Thứ Ba, 7 tháng 6, 2022

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ19)

 CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ19)

 Tác giả: Nhật Tuấn



                NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN (KỲ 2)

 

                
                      Tranh Trịnh Công Sơn

                          

Tháng 3 năm 1953 sau đợt học tập chỉnh huấn, Nguyễn Tuân viết bản thu hoạch “Nhìn rõ sai lầm” đạt kết quả… vượt cả mức Đảng yêu cầu. Không những rũ bỏ con người cũ, ông còn lên án nặng nề những “đứa con tinh thần:

 

Cuốn sách  ấy – Vang bóng một thời – là những tang chứng đầu tiên về tội lỗi của tôi với dân tộc”. Trong “Vang bóng một thời” tôi đã đứng về phía bọn phong kiến, bóc lột thống trị nhân dân lao động mà đưa ra một cái nhân sinh quan phản tiến bộ cuả bọn quan lại địa chủ tiêu dao hưởng lạc bất lực trước nhiệm vụ lịch sử…. Truyện dài “Thiếu quê hương” in năm 43 là một tội lỗi nữa về sáng tác cũ… Tập “Nguyễn” in sau ngày Tổng khởi nghĩa… tôi tự truyền thần cái tôi thối nát và phá hoại đó… tự dối mình cho là tâm hồn mình vẫn thanh cao mặc dầu thân thể tắm vào bùn nhơ của rượu, thuốc phiện, dâm ô…”

 

Kết tội, vùi dập tác phẩm của mình quyết liệt, tàn nhẫn vậy, phải chăng Nguyễn Tuân chịu sức ép của cán bộ Đảng? Không hẳn thế, nếu không xác tín, không tự nguyện, không viết từ con tim thì không thể có những lời lẽ cháy bỏng vậy. Chính vì lẽ đó, Nguyễn Tuân viết về Đảng với giọng hào sảng:

 

“Chân lý của Đảng đang đưa tôi sang một chỗ đứng mới. Từ chỗ đó, tuy còn là non yếu, tôi sẽ cố gắng bước dần lên, Đảng và nhân dân dìu dắt tôi dần lên …”

 

Để nắm chặt văn nghệ sĩ, Đảng luôn luôn nhắc nhở:

 

Văn học nghệ thuật là vũ khí của Đảng, mỗi nhà văn là một chiến sĩ trên mặt trận văn hoá…văn học phải phục vụ chính trị…”

 

Ta có thể thông cảm hoàn cảnh khắc nghiệt của các nhà văn Việt Nam  phải đội trên đầu “cái vòng kim cô” đó  mà bất kỳ ai cũng có thể đọc “niệm chú” cho kẻ đang đội phải thân tàn ma dại. Vậy nhưng khác với Tôn Ngộ Không bị Phật tổ buộc phải đội, trong cái chợ văn chương xã hội chủ nghĩa, ai muốn vào thì vào, ai muốn ra cũng chẳng cấm, bất kỳ nhà văn nào muốn từ chối danh hiệu “người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ” đều có thể xếp bút nghiên theo việc cày bừa, đều có thể tháo cái “vòng kim cô” trả lại Đảng kiểu như nhà thơ Hữu Loan từ bỏ Hội Nhà văn về làm ruộng, Đảng còn mừng nữa là khác.

 

Nhưng với Nguyễn Tuân thì khác, ông “ngông” ở đâu không biết chứ trên “mặt trận văn hoá văn nghệ” ông “phục vụ chính trị” vào loại xông xáo nhất, hăng hái nhất trong các nhà văn “tiền chiến”.

 

Thử coi Nguyễn Tuân tả đồng chí Lê Duẩn giảng bài :

Hình ảnh “thày học” (Lê Duẩn) hửng dưới rặng hoa mơ hoa  bưởi  trắng, nở bên những mái gồi, trên những con đường thấp thoáng quần áo xanh lam dặm. Càng ngày càng hiểu thêm ra thấy rõ chủ nghĩa Mác là mùa Xuân của loài người. Càng thấy mình trẻ lại trong sự giáo dục ân cần của Đảng..”.

 

Thật khó ngờ rằng mãi đến những năm thập kỷ 60, ông nhà văn Nguyễn  Tuân vẫn tràn đầy cảm xúc “mùa xuân của chủ nghĩa cộng sản”  trong khi trước đó rất lâu, André Gide đã viết “Retour de l’URSS”, Koetsler đã viết “Le zero et l’infini”, nhà văn Nga Bulgakov đã viết “Trái tim chó”, Pasternack đã có “ Bác sĩ Dzivago”,  nhà báo Proust đã lật tẩy: “chủ nghĩa cộng sản là sự đánh đồng cái cao thượng và cái ti tiện”, “Câu lạc bộ Petophi” ở Hunggary đã sôi nổi đòi thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa đó. Không lẽ những tiếng vọng lịch sử đó không tới được tai Nguyễn Tuân? Không lẽ trí óc lỗi lạc của ông nhà văn không mảy may tiếp nhận những tia hồi quang của những người tiên phong cùng thời đó?

 

Vậy mà không, cũng năm đó, ông tả hai cái xác Lê Nin và Staline:

 

Tôi cảm thấy như những cặp lông mày, lông mi sắp sửa chớp chớp và tất cả ở đây sắp được nghe thêm một lời nói rất mới rất nhẹ. Một vừng sáng hồng toả lên từ hai khuôn mặt trong lặng. Đấy là thần thái của những người sống, người còn sống. Đấy là thần thái của những vĩ nhân thế giới đã thức chọn một đời và trong lúc nhân loại ngày nay đã đi mạnh được trên cái đà của chủ nghĩa cộng sản thì Người đã yên tâm chợp mắt trong giây lát… Người nghỉ đây nhưng người đã hoá thân vào trong tâm não của cả nhân loại… Người đã thành tên tuổi của một kỷ nguyên mới, của một nền cảm xúc mới và một nếp lạc quan mới…”

 

Nếu không xuất phát từ đáy lòng, sao có thể viết được những câu văn bay bổng đến thế? Tuy nhiên, người ta có thể tin chắc nếu được dịch sang tiếng Nga, hai đồng chí lãnh tụ tối cao đang nằm trong quan tài pha lê cũng phải nhổm dậy cười hô hố: “Thằng nào hót hay thế?”.

 

Khổ nỗi không hót “hay” như vậy, lần sau “nó” cắt suất không cho đi tham quan các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa nữa thì… khổ. Bởi vậy ở một chỗ khác, Nguyễn Tuân  lại “bốc phét”:

 

Tuyết sẽ trùm lên hết Cung điện Mùa Đông Pêtrôgrat. Nhưng lửa nghị lực và sức làm việc nóng sôi của Lênin ở lều đây sẽ làm tan khối băng tuyết…”.

 

Í trời ơi, lửa của lãnh tụ nóng như vầy không khéo đốt cháy cả nhân dân Nga. Thế rồi được uống rượu Vodka nhắm với trứng cá hồi, ông nhà văn lại ba hoa về tượng Staline:

 

Người nhìn ra xa , nhìn chủ nghĩa cộng sản đang hình thành giữa trời nước Liên xô bát ngát. Sta-lin to cao bình tĩnh như một ngọn đèn bể. Gió bể Cát-piên cuốn bụi dưới chân Người. Người  đuổi theo những ý nghĩ lớn. Sta-lin không nói. Sta-lin lặng im như một pho tượng sống… Vây quanh lấy Sta-lin, cuộc sống tưng bừng xây dựng của Stalingrát và của cả Liên bang xô viết đang nói to lên những điều Sta-lin lặng nghĩ trên ngã ba sông…”.

 

Tượng đá mà còn biết nghĩ, và những ý nghĩ đó còn được cả bàn dân thiên hạ nói to lên, thì quả thực “nghề này phải lấy ông này tiên sư”.

 

Chỉ nội trong chuyến được Đảng cho đi tham quan Liên xô, Nguyễn Tuân đã “hót” lia lịa cả loạt bài: “Lăng và hồ Lênin” “Về Stalingrát” “ Thăm nhà máy cày”. Nhân “Liên xô kỷ niệm Cách mạng tháng Mười được chẵn năm mươi năm”, Nguyễn Tuân ao ước:

 

“Tôi muốn tôi được hoá thân làm một ngòi pháo cây bông lửa màu soi mình suốt đêm thâu  trên pha lê tuyết ngần của Mạc Tư Khoa tôi hằng quý mến, của Lêningrát tôi hằng nhớ thương…”.

 

Ôi chao, tình thương mến thương quê hương cách mạng Tháng Mười của Nguyễn Tuân rào rạt đến như vậy thì còn có nhà văn nhà thơ thế giới nào hót hay hơn được nữa?  Chỉ tiếc chưa đầy hai chục năm sau, “kiểu đấu hót” này đã bị Ngài Putin vứt vào thùng rác của lịch sử.

 

Được đi thăm Trung Quốc, Nguyễn Tuân ca ngay một tập “Bút ký Trung Hoa” trong đó có cả loạt bài, nào “Cung thiếu nhi”, nào “Ngày Quốc tế thiếu nhi tại Bắc Kinh” “Xưởng máy dệt gai ở Cáp Nhĩ Tân” “Gang thép khu Đông Bắc và người công nhân Trung Hoa” “Xưởng máy mẫu cơ ở Thẩm Dương” “Làng ngoại thành Bắc Kinh” “ Sân khấu Trung Quốc”… ở đâu cũng thấy Nguyễn Tuân đề cao công ơn của Đảng cộng sản Trung Quốc mang tới cho nhân dân Trung Hoa. Chẳng chịu kém thi sĩ  Chế Lan Viên trong hai câu thơ để đời:

 

“Bác Mao nào ở nơi xa…

Bác Hồ ta đó cũng là bác Mao…”

 

Nguyễn Tuân cũng phóng bút:

 

Trong cuộc sống tưng bừng ngày nay của Trung Quốc có Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Hoa luôn đem vui tươi ấm no đến cho nhân dân, tôi cảm thấy cây liễu đã trổ hoa thật và bóng liễu ngày nay xanh rờn  bắt nắng hơn bao giờ hết…” .

 

Ôi chao ôi, công ơn Mao Chủ tịch và Đảng  cộng sản Trung Quốc cao đẹp đến nỗi cây liễu cũng ra hoa thì thật là bốc phét đến… tàu cũng phải cười. “Nhà tiên tri giả” Nguyễn Tuân liệu có biết chỉ không đầy chục năm sau, Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Quốc đã dìm chết cả chục triệu người vô tội trong biển máu của “Cách mạng văn hoá”.

 

Nguyễn Tuân là tấm gương tiêu biểu cho phẩm chất “Tuần chay nào cũng có nước mắt” của các nhà văn Việt NamHồi đầu Cách mạng tháng Tám, ông đã có “Lột xác”, “Ngày đầu tuổi tôi cách mệnh”, « Trên đường đến với Đảng”…. Thật chẳng ai ngờ, mới ti toe làm cách mạng, Nguyễn Tuân đã mượn  lời “Thần cách mệnh” thở ra giọng sắt máu:

 

« Ta là kết tinh của Bạo Phá.Ta là cái chổi quét mạnh vào những thứ nhân nghĩa không khoa học. Ta khai chiến với hiện tại. Ta là Hồng Hài Nhi của cuộc đời  rơm cỏ bây giờ. Đối với cái khối của cải bất nghĩa, ta là cốt mìn, ta là bom nguyên tử. Ta đốt, ta quật ta phá, ta tạo ra tan rã, ta ngự trị lên cuộc đời mâu thuẫn . Ta là lịch sử. kẻ nào nghịch với ta, ta giết…” (nhạc kịch “Cỏ Độc lập”).

 

Ghê gớm chưa, rõ ra là giọng “trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ” từ thời xô viết Nghệ Tĩnh đã nhiễm sâu vào máu chàng lãng tử họ Nguyễn.

 

Rồi để ca ngợi Đảng trong kháng chiến chống Pháp ông có “Đuốc dân công tiếp viện”, “Thắng càn », “Đường  vui” , « Tình chiến dịch”, « Tuỳ bút kháng chiến”… Vào thời kỳ cải cách ruộng đất, bao nhiêu máu và nước mắt của hàng chục ngàn người chết oan chẳng mảy may làm Nguyễn Tuân buông một tiếng thở dài, ông cứ ngó lơ cái bi kịch có tầm vóc dân tộc ấy để mà đấu hót ca ngợi công ơn Đảng và Chính phủ đã cho “người cày có ruộng” trong những “Làng hoa”, “Tổ đổi công Chị Nhì ở Phú Yên”…, hoặc chửi rủa địa chủ phong kiến trong “Tây Bắc căm thù”,”Bóng nó còn đè lên xóm làng…”. ?

 

Vậy nhưng bổng lộc Hội nhà văn Việt Nam đâu có nhiều cho Nguyễn Tuân “xê dịch” khắp thế giới dẫu đã tình nguyện làm con hoạ mi ca ngợi chủ nghĩa cộng sản, Và dường như Đảng đã nhận ra chàng Nguyễn  “đấu hót” về tình quốc tế vô sản vĩ đại như thế đủ rồi nên “mời” chàng lên rừng để làm nhiệm vụ “tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc” và chẳng ai ngờ, dẫu phải rời đất thánh Hà Nội, chàng cũng đã hoàn thành công tác một cách xuất sắc….

 

                         (còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét