CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 17)
Tác giả: Nhật Tuấn
NHÀ THƠ HOÀNG CẦM
Tôi ở phố Ấu Triệu, nhà thơ Hoàng Cầm phố Lý
Quốc Sư, cách nhau nửa con phố ngắn nhưng ít khi tôi mò sang quán rượu số 43
của ông. Gọi là quán cho sang, ngang dọc lối chừng 5-6 mét, mấy chiếc ghế gỗ,
bàn nhỏ. Một lần nhà thơ Lê Xuân Đố cùng ca sĩ Trần Khánh ghé tôi rủ sang quán
rượu Hoàng Cầm. Quán chỉ có hai người “phục vụ”: chị Yến, phu nhân Hoàng Cầm
làm đồ nhậu lạc rang, thịt bò khô… nhà thơ “phụ trách” rót rượu. Ngồi nhấm nháp
chốc lát rồi cả bọn kéo nhau lên gác xép. Lê Xuân Đố bảo anh Hoàng Cầm đọc thơ. “Em
ơi buồn làm chi ? Anh đưa em về bên kia sông Đuống…”, nhà thơ đọc chưa hết
nửa bài nước mắt đã ròng ròng. Chợt bên tai vang lên hồi chuông nhà thờ Lớn gọi
con chiên lễ chiều. Trong này nỗi buồn sông Đuống , ngoài kia nô nức vây quanh
tượng Đức mẹ Hòa Bình giữa sân nhà thờ Lớn. Tôi cũng không biết nên buồn hay
vui?
Năm 1980 trước khi chuyển vào Sàigòn tôi ghé
chào nhà thơ. Ông chép tặng tôi bài “U gì ?”. Rất tiếc tôi không
còn giữ bản chép tay, đành trích theo Hoàng Hưng:
“Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt
cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi
sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc
cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim
cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao...”
Bài này đã vượt khỏi âm hưởng “kinh Bắc”, đậm
chất avant-garde như “Ô mai” của Đặng Đình Hưng, “Ngàn lẻ một
mùi hương” của Dương Tường, “Gốc gió”, “Con ngựa vào thành phố” của
Hoàng Hưng…
Năm 1982, một Việt kiều tên “Hùng Canada” (sau
nghe nói là nhà văn Nam Dao) về nước tính mang tập thơ “Về kinh Bắc” ra hải
ngoại , từ đó đẻ ra vụ án Về Kinh Bắc “lưu truyền văn hóa phẩm
phản động”.
Tháng 8-1982 nhà thơ Hoàng Cầm bị bắt, 16
tháng sau mới được tha. Trong vụ này nhà thơ vốn nhát sẵn lại thêm nàng
tiên nâu hối thúc nên đã khai tuốt luốt, nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ và
tỏ lòng ăn năn hối lỗi.
Sau khi ra tù được ít lâu, trên báo Tuổi Trẻ
có đăng bài thơ của Hoàng Cầm với lời đề: “Kính tặng anh Phạm Hùng”, ông
này lúc đó là Bộ trưởng Bộ nội vụ tức Bộ công an sau này.
Tôi không tin vào mắt mình, lập tức gọi điện
cho nhà thơ Dương Tường:
“Sao Hoàng Cầm lại tặng thơ cho kẻ đã ký lệnh
bắt mình ?”
Dương Tường rền rĩ:
“Thôi Tuấn ơi… cậu phải thông cảm với Hoàng
Cầm…”
Thực ra người đọc cũng đã thông cảm với
Hoàng Cầm từ hồi đại hội văn nghệ tháng 8/1950 tại Việt Bắc, Đảng chủ
trương đề cao kịch nói và loại trừ Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch thơ. Hưởng ứng
chủ trương này, Hoàng Cầm đã đứng dậy, trịnh trọng bưng ghế ra đặt ở giữa hội
trường, lấy ở trong túi ra sợi dây dài buộc tập kịch thơ, xong leo lên ghế đẩu,
giơ tập thơ vừa mới bị trói chặt lên thật cao, tuyên bố:
- "Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ
ngày hôm nay" (...)
Tất nhiên không phải ai cũng “thành khẩn” như
Hoàng Cầm, nhiều văn nghệ sĩ khác đã bỏ của chạy lấy người, âm thầm bái
biệt cách mạng, "dinh tê" về Hànội như Phạm Duy, Doãn Quốc Sỹ, Mai
Thảo, Võ Phiến... sau này đều là cây bút trụ cột của miền Nam.
“Thông cảm với Hoàng Cầm” - tất nhiên là tôi
hết sức “thông cảm” nhưng chắc thơ của ông thì… không, nó mang theo những dấu
vết đó.
Năm 2005, tôi gặp nhà thơ Hoàng Cầm tại Đại
hội nhà văn 7 ở Hội trường Ba Đình. Giờ nghỉ tôi đứng ngoài hành lang, chợt nhà
thơ Hoàng Cầm ghé tới xin lửa. Sau này tôi cứ ân hận vì không tay bắt mặt mừng
với ông.
Năm 2007 Hoàng Cầm nhận giải thưởng Nhà nước
với tác phẩm: “Bên kia sông Đuống (thơ 1993), Lá diêu bông (thơ 1993), 99 tình
khúc (thơ 1995)” với lời phát biểu:
“Tôi cảm ơn Nhà nước vì về cuối đời được
nhận giải thưởng xứng đáng của mình. Tôi chỉ thấy tiếc cho những anh đã qua đời
như Trần Dần, Phùng Quán. Chỉ có gia đình các anh được nhận chứ bản thân các
anh không được nhìn thấy. Giải thưởng đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn
nghệ, và đáng vui mừng, dù chậm. Tôi nghiệm rằng trong văn nghệ cái gì có giá
trị thì có thể trong một thời gian bị vùi lấp hoặc bị hiểu nhầm nhưng rồi sự
thật vẫn là sự thật…. được Nhà nước trao giải tôi thấy yên tâm, không
có gì phải ân hận với cuộc đời.”
Thực ra trong vụ Nhân Văn Giai phẩm chẳng ai
bị “hiểu nhầm” hết , trao giải thưởng cho họ trước hết là ghi nhận sự trở về
với Đảng của những đứa con sau những "bước đường lầm lạc" (sic). Lại
cũng phải “thông cảm” với Hoàng Cầm, tuy vậy, không biết có phải vì thế vụ này
ông nhà thơ mất khá nhiều phiếu của một cộng đồng không nhỏ các fan hâm mộ
ông.
Ca ngợi Hoàng Cầm có nhiều người, Phạm Xuân
Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, trong tọa đàm ngày 22-4 tại Hà Nội về nhà
thơ Hoàng Cầm nhân ngày giỗ đầu của ông (6-5-2010) bốc thơm:
”Lê Đạt ra đi, Hoàng Cầm đã mất… nhưng vẫn
còn lại đây con mắt thời gian nhìn xuyên lịch sử”
Xin hỏi ông Phạm Xuân Nguyên,“con mắt thời
gian nhìn xuyên lịch sử” liệu có thấu những thảm cảnh trong cải cách ruộng đất,
hợp tác hóa nông nghiệp, tết Mậu Thân ở Huế …?
Một thời có người suy diễn “lá diêu bông” là
tự do sáng tác Đảng hứa hẹn cho văn nghệ sĩ mà tìm hoài không thấy. Thực ra
Hoàng Cầm làm bài thơ này năm 1959 chỉ là nhớ về một chị Vinh ngày xưa ở quê
nhà. Cái mẹo “vẽ rắn thêm chân” này không ngờ về sau được nhiều nhà phê bình sử
dụng bình thơ Hoàng Cầm.
Trong “Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm” lưu tại RFI,
nhà phê bình văn học Thụy Khuê đã bỏ ra rất nhiều công phu viết về Hoàng Cầm.
Mặc dầu bà thừa nhận “Kiều Loan, là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm,
của thời tiền chiến. Khởi thảo cuối xuân 1942 đến giữa năm 1943, đã tạm xong…”,
nhưng khi phân tích tập thơ “Về kinh Bắc “ bà lại sử dụng nó như tác phẩm sáng
tác sau thời Nhân Văn Giai phẩm.
Kiều Loan là kịch thơ viết về con gái một cựu
thần Tây Sơn, đi tìm chồng là Vũ Văn Giỏi vốn theo Nguyễn Ánh, tàn bạo
càn quét những người chống lại nhà Nguyễn. Kiều Loan giả điên đến Phú Xuân, bị
giam trong ngục rồi uống thuốc độc tự vẫn, trước khi chết, nàng chém người
chồng phản bội….”
Có thể nói năm 1942, viết vở này Hoàng Cầm
không mảy may “tiên tri” chuyện sau này để Thụy Khuê có thể liên hệ nó với thời
cải cách ruộng đất:
“Thà giết oan trăm mạng lương dân
Hơn để thoát một tên phản nghịch
Hoặc với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:
“Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh”
Cũng như vậy, không thể căn cứ căn cứ vào Kiều
Loan để kết luận:
“Về Kinh Bắc là bản hùng ca bi tráng, vào đêm.
Đêm của người thất trận, nhưng không thoái gót. Về Kinh Bắc là về đất mẹ Luy
Lâu (Kinh Bắc), kinh đô văn hoá đầu tiên của nước Việt, để dâng sớ kể tội
"triều đình" đàn áp tư tưởng, càn quét nhân tài. Nội dung ấy được
giấu trong những câu thơ kín đáo, rồi lại đảo lộn thứ tự như sấm Trạng Trình.
Đọc qua không thể hiểu. Hoàng Cầm trả lời mọi
thanh trừng bức bách. Nhưng kẻ ra lệnh bắt Hoàng Cầm đã hiểu.”
hoặc:
“Về Kinh Bắc lần này, là khúc
tráng ca, xuyên sa mạc, của một hồn cọp dữ, gào thét những vấn nạn buổi đổi
đời, "rực lửa Phong Châu", "Diêm Vương mở hội".
Cọp về hỏi lại Luy Lâu đất tổ, hỏi Ba Vì, hỏi gái Cầu Lim, hỏi trai Yên Thế. Bởi
Hoàng Cầm, người, có thể ngã ngựa, có thể van xin đảng tha tội. Nhưng Hoàng
Cầm, thơ, chưa bao giờ khuất phục….”
hoặc:
“Về đây là cáo ấn từ quan, về ẩn
dật. Về đây còn là về mách mẹ, về khấn tổ tiên, về báo cáo với
thánh hiền những lăng loàn của chuyên quyền hiện tại. Về Kinh Bắc…”
“Vẽ” thêm chất “bi tráng”, “hồn cọp dữ, “gào
thét những vấn nạn buổi đổi đời”, “trả lời mọi thanh trừng bức bách” “dâng sớ
kể tộitriều đình" “đàn áp tư tưởng, càn quét nhân tài…” . Chắc lúc còn
sống thi sĩ Hoàng Cầm đọc những nhận định này cũng phải toát mồ hôi hột sợ đến
tai…an ninh văn hóa.
Thực ra thơ Hoàng Cầm thiên về "thơ huê
tình" hơn là "thơ phản kháng", thiên về tính “âm”, tính “nữ”,
tính ôn hòa hơn là hừng hực ngọn lửa phản kháng đến mức trở thành “tráng ca”.
Trong “Chân dung tự thú năm 1994”, ông viết:
“Gọi chiều xưa trở lại
Đẩy chiều nay về xa
Thường trò chuyện với ma
Như với người đang sống.”
Nhà thơ Hoàng Hưng vốn biết rất rõ Hoàng Cầm
đã nhận xét rất hay về “Về kinh Bắc”:
“.. Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm
cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại… Gió ra hồng da
trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê
thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu
chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…),
Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc (Gió mất chồi
xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…)... Có
thể nói Về Kinh Bắc... là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh
Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia
Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm
ca) và romance….”
(HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao
Động 1991)
Đúng vậy, nhà thơ Hoàng Cầm từng tự giới
thiệu:
“Có lẽ khi được sinh ra trên cõi dương gian,
tôi đã được Mẹ Kinh Bắc cho tôi ăn những giọt sữa tinh khôi chắt chiu từ những
câu hát quan họ ngọt say như mật, nên từ nhỏ tôi đã chọn thủ pháp khai thác
triệt để tính nhạc của ngôn ngữ và đặc biệt là chất say của thơ.”
Bởi thế thơ Hoàng Cầm là kết tinh của văn hóa
vùng miền Kinh Bắc, như F.G. Lorka với quê hương Andalusia, và cũng có thể ví
như Nguyễn Ngọc Tư với quê hương Cà Mâu…. Khác với những nhà thơ cùng thời
không đậm chất “vùng, miền” , họ có được sự đồng cảm rộng rãi từ dân quê miệt
vườn cho tới thị dân đô thị như Thanh Tâm Tuyền, như Trần Dần…
Sau cùng , trả lời nhà báo Thu Hồng (báo Thanh
niên), nhà thơ Hoàng Cầm cho biết:
“Hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa
thích bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu từ thế giới xa xăm, vô hình nào đó.
…”
“Lá diêu bông là bài thơ duy nhất tôi
viết trong trạng thái vô thức. Đó là mùa rét năm 1959, đêm nào khi lên giường,
tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cây bút chì bên tay phải,
phòng khi không ngủ được thì làm thơ. Chợt vẳng bên tai một giọng nữ nhỏ nhẹ
độc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thuở xa xưa nào vọng đến: "Váy
Đình Bảng buông chùng cửa võng...". Sáng hôm sau, tôi phải mất nửa giờ
mới tách được ra các câu thơ theo thứ tự mà người phụ nữ kỳ diệu nào đó đã đọc
cho tôi. Tôi gọi những giây phút vô thức ấy là "xuất thần", đó là
phần tinh tuý của tinh thần bật ra.”
Thực ra vô thức theo Sigmun Freud ví như phần
chìm của tảng băng tâm linh, là vùng chứa những ẩn ức bị dồn nén từ xa xưa, bị
ngăn chặn, chỉ vượt được lên tầng ý thức phần nào trong giấc mơ và phần lớn trong các chứng loạn thần kinh (névroses). Các bác sĩ phân tâm học phải thôi miên bệnh
nhân họ mới nói ra được những ẩn ức chìm trong vô thức, nhà thơ Apollinaire
cũng đã từng ngồi đồng để làm thơ “inconscience”… Vậy cái chuyện Hoàng Cầm nói
về “vô thức” có thể chỉ là trong cơn say với nàng tiên nâu hoặc với hoàn cảnh
nào đó. Chính vì vậy ông tiếp tục trả lời nhà báo:
“Thủ pháp quan trọng nhất là phải khéo sử dụng
âm thanh và nhịp điệu theo chủ đề của bài thơ. “
Thao tác đó phải thực hiện trong ý thức
chứ không phải trong những giây phút “vô thức xuất thần” hoặc “một
cách vi diệu từ thế giới xa xăm, vô hình” như nhà thơ nói.
Điều này cũng chứng tỏ trong thời “bao cấp tư
tưởng” những kiến thức phương Tây hiện đại là khá xa lạ với các nhà văn, nhà
thơ miền Bắc.
Dẫu thế nào, thơ và kịch thơ Hoàng Cầm về nỗi
bất hạnh - hạnh phúc xa xôi của kiếp người cũng đã lay động con tim hàng triệu
người Việt.
Nhà thơ Xuân Sách dựng chân dung Hoàng Cầm với
lời lẽ chua chát:
“Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.”
7-3-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét