Thanh Quan - HảiThuỵ |
Luận Anh Hùng - HẢI THỤY
HẢI THỤY
1. Vị Quan nhiều lần bị bãi quan
Hải Thuỵ là quan thanh liêm. Nhưng được
nổi tiếng là thanh liêm vì luôn bị bãi quan.
Rất nhiều người Trung Quốc trên bốn
mươi lăm tuổi hiện nay đều biết tích "Hải Thuỵ bãi quan". Năm 1966,
người ta lấy việc phê phán vớ kịch mới về lịch sử Hái Thuỵ bãi quan làm ngòi nổ,
dẫn tới cuộc "Đại cách mạng văn hoá" "chưa từng có trong lịch sử".
Đương nhiên, dù có hay không có Hải Thuỵ trong lịch sử và có thực Hải Thuỵ bị
bãi quan hay không thì cái gọi là "Đại cách mạng văn hoá" vẫn nổ ra.
Có điều, bằng cách đó người người nhà nhà đều biết về Hải Thuỵ. Mỗi lần nói đến
Hải Thuỵ là nghĩ ngay đến bãi quan.
Con người Hải Thuỵ có duyên với bãi
quan. Hải Thuỵ trải qua bốn triều vua: Chính Đức, Gia Tĩnh, Long Khánh, Vạn Lịch.
Từ ngày mười tháng mười hai (năm 1554) năm Gia Tĩnh thứ ba mươi hai là làm giáo
dụ (một loại học quan cấp thấp, ở huyện Nam Bình, phủ Diên Bình, Phúc Kiến) đến
ngày mười bốn tháng mười (năm 1587) Vạn Lịch năm thứ mười lăm, ốm chết khi đang
là hữu đô ngự sử của đô sát viện Nam Kinh. Hải Thuỵ có nửa cuộc đời lăn lộn nơi
quan trường, trong thời gian đó có mấy lần bị bãi quan hoặc xin từ quan. Riêng
trong hai năm làm quan ở Nam Kinh đã có hơn bảy lần cáo lão về quê; có một lần
được nhàn rỗi nhất là mười sáu năm. Cứ thế mà tính, thấy Hải Thuỵ có ba mươi ba
năm lăn lộn nơi quan trường thi một nửa thời gian là bị bãi quan. Nếu tính một
cách chính xác hơn và lấy việc Hải Thuỵ bắt đầu được làm trưởng quan hành chính
địa phương, là làm tri huyện Thuận An, Chiết Giang (năm 1558, năm Gia Tĩnh thứ
ba mươi bảy) là khởi điểm, thì thời gian làm quan còn ngắn hơn và hơn nửa thời
gian là bị bãi quan.
Có điều Hải Thuỵ vừa bị bãi vừa được
thăng, và một lần bãi một lần thăng, quan chức ngày một cao. Lần thứ nhất bị
bãi quan vào năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (năm 1562), bị miễn chức tri huyện
Thuần An (quan thất phẩm), nhưng lại mau chóng được điều về huyện Hưng Quốc, phủ
Cống Châu, Giang Tây, nửa năm sau được thăng lên chức ty chủ sự ở Lô Hộ, Vân
Nam, quan địa phương thành quan tỉnh, từ thất phẩm thăng lên lục phẩm. Lần thứ
hai bãi quan là năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi lăm (năm 1566), lần này dài đến mấy
tháng và còn phải vào tù. Sau khi ra tù được phục nguyên chức, về sau đổi là chủ
ty chủ sự của võ khố, bộ binh, lại điều tiếp làm tỵ thừa ty thượng bảo (quan lục
phẩm), rồi tự thừa đại lý tự (quan ngũ phẩm), hữu thông chính ty thông chính
(quan tứ phẩm), cuối cùng thăng lên hữu thiên đô ngự sử (quan tam phẩm), khâm
sai tổng đốc lương đạo, tuần phủ mười phủ Ứng Thiên, trở thành quan lớn nơi
biên cương. Lần thứ ba bãi quan là năm Long Khánh thứ tư (năm 1570), lần này phải
mười sáu năm sau mới lại xuống núi, trước hết là khôi phục lại chức hữu thiên
đô ngự sử Nam Kinh, trên đường đi nhận chức lại được thăng là hữu thị lang lại
bộ Nam Kinh, năm sau (năm Vạn Lịch thứ mười bốn, tức năm 1586), thăng làm hữu
đô ngự sử đô sát viện Nam Kinh (quan nhị phẩm) trở thành quan viên cao cấp của
vương triều Đại Minh. Lúc này, Hải Thuỵ đã là ông già bảy mươi ba tuổi, và học
lực cũng như công danh của Hải Thuỵ chỉ là một cử nhân.
Điều đó khiến việc làm quan của Hải
Thuỵ mang sắc thái huyền thoại. Và có một điều mà chúng ta vẫn chưa hiểu, cuối
cùng Hải Thuỵ thuộc loại quan nào, tốt hay xấu. Nếu là quan tốt thì vì sao lại
bị bãi miễn như vậy? Nếu là quan xấu thì vì sao lại được thăng hết lần này đến
lần khác? Hoàng đế cũng được, quan trường cũng được, vậy họ thích hay không
thích Hải Thuỵ?
Nếu đánh giá Hải Thuỵ theo tiêu chuẩn
thông thường của người dân Trung Quốc khi nhìn nhận quan tốt hay xấu thì Hải
Thuỵ đương nhiên là quan tốt. Tiêu chuẩn đó là thanh liêm. Hải Thuỵ thanh liêm
ai ai cũng biết và đó hoàn toàn là sự thật. Trong những năm cuối đời, Hải Thuỵ
là hữu đô ngự sử (giám sát bộ trưởng) 1 quan nhị phẩm, thế nhưng số tiền tích
cóp được không đủ để làm lễ tang, phải nhờ vào sự giúp đỡ của đồng liêu. Một
người làm quan đến hết đời mà không lo nổi hậu sự, được coi là "trong nhìn
thấy đáy".
Có ba cách nói về số di sản Hải Thuỵ để
lại: Một là, nhiều người nói, còn lại một trăm năm mươi mốt lạng bạc trắng, gấm
vóc mỗi thứ một súc. Hai là, một số người nói, "xem lại toàn bộ thấy có
tám lạng vàng, một cuộn vải trắng, một ít quần áo cũ". Ba là, người trong
nhà nói, còn hai mươi lạng bạc trắng. Một con số quá nhỏ so với con số một trăm
năm mươi mốt lạng. Người đời thường nói: "Tri phủ ba năm thanh liêm cũng
có được mười vạn lạng bạc hoa tuyết", mà tri phủ chỉ là quan tứ phẩm. Hơn
trăm lạng bạc chưa đủ con số lẻ của gia sản bất cứ viên quan nhị phẩm nào, chưa
nói tới Nghiêm Tung - vị quan gian. Năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (năm 1562),
Nghiêm Tung bị hạ bệ, lúc khám nhà, riêng số bạc trắng đã có hơn hai trăm vạn lạng.
Từ đó mới thấy danh tiếng Hải Thuỵ thanh liêm là có thực và là điều rất đáng
quý.
Điều đáng quý hơn nữa là, Hải Thuỵ trước
sau như một, giữ vững sự trong sạch của mình. Trên mâm cơm của Hải Thuỵ - lúc
đã là tri huyện, chỉ có rau cỏ, những thứ mà Hải Thuỵ cùng người thân tăng gia
thêm ở vườn sau, không mấy khi dùng đến rượu thịt. Nghe nói, chỉ một lần duy nhất
Hải Thuỵ "xa xỉ", mua hai cân thịt về làm lễ mừng thọ mẹ già (Hải Thuỵ
là người con có hiếu). Việc này được coi là tin mới lan truyền trong giới quan
trường, ngay cả tổng đốc Hồ Tôn Hiến nghe tin cũng hết sức kinh ngạc, nói với mọi
người: "Các vị biết không, Hải Thuỵ mua thịt, mua hai cân thịt, những hai
cân!".
Sau khi Hải Thuỵ nhận chức tuần phủ Ứng
Thiên, bao gồm các hạt Ứng Thiên, Tô Châu, Thường Châu, Trấn Giang, Tùng Châu,
Huy Châu, Thiên Bình, Ninh Quốc, An Khánh, Trì Châu và châu Quảng Đức, những
châu này hầu hết đều thuộc vùng Giang Nam quê hương của lúa gạo, cá mú trù phú.
Địa vị lúc này khác xa với thời còn là tri huyện, nhưng Hải Thuỵ vẫn thanh liêm
cần kiệm như cũ. Vừa đến nhiệm sở, Hải Thuỵ đã ban bố "đốc phủ hiến ước",
quy định, khi tuần phủ đi tuần thú các nơi, các quan phủ, châu, huyện không được
ra ngoài thành nghênh tiếp, không được bầy tiệc chiêu đãi. Sau khi nghĩ đến và
cũng muốn giữ một phần sĩ diện các quan viên triều đình, Hải Thuỵ đồng ý có bữa
cơm công cán, có thể có gà, cá, thịt lợn... nhưng không được giết ngỗng và dùng
rượu, không được vượt quá tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn là ở những nơi đắt đỏ được
tiêu ba tiền, những nơi vật giá rẻ được tiêu hai tiền, than củi, dầu đèn, không
được vượt quá các con số trên. Còn việc gọi các "kỹ nữ" đến bầu bạn,
hoặc tổ chức các tiết mục vui sau khi cơm no rượu say, không nói, chắc mọi người
cũng hiểu, Hải Thuỵ đều nghiêm cấm.
Hải Thuỵ thanh liêm đến mức mất hết cả
tình lý, không ai hiểu được! Theo phong tục nơi quan trường thời đó, khi quan mới
đến nhiệm sở, khi bạn bè được thăng chức, luôn có người mang lễ vật đến chúc mừng.
Chỉ cần số lễ vật đó không quá lớn, nghĩ xem, đó là chuyện thường tình của con
người. Nhưng Hải Thuỵ đã chẳng nghĩ ngợi gì cả mà công khai dán cáo thị, nói:
"Ngày nay đã là quan triều đình thi phải khác với lúc ở nhà", "kẻ
thù người đáp, thật là phiền phức, bỏ đi không làm là hơn". Sau này, Hải
Thuỵ liền sai người trả lại lễ vật, ngay cả với bạn cũ Hạ Bang Thái, Thư Đại Du
từ xa tới chúc mừng cũng không phải ngoại lệ. Đến như nhà công do triều đình cấp
cũng không thèm hưởng. Trước khi lâm chung, số tiền củi lửa do bộ binh mang tới
khoảng bảy lạng bạc trắng, Hải Thuỵ cũng cho trả về. Bảy lạng bạc trắng thực sự
chẳng đáng là bao, nhưng Hải Thuỵ quyết không vì chút lợi mọn đó mà huỷ hoại sự
thanh bạch cả đời của mình.
Là quan thanh liêm như vậy, đương
nhiên, nhân dân trăm họ sẽ hết sức ủng hộ, còn bọn quan lại thì luôn thấy phản
cảm. Bọn họ ngoài miệng không dám nói ra, nhưng trong lòng thì đầy hờn căm,
ghen tức. Cứ nghĩ đến chuyện phải cộng tác, phải qua lại với Hải Thuỵ, ai nấy
đã nổi cả da gà. Có một sự việc chứng minh rõ điều này: Lúc vừa có tin Hải Thuỵ
được điều lên làm tuần phủ Ứng Thiên, bọn quan lại mười phủ Ứng Thiên gần như
đã phát khóc. Không ít người cầu xin điều Hải Thuỵ đi nơi khác, thậm chí có người
rời bỏ chức vị, từ bỏ chiếc mũ ô sa trên đầu. Đương nhiên, điều đó nói rõ, mọi
người đã phải khiếp sợ trước quyền uy và sự thanh liêm của Hải Thuỵ, đồng thời
cũng nói rõ, ở chốn quan trường thời đó, Hải Thuỵ luôn bị cô lập.
Bức tranh về một đơn vị quân đội nhà Minh trong thời Vạn Lịch
Hải Thuỵ thực sự không hiểu quy tắc
nơi quan trường, nhưng ông cũng không phải là người làm bừa. Ngược lại, Hải Thuỵ
lại quá nguyên tắc. Hải Thuỵ có hai nguyên tắc: Một là, lấy đạo đức được xiển
phát từ "Tứ thư, Ngũ kinh" làm chuẩn tắc; hai là, lấy chính sách do
hoàng đế Hồng Vũ chế định làm pháp lệnh. Trong hai nguyên tắc này không hề bảo,
làm quan thì phải tham ô hủ hoá, dùng quyền chung để mưu đồ riêng, cũng không hề
nói, muốn làm quan phải biết a dua theo, nói bốc đề cao, đưa đưa đón đón, mời
cơm đãi khách. Những việc thánh nhân và Thái Tổ không nói là có thể làm, thì
không thể làm. Còn như phong khí lúc này, không thể nói Hải Thuỵ không thể biến
đổi, cũng không thể nói Hải Thuỵ nên thuận theo. Có người từng khuyên Hải Thuỵ,
không nên quá cứng nhắc, cái gì có thể linh động thì nên linh động, cái gì thấy
nên làm thì nên làm. Hải Thuỵ liền trừng mắt hỏi lại: "Giả sử, quan lại khắp
nơi không làm, không linh động, sẽ không có việc thăng quan sao? Giả sử các
quan lại khắp nơi đều không làm, không linh động, sẽ không có việc giáng chức
sao?". Người đó thấy Hải Thuỵ đầu óc cứng đơ, luôn "giả sử", giả
sử, hoàn toàn là tính khí thư sinh, không thể thuyết phục được, đành bỏ đi.
Hải Thuỵ luôn gắng sức làm theo lời dạy
của thánh hiền, còn muốn đấu tranh, cải biến những phong tục đồi bại, cho dù đối
phương chức vị cao tới đâu, khí thế mạnh đến chừng nào. Dù hắn là hổ dữ, Hải
Thuỵ vẫn dám sờ vào mông hắn. Lúc Hải Thuỵ là huyện lệnh Thuần An, Hồ Tôn Hiến
là tổng đốc. Quan cấp của tổng đốc và tri huyện quá khác biệt, khác gì trời với
đất. Bản thân Hồ Tôn Hiến còn là đồng đảng với Nghiêm Tung, quyền tướng đương
triều. Hồ Tôn Hiến quyền khuynh thiên hạ, khí thế ngút trời, lại là quan lâu năm,
dân quan trọng nước, hết thảy đều khiếp sợ nhưng Hải Thuỵ luôn coi như con nghé
tơ. Con trai Hồ Tôn Hiến đến Thuần An, giễu võ giương oai, chỉ đông hét tây,
không hài lòng với khoản đãi của dịch trạm, đã đánh gục dịch thừa. Hải Thuỵ
không hề khách khí, đã cho bắt hắn, giải đến nha môn tổng đốc, tịch thu sung
công cả ngàn lạng bạc trên người hắn. Hải Thuỵ còn có công văn gửi đến Hồ Tôn
Hiến, nói: Từ lâu đã nghe danh tổng đốc đại nhân là người tiết vọng thanh cao,
yêu dân như con, dạy con thật nghiêm. Kẻ này phẩm hạnh xấu xa, hành động bừa
bãi, dám giả mạo, xưng là Hồ công tử, số bạc tìm được trong người hắn hẳn là tiền
bẩn thỉu. Hồ Tôn Hiến thừa biết đó là thằng con chẳng ra gì của mình, nhưng
không dám to tiếng, đành nghiến răng nuốt giận vào lòng, tự nhận là đen đủi.
Một đồng đảng nữa của Nghiêm Tung là
Yên Mậu Khanh cũng giẫm phải chiếc đinh mềm của Hải Thuỵ. Yên Mậu Khanh phụng mệnh
khâm sai tuần tra nghề muối ở Chiết Giang, từng có thông lệnh nói rõ "mọi
thứ đơn giản, không thích nghênh đón", vì vậy "chuyện ăn uống, nghỉ
ngơi phải lấy đơn giản làm đầu, không được quá xa hoa, lãng phí". Đây chỉ
là vở diễn để loại người này mua danh chuốc tiếng, muốn là tấm gương cần kiệm,
chất phác, thực chất là vừa muốn làm kỹ nữ vừa muốn được lập bia trinh tiết. Vì
vậy, các quan viên ở dọc đường đi, đều không cho là thật, họ tiếp đãi cực kỳ xa
xỉ, đương nhiên, người dân phải chịu mọi chi phí. Nhưng Hải Thuỵ lại có thiệp bẩm
dâng lên một cách nghiêm chỉnh, "Thiệp bẩm của Hải Thuỵ - tri huyện huyện
Thuần An, phủ Nghiêm Châu". Trước hết, thiệp ghi nguyên văn thông lệnh của
Yên Mậu Khanh, tiếp đến mới nói, được biết những nơi khâm sai đã đi qua, việc
chiêu đãi và tiếp đón lại khác hẳn với lời trong thông lệnh. Không những bày tiệc
rượu, mà còn phải cung ứng cả đàn bà, mỗi tiệc rượu phải chi đến ba, bốn trăm lạng
bạc, ngay cả bô tiểu tiện cũng phải làm bằng bạc. Vì vậy hạ quan mới mụ mẫu
không rõ, làm vậy là theo yêu cầu của thông lệnh hay là theo các thể lệ trước
đây? Làm theo yêu cầu của thông lệnh ư, e rằng họ đã khiếm nhã với đại nhân;
làm theo tiền lệ ư, e rằng họ đã phản lại thiệt mong đại nhân minh xét, cuối
cùng phải làm như thế nào? Yên Mậu Khanh xem xong thiệp bẩm, lửa giận bốc lên
ngùn ngụt, đành phải bỏ Nghiêm Châu, đi vòng theo đường khác.
Cách làm của Hải Thuỵ không chỉ làm
cho Yên Mậu Khanh phải khiếp sợ, mà ngay cả tri phủ Nghiêm Châu cũng phải sợ.
Tri phủ đã nổi giận nói với Hải Thuỵ, vì sao ông lại gây thị phi như vậy. Hải
Thuỵ không đối đáp, cũng không biện bạch, chờ khi tri phủ bớt giận mới xin lui.
Về sau, tri phủ đại nhân thấy hành động của Hải Thuỵ không gây hậu quả, nên mới
cảm kích nói với Hải Thuỵ: "Trăm họ Thuần An thoát nạn, đã làm khó cho
ông! Đúng là làm khó cho ông!".
Có điều lần này tri phủ đại nhân đã lầm.
Hải Thuỵ thẳng thắn chống lại bề trên, đến khâm sai đại thần cũng chẳng nể
nang, lẽ nào không bị báo thù? Quả nhiên, lúc Hải Thuỵ vừa nhận lệnh điều lên
làm thông phán ở Gia Hưng, đang chuẩn bị bàn giao với tri huyện Thuần An mới
thì Viên Thuần ở kinh thành đã hạch tội Hải Thuỵ. Viên Thuần là đồng đảng của
Nghiêm Tung, là bè bạn chó mèo với Mậu Khanh. Lúc hắn làm ngự sử tuần tra muối ở
Chiết Giang, hắn được Hải Thuỵ chiêu đãi thật khiếm nhã và còn ầm ĩ với Hải Thuỵ,
hắn hạch tội Hải Thuỵ "tự cao tự đại, không chịu an phận". Dù Hải Thuỵ
vô tội, dù Nghiêm Tung đã bị bãi chức, Yên Mậu Khanh đã bị sung quân, cũng
không mấy ai quan tâm tới viên quan thất phẩm nhỏ nhoi, xuất thân là cử nhân,
đã không có chỗ dựa, tính khí lại cổ quái. Lúc này các đại thần trong triều
đang mải mê phân chia lại quyền lực và lợi ích. May sao có Chu Hoành, trước kia
là cấp trên của Hải Thuỵ, giờ là thị lang bộ lại, ra sức tiến cử Hải Thuỵ với
thượng thư bộ lại Nghiêm Phúng. Hải Thuỵ sau lúc bị miễn chức, lại được điều
làm tri huyện Hưng Quốc.
Theo lý mà nói, một người như Hải Thuỵ,
không biết bợ đỡ cấp trên, luôn gây chuyện thị phi có thể giữ được chức vị huyện
lệnh thất phẩm đã là may mắn lắm rồi! Hải Thuỵ chỉ đáng được điều đi điều lại
qua mấy huyện nhỏ, nghèo khổ, hoặc được thăng làm lục phẩm rồi về nghỉ. Nhưng Hải
Thuỵ đã có vận may thật đặc biệt. Nghiêm Tung bị đổ đã kéo theo hàng loạt phản ứng,
người ta bắt đầu xem xét về con người, về sự việc khi Nghiêm Tung còn nắm quyền.
Chốn quan trường Trung Quốc xưa nay luôn coi trọng quan hệ giữa con người.
Nghiêm Tung đổ, bọn Hồ Tôn Hiến, Yên Mậu Khanh do Nghiêm Tung vực dậy, nhiệm dụng
cũng chẳng còn gì. Mấy người đó được coi là kẻ xấu, và những ai trước đây phản
đối họ đều trở thành người tốt. Đó cũng là logic thường dùng trong đấu tranh
chính trị ở Trung Quốc, xưa nay luôn là vậy. Hải Thuỵ lúc này là người tốt nhất,
là đại anh hùng, vì đã dám chống lại bọn quyền thần, khi nhắc tới ai ai cũng thấy
sợ, một anh hùng như vậy, nếu không được thăng quan khen thương, không được trọng
dùng, thì đế quốc này không chỉ đáng sỉ nhục mà bộ lại cũng thất chức nghiêm trọng.
Thế nên, chỉ nửa năm sau khi là tri huyện Hưng Quốc, Hải Thuỵ được điều về Bắc
Kinh, nhận chức hy chủ sự ở bộ Hộ, Vân Nam (quan hàm lục phẩm).
Chủ sự bộ Hộ là chức quan không to
không nhỏ, không lên không xuống. Đúng như Hoàng Nhân Vũ từng nói: "Các
thượng thư, thị lang vạch ra cương lĩnh, chính sách, còn các viên lại thì phụ
trách các chi tiết về mặt kỹ thuật thực hiện. Một chủ sự như Hải Thuỵ không nhất
thiết hàng ngày phải đến văn phòng bộ, trừ phi muốn tích luỹ thêm kinh nghiệm
làm quan".
Nhưng Hải Thuỵ vốn là người không ưa
nhàn rỗi, là người thích làm việc, thích suy nghĩ, là người có trách nhiệm với
vua với nước và chỉ biết tiến không biết lùi. Dù là chức quan được nhàn rỗi, Hải
Thuỵ luôn không muốn phí thời gian vào những chuyện vô bổ. Không có việc nhỏ, Hải
Thuỵ đành phải suy nghĩ việc lớn. Lúc này, Hải Thuỵ đã xâm nhập vào cơ quan
trung ương (dù là chức vị thấp đến đáng thương, lại cách trung tâm rất xa),
không còn là viên quan địa phương bị nhiều hạn chế, đã có thể suy nghĩ về một số
vấn đề từ góc độ lịch sử và toàn cục. Lúc này công việc của Hải Thuỵ không quá
nặng nề, bề bộn như thời còn là huyện lệnh, hàng ngày phải xử lý nhiều sự vụ cụ
thể, vụn vặt. Lúc này Hải Thuỵ đã có đủ thời gian suy nghĩ hết chuyện này đến
chuyện khác. Hơn nữa, cũng giống như các nho sinh tự cho mình là phi phàm, là
có trách nhiệm với thiên hạ, Hải Thuỵ không vừa ý về hiện trạng của đất nước,
thấy cần phải nói rõ những suy nghĩ, những ý hay của mình về triều chính, về thời
cuộc. Đất nước ngày nay không chỉ kém xa lúc thái bình thịnh thế của Đường
Nghiêu, Ngu Thuấn, thời Khổng Phu Tử thiết kế, mà bốn phía còn nhiều nguỵ cơ. Hải
Thuỵ thấy mình không thể cứ yên lặng mãi. Yên lặng là thiếu trách nhiệm, là có
tội với lịch sử, đất nước, với quân vương, tiên tổ. Cảm giác chính nghĩa, cảm
giác sứ mệnh nổi lên tự đáy lòng, Hải Thuỵ thấy phải phát động tiến công.
Lúc này Hải Thuỵ đã chĩa thẳng đầu mâu
cuộc tranh đấu về phía đương kim hoàng thượng.
Tháng hai năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi
lăm (năm 1566), sau một năm rưỡi kể từ lúc Hải Thuỵ vào kinh, vị quan lục phẩm
(chức vị thấp kém, lúc nào cũng lo việc nước) đã có "sớ thẳng thắn bàn
chuyện thiên hạ" trình lên hoàng đế Gia Tĩnh. Hải Thuỵ thừa hiểu, hoàng đế
đương triều chỉ thích nghe lời khen, không thích nghe lời phê bình, nên mở đầu
đã nói, điều mấu chốt để một vị hoàng đế đủ tiêu chuẩn là: Khiến thần dân dám
nói và nói hết những điều đã biết. Tiếp đến, mới dốc hết nỗi lòng để phê bình
Gia Tĩnh. Hải Thuỵ chỉ rõ, về "thiên chất anh minh quả đoán" thánh
thượng hơn hẳn Hán Văn đế Lưu Hoàn, nhưng về nhân đức chính tích, thánh thượng
lại kém xa Hán Văn đế. Hán Văn đế sáng tạo nên "Văn Cảnh chi trị" nổi
tiếng trong lịch sử, còn cục diện thánh thượng sáng tạo là "quan tham
hoành hành, dân hết đường sống, thuỷ tai triền miên, giặc cướp khắp nơi".
Vì sao lại như vậy, vì hoàng đế hôn dung đa nghi, cứng rắn tàn nhẫn, ích kỷ hư
vinh, tức là hôn quân, bạo quân. Hải Thuỵ còn chỉ rõ, nhìn từ góc độ chính trị,
Gia Tĩnh không phải là một vị vua tốt, nhìn từ góc độ luân lý cũng không phải
người đàn ông tốt. Nếu cân nhắc từ "tam cương" - quân thần, phụ tử,
phu thê, thì hoàng đế phải là mẫu mực về đạo đức của toàn thể thần dân thiên hạ.
Đằng này, bệ hạ lại chưa đủ "nhất cương": Hoài nghi, mắng chửi, giết
hại thần liêu bừa bãi, không đáng là vua; đối với con đẻ không hề giáo dưỡng,
không thèm nhìn mặt, không đáng là cha; không ở cùng hoàng hậu, trốn ở Tây uyển
luyện đan, không đáng là chồng. Chẳng trách khắp trăm họ thần dân trong thiên hạ
từ lâu đã cho rằng bệ hạ không đúng! Chẳng trách, trăm họ đã lấy niên hiệu của
bệ hạ để biểu hiện lòng bất mãn với bệ hạ, họ nói, Gia Tĩnh, Gia Tĩnh" cái
gì, tức là "nhà nhà đều tịnh" (chẳng có một thứ gì)! Kỳ thực, yêu cầu
của thần dân cũng chẳng cao xa gì, chỉ mong sao quan phủ vơ vét ít đi một chút,
chính quyền chăm lo nhiều hơn một chút, án oan sai giả ít hơn một chút, không
khí xã hội trong lành hơn một chút. Đó là mấy việc rất dễ, "vì sao bệ hạ lại
không làm?". Nếu làm cũng không khó, vậy nên "tỉnh ngộ mau chóng, để
rửa sạch những sai lầm tích tụ hàng mấy chục năm nay". Thực tế, là do loạn
chính, nên chỉ cần "một lần chấn chỉnh là xong", vậy mong bệ hạ hãy
chấn chỉnh!
Tấu sớ như vậy chưa hề có tiền lệ
trong lịch sử. Đúng như Hoàng Nhân Vũ từng chỉ rõ, trước đây các gián thần thường
phê bình việc, chỉ có Hải Thuỵ là phê bình người với một khẩu khí thẳng thắn, bức
ép! Vì vậy, tấu sớ vừa trình lên đã có sóng to gió lớn, Hải Thuỵ cương trực đã
nổi danh thiên hạ. "Trên từ cửu trùng, dưới đến mặt đất, trong ngoài,
không ai là không biết có ngài chủ sự họ Hải".
Hoàng đế Gia Tĩnh cũng đã xem hết bản
sớ tấu. Sớ tấu thế này xưa nay chưa từng có (cũng chưa có ai đọc qua), có thể
vì hiếu kỳ nên ngài cũng muốn đọc hết. Nhưng xem xong tất sẽ phẫn nộ. Nghe nói
hoàng đế xem xong đã vứt sớ tấu xuống đất, nổi giận bừng bừng, gào thét:
"Bắt ngay thằng cha đó, đừng để hắn chạy thoát!". Nhưng việc làm của
Hải Thuỵ lần này là hết sức phi thường, cảm động đến cánh thái giám, cung nữ, họ
rất kính phục. Thế là có hoạn quan Hoàng cẩm quỳ lạy và tâu rằng: "Vạn tuế
gia không phải bực. Nghe nói con người này vốn có tiếng điên cuồng, trước khi
dâng sớ hắn đã mua sẵn quan tài, từ biệt gia nhân, sắp xếp hậu sự. Hắn sẽ không
chạy trốn". Gia Tĩnh nghe xong đã thở dài, rồi nhặt tờ sớ lên, đọc lại lần
nữa.
Nghe nói, Gia Tĩnh cũng thấy những điều
Hải Thuỵ nói là thật. Đã nhiều lần Gia Tĩnh thổ lộ điều này với thủ phụ Từ Giai
(2). Gia Tĩnh coi Hải Thuỵ là trung thần cuối thời Ân, nhưng lại không chịu nhận
mình là Trụ vương. Gia Tĩnh thừa nhận Hải Thuỵ có lý, nhưng lại cho rằng mình
đã già bệnh nặng, nên không sửa đổi được. Do vậy, Gia Tĩnh chỉ còn cách đánh mắng
cung nữ để hả giận. Sau một thời gian như vậy, Gia Tĩnh lại cho bắt Hải Thuỵ,
giao cho cẩm y vệ thẩm vấn, khép vào tội chết, nhưng Gia Tĩnh vẫn chưa phê chuẩn
án tử hình của Hải Thuỵ và giao tiếp sang Đông xưởng để giám sát. Mười tháng
sau, Gia Tĩnh qua đời, trở thành vị hoàng đế biết mình sai nhưng "Chết
cũng không hối cải" (3). Tin tức truyền tới, ngục tốt lấy rượu chiêu đãi Hải
Thuỵ, chúc mừng Hải Thuỵ có hy vọng được thả, nhưng Hải Thuỵ đã khóc ầm lên, rồi
nôn mửa, cuối cùng thì ngã vật xuống đất.
Sau khi vua mới là hoàng đế Long Khánh
lên ngôi, Hải Thuỵ được ra ngục. Lúc này Hải Thuỵ trở thành anh hùng tiếng tăm
vời vợi, khắp cả nước không ai là không biết. Rất mau chóng, Hải Thuỵ được phục
chức, thăng quan liên tiếp, lên các chức hàm như đã nói. Sự thực thì không
thăng cũng không được. Không hề có vị quan nào trong bộ Lại dám phản đối việc
thăng tiến của người anh hùng cả nước biết tiếng này, và cũng không ai nghi ngờ
gì về phẩm hạnh, đạo đức của Hải Thuỵ. Chỉ trong một thời gian ngắn, Hải Thuỵ từng
bước từng bước thẳng đến chức tuần phủ Ứng Thiên, sau này vì bị hạch tội, nên
buộc phải từ chức.
Lần thứ ba bị bãi quan hoàn toàn do Hải
Thuỵ tự chuốc lấy. Theo suy nghĩ của nội các và bộ Lại, cách sắp xếp tốt nhất với
Hải Thuỵ là để Hải Thuỵ đảm nhiệm chức vụ chức hàm cao nhất, quyền lực ít nhất,
Hải Thuỵ còn sống mà như khối đá trong miếu đường. Như vậy là hợp với mọi người
cũng như với bản thân Hải Thuỵ. Vì tinh thần của Hải Thuỵ rất đáng hoan nghênh
nhưng cách làm của Hải Thuỵ không mang lại hiệu quả. Nếu mọi người đều giống
như Hải Thuỵ, bỗng dưng nói thẳng phạm thượng, có những lời phê bình gay gắt,
không thể tiếp thu, thì thể thống triều đình sẽ ra sao, thể diện quan phủ sẽ
như thế nào? Một vị quân chủ và thời đại sáng suốt nên cho mọi người có quyền
được nói, nhưng sự sáng suốt này cũng chỉ là thứ trang sức, thứ điểm xuyết,
không thể là đúng cách và việc dâng thư như kiểu Hải Thuỵ cũng chỉ lần một, lần
hai, không thể có lần thứ ba. Hơn nữa, một người như Hải Thuỵ dám mắng chửi cả
hoàng đế thì dù bố trí ở đâu cũng chỉ có hại, thêm phiền hà. Một khi để xảy ra
chuyện đó, không chỉ làm mọi người mất mặt mà ngay cả bản thân Hải Thuỵ cũng chẳng
gặp hay ho gì. Vì vậy cách sắp xếp của nội các, của bộ Lại được coi là cách bảo
vệ Hải Thuỵ.
Nhưng Hải Thuỵ lại không hiểu. Với sứ
mệnh và trách nhiệm, Hải Thuỵ không cho phép mình trở thành kẻ chiếm chức vị,
ngồi không ăn bám. Hải Thuỵ cũng không hiểu vì sao triều đình tỏ vẻ tôn trọng
nhưng lại không tín nhiệm mình và Hải Thuỵ hoàn toàn không muốn phí thời gian
vào chức vị nhàn nhã, tẻ nhạt đó. Hải Thuỵ quyết định kháng nghị. Nói cách khác
là cho nội các một đòn. Hải Thuỵ đã có cơ hội tốt, đó là "năm kinh
sát" (năm 1569). Kinh sát là chế độ khảo sát thành tích các quan ở kinh
thành, cứ sáu năm lại diễn ra một lần, các quan từ tứ phẩm trở lên phải làm bản
kiểm điểm. Nhân đó, Hải Thuỵ liền có tấu sớ dâng lên hoàng đế, nói những quan
viên giống như mình, không có cống hiến lớn lao gì cho đất nước, nên cách chức
cho lui, ý là "làm quan không làm việc cho dân, nên cho về quê bán khoai
lang".
Nội các và bộ Lại thật đã hết cách với
quái nhân cắn không vào, luộc không nhừ, giết không chết, doạ không sợ và chết
không mở mát này. Thậm chí họ không hiểu con mọt sách từ xa, từ ngoại tỉnh đó
là ngây thơ thực hay giả vờ ngây thơ. Nếu là giả vờ ngây thơ, nên người đó mới
cho rằng, chỉ cần được trọng dụng, thì với chính khí bản thân và tinh thần dũng
cảm tiến bước, là có thể nhanh chóng quét sạch tệ nạn trong thiên hạ, chỉnh đốn
lại thói xấu nơi quan trường. Nói người đó là thực sự ngây thơ, nhưng sao người
đó lại biết đường tiến đường lui, biết cách mặc cả, trả giá? Nhưng nói gì thì
nói, lúc này Hải Thuỵ đang nổi tiếng, không ai dám bãi dám truất. Đã không thể
bãi truất, thì chỉ có thể để Hải Thuỵ một chức vị hữu danh vô thực, là tuần phủ
Ứng Thiên, trú tại Tô Châu. Dù là ở xa, nhưng ở xa cũng có cái hay của ở xa:
Hoàng thượng và nội các sẽ không nhìn thấy, sẽ không phiền lòng, đỡ ầm ĩ hơn.
Hải Thuỵ quyết tâm làm mạnh, muốn lấy
thiện trị ác, chỉnh sửa phong tục, trở thành một mẫu mực. Với khí thế mạnh mẽ
áp đảo đó, bọn tham quan ô lại cùng bọn thổ hào thân sĩ ác độc nghe đã thấy khiếp
vía. Cửa lớn các nhà thân sĩ đang từ mầu đỏ, sơn lại màu đen, để tỏ ra mình là
giản dị. Cả thành Tô Châu lúc đó, nhà nhà như đang có tang. Thái giám Chức Tạo ở
Giang Nam khét tiếng gian trá tàn bạo cũng phải cụp đuôi, phu khiêng kiệu của hắn
đang từ tám người, nay giảm xuống còn bốn. Nhưng Hải Thuỵ vẫn cảm thấy như chưa
đã, liền có lệnh: Phàm là công văn trong nước, từ nay nhất loạt dùng loại giấy
rẻ tiền. Mặt sau công văn không được để trống, khỏi lãng phí. Thậm chí, Hải Thuỵ
còn can dự vào sinh hoạt riêng tư của quan dân, như đeo đồ trang sức xa hoa và
ăn uống quà vặt ngon ngọt nằm trong các mục cấm. Các hạng mục bị cấm từ khăn
Lăng Vân Trung Tĩnh, giấy Hồng uỵển Tát Kim cho đến bày tiệc có kẹo chóp và
bánh rán. Rõ ràng những quỵ định đó là vụn vặt, khắt khe, nhưng Hải Thuỵ không
nghĩ vậy. Căn cứ vào nguyên lý "đê dài ngàn dặm sẽ vỡ vì một tổ kiến nhỏ",
dựa vào nguyên tắc "đừng thấy thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ mà
cứ làm" nên Hải Thuỵ kiên quyết làm như vậy, làm tới cùng. Mấy việc làm vặt
vãnh đó lại gần với phong hoá và đạo đức. Dù là thiện nhỏ cũng nên khen thưởng,
dù là ác nhỏ cũng phải loại bỏ. Muốn làm việc lớn phải làm từ việc nhỏ, vì vậy,
mấy việc nhỏ này cũng chính là việc lớn. Muốn xây dựng lại đạo đức, không thể
không chú ý tới những việc cụ thể, bằng không, sẽ chỉ là những khẩu hiệu rỗng
tuếch.
Trên thực tế, Hải Thuỵ muốn thông qua
việc thi hành những quy định cụ thể kia để thực hiện kế hoạch chỉnh đốn lại
chính trị của mình. Ví dụ, để chỉnh đốn lại phong trào sĩ đại phu Giang Nam vào
ra cung phủ nhằm câu kết với nhau, cử nhân, giám sinh muốn đến nha môn, bái kiến
các quan, hoặc thư tín đi lại, cần phải đăng ký trước. Nội dung đăng ký là nội
dung chủ yếu của buổi trò chuyện, trong thư tín; quan lại ra ngoài, phải cho biết
đi những đâu, nói những gì. Phàm những ai không đăng kỷ, đăng ký dối trá hoặc sau
sự việc lại sửa đổi nội dung; thì quan viên và người đăng ký đều bị trừng phạt.
Đối với những quan viên đi lại công tác, Hải Thuỵ cũng không vị nể, mà quy định
họ phải tự thuê thuyền và lái thuyền, địa phương chỉ có trách nhiệm chi thêm phụ
phí. Nếu là quan nhị đẳng đi thuyền nhất đẳng, chỉ được chi tiền thuyền nhị đẳng,
nếu được dùng một thuyền mà thuê tới hai thuyền, chỉ được chi tiền một thuyền.
Hải Thuỵ cho rằng, làm như vậy những kẻ nghênh tiếp bợ đỡ sẽ hết cách, bọn quan
lại mượn cớ tuần thú để vơ vét của dân cũng sẽ chẳng được gì, hơn thế, còn giúp
chúng ta chỉnh đốn không khí nơi quan trường, vì vậy cần phải kiên quyết chấp
hành.
Hải Thuỵ đấu trí dâng cao, thi hành mạnh
mẽ những biện pháp liêm chính của mình, là hợp với đạo nghĩa, cả giới quan trường
Trung Quốc đã náo loạn. Hành động của Hải Thuỵ làm họ kinh hồn thất sắc và tức
giận phẫn nộ. Mọi quan viên gần như nhất trí, xưa nay chưa từng thấy có vị quan
lớn tổng đốc tuần phủ nào lại quái dị, gàn bướng, không thấu tình đạt lý, coi đồng
liêu của mình, coi các quan lại có qua lại như thù địch đến như vậy. Các quan
viên kinh thành, ở tỉnh ngoài, mỗi khi vào địa hạt của Hải Thuỵ, chẳng khác gì
phải vào nước Địch; bọn quan viên dưới quyền, nhất cử nhất động đều phải ghi sổ,
giống như một can phạm. Giới quan trường không thể dung được một tuần phủ cổ
quái như vây, sớ tấu đàn hặc Hải Thuỵ không ngừng được dâng lên ngự tiền. Sớ tấu
của cấp sự trung Thư Hoá được coi là đúng mực, nói Hải Thuỵ từ lâu đã nổi tiếng
vì phong tiết, là đại thần cương trực, nhưng chính lệnh lại quá hà khắc,
"e mất hết tình người". Đới Phượng Tường lại công kích quá mãnh liệt,
thậm chí còn vu khống Hải Thuỵ phạm tội mưu sát, vì một thê một thiếp của Hải
Thuỵ đã cùng lúc chết một cách khó hiểu vào mộr buổi tối. Hải Thuỵ đã phải trả
lời, người thiếp tự sát vào ngày mười bốn tháng tám, người vợ ốm và qua đời
ngày hai mươi lăm tháng tám, không phải chết cùng ngày, nhưng ngày chết lại quá
gần nhau, đủ để mọi người phải nghi ngờ. Mọi người còn tin rằng, gia đình Hải
Thuỵ xuất hiện bi kịch là điều đương nhiên, vì tính cách Hải Thuỵ vừa xa với
nhân tình vừa gàn dở quái dị. Thậm chí mọi người cũng không lạ gì về tính cách
của Hải Thuỵ. Hải Thuỵ là người sống ở miền xa xôi, ở cực nam của đất nước, là
anh chàng nhà quê thiếu hiểu biết Hải Thuỵ có thể là người thiểu số, là người
ngoại quốc.
Cách giải quyết của nội các, bộ Lại vẫn
là điều nhiệm Hải Thuỵ vào một chức quan nhàn nhã, nhưng dường như nỗi bực tức
Hải Thuỵ còn hơn cả sự phẫn nộ của quan trường. Ông viết thư cho hoàng đế Long
Khánh: "Ngày nay, các quan cả triều đều là lũ đàn bà, hoàng thượng không
nên nghe lời họ". Còn Hải Thuỵ, đương nhiên không muốn đứng cùng hàng ngũ
với những con người không giống đàn ông nọ, Hải Thuỵ tức giận, bỏ về quê nhà tận
Hải Nam và ở đó liền trong mười lăm, mười sáu năm.
--------------------------------
1 Theo chế độ thời Minh, cơ quan giám sát
trung ương là đô sát viện. Quan viên có 4 cấp: Đô ngự sử, đô phó ngự sử, thiên
đô ngự sử, giám sát ngự sử. Trưởng quan tối cao là tả, hữu đô ngự sử.
2 Thời Minh lập nước chưa lâu, Chu Nguyên
Chương bãi bỏ chức vị thừa tướng và chế độ thừa tướng, chức thủ phụ ngang với
chức thừa tướng (Tác giả).
3 Trong "Thế Tông di chiếu", Gia
Tĩnh đã thừa nhận sai lầm của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét