Văn
học chấn thương
– Đọc
“Gia đình” của Phan Thúy Hà
Nguyễn
Lương Hải Khôi
--
“Văn
nghệ chấn thương”
Năm
1978, anh sinh viên văn chương năm nhất ở Đại học Phúc Đán, Thượng Hải là Lư
Tân Hoa (卢新华Lu Xinhua) viết truyện ngắn “Chấn thương” (“Thương ngân”伤痕“Shānghén”), kể về chấn
thương tinh thần của nhân vật nữ Thiếu Hoa, một thành viên của Hồng Vệ binh, trong
cơn say của cuộc cách mạng “không có gương mặt con người”, đã tuyên bố từ bỏ mẹ
ruột chỉ vì bà bị kết tội “phản Đảng”. Tác phẩm này mở đầu cho dòng văn học nghệ
thuật phản tỉnh những nỗi đau con người trong phong trào cộng sản Trung Quốc do
Mao Trạch Đông lãnh đạo. Từ đó, tên của tác phẩm, “chấn thương”, cũng trở thành
tên gọi của dòng văn học đó, “văn học chấn thương” (“Thương ngân văn học” 伤痕文学 “Shānghén wénxué”).
Trên thế giới, tác phẩm nổi tiếng nhất của dòng văn học chấn thương Trung Quốc
có lẽ là tiểu thuyết “Phải sống” (活着 Huózhe) của Dư Hoa (余華 Yú Huá) năm 1993, được
đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựng thành phim, mô tả những thảm họa của các cuộc đại
nhảy vọt và đại cách mạng văn hóa của Mao.
“Văn
học chấn thương” là một hiện tượng phổ quát ở các nước hậu cộng sản, không chỉ ở
Trung Quốc mà từ Nga, Đông Âu đến Việt Nam, sau khi cơn sóng thần đỏ rút đi, để
lại một cõi hoang tàn nơi nhân thế và trong lòng người.
Riêng
ở Việt Nam, văn học chấn thương có thể được chia làm ba giai đoạn: 1954 – 1975,
1975 – 1990, và từ 1990 trở đi.
Trong
giai đoạn 1954 – 1975, ở miền Bắc, một số ngòi bút hiện thực đã tái hiện đời sống
miền Bắc xã hội chủ nghĩa và thảm họa Cải cách ruộng đất 1953 – 1956. Tác phẩm
mở đầu có thể là “Anh Cò lấm” của Trần Dần (bút danh Trần Bá Xá), đăng báo “Tổ
quốc”, số 27, ngày 20 tháng 1 năm 1956. (Ba tháng sau, ngày 5 tháng 3 năm 1956,
báo “Tổ quốc” đã phải đăng một bài tự phê bình, nói rằng cấp dưới “thiếu cảnh
giác” đăng truyện ngắn “phản động” “nham hiểm” “thô bỉ” này mà không hỏi ý kiến
Ban biên tập.)[1]. Kế đến là truyện “Sắp cưới” (1957) Vũ Bão. Tác phẩm kể về một
đôi lứa yêu nhau, sắp cưới thì cải cách ruộng đất bùng nổ, gia đình cô gái bị
quy địa chủ, chàng trai xa lánh cô. May thay, cuối cùng cách mạng sửa sai và họ
trở lại với nhau. Cũng trong 1957, Hữu Mai xuất bản “Những ngày bão táp”, vẽ một
bầu không khí u ám, oan ức, và những nỗ lực sửa sai của Cải cách ruộng đất. Tác
phẩm được Phan Nhân, Trưởng ban Văn nghệ báo Nhân dân, đánh giá cao, vì nó cho
“chúng ta thấy nhân dân bao giờ cũng sáng suốt và dũng cảm. Cho nên, mặc dù nói
đến sai lầm, “Những ngày bão táp” không phải là một bức tranh màu xám.” (Báo
Nhân dân, ngày 11 tháng 4 năm 1957).
Hai
tác phẩm này, chúng ta chưa thực sự cảm nhận một chấn thương tinh thần ở tầm xã
hội. “Anh Cò lấm” chủ yếu dùng giọng văn châm biếm. “Sắp cưới” kết thúc có hậu.
Tuy nhiên, đến “Vào đời” (1963) của Hà Minh Tuân, thế giới xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc hiện ra với những “chấn thương” thực sự. Nhân vật nữ tên Sen bị xã hội
đẩy vào bước đường cùng, chồng cô là Hiếu mang chấn thương tinh thần vì cha
mình bị sát hại trong cải cách ruộng đất, ghê tởm xã hội phong kiến trá hình,
và đi vào con đường chống đối rồi bị tù tội.
Trong
khi đó, ở miền Nam, “Giải khăn sô cho Huế” (1969 – 1970) của Nhã Ca ghi lại những
nỗi kinh hoàng của người dân Huế khi thành phố bị tấn công vào Mậu Thân 1968,
“Trại Đầm Đùn” (1970) của Trần Văn Thái ghi lại cảnh sống và chết của tù nhân
trong một trại tù ở miền Bắc thập niên 1950. “Dựa lưng cõi chết” (1971) của
Phan Nhật Nam cùng đề tài với “Giải khăn sô cho Huế”.
Sau
1975, ở hải ngoại, có một dòng văn “thuyền nhân”, như cách nói của GS. Nguyễn
Ngọc Bích trong bài tham luận “Văn chương lưu đày của người Việt” tại Đại học
George Mason năm 1985. Dòng văn học này phản ánh những ám ảnh vì bầu trời sụp đổ
(“Tháng ba gãy súng”, Cao Xuân Huy), “người ta mê đi vì lo âu và sợ hãi” (“Thuyền”,
Bùi Bích Hà), nỗi đau mất quê hương và tình yêu cuộc sống giúp họ vươn lên
trong bối cảnh mới, vượt lên nghịch cảnh của cuộc lưu vong “bị xua đuổi như đàn
ruồi” (“Ánh mắt”, Trương Anh Thụy), những ám ảnh về sống chết, mất còn (“Cũng
đành”, Song Thao). Dòng văn chương lưu đày này lưu lại cho chúng ta sự bất lực
của ngôn từ trước những chấn thương tinh thần khốc liệt. “Làm sao tả được cảnh
những người phụ nữ Việt Nam nằm trần truồng trên sàn ghe như những con cá vừa
được kéo lên, đang chờ mổ bụng, ướp đá? Làm sao tả được tâm trạng của người chồng
bị trói chặt, nhìn người vợ mang thai bị hải tặc hiếp dâm trước mắt? Làm sao tả
được tiếng kêu của em bé lên sáu, lên năm khi nhìn xác mẹ mình bị ném xuống biển
sâu? Làm sao tả được cảnh người thoi thóp phải ăn thịt người vừa chết để kéo
dài sự sống trên chiếc ghe chết máy lênh đênh nhiều tháng trời trên biển Đông?
Không, những câu chuyện vượt biên bi thảm là những viên đá nghìn cân đè nặng
lên số phận của đồng bào bất hạnh và sẽ muôn đời ở lại trong lòng biển” (“Sự im
lặng của biển”, Trần Trung Đạo).
Từ
1991, ở trong nước, văn học chấn thương quay trở lại. Đầu tiên là “Ác mộng”
(1991)[2] của Ngô Ngọc Bội với những chấn thương tinh thần của con cái khi mẹ đấu
tố cha đến chết trong Cải cách ruộng đất. “Ba người khác” (viết xong 1992, xuất
bản 2006) của Tô Hoài khắc họa sự bùng nổ của sự tàn ác và dâm dục của con người
khi tham gia vào cuộc cách mạng ruộng đất kinh hoàng. “Chuyện làng Cuội” (1993)
của Lê Lựu, tái hiện đời sống miền Bắc mấy chục năm, từ sau Cách mạng tháng 8 đến
Cải cách ruộng đất, rồi chuyển sang cơ chế thị trường, xã hội chìm đắm trong
thói quen làm theo chỉ thị và nghị quyết, ngay cả khi giết người, còn luật pháp
tuy có đấy nhưng chỉ để trang trí. “Thời của thánh thần” (2008) của Hoàng Minh
Tường khắc họa lịch sử Việt Nam hiện đại qua câu chuyện một gia đình, từ sau
Cách mạng tháng 8, Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, tị nạn sau 1975, mỗi
thành viên trong gia đình bị thời cuộc ném vào một số phận khác nhau.[3] “Cuồng
phong” (2008) của Nguyễn Phan Hách tái hiện lịch sử theo mô hình chính thống của
nhà nước, nhưng cũng có những phần khắc họa những bi thương mà cuộc cách mạng
ruộng đất đem lại. “Dưới chín tầng trời” (2010) của Dương Hướng cho thấy một thời
kỳ chìm đắm trong những tăm tối do cuộc cách mạng ý thức hệ mang lại, nhưng bất
kỳ ai trong hoàn cảnh đó, dù hiểu hay không hiểu những quái gở của ý thức hệ,
cũng không thể vượt qua. “Nước mắt một thời” (2009) của Nguyễn Khoa Đăng là cuộc
đời đau đớn và tủi nhục của một gia đình trước những tàn ác của Cải cách ruộng
đất. “Đội gạo lên chùa” (2011) của Nguyễn Xuân Khánh cũng tái hiện lịch sử Việt
Nam hiện đại thông qua những mảnh đời ẩn trong một ngôi chùa làng, có đau đớn,
mất mát nhưng được nằm che chở dưới tinh thần “Vô Úy” của Phật giáo. “Biết đâu
địa ngục thiên đường” (2010) của Nguyễn Khắc Phê cũng tham vọng khái quát lịch
sử thông qua những bi thảm, đau thương của những số phận nghiệt ngã, nhưng vẫn
vững tin vào khả năng tự hàn gắn vết thương tinh thần của các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc.
Nhắc
lại vắn tắt lịch sử các tác phẩm văn học chấn thương nói chung, và văn học về đề
tài Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam thập niên 1950 nói riêng, chúng ta
thấy phần lớn các tác phẩm có nói đến cuộc cách mạng ruộng đất này thì chỉ nói
đến nó như là sân khấu làm nền cho đời sống của nhân vật. Những chấn thương
tinh thần do Cải cách ruộng đất gây ra, dường như, mới chỉ được thể hiện tập
trung ở hai tác phẩm là “Ác mộng” (1991) của Ngô Ngọc Bội và “Ba người khác”
(viết xong 1992, xuất bản 2006) của Tô Hoài (và một phần trong “Vào đời” năm
1963 của Hà Minh Tuân). Cả hai tác phẩm này đều ra đời trong bối cảnh khối xã hội
chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu vừa tan rã. Đến “Gia đình” (2020) của Phan Thúy
Hà, một lần nữa, nó trở thành chủ đề trung tâm, với một bút pháp hoàn toàn mới
mẻ.
Cách viết
của “Gia đình”
Khái
niệm trung tâm để chúng ta đọc tác phẩm “Gia đình” của Phan Thúy Hà là “chấn
thương”. Nó là sự tiếp nối hai tác phẩm “Đừng kể tên tôi” (2017) và “Tôi là con
gái của cha tôi” (2019). “Đừng kể tên tôi” là tiếng nói của những người lính miền
Bắc, còn “Tôi là con gái của cha tôi” là tiếng nói của những người lính miền
Nam, tất cả họ, dù bước vào cuộc chiến vì nghĩa vụ hay vì lý tưởng, đều là những
số phận nhỏ bé, bị thời cuộc xé nát trong cuộc chiến Nam Bắc tàn khốc. Còn “Gia
đình” là một mảnh của lịch sử cuộc Cách mạng ruộng đất của phong trào cộng sản ở
miền Bắc Việt Nam thập niên 1950. Tất cả các nhân chứng trong sách “Gia đình” đều
mang một chấn thương tinh thần không thể chữa lành.
Nhân
chứng Trần Lệ:
Mười lăm tuổi, tôi là
đứa trẻ sợ hãi. Đêm, bị nhốt trong chuồng trâu. Chân giẫm lên phân. Các thanh
chắn chuồng trâu thưa, có thể chui ra ngoài nhưng tôi không dám. Quá nửa đêm,
dân quân không canh nữa, tôi vẫn sợ. Tôi đã tiểu ra quần. Nỗi khiếp sợ năm mười
lăm tuổi. Nay tám mươi hai tuổi tôi vẫn là ông già sợ hãi. Tôi không dám thắc mắc
một điều gì. Muốn viết đôi điều cho con cháu biết về cha ông mình. Cầm bút lên
tôi lại run.
Nhân
chứng Nguyễn Bút:
Hai chị dâu con bác
kéo xác chị đi chôn. Chôn ở đâu, không ai nhớ nữa. Nỗi khiếp sợ khiến cho các
chị không còn nhớ gì nữa. Các chị chỉ nhớ lúc đó không ai còn sức nên không kéo
được đi xa, cũng không đào được sâu.
Nếu tôi ở lại, chị em
dựa vào nhau. Hay tôi cũng chết giống như chị.
Chị Loan dằn vặt. Giá
hôm đó giữ chị Liên ở lại, đừng để cho chị về thôn Cầu. Nếu lường trước được
chuyện xảy ra thì cha mẹ tôi đã bỏ lại tất cả, đưa các con đi khỏi thôn Cầu
ngay từ đầu. Nếu, thì, làm sao ra nông nỗi mười một cái chết đau thương như vậy
trong nhà bác Cả, bác Hai và nhà tôi.
Văn học
như là vi-lịch sử
Tác
giả Phan Thúy Hà chia sẻ rằng trong Lời cuối sách của “Gia đình”, cũng giống
như hai tác phẩm trước, các nhân vật đều là người thật, tên của nhân vật cũng
là tên người thật, câu chuyện của họ trong tác phẩm là sự thật trong ký ức của
họ. Như vậy, ở đây, tác giả không hư cấu mà chỉ viết lại lời kể từ điểm nhìn của
nhân chứng. Chị cho biết, có câu chuyện trong tuyển tập này, tuy chỉ dài hai
trang nhưng chị phải đi gặp tới bốn người, lắng nghe họ để ráp nối các sự kiện
và dựng lại cho câu chuyện được đầy đủ. Như vậy, tác phẩm còn là một công trình
khảo sát xã hội nữa. Không phải là khảo sát ở quy mô lớn, mà là khảo sát số phận
những con người cụ thể.
Bằng
cách này, Phan Thúy Hà làm cho nghệ thuật và khoa học của “vi lịch sử” gặp
nhau. “Vi lịch sử” (micro history) là một nhánh mới của sử học gần đây. Sử học
truyền thống phục dựng thời đại đã qua chủ yếu bằng cách khảo sát những nhân vật
lớn, những anh hùng, những nhà tư tưởng, nhà kinh tế lớn, những trận đánh, những
hiệp ước xoay chuyển thời đại… Vi lịch sử phục dựng diện mạo của thời đại đã
qua bằng cách khảo sát những con người nhỏ bé, những số phận hoàn toàn vô
nghĩa, những con người “không tên, không tuổi, không tiền” của những thời đại
đã qua. Vi lịch sử chọn cách tiếp cận này vì đối với nó, những số phận nhỏ bé
này, những con người bên lề này lại cung cấp những dữ liệu để sử gia nhìn thấy
những phiên bản khác của thời đại cũ, những góc khuất của lịch sử mà những
“nhân vật lớn” của sử học truyền thống không cho ta thấy được.[4]
“Gia
đình” (cũng như “Đừng kể tên tôi” và “Tôi là con gái của cha tôi”) của Phan
Thúy Hà cũng là một dạng thức nghiên cứu về chấn thương tinh thần của những con
người nhỏ bé, đứng bên lề dòng thác khốc liệt của lịch sử, số phận bị quyết định
bởi sự lựa chọn lịch sử của những “nhân vật lớn”. Nhưng qua đời sống tinh thần
của họ, chúng ta nhìn thấy những đường nét, màu sắc và hình khối khác của bức
tranh lịch sử, khác hoàn toàn với những đường nét, màu sắc và hình khối đứng ở
trung tâm của bức tranh lịch sử “cỡ lớn” được khắc họa thông qua những nhân vật
“lớn”, nhân vật “trung tâm” của thời đại, tức những chính trị gia, những tướng
lĩnh quân sự. Thậm chí, những mảng màu trong bức tranh lịch sử được phục dựng từ
những con người nhỏ bé này có thể trở thành điểm trung tâm của bức tranh đã
qua, tùy theo điểm nhìn của người xem.
Viết văn như sắc thuốc: Lịch sử tự cất tiếng nói
Viết
văn bằng cách kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học lịch sử (vi lịch sử), Phan
Thúy Hà không phải là, hoặc không chỉ là “nhà văn”. Chị là một “tác giả”. Cách
viết của chị khi xây dựng tác phẩm này giống như hái một nắm lá về sắc thuốc.
Trong y học cổ truyền, sắc thuốc là cho lá thuốc vào nồi ấm đất, đun sôi để tạo
ra nước cốt. Người ta không đun lửa quá to, chỉ đun lửa nhỏ, để nước sôi dần
sao cho không bao giờ trào ra khi sôi. Người sắc thuốc không tự tay tạo ra thuốc,
không tác động vào nguyên liệu bằng kỹ thuật tinh xảo. Họ chỉ tạo điều kiện để
thuốc tự ra đời.
Nói
như vậy không có nghĩa “Gia đình” không phải là một sáng tạo văn học của tác giả,
ngược lại, đó là một sáng tạo độc đáo. Tác giả sử dụng giọng văn triệt tiêu mọi
cảm xúc chủ quan của chính mình. Trong “Gia đình”, chúng ta không thấy hình ảnh
tác giả hiện lên trong câu chuyện, dù đó là cảm xúc hay quan điểm của chị, mà
chỉ có nhân vật người thật đang kể lại những chấn thương tinh thần của họ. Điều
đó có nghĩa là, tác giả từ bỏ vai trò của “người sáng tạo” theo cách hiểu của
văn học truyền thống, để trở thành một “nền tảng” (“platform”) nơi sự thật tự
nó phơi bày, hay, trở thành một cửa ngõ để những mảnh đời sống tinh thần đang ẩn
hiện đâu đó trong lòng xã hội được đi qua để hiện diện một cách trực quan và
thuần khiết trước mắt cuộc đời. Cánh cửa mở ra, không phải để lôi kéo sự chú ý
của người khác đến mình, mà chỉ để những gì đằng sau nó hiện ra trước ánh sáng.
Câu
chuyện lịch sử diễn ra cách đây bảy thập niên, do đó, không được phản ánh như
là nhận thức của tác giả, dù là nhận thức chủ quan hay khách quan, mà chỉ như
là những dữ liệu khách quan, cụ thể là những dữ liệu khách quan về những chấn
thương còn đọng lại trong tinh thần của những con người nhỏ bé bị cơn cuồng
phong đỏ xé nát. Một mảnh nhỏ của lịch sử tự nó cất tiếng nói.
Nói
cách khác, người sắc thuốc là người vụng về, tác giả không miêu tả tâm lý nhân
vât, không sắp xếp câu chuyện bằng những kỹ thuật thời thượng, nhưng cái vụng về
này là cái vụng về lớn của tài năng lớn, không để cái tôi của mình đúc khuôn
hình ảnh của cuộc đời. Cách viết này không chỉ làm cho nhà văn không tự quyết định
cách hiểu của độc giả thông qua thẩm quyền áp đặt của người viết, nó còn làm
cho tác phẩm không phải là một thông điệp về giáo dục, đạo đức hay thẩm mỹ.
Ở
“Gia đình”, tác phẩm không được tạo ra như một khách thể thẩm mỹ (aesthetic
object) để người đọc, người xem thưởng thức như một đối tượng tự nó hàm chứa sẵn
các thông điệp và giá trị, và do đó, nhiệm vụ của người đọc, người xem cũng
không phải là khám phá được các giá trị và thông điệp đó, thông qua việc giải
mã các kỹ thuật viết của tác giả. Người đọc không cần có nỗi lo mình không đủ tầm
về kinh nghiệm hay tri thức để hiểu tác giả và tác phẩm. Bởi lẽ người đọc không
có nhiệm vụ hiểu những thông điệp có sẵn, mà người đọc giống như cái trống, còn
tác phẩm như bàn tay vỗ trống. Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm thông qua một mảnh
lịch sử diễn ra cách đây hơn bảy thập niên giống như âm thanh được tạo ra từ sự
tương tác giữa cái trống và bàn bay. Ý nghĩa vốn không có sẵn trong tác phẩm. Mỗi
người đọc tạo ra một hình ảnh về lịch sử của riêng mình.
Cách
viết của “Gia đình”, do đó, làm cho giá trị của nó không dừng lại ở địa hạt văn
chương, nói đúng hơn, nó không phải là văn chương theo cách hiểu truyền thống.
Chúng tôi không biết tên để gọi thể loại của tác phẩm, chỉ biết rằng, đó là một
tác phẩm để chúng ta nhận thức về lịch sử một cách khách quan.
Tòa án Cải cách ruộng đất
Các
nhân chứng trong “Gia đình” phần lớn thuộc Nghệ Tĩnh, trừ nhân chứng cuối cùng ở
Nam Định. Trong chiến tranh Việt Pháp, Nghệ Tĩnh là vùng Pháp không kiểm soát.
Chính phủ Việt Minh kiểm soát phần lớn vùng này, nhưng khi Cải cách ruộng đất nổ
ra, đây là nơi có nhiều người bị vu cáo và thanh trừng nhất.
Các
nhân chứng trong những câu chuyện của Phan Thúy Hà thuộc nhiều nhóm khác nhau,
có khi là nông dân, cũng nghèo khổ như người đấu tố mình, có khi là gia đình
quý tộc thời trước, như con cháu Thượng thư Cao Xuân Dục, Bộ trưởng Đặng Văn Hướng…
Họ ngay từ 1945 đã đi theo tiếng gọi của Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Có
người kinh doanh, tích lũy được một hộp vàng, đem hiến tặng ngay cho chính phủ
khi có lời kêu gọi “Tuần lễ vàng”. Gần đến ngày chiến thắng, một cơn sóng thần
kinh hoàng ập đến, không phải từ phía Pháp mà từ chính đồng bào và chính quyền
mình phục vụ.
Nghe
lời kể các nhân chứng, chúng ta cảm nhận được một cảm xúc rõ ràng dù không nói
nên lời: Họ không hiểu vì sao chính những người nông dân vốn hiền lành, chất
phác, nhiều người từng được họ cứu giúp lúc hoạn nạn, bỗng đột nhiên trở nên
tàn ác, man rợ như quỷ dữ, khi họ xuất hiện trong các tòa án Cải cách ruộng đất
và cả sau đó nữa.
Ký
ức lịch sử của những con người nhỏ bé trong “Gia đình” cung cấp cho chúng ta
ngày nay một bức tranh chung về những tòa án trong Cải cách ruộng đất thập niên
1950 ở miền Bắc. Đó không phải là một tòa án theo cách kiểu của văn minh nhân
loại. Đó là một không gian xã hội nơi con người bị không còn bất kỳ ràng buộc
nào về đạo đức và luật pháp. Các giá trị của đạo đức và pháp quyền mà nhân loại
xây dựng từ khi bắt đầu bước vào văn minh đã hoàn toàn bị xóa bỏ, chỉ trong một
khoảnh khắc, con người quay trở lại kỷ nguyên hoang dã.
Nhân
chứng Trần Lệ:
“Trống ba hồi chín tiếng.
“Lôi cổ tên địa chủ Trần Khiên ra đây”. “Ngẩng mặt lên trời”. Đêm đấu tố bắt đầu.
Trời đã gần về sáng.
Không còn ai hăng hái. Không ai lên đấu nữa. Đội hỏi: Giờ theo bà con nên xử thế
nào? “Một cái mọ tro cho xong”. Tôi giật thót, quay xuống nhìn người vừa nói
câu đó. Một người ở cùng làng. Anh ta có hận thù gì nhà tôi đâu. “Một cái mọ
tro” có nghĩa là “một viên đạn”. Anh muốn cha tôi bị xử bắn.
…
Cha đứng dưới mái chuồng
lợn. Một sợi dây thừng nối từ chỗ trói tay buộc vào gốc cây. Hai cánh tay trói
sát sườn. Bàn tay vẫn cử động được. Chị em tôi ra với cha. Tôi bưng bát cơm mời
cha. Bàn tay cha giơ ra đón. Sợi dây trói giật mạnh. Bát cơm rơi xuống. Người
dân quân đứng trong bụi cây cầm sợi dây hả hê đứng nhìn. Bát không vỡ. Cơm đổ
ra.
…
Cha ngồi xuống, nhặt
từng hạt cơm vào miệng. Hôm sau. Trống ba hồi chín tiếng. Mẹ và bảy đứa con ra
đứng bên đường. Đợi cha đi qua. Nhìn theo. Cha quay lại nhìn các con. Cha muốn
nói điều gì. Trống ba hồi chín tiếng.
Ba năm sau tôi cùng mẹ
lên nghĩa địa trại giam đưa cha về. Tôi chạm tay vào hộp sọ.Tôi bê lên. Tôi gọi
thầm.”
Nhân
chứng Phan Thị Tứ:
Một cái dây tròng vào
cổ. Xác cha tôi bị kéo đi từ trường cơ bản xuống Bến Nại. Đoạn đường đá lởm chởm.
Đá chọc vào da thịt. Da thịt găm vào mỏm đá sắc. Con mương dài là lối trâu đi
ra đồng. Xác cha nằm đó. Giữa lối trâu đi. Xác ông Long cũng nằm đó, úp mặt,
trong con mương. Ông Long bị bắn vào buổi sáng. Hai người làng Châu Hạ. Chị tôi
điên dại khi nghe kể lại. Chị lên cơn đau tim. Chị ra đi khi tuổi đời còn trẻ.
Chúng
ta hãy thử giải mã cơ chế làm cho những nông dân chất phác hiền lành bỗng chốc
thành ác quỷ trong cuộc cách mạng đó.
Như
một mẫu số chung, thập niên 1970, ở châu Âu, có một nghệ sỹ khác, Marina
Abramovic, cũng sinh ra và lớn lên trong khối cộng sản chủ nghĩa giữa thế kỷ 20
(Nam Tư), thực hiện một tác phẩm nghệ thuật thuộc thể loại “nghệ thuật trình diễn”
(performance art), “Rhythm 0” (tạm dịch là “Nhịp điệu số 0”) năm 1976 ở Naples,
Italia, nhưng cũng cho chúng ta thấy cùng một thông điệp với cuốn sách “Gia
đình” của Phan Thúy Hà. Diễn biến của các phiên Tòa trong Cải cách ruộng đất,
trong hồi ức của các nạn nhân, giống như diễn biến của nhân cách con người
trong tác phẩm nghệ thuật trình diễn “Rhythm 0” mà Marina Abramovic đã làm cho
lộ ra.
Marina
mời khán giả tham gia vào tác phẩm, và giống như “Gia đình” của Phan Thúy Hà,
khán giả vừa tham gia tạo nên tác phẩm, vừa trở thành một phần của tác phẩm.
Nghệ sỹ Marina cung cấp 72 đồ vật như cành hoa hồng có gai, dây xích, dao, kéo,
súng đã nạp đạn, búa, rìu… cho công chúng và đặt ra một cam kết: Họ có thể làm
bất kỳ điều gì họ muốn trên cơ thể cô mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy định
pháp lý hay đạo đức nào.
Theo
nhà phê bình nghệ thuật Thomas McEvilley, người quan sát buổi trình diễn, “ban
đầu nó diễn ra khá là bình thường”, nhưng “đến giờ thứ ba, tất cả quần áo của
cô đã bị cắt khỏi người bằng dao cạo. Đến giờ thứ tư, những lưỡi dao tương tự bắt
đầu khám phá làn da của cô. Cổ họng của cô đã bị rạch để ai đó có thể hút máu.
Nhiều vụ tấn công tình dục […] khác nhau đã được thực hiện trên cơ thể cô ấy…
Khi một khán giả chọn khẩu súng đã nạp đạn chĩa vào đầu Marina và đưa ngón tay
của cô ấy xoay quanh cò súng, một cuộc ẩu đả nổ ra giữa các phe khán giả.”
Đương
thời, tác phẩm gây chấn động cho công chúng nghệ thuật phương Tây, bao gồm cho
cả chính người tham gia vào tác phẩm, vì nó phơi bày một sự thực trong tinh thần
và cách tổ chức xã hội người. Trong một không gian xã hội khi không còn tinh thần
luật pháp và đạo đức, khi người ta vẫn được an toàn khi làm điều ác, những người
lương thiện nhất cũng trở thành ác quỷ.
Dưới đây là một vài
hình ảnh của tác phẩm “Nhịp điệu số 0” của Marina Abramović. Ảnh: Guggenheim
Museum.
Những dụng cụ Marina
Abramović đặt ra trong phòng trình diễn.
Những tác động êm ái ban đầu
của khán giả lên người cô Marina: người ta đặt hoa hồng lên tay cô, gắn những
bức ảnh lên người cô.
Nhưng khi người ta
thực sự thấy an toàn khi làm điều ác: Cô bị lột áo và tấn công tình dục.
“Nhịp
điệu số 0” của Marina, tương tự như “Gia đình” của Phan Thúy Hà, không có ý định
“tố cáo” một điều gì. Nó không nhắm đến một câu chuyện chính trị nào. Nó vượt
xa tất cả những thông điệp ngắn hạn và bó hẹp đó.
“Nhịp
điệu số 0” chỉ dùng một thí nghiệm tinh thần để giúp con người nhìn thấy một
cách trực quan sự nguy hiểm của con người khi bước vào cách tổ chức xã hội thả
lỏng phần “con” của họ. Ở “Gia đình” của Phan Thúy Hà, ký ức của các “sử gia
dân đen” cũng cho chúng ta thấy một sự thực tương tự. Trong tòa án Cải cách ruộng
đất, “phạm nhân” càng cam chịu và nhận tội, các quan tòa bần cố nông càng say
máu và tàn ác.
Tuy
nhiên, khi “phạm nhân” phản kháng, có khi họ bị trả thù nặng nề hơn, nhưng cũng
có khi sự phản kháng ấy làm đám đông chùn bước. Truyện số 8: Nguyễn Ngọc Lập:
Tôi
nghe kể rằng mẹ tôi tinh thần vững vàng lắm khi bị đưa ra đấu tố. Họ bắt mẹ cúi
đầu mẹ không cúi đầu. Bắt mẹ xưng con với ông bà nông dân mẹ không xưng con. Họ
nói gì mẹ cũng im lặng. Tới khuya, dân quân giải mẹ về. Về tới nhà, mẹ đứng ở
thềm chửi đổng. Dân quân quay vào. Chúng nó có đánh đập mẹ không? Tôi gặng hỏi.
Đừng nhắc chuyện này nữa con. Hay ho gì. Thế mẹ có ghét đứa nào trong làng
không? Mẹ không ghét đứa nào. Tha cho chúng nó đi con.
Con
người khi được trao quyền lực trong bối cảnh không có sự cân bằng và kiểm soát của
đạo đức và quyền lực, họ bất ngờ trở nên tàn bạo, như quay về giai đoạn phi lý
tính của tuổi thiếu niên. Khi trở lại cuộc sống bình thường, một số họ không hiểu
nổi con người mình trong bầu không khí “đặc thù” khi đó. Trong “Gia đình”, có
những bần cố nông quay trở lại hối hận và đau khổ vì tội ác của mình, gặp lại
gia đình nạn nhân để tạ lỗi. Nhân chứng Phan Thị Tứ:
Hai
ông cốt cán bị đưa ra nhà tù ngoài huyện Thanh Chương. Sáu tháng sau được về,
người cốt cán họ hàng mang một cơi trầu xuống gặp mẹ tôi. Ông khóc. Bác tha tội
cho con. Con sợ bị bắn như ông Hỏa. Con khai ông là chủ mưu. Ông đã thuật lại
cho chúng tôi biết buổi chiều mưa lụt ngày hôm đó.
Địa ngục
vô gian
“Địa
ngục vô gian” là một cách nói Phật giáo, chỉ cảnh khổ đau kéo dài như vô tận,
cái này tiếp nối cái kia, không có khoảng dừng. “Nhịp điệu số 0” của Marina
Abramović chỉ kéo dài 6 giờ. Còn Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam không
phải là một thảm họa bùng lên một thời gian ngắn rồi mất.
Dù
Đảng Lao động (Cộng sản) Việt Nam tuyên bố sửa sai, thực chất họ chỉ dừng các
chiến dịch đấu tố. Những nhà văn Nhân văn Giai phẩm, hay những trí thức độc lập
như Nguyễn Mạnh Tường, lên tiếng phê phán sự tối tăm và vô nhân đạo của Cải
cách ruộng đất đều bị trừng phạt, trả thù tàn nhẫn.
Não
trạng vận hành cuộc Cải cách ruộng đất đó còn nguyên trong hệ thống xã hội qua
nhiều năm và tiếp tục gieo rắc tai họa. Các chiến dịch đấu tố không còn, nhưng
tinh thần của nó còn tiếp tục đưa người ta vào cõi chết. Có nhiều câu chuyện về
những cái chết sau Cải cách ruộng đất trong bối cảnh tinh thần đáng sợ đó.
Nhân
chứng Đoàn Thị Mỹ:
Tháng mười một trời
rét căm căm, một buổi trưa bà tôi run rẩy trong chiếc váy đụp ôm chiếc vò. Ngang
qua chuồng bò bà dừng lại. Bà khụy xuống, máu bên sườn chảy ra, miếng cơm tuột
khỏi tay bà. Thằng Kỷ, con một cố nông, ngồi trên cây bưởi chờ bà đi qua. Nó biết
giờ này bà ghé vào mái chuồng bò. Viên gạch ném trúng vào sườn. Anh chị chạy ra
dìu bà về.
(…)
Sáng hôm anh tôi chạy
sang lay tôi dậy. Mị ơi bà chết rồi.
Bà chết vì rét hay vì
đói. Từ hôm bị trúng viên gạch thằng Kỷ bà nằm một chỗ. Ba năm sau bốc mộ bà thấy
hai chiếc xương sườn bị gãy.
Nhân
chứng Ngô Việt:
Ê con địa chủ, con địa
chủ. Tan học là tôi chạy. Cả đám rượt đuổi. Đuổi theo về nhà. Đánh chết thằng
con địa chủ này. Tôi chui vào cũi bếp. Tôi ngồi co ro trong cũi bếp. Chúng bỏ về
từ lâu rồi, không còn tiếng nháo nhác xung quanh, tôi vẫn không dám bò ra. Hôm
sau, tôi chạy không nổi nữa, một thằng tóm được. Nó lấy một quả khế chấm vào
phân trâu bắt tôi ăn. Tôi ngậm miệng, một đứa giữ đầu, một đứa banh miệng tôi
ra, nhét miếng khế chấm phân trâu vào. Thằng con địa chủ, không ăn tao đánh chết.
Tôi nhai. Vờ như đã nuốt. Đợi chúng bỏ đi. Anh trai tôi biết hết những chuyện
này. Từ mai em ở nhà anh dạy (…)
Chuẩn bị đi B tôi nhận
được thư cha. Trường Đại học Sư phạm Vinh gửi giấy đi học. Tôi cầm lá thư cha
viết mà nước mắt rơi. Đi B hay về nhà đi học. Qua phút yếu lòng tôi lấy tinh thần.
Quanh tôi là anh em đồng đội. Đứa trẻ sống trong sợ hãi. Tuổi thiếu niên không
thoát ra được nỗi mặc cảm là con địa chủ tù tội. Vào chiến trường tôi thành người
mạnh mẽ. Mặt trận chỉ có sống và chết. Mặt trận không có thành phần. Hết chiến
tranh, trở về cuộc sống đời thường, tâm tư đứa con địa chủ làm khổ tôi. Trong
lòng tôi luôn có nỗi buồn. Người ta vui nhưng tôi không sao vui được. Lúc nào
cũng mang nỗi sợ. Sợ mà không biết là sợ gì. Nghe một chuyện gì đó người ta
chưa sợ tôi đã sợ rồi.
Nhân
chứng Võ Thị Thấy
Cơn đói và cơn rét.
Cha không bước nổi. Cha thả gánh nứa vào một nhà bên đường xin hơ lửa. Chủ nhà
cho ngồi bếp. Giọng cha run cầm cập, cho tôi xin một bát cơm.
Nhà người ta ăn cơm rồi
nhưng vẫn nấu một niêu cơm cho riêng cha. Thảm thương cho cha tôi, vào đúng
ngôi nhà dân quân đang họp. Một dân quân đi vào bếp phát hiện ra cha tôi.
– Thằng địa chủ sao
cho vào đây?
Người chủ nhà tốt bụng
nhưng nỗi sợ hãi lớn hơn. Niêu cơm trên bếp vừa sôi. Họ châm cho cha một bó đuốc.
Bảo cha đi ra khỏi đây ngay.
Sáng hôm sau người ra
đồng thấy một xác chết bên cầu Ngả Hai. Phủ trên thân xác là quần đùi áo mỏng.
Bàn tay buông ra bó đuốc cháy dở.
(…)
Ông (chồng của người
kể chuyện) đột nhiên đổ bệnh. Người ta gọi là bệnh nói nhảm. Nửa đêm ông ngồi dậy
và nói một mình. Các con không hiểu ông nói gì.
Chỉ mình tôi hiểu những
điều ông nói ra. Chỉ mình tôi hiểu là ông không nói nhảm.
Số phận
của trẻ em
Bản
thân các nhân chứng kể chuyện cho Phan Thúy Hà phần lớn vẫn đang ở tuổi thiếu
niên hoặc nhỏ hơn, khi Cải cách ruộng đất nổ ra bảy thập niên trước. Trong “Gia
đình”, hình ảnh đọng lại sâu nhất trong lòng người đọc có lẽ là trẻ em. Chúng
chứng kiến cha mẹ bị giết, bị chết, bị đày đọa, chứng kiến anh chị hay em mình
chết đói, và bản thân chúng chết vì đói. Chúng không có khả năng chống đỡ trước
cơn sóng thần đỏ của người lớn, cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Nhân
chứng Nguyễn Công Hà:
Tôi đi vào sân. Sao
nhiều vôi bột quanh sân thế này. Anh Kha đi ra. Anh khóc nấc lên. Cháu Uyển mất
rồi. Cháu Uyển đi mót, uống nước ruộng, bị dịch tả. Cháu Uyển, con gái đầu của
anh Trạm. Anh Kha khóc vì bất lực. Anh Trạm đã bị xử bắn. Sau bốn năm ở tù, vào
đợt cải cách cuối cùng. Chị dâu đã chết. Trên cánh đồng. Trong tay chị là cái
que chọt rau má. Thằng bé út vẫn bám trên lưng mẹ như một con nhái.
Mẹ chết ngày hôm nay.
Ngày hôm sau cha bị đưa ra pháp trường lãnh án tử hình. Chúng tôi đã không cưu
mang được các con của anh chị.
Đối với trẻ em, cái
chết của con chó thân thiết với tuổi thơ cũng là một chấn thương tinh thần
không khác cái chết của người thân ruột thịt.
Em gái tôi ôm con He
vỗ về. Trên mình nó có một vết chém, máu đã khô. Nhoài ra khỏi tay em gái, He lại
nhay nhay gấu quần tôi. Tôi hiểu ý, đi theo nó.
Trưa nay, khi cha mẹ
tôi bị trói đi con He đã đi theo. Giờ nó về dẫn tôi đi thăm cha mẹ. Tôi theo nó
đến trước một ngôi nhà, đứng từ xa nhìn vào. Trong ánh sáng lờ mờ chập tối, tôi
thấy cha đang bị cùm trước sân. Tôi ngồi xuống, xoa đầu con He an ủi. Làm gì được
bây giờ. Phải về thôi.
Con He tình nghĩa.
Cha tôi bị nhốt ở đâu nó cũng lần mò tới được. Nó đã bị đánh chết, vì là con
chó địa chủ. Nó rên ư ử lết về và chết bên cạnh anh em tôi.
Nhân
chứng Ngô Việt
Tay mẹ ôm em, tay mẹ
dắt tôi. Chân tôi bước lẩy bẩy. Bà nội lưng chưa còng gánh gồng. Cả nhà đến ở một
nơi khác. Ở nơi đó có người đứng canh ngoài ngõ. Mẹ và bà nội bị bắt đi đâu tôi
không biết. Vài ngày về nhà. Vài ngày sau lại bị bắt đi. Em tôi đói. Tôi cũng
đói. Em lả dần và chết bên cạnh tôi. Tôi chín tuổi và em tôi bốn tuổi. Tôi không
còn mường tượng được khuôn mặt em. Tôi chỉ nhớ buổi tối tôi ngồi bên em, em là
đứa trẻ đã chết. Tôi ngồi nhìn và không biết phải làm gì với em.
(…)
Giữa đêm tôi thức dậy.
Mẹ nằm trên chõng đã buông xuôi. Mái tóc bung xõa xuống đất. Không còn cái chiếu
nào để đắp cho mẹ. Mẹ nằm yên tĩnh chờ đêm mai anh trai tôi mới đến được. Anh đến
mang theo một chiếc chiếu. Anh cuốn mẹ lại trong chiếu. Bó bằng hai đoạn dây
tre. Chôn ở đâu, chỗ nào cũng bị cấm. Anh họ tôi nói, ruộng mình đâu thì chôn ở
đó. Đám tang giữa đêm. Bốn người đưa. Người đi đầu cầm đuốc. Anh trai và anh họ
khiêng mẹ. Một người vác cuốc đi sau. Những cái bóng lướt đi. Không một tiếng
thầm thì. Đuốc cháy leo lét. Tôi ngồi nhìn theo. Sao tôi không đi cùng. Vì
không ai bảo tôi đi. Tôi chưa tự biết phải làm gì.
(…)
Bà nội tôi không trụ
được nữa. Bà cũng đi luôn với mẹ và em. Chưa đến ba tháng, từ buổi trưa tôi sốt
cao đang nằm trên giường. Những đêm vùi người thân xuống đất. Ký ức đi theo suốt
một đời.
Có khi thảm cảnh làm
những đứa trẻ trở nên già trước tuổi, rắn rỏi và mạnh mẽ.
Nhân
chứng Hoàng Quỳnh:
Ở trường tôi tổ chức
một cuộc họp học sinh toàn trường để học sinh tố cáo tội ác của giai cấp địa chủ.
Tôi mụ mẫm ngồi nghe. Cố thu mình nhưng có đứa thấy, yêu cầu tôi đứng dậy vạch
các tội ác cha mẹ tôi.
Tôi không biết tội gì
để vạch. Họ bắt tôi phải nhắc lại câu mà những kẻ trước đã nói.
(…)
Mắt nhắm thiêm thiếp
mẹ vẫn cầu nguyện. “Trời cho tôi sống với con tôi, trời bắt tôi chết con tôi sống
với ai bây giờ”. Buổi tối tôi đặt vào lòng bàn tay mẹ củ khoai. Mẹ ăn đi nhé.
Sáng tinh mơ tôi vác cuốc ra đồng. Đến giữa buổi sáng tôi đã cuốc xong đám ruộng,
phấn khởi đi về nhà khoe với mẹ. Mẹ nằm im lìm, củ khoai luộc tối qua vẫn nằm
trên bụng mẹ. Chân tay mẹ đã lạnh ngắt. Tôi bình thản lạ lùng. Mẹ đã cực khổ tận
cùng rồi. Chỉ có chết mới giải thoát.
Cải
cách ruộng đất trong bối cảnh tư pháp cộng sản chủ nghĩa
Về
những “sai lầm” của Cải cách ruộng đất, Đảng Lao động Việt Nam đã viết:
“Tư
tưởng thành phần chủ nghĩa trong cải cách ruộng đất có tư tưởng nông dân, đặt bần
cố nông lên trên tất cả, thậm chí đặt bần cố nông lên trên Đảng… Tư tưởng tả
khuynh trong cải cách ruộng đất đã chớm nở lúc đầu; nó đã đưa đến chỗ học tập
kinh nghiệm nước bạn một cách máy móc và không chịu điều tra nghiên cứu đầy đủ
tình hình xã hội ta để định chủ trương chính sách cụ thể cho thích hợp. (…) Tác
phong độc đoán chuyên quyền, do đó mà trở nên phổ biến, không đi theo đường lối
quần chúng, mà thực tế đã trấn áp quần chúng, nhẹ tuyên truyền giáo dục, buộc
quần chúng làm những điều trái với ý muốn, với lương tâm của họ, có khi trái với
chân lý và chính nghĩa. (Đề cương báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung
ương lần thứ 10, tháng 10-1956, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, H.2002, tập 17, tr. 430-431)
Ở
Việt Nam, những lời “tự phê bình” này cho đến nay vẫn được sử dụng để đánh giá
về các “sai lầm” của Cải cách ruộng đất. Luôn phê phán cách nhìn “duy tâm”, đề
cao “duy vật”, nhưng những văn kiện như thế này lại rất “duy tâm” ở chỗ nó chỉ
nhấn mạnh đến sai lầm về mặt tư tưởng và tâm lý, lấy “tinh thần” để giải thích
cho “vật chất”.
Nó
“quên mất” rằng tư tưởng “tả khuynh” này là hậu quả tất yếu của cách tổ chức xã
hội và chính trị theo khuôn mẫu cộng sản chủ nghĩa. Chúng ta hãy điểm lại lược
sử cách tổ chức nền tư pháp theo mô hình cộng sản của Mao Trạch Đông mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tổ chức từ 1950, trong đó, quan trọng nhất là Sắc lệnh 150 SL
12/4/1953 của ông, cho phép cơ quan hành chính địa phương thành lập “tòa án
nhân dân đặc biệt” ở những vùng phát động cải cách ruộng đất. Tòa án này chỉ có
tính chất tạm thời, sau khi xong nhiệm vụ sẽ giải tán (Điều 2). Về quan tòa, sắc
lệnh quy định “một nửa số thẩm phán do Nông hội hoặc Hội nghị đại biểu nông dân
ở huyện hay liên huyện cử ra. Khi đến xã nào xử thì lấy thêm đại biểu nông dân ở
xã đó, nhưng số đại biểu lấy vào không được quá 1/3 tổng số thẩm phán.”
Như
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết kế hệ thống tư pháp cộng sản theo mô hình của
Mao Trạch Đông trước đó mấy năm, tòa án được thành lập tạm thời, trong thời
gian ngắn, thẩm phán do bần cố nông chiếm đa số áp đảo, dù mù chữ hoàn toàn hay
“biết đọc chữ” thì không có bất kỳ một tri thức và kinh nghiệm tư pháp nào. Họ
có quyền tuyên án tử hình, tước đoạt mạng sống người khác mà không cần chịu
trách nhiệm gì đối với quyết định của mình. Tòa án chỉ tạm thời nên tuyên án
xong thì tòa án giải thể.
Những
“tư tưởng tả khuynh”, “tác phong độc đoán chuyên quyền”, “đặt bần cố nông lên
trên tất cả” thực ra thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Những yếu tố tinh thần
này chỉ có thể gây ra thảm họa, khi và chỉ khi, nó được cung cấp một công cụ
chính trị xã hội mạnh nhất: Tòa án. Cách thiết kế “tòa án” trong các Sắc lệnh
156-SL, 158-SL năm 1950 và Sắc lệnh 150 SL 12/4/1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
không cần phải tranh luận gì, cũng thấy trước là sẽ gây hậu quả thảm khốc.
Đó
là chưa kể, những hậu quả này đã được các trí thức ngành tư pháp chỉ ra từ
1948. Việc thiết kế cách tổ chức Cải cách ruộng đất thập niên 1950 ở Việt Nam
không phải chỉ để “đem lại ruộng đất cho dân cày”. Nó rõ ràng hướng đến mục
đích chính trị ở tầm chiến lược dài hạn và xa hơn rất nhiều mục đích “người cày
có ruộng”, của các nhà lãnh đạo phong trào cộng sản ở giai đoạn đó. Tuy nhiên,
vấn đề này xin không bàn ở đây.
Các
nhà sử học ngày nay có thể hiểu hệ thống tòa án Cải cách ruộng đất ở thập niên
1950s được thiết kế như thế nào, nhưng họ không có dữ liệu để hiểu tác động xã
hội của nó trong thực tế. “Gia đình” của Phan Thúy Hà không chỉ là văn học mà
còn một công trình ghi chép xã hội học lịch sử, chỉ nhắm đến mục đích ghi chép
thuần túy về lịch sử tinh thần và không áp đặt bất kỳ cách hiểu nào về quá khứ.
Chính điều này làm cho tác phẩm có thể giúp các nhà nghiên cứu ngày nay nắm bắt
một cách khách quan ký ức của những nhân chứng đã nếm trải hệ thống tòa án Cải
cách ruộng đất, từ đó hiểu tác động thực tế của hệ thống đó đối với lịch sử.
Chú thích
[1] Có thể xem truyện
ngắn “Anh Cò lấm” của Trần Dần và bài báo tự kiểm điểm của báo Tổ quốc năm 1956
trên Tạp chí Talawas.
[2] “Ác mộng” bị thu
hồi sau khi xuất bản, và cho đến nay chưa được tái bản.
[3] Tác phẩm “Thời của
thánh thần” bị thu hồi. Sau đó được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hàn
và tiếng Hoa (bản tiếng Hoa ở Trung Quốc chưa kịp phát hành thì cũng bị cấm).
[4] Một trong những
tác phẩm sử học tiên phong của vi lịch sử (micro history) là “Phô mai và côn
trùng” (“The Cheese and the Worms”) của Carlo Ginzburg năm 1976. Tác giả nghiên
cứu cuộc đời của một người làm phô mai tên là Menocchio (1532–1599), sống ở một
ngôi làng hẻo láng và không biết chữ. Tác phẩm khảo sát niềm tin tôn giáo và tưởng
tượng của người nông dân làm phô mai về vũ trụ, phác thảo diện mạo của văn hóa
đại chúng ở châu Âu đương thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét