chư tướng còn nghi ngờ),
Tuân Úc và Trình Dục ra sức ủng hộ. Chúng ta không sao hiểu được Trình Dục đã
nói những gì, còn những điểu Tuân Úc nói đã được ghi trong Tam quốc chí. Tuân
Úc truyện. Chúng ta xem Tuân Úc đã nói những gì.
Tuân Úc nói, muốn đấu tranh chính trị,
phải có chính nghĩa, ít ra cũng phải có một ngọn cờ chính nghĩa. Năm đó, Tấn
Văn công nghênh đón Chu Tương vương, bị vương tử Đới đuổi cổ, về Vương Thành, kết
quả các chư hầu đều hưởng ứng; Cao hoàng đế mặc áo gài chữ hiếu với Sở Hoài
vương - bị Sở Bá vương sát hại, kết quả là thiên hạ đồng lòng. Đây chính là sức
hiệu triệu của lá cờ chính nghĩa. Lúc Đổng Trác gây họa nạn cho đất nước, ngài
là người đầu tiên giương cao ngọn cờ chính nghĩa đi dẹp loạn (kêu gọi nghĩa
quân); lúc thiên tử lưu ly thất sở, chính ngài đã không quản nguy hiểm, phái cả
sứ giả đi (thông sứ không kể nguy hiểm). Điều đó nói lên cái gì? Ngài từng giây
từng phút nghĩ đến vương thất (lòng dạ luôn nghĩ tới vương thất), ngài luôn tâm
nguyện khôi phục lại thiên hạ (tướng quân có chí khôi phục lại thiên hạ)! Lúc
này thiên tử còn ngỡ ngàng (xa giá còn quẩn quanh), Lạc Dương hoang tàn (Đông
Kinh cây cỏ mọc đầy), người trung nghĩa luôn hy vọng giữ được quốc bản (nghĩa
sĩ muốn giữ được cái gốc), nhân dân càng thêm đau buồn khi nhớ lại những ngày
huy hoàng của Đại Hán lúc trước (trăm họ nhớ cái cũ mà thêm đau). Vậy phải hành
động ngay, làm những việc mà tướng quân muốn làm. Đế lỡ thời cơ, lòng người sẽ
hỗn loạn. Chờ lúc mọi người chia cắt (bốn phương xâu xé), mới đứng ra lo liệu
thì e đã muộn.
Từ đó, Tuân Úc đưa ra ba cương lĩnh lớn
cho Tào Tháo, thuận theo ý dân tôn phụng thiên tử (phụng chúa thượng theo nguyện
vọng của dân), chí công vô tư để cường hào phải hàng phục (lấy chí công để thu
phục hùng kiệt), đề cao chính nghĩa “đề cao chính nghĩa có nhiều nhân tài” để
chiêu mộ anh hùng. Tuân Úc nói: “Phụng chúa thượng theo nguyện vọng của dân” là
xu thế lớn nhất hiện nay, là “đại thuận”; “Lấy chí công để thu phục hùng kiệt”,
là chiến lược lớn nhất, “đại lược”; “đề cao chính nghĩa có nhiều nhân tài”, là
đức hạnh lớn nhất, là “đại đức'“. Đại thuận chí tôn, đại lược chí công, đại đức
chí nghĩa. Có ba cương lĩnh lớn đó, thì đường đường chính chính, khí trùm sông
núi, còn gì mà không thắng. Nếu có kẻ nào hô hào chống lại, gây rắc rối, thì
cũng chỉ là bọ ngựa cản đường, châu chấu đá voi, chuốc lấy diệt vong.
Lời nói của Tuân Úc thấm đậm điều đại
nghĩa, Tào Tháo lấy làm kính phục. Nếu so sánh lời lẽ của Tuân Úc và Thư Thụ,
thì trình độ, phẩm vị cao thấp khác nhau rõ ràng. Tuân Úc để tâm vào chữ
“nghĩa”, Thư Thụ nhìn vào chữ “lợi”; Tuân Úc trước sau chi nghĩ tới một việc: Bảo
vệ hoàng đế hiện nay cũng là bảo vệ sự thống nhất đất nước, đó là “đại nghĩa”.
Thư Thụ nhắc đi nhắc lại lần nữa sách lược: nắm lấy hoàng đế hiện nay sẽ có vốn
liếng về chính trị, đó là “lợi lớn”. Cho nên cả hai người đều cho là phải nắm lấy
thời cơ, chỉ khác nhau về cách nhìn. Tuân Úc nói, chờ lúc mọi người chia cắt, mới
đứng ra lo liệu e là đã muộn. Còn Thư Thụ, nếu không mạnh bạo ra tay trước, đế
người khác cướp mất lá bài hoàng đế thì sẽ không còn kịp nữa. Đương nhiên, Thư
Thụ nói “nay nghênh triều đình để giữ chữ nghĩa” nhưng giọng nói chẳng mặn mà
gì. Nói chẳng mặn mà gì thật không giống với giọng điệu của Thư Thụ, mà hệt như
giọng điệu của Viên Thiệu. Mưu sĩ muốn thuyết phục chủ của mình thì luôn phải
nói theo sự suy nghĩ của chủ. Thư Thụ hiểu ra chữ “lợi” vì Viên Thiệu trọng “lợi”;
Tuân Úc chọn chữ “nghĩa” vì Tào Tháo trọng “nghĩa”, chí ít thì vào năm 196, Tào
Tháo cũng trọng “nghĩa” hoặc vờ như trọng “nghĩa”.
Có điều, bất kể là quyết sách nào,
cách nói nào thì đều là con dao hai lưỡi. Mao Giới và Tuân Úc đã vạch ra “đường
lối chính trị chính xác” và “ngọn cờ chính nghĩa” cho Tào Tháo, đội mũ cao cho
Tào Tháo và cũng thắt một cái đai nguyền rủa cho Tào Tháo. Nhất là ba cương
lĩnh lớn, tôn phụng thiên tử, chí công vô tư và nêu cao chính nghĩa mà Tuân Úc
đề xuất đã khống chế toàn diện dã tâm cá nhân của Tào Tháo; và hai câu nói
“lòng dạ luôn nghĩ tới vương thất”, “tướng quân có chí khí khôi phục lại thiên
hạ”, được coi là lời của Tào Tháo, đã quản Tào Tháo rất chặt, khiến cho Tào
Tháo suốt đời không dám thay thế hoàng đế không dám xưng đế. Có thể vì nguyên
nhân đó, nên khi dã tâm của Tào Tháo bành trướng, Tào Tháo đã oán hận hai người.
Tuân Úc bị bức phải tự sát, Mao Giới cũng bị hạ ngục, suýt nữa thi chết.
Đó đều là những chuyện về sau này. Vào
năm 196, về cơ bản, Tào Tháo vẫn muốn là “anh hùng thời loạn”, luôn chủ trương
tôn phụng hoàng đế, ủng hộ việc thống nhất đất nước. Theo chú dẫn Ngụy thư của
Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Vũ đế kỷ, sáu năm trước khi Viên Thiệu muốn lập
Lưu Ngu làm hoàng đế, Tào Tháo từng trả lời Viên Thiệu, rằng: Tội ác của Đổng
Trác nổi khắp bốn biển. Liên quân của chúng ta, sờ dĩ được nhiều người ủng hộ
và hưởng ứng, bởi chúng ta là chính nghĩa. Nay hoàng đế tuổi nhỏ, thế cô lực mỏng,
bị gian thần khống chế, bản thân chưa có sai lầm gì. Một khi bị thay đổi thì
thiên hạ yên tâm sao được? Cuối cùng Tào Tháo vừa bi vừa phẫn nói: “các vị cứ
lên bắc, riêng tôi sẽ về phía tây!” Cũng tức là nói, các vị cứ đến U châu mà
triều bái hoàng đế mới, cá nhân tôi sẽ về hướng tây vào Tràng An, để bảo vệ
hoàng đế.
Lời Tào Tháo không dài, nhưng hàm chứa
nhiều ẩn nghĩa, biểu hiện rõ lập trường chính trị: chủ trương thống nhất, phản
đối chia cắt, bởi vì chia cắt cũng là chiến tranh cũng là khổ đau cho trăm họ.
Tào Tháo đã có một bài thơ, bài “Hao lý hành”. Đó là lời than khóc khắp nơi,
người chết đói đầy đường, thực là thê thảm, Tào Tháo nói: “Quan Đông có nghĩa
sĩ, khởi binh đánh hung tàn. Hợp quân ờ Minh Tần, lòng nghĩ về Hàm Dương. Hợp
quân, lực không đủ, dàn quân mà đợi chờ. Tranh nhau về lợi thế, lại cùng nhau
tương tàn. Hoài Nam đệ xưng hiệu, khắc tỉ ở bắc phương. Giáp trụ đầy chấy rận,
trăm họ chuốc thương vong. Xương trắng phơi đồng xa, ngàn dặm không tiếng gà,
Dân sinh trăm còn một, nghĩ mà đau nhức ruột”. Tào Tháo không nỡ nhìn hết cảnh
đó.
Vì vậy, Tào Tháo chủ trương thống nhất
đất nước và cả đời ra sức phấn đấu. Muốn thống nhất đất nước cần có sự tượng
trưng cho thống nhất. Lúc này chính là hoàng đế. Hoàng đế là ai không quan trọng.
Lúc điều kiện thành thục; cũng có khả năng mình sẽ làm hoàng đế, cũng không thể
có hai hoàng đế. Tào Tháo phản đối Đổng Trác, vì Trác đã làm mất hết giá trị của
hoàng đế. Tào Tháo phản đối Viên Thiệu, vì Thiệu muốn lập một hoàng đế khác,
Tào Tháo quyết không rút khỏi vũ đài chính trị và ngay cả khi điều kiện thành
thục cũng sẽ không lên thay Hán Hiến đế, bởi vì “giả sử đất nước không có ta,
không biết đã có mấy người xưng đế, mấy người xưng Vương”. Vì vậy, để thống nhất
đất nước, Tào Tháo nguyện sẽ nhẫn nhịn, để không thể có cả đống hoàng đế.
Nhưng nếu nói, lúc này Tào Tháo không
có chút dã tâm nào thì không đúng. Theo lời chú dẫn “Hán kỷ” Trương Phan của
Bùi Tùng Chi trong “Tam quốc chí. Vũ đế kỷ”, một sử liệu, không chắc lắm, lúc
đó có cả Thái sử công là Vương Lập đã nhiều lần nói với hoàng đế, thiên mệnh đã
sắp hết, ngũ hành không còn thịnh. Thay thế nhà Hán tất là Ngụy. Chỉ có Tào thị
mới yên được thiên hạ. Tào Tháo nghe vậy, liền cho người nói với Vương Lập:
“Ngài trung với triều đình, đạo trời là sâu xa, xin đừng nhiều lời”. Điều này
thật khó tin nhất là câu “người thay Hán lại là Ngụy”, trong lúc đó Tào Tháo vừa
nghênh phụng thiên tử, lẽ nào lại có người nói như vậy. Có điều, những lời Tào
Tháo được ghi trong sách lại rất phù hợp với suy nghĩ thật của Tào Tháo. Lúc
này, có thể Tào Tháo đã có dã tâm, ít ra cũng thấy thoải mái khi nghe những lời
như vậy, nhưng Tào Tháo hiểu là không thể nói.
Không thể nói, không có nghĩa là không
thế làm. Sau khi dời đô về huyện Hứa, Tào Tháo dần dần từ “phụng thiên tử” biến
thành “Ép thiên tử”. Sự chuyển biến đó là vô tình hay hữu ý, là có dự định từ
trước hay tự nhiên, đến nay vẫn chưa có cách gì làm rõ. Trái lại, Tào Tháo ngày
một chuyên quyền, ngày một bạo ngược, ngày một bá đạo, không coi hoàng đế ra
gì, bản thân hoàng đế cũng cảm thấy từ chỗ “được tôn phụng” biến thành “bị giam
lỏng”, nên mói có sự kiện “chiếu trong đai áo” vào năm Kiến An thứ V (năm 200).
Việc này có ghi trong Tam quốc chí và Hậu Hán thư, được coi là thực. Tam quốc
chí. Tiên chủ truyện nói “Hiến đế cữu (nhạc phụ). Xa kỵ tướng quân Đổng Thừa nhận
mật chiếu trong đai áo, để giết Tào công... sự việc bại lộ, Thừa và những người
khác đều bị giết” Hậu Hán thư. Hiến đế kỷ cũng nói, “tháng giêng năm thứ V, Xa
kỵ tướng quân Đổng Thừa, Biên tướng quân Vương Phục, Việt Kỵ hiệu úy Chủng Tập
nhận mật chiếu giết Tào Tháo, sự việc bại lộ. Năm Nhâm Ngọ, Tào Tháo giết Đổng
Thừa và những người khác, tru di cả ba họ”. Chúng ta đều biết Hán Hiến đế trưởng
thành trong hỗn loạn, tai nạn, sớm trở thành người biết nhẫn nhịn. Nếu không bị
bức quá thì không có việc phải ra mật chiếu, mới hay lúc đó Tào Tháo đã điên cuồng
tới mức nào.
Có điều việc này rất khó nói, vì những
điều ghi trong chính sử chưa hẳn đã là thực tất cả. Trần Nhĩ Đông cũng nói, sự
kiện “chiếu trong đai áo” “vẫn còn là nghi án xưa nay”, đại sư sử học Lã Tư Miễn
cũng tỏ ra nghi ngờ. Về sau chúng ta còn nói lại chuyện này. Sự thực thì “Phụng
thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục” và “Ép thiên tử để lệnh chư hầu” cũng không
mâu thuẫn gì. Bởi vì muốn duy trì sự thống nhất của đất nước thì cần phải loại
bỏ số chư hầu dẫn đến chia cắt đất nước, còn như muốn thực hiện dã tâm chính trị
của mình thì cần phải tiêu diệt những kẻ khác ý. Mục đích tuy khác nhau, nhưng
kết quả sự việc lại như nhau. Ở chỗ Tào Tháo thì sự việc này không hề có mâu
thuẫn, vì dã tâm của cá nhân Tào Tháo và đại nghiệp thống nhất đất Nước có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tào Tháo hiểu rõ, muốn thực hiện dã tâm cá nhân, phải
thực hiện thống nhất đất nước; chỉ có thực hiện thống nhất đất nước, Tháo mới
thực hiện được dã tâm cá nhân. Vì vậy, về mặt chiến lược, trước đám đông trong
triều đình Tào Tháo phải “Phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục”, lúc nào
thì “Ép thiên tử để lệnh chư hầu” là thủ đoạn là con bài. Lúc nào thì giương cờ,
lúc nào thì “Ép thiên tử để lệnh chư hầu”, Tào Tháo biết rất rõ và làm rất
khéo.
Huống chi việc này còn có cái lợi
khác, tức là Tào Tháo còn có vô số nhân tài có lợi hơn bất kỳ ai khác. Với danh
nghĩa của chính phủ trung ương, Tào Tháo có thể có được vô số những người hiền
minh thậm chí là chiêu nạp nhiều người đến đầu hàng, đều là những người hy vọng
được vì nước vì dân, và chỉ có đến chỗ Tào Tháo mới tỏ rõ được quang minh chính
đại, danh chính ngôn thuận. Đây cũng là một trong những nguyên nhân Lưu Bị và
Tôn Quyền phân biệt Tào Tháo và Hán thất, coi Tào Tháo là “Hán tặc”. Nhưng dù
thế nào đi nữa, thì về mặt này, Tào Tháo xúng đáng hơn nhiều người khác. Bởi vì
ra sức vì hoàng đế xứng đáng hơn ra sức vì chư hầu, và ra sức vì hoàng đế có
khác gì ra sức vì Tào Tháo. Ít ra, Tào Tháo có thể gia quan tiến tước cho số
nhân tài của mình với danh nghĩa hoàng đế, với bổng lộc của đất nước. Quan vị là
của đất nước, nhân tài là của mình, Tào Tháo làm khá gọn cuộc mua bán này.
Tóm lại, sau khi đưa hoàng đế về huyện
Hứa, Tào Tháo bước lên một nấc thang mới. Tào Tháo có đủ nguồn nhân lực có đủ vốn
liếng về chính trị. Tào Tháo một tay giơ cao ngọn cờ chính nghĩa để ủng hộ Hán
thất đế hiệu triệu thiên hạ, hiệu lệnh chư hầu, nghiễm nhiên trở thành chúa cứu
thế của vương triều Đại Hán; một tay khác lại len lén rút dao từ sau lưng và ra
tay cực nhanh. Tào Tháo muốn bằng ngọn đao đó để đạp bằng bốn biển, thống nhất
chín châu. Vậy, Tào Tháo có được thuận lợi không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét