ĐỌC "KIẾN CHUỘT VÀ
RUỒI"
(Tiểu thuyết của
nhà văn Nguyễn Quang Lập)
Cảm nhận ban đầu khi
gập lại "Kiến chuột và ruồi" là sự kiệt sức.
Bởi thời gian đọc
liên tục không ngừng nghỉ không thể dứt ra ngang chừng vì quá hấp dẫn. Cũng
không thể đọc lướt như thông thường mà phải nhẩn nha đọc kỹ từng dòng từng
trang. Nếu lướt là có thể mất đi những tình tiết quan trọng làm ngứt câu chuyện
buộc phải đọc lại.
Bởi ta gặp một
Nguyễn Quang Lập rất khác với "Ký ức vụn" với "Tình cát"
với "Những mảnh đời đen trắng"...ở cả lối viết truyền thống lẫn khẩu
văn.
Bởi một thứ ngôn ngữ
tưởng tối giản dân dã nhưng kỳ thực lại tuyệt đỉnh điêu luyện, ma mị ngồn ngộn
nhựa sống dẫn dắt người đọc vào nhiều tầng mê cung của chữ. Hiếm có triết luận
nhưng câu nào, chữ nào cũng là những đúc kết phù hợp với từng đối tượng đọc. Và
dễ hiểu, cực kỳ dễ hiểu.
Bởi một kết cấu
tưởng là vụn vỡ theo từng câu chuyện của các nhân vật nhưng lại chặt chẽ đúng
như một kịch bản phim hoàn chỉnh theo nguyên tắc "gieo gặt" không sót
một chi tiết nhỏ nào.
Bởi sự xóa nhòa giãn
cách thời gian, không gian.
Bởi ảo thực hòa quyện
không còn ranh giới. Thậm chí còn là vi ảo. Ảo từ người đến chó đến kiến chuột
và ruồi.
Bởi nội dung tái
hiện một thời kỳ có thể nói sống động, bạo liệt giằng kéo đúng sai nhất của dân
tộc: Cải cách ruộng đất.
Bởi ấn tượng về cách
dựng nhân vật quá sắc. Chỉ vài chi tiết vài phác họa là nhân vật đã lừng lững
trên trang sách, ngoài cuộc đời.
Bởi nhiều thứ nữa...
Nhưng sau kiệt sức
là gì?
Đẫm máu, chết chóc
nhưng không bi lụy thù hận thậm chí là khoan dung, tha thứ. Kể cả những nhân
vật độc ác nhất cũng nhận được cái nhìn công bằng, thương xót. Có đau nhưng là
cái đau thẳm sâu của một vết thương có thể chưa lành da nhưng đã thực sự khép lại.
Không như những
tác giả từng viết đề tài này là người trong cuộc, Nguyễn Quang Lập ở thế hệ sau
nên có cái nhìn điềm tĩnh, không phán xét, chỉ trích chỉ dựng lại chân dung của
một thời đại đã qua chưa xa. Vượt trên tầm của cải cách của sửa sai là số phận
những người làm nên những gì từng long trời lở đất của thời kỳ ấy.
Kiệt sức nhưng kỳ
lạ thay tâm hồn ta trở nên tĩnh lặng, suy ngẫm, liên tưởng đến những gì đã trải
của bản thân, gia đình, dòng họ, làng xóm, đất nước. Một sự liên tưởng cần
thiết không phải quên lãng mà là để nhớ. Nhớ để tránh lặp lại những sai lầm
lịch sử. Giá trị của "Kiến chuột và ruồi" quan trọng nhất ở điểm chốt
này.
Một cuốn sách hay
từ nghệ thuật đến nội dung biểu đạt. Nó có ích nhất là với các nhà văn. Riêng
tôi nhận được sự khích lệ rất lớn cho cảm hứng sáng tác.
Chỉ tiếc bản in
đầu của cuốn sách không được các nhà xuất bản trong nước đón nhận. Bằng những
gì cuốn sách mang lại, tôi tin trong một tương lai gần nó sẽ được xuất bản
trong nước.
Tôi cũng tin các
chính trị gia, những nhà lý luận, các nhà tư tưởng, chính sách sẽ tìm đọc cuốn
sách. Ít nhất để thấy văn học Viêt không phải ở tầm quá thấp vẫn có những cuốn
sách đỉnh cao.
Để hy vọng văn học Việt
không bị chảy máu.
Tạm thế, vội vài
dòng mai đi Lào thăm chiến trường cũ.
Phạm Ngọc Tiến
Kiến, Chuột và Ruồi
Tác giả Nguyễn Quang Lập
Bạt của Lê Thanh Phong
Xin bắt đầu từ những ký ức vụn để đến với “Kiến, chuột và ruồi”.
Những mẩu chuyên rất vụn của Nguyễn Quang Lập quăng tưng tửng lên các trang văn của anh đã thu hút lượng bạn đọc rất lớn. Bạn đọc say với những mẩu chuyện vụn của Lập, và tuồng như, anh đã phát hiện được thị hiếu thẩm mỹ của bạn đọc, để từ đó định hình một lối viết mới, tạm gọi là “phong cách ký ức vụn”.
Và Nguyễn Quang Lập đã sử dụng phong cách này cho tiểu thuyết “Kiến, chuột và ruồi”. Từ đầu đến cuối tiểu thuyết, không có đoạn văn nào dài, đoạn nào cũng vài chục chữ. Đoạn nào dài lắm chỉ trên 100 chữ. Với bạn đọc hiện đại, cách viết văn chia từng đoạn ngắn này rất phù hợp vì dễ đọc, không chán, nhất là khi đọc trên các thiết bị công nghệ.
Văn phong của “Kiến chuột và ruồi” giản dị, gần gũi. Tác giả sử dụng nhiều ngôn ngữ đời thường, văn nói quen dùng. Kể chuyện những năm 50 của thế kỷ trước nhưng văn phong hiện đại. Chữ nghĩa dung dị, không tả cảnh tả tình mất thời gian, không đại ngôn, không triết lý cao siêu, không dông dài lý luận. Bạn đọc bị các loại tiểu thuyết đại ngôn, đại tư tưởng làm cho mệt mỏi và lắm khi sợ hãi. Cho nên, cách khai mở cho tiểu thuyết hiện đại bằng con đường đơn giản ít khoa trương có lẽ cũng rất cần. Mỗi thời đại, văn hóa đọc khác nhau, người thời nay không cần răn dạy, họ có nhiều công cụ và tri thức để tự dạy mình. Triết lý ẩn trong những câu chuyện, bạn đọc sẽ tự tìm thấy và tự khai ngộ. Nhà văn không nên áp đặt triết lý cho người đọc như một thứ thần quyền mà người đọc là thần dân. Đây là một điểm thành công của tiểu thuyết “Kiến, chuột và ruồi”của Nguyễn Quang Lập.
Câu thuần triết lý như: “Đánh thức tính nhân văn trong con người chính trị thật khó như đơm đó ngọn tre nhưng không phải không có những ngoại lệ” rất hiếm trong tiểu thuyết “Kiến, chuột và ruồi”. Thay vào đó, Nguyễn Quang Lập rất chú trọng xây dựng nhân vật. Nhân vật của Lập được ký họa bằng ngôn ngữ rất tài hoa. Nét nào ra nét đó, chỉ cần một đoạn văn ngắn mấy chục chữ là xong. Đặc biệt là nhân vật ác như “Thủ trưởng”, “Đội trưởng”. Lối đặc tả bằng vài nét bút như đường dao cực bén rất gây ấn tượng, găm vào đầu người đọc ngay, không phai được.
Một lũ quan lại ngu dốt, lật lọng và độc ác gồm Thủ trưởng, Trần Ngô Đống tiên sinh, Đội trưởng, lão kéo xe lôi làm phó chủ tịch thị trấn nhưng đọc chữ không thạo, được tác giả viết một cách rất đơn giản, không cay độc, có khi rất hài hước, nhưng rõ nét đến tận cùng, thối tha đến tận từng tế bào.
Nếu tách ra các nhân vật như Kiểm Hát, Tiên sinh Trần Ngô Đống, anh Tư, anh Cả, chị Hiên, vợ Phạm Vũ… thành từng chuyện cũng là những “ký ức vụn” theo phong cách văn chương Nguyễn Quang Lập, đọc rất thú vị và có không ít điều để nghiền ngẫm.
Cho dù nhân vật nào, độc ác tới đâu, hung dữ đến mấy, bi kịch của con người và xã hội dù thật đau đớn, thì trong tiểu thuyết không thiếu những đoạn văn hài hước, ngôn ngữ chân quê Quảng Bình trở thành đặc sản Nguyễn Quang Lập không nhầm lẫn với ai khác. Những đoạn văn đó làm người đọc bật cười thích thú, nhưng ẩn giấu đằng sau tiếng cười là những cay đắng, suy tư.
Nguyễn Quang Lập đặc tả một đám dân bị nhồi sọ, bị biến thành bầy cừu, bị lên đồng tập thể với giọng văn trào phúng nhưng càng đọc càng xót xa. Ví dụ như đám rước của anh Tư, trẻ con cũng bị nhồi sọ, nhắm mắt hô đả đảo và muôn năm. Để sau này chỉ biết đấu tố, hò hét giết người theo đám đông. Lúc đó, họ hoàn toàn mất đi nhận thức cá nhân. Con người bị tước đoạt đi cái tôi cá nhân để tàng hình vào tập thể gọi là quần chúng từ khi còn là đứa trẻ.
Tuyến nhân vật trong tiểu thuyết đơn giản, không đan chéo nhiều không gian và thời gian khác nhau nên người đọc dễ “quản lý” nhân vật. Nhân vật “tôi” dẫn dắt câu chuyện, làm “trạng sư” phân tích hết tâm lý của từng nhân vật, phán xét cái công án thời đại qua độc thoại của chính mình. Nhân vật ấy là cậu bé trước khi trồi ra ở cửa mình của mạ chỉ thấy cái chuồng bò và cái háng của bà đỡ.
Cảm tưởng tiểu thuyết “Kiến, chuột và ruồi” là một tự truyện, hình như phần lớn nhân vật đều là nguyên mẫu của chính gia đình, làng xóm của tác giả, không cần phải hư cấu thêm nhiều. Nếu không phải vậy thì cũng là những nguyên mẫu có thực ở ngoài đời. Và cuộc sống làng quê của tác giả chính là nguyên liệu, chất liệu cho tiểu thuyết. Cái làng đó, cái chuồng bò đó là điển hình cho mọi làng quê, thôn xóm của xã hội miền Bắc một thời và hơn thế.
Thị trấn Kô Long trong “Kiến, chuột và ruồi” chật hẹp, ngột ngạt hơn cái làng Vũ Đại của Nam Cao từng xây dựng. Ở làng Vũ Đại, cùng lắm chỉ có một gã say hay phá phách và một lão Bá Kiến gian manh. Còn thị trấn Kô Long của Nguyễn Quang Lập, không phải là một gã say mà ngược lại, có nhiều thằng tỉnh táo, khôn ngoan, mưu chước, thủ đoạn và độc ác.
Trong cái không gian bức bí của thị trấn Kô Long, có một cái chuồng bò của ông chủ tịch Phạm Vũ còn tối tăm hơn. Cái chuồng bò hôi hám như vậy, mà con người phải sống, phải chịu đựng, phải làm nơi trú ẩn cho chính mình. Vợ và con chủ tịch Phạm Vũ không dám phản kháng, chỉ biết vâng theo lệnh ông để sống chui rúc trong cái chuồng bò.
Về phía chủ tịch thị trấn Kô Long – ông Phạm Vũ – thừa biết cái chuồng bò là bẩn thỉu nhưng ông vẫn bắt vợ con sống. Bởi vì ông cũng biết rất rõ, chỉ trung thành với cái chuồng bò đó ông mới chứng minh được thành phần bần cố nông của mình. Ba chữ “bần cố nông” chính là tấm giấy thông hành cho ông trèo cao hơn. Phạm Vũ không dám từ bỏ cái chuồng bò, ông khư khư bám vào nó cho dù vợ con ông quá khốn khổ, quá chán ngán, quá sợ hãi mùi tanh hôi và sự gớm ghiếc của nó. Nhưng mà Phạm Vũ đã đúng, hiểu theo nghĩa chức tước tạm thời, từ cái thành phần đặc biệt bần cố nông và trung thành với chuồng bò, ông ngoi lên tới chức chủ tịch tỉnh.
“Kiến, chuột và ruồi” cũng là một câu chuyện kể về sự kiện cải cách ruộng đất của thị trấn Kô Long, được lột tả qua hai nhân vật là Phạm Vũ và bà Mai. Chủ tịch Phạm Vũ khi bị bắt giam trong xà lim, trong bóng tối, ông lần tay xuống nền nhà và mò mẫm ra dòng chữ “Tôi bị oan”. Khi có ánh sáng, trên khắp bốn bức tường của nhà ngục chi chít ba chữ “Tôi bị oan”. Tất cả những người đi qua xà lim này chỉ ghi lại được ba chữ đó trước khi bị “Đội trưởng” hành hình bằng một mệnh lệnh là đập vỡ ống thuốc lào. Hết.
Số phận và mạng sống con người phụ thuộc hoàn toàn vào một tay “Đội trưởng” vô học và tàn ác cùng sự lên đồng a dua của một đám quần chúng mê muội. Bà Mai đã bị giết chết man rợ đến con chó Ba Đốm của bà cũng phải phẫn nộ. Con Ba Đốm lao lên như tỏ thái độ phản kháng hành động giết người và để được chết cùng với chủ.
Đọc tiểu thuyết “Kiến, chuột và ruồi” của Nguyễn Quang Lập có cảm giác bị hụt hẩng. Hình như sau hơn 170.000 chữ, nhà văn chưa vẽ bức tranh trọn vẹn của thời đại. Bởi vì, không chỉ thị trấn Kô Long với cái chuồng bò những năm 50, mà còn cả một giai đoạn mấy chục năm về sau với những cái chuồng bò khác.
Nhưng không, bữa ăn văn chương chỉ đến thế, đủ để suy tư và đau buồn. Cái khái quát nhất từ thị trấn Kô Long chật hẹp chính là luôn có một lũ gian ác khoác áo đạo đức giả khắp nơi. Người làm quan có chút thiên lương như chủ tịch Phạm Vũ, nếu không đạo đức giả được thì sẽ thần kinh, và rồi chỉ làm được cái việc diễn thuyết dông dài vô bổ và bắt ruồi.
Đi theo con đường bám riết cái chuồng bò mà chủ tịch Phạm Vũ chọn, thì trên đầu luôn có một bóng ma rùng rợn, ám ảnh đến nỗi mỗi lần nghe đến là Phạm Vũ chảy cả nước đái. Bóng ma đó là một ông “Thủ trưởng” độc ác và dối trá. Bên cạnh ông ấy luôn có một sát thủ giết người không gớm tay là “Đội trưởng” với cây dao phay man rợ sẵn sàng xuống tay theo mệnh lệnh của Thủ trưởng. Nỗi ám ảnh đó ngày nay vẫn nguyên xi.
“Kiến, chuột và ruồi”, cái tựa như truyện ngụ ngôn. Có thể đúng, nhưng không phải ẩn dụ để rút ra bài học làm người đơn giản như thường thấy của ngụ ngôn.
Hãy nhìn một cái chuồng bò, gồm những thứ dơ bẩn nhất, hèn mạt nhất, gớm ghiếc nhất, phá hoại nhất, đó là kiến, chuột và ruồi; và tự hỏi có nên thiêu hủy nó như ông Kiểm Hát đã làm để gia đình ông chủ tịch Phạm Vũ có cơ hội được ở trong một căn nhà mới.
Vẫn còn đó cái chuồng bò với những đàn kiến, lũ chuột và bầy ruồi.
Kiến, chuột và ruồi” (trích)
Nguyễn Quang Lập
8. Nhiệm vụ vẻ vang
Số phận ba tôi may ít rủi nhiều. Theo cụ Phan Bội Châu năm mười
bảy tuổi, theo Cách mạng năm mười chín tuổi, ba đã thực thi nhiều nhiệm vụ vẻ
vang và thường rủi ro lại đến với ông ngay sau đó. Cả vẻ vang lẫn rủi ro của ba
đều dính đến một người có tên là Thủ trưởng. Đó là người đàn ông dong dỏng cao
có nụ cười chết gái mà ba và những thuộc cấp của Thủ trưởng đều đồng thanh gọi
là nụ cười ấm áp tình đồng chí.
Trước khi Thủ trưởng thành thủ trưởng của ba, ngài được ba giác
ngộ đi theo cụ Phan Bội Châu, sau được ba giác ngộ theo Phan Châu Trinh, cuối
cùng được ba giác ngộ theo cách mạng. Ba là người kết nạp Thủ trưởng vào Đảng
và bày cho Thủ trưởng học chữ quốc ngữ. Có chữ rồi chỉ cần mất mười năm Thủ
trưởng đã là thủ trưởng của ba. Quá nhanh. Tất nhiên với Thủ trưởng là quá
chậm. Ba không hề ghen tị, xưa nay ông không hề đố kị ghen ghét ai, với Thủ
trưởng lại càng không.
Thủ trưởng thua ba hai tuổi, thuở mới quen nhau ba gọi Thủ trưởng
bằng em. Chú em nhỏ nhắn xinh trai hiền lành ít nói khiến ba đắm đuối chú em
như người tình. Bãi biển Ô Lệ năm 1925, một đêm sau cuộc biểu tình đả đảo Thực
dân Pháp bắt cóc cụ Phan Bội Châu tại Thượng Hải, ba và chú em nhỏ nhắn đẹp
trai nằm ôm nhau nức nở khóc thương Phan Bội Châu bị giải về nước xử án tù
chung thân. Nửa đêm ba tỉnh dậy không thấy chú em đâu, ba vùng dậy đi tìm, tìm
tới sang mới thấy chú em ngồi bó gối bên bờ đá cách bờ biển Ô Lệ chừng cây số.
Sao em ngồi ở đây? Ba hỏi. Em cũng không biết nữa. Chú em bẽn lẽn trả lời. Em
bỏ ra đây từ khi nào? Em cũng không biết nữa… Ba nghi chú em bị bệnh mộng du
nên cũng không hỏi nữa. Tới trưa người ta phát hiện quan hai Pháp bị chặt cổ
cùng người tình trên bãi biển Ô Lệ, tang vật còn nguyên con dao phay đẫm máu và
những dấu chân trên cát ướt. Ba ngờ ngợ dấu chân đó là của chú em nhỏ nhắn xinh
trai. Không hỏi nhưng ba biết chắc chú em đã lập một chiến công ông chưa bao
giờ dám nghĩ đến ngay cả trong giấc mơ.
Từ đó ba không gọi Thủ trưởng bằng em nữa, ông nhẹ nhàng chuyển
sang anh tôi với Thủ trưởng, với lòng ngưỡng mộ thầm kín. Ba vui mừng đã giác
ngộ được một anh hùng trẻ tuổi theo cách mạng. Mất mấy tháng để ba thuyết phục
học chữ cách quốc ngữ vì Thủ trưởng rất ghét chữ, nhưng khi đã chấp nhận chỉ
mất 6 tuần Thủ trưởng đã đọc thông viết thạo. Lòng ngưỡng mộ của ba ngày một
dâng cao. Ông hân hoan giới thiệu Thủ trưởng với chi bộ.
Lễ kết nạp đảng thật giản đơn, chỉ có ba với Thủ trưởng. Ba chỉ
nói đúng một câu thông báo với cái ôm xiết chặt. Thủ trưởng cảm động ghì chặt
lấy ba. “Đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí!”. Lần đầu tiên
trong đời ba nghe câu nói đó từ một người đồng đội, ông giật mình nhận ra tin
tưởng là điều kiện trước tiên và trên hết với một người cách mạng. Thậm chí
không có hai chữ tin tưởng sẽ không có gì hết. Thế mà ba không nhận ra. Đêm đó
ba lại ôm thủ trưởng ngủ trong rặng phi lao phía sau Thị trấn Kô Long. Tới nửa
đêm ba lại không thấy Thủ trưởng đi đâu. Ông đi tìm tới sáng vẫn không thấy Thủ
trưởng. Thị trấn Kô Long đêm đó có một đôi trai gái bị chặt đầu trên bờ đê. Dân
Koo Long đồn rầm lên đó là một vụ đánh ghen. Ai ghen ai, ai đánh ghen ai? Đang
khi chưa tìm ra Thủ trưởng, ba cũng không để ý lắm. Mãi sau ba thấy Thủ trưởng
vui vẻ trở về. Ba hỏi đi đâu. Em cũng không biết nữa. Thủ trưởng mỉm cười bẽn
lẽn. Ba yên lòng trước nụ cười ấm áp tình đồng chí, tuyệt không đặt một câu hỏi
nào về câu chuyện qua đêm của Thủ trưởng.
Ba tin Thủ trưởng làm gì đều có lý do chính đáng, không việc gì
phải hỏi. Niềm tin ấy không lay chuyển kể cả khi ba biết cô gái Kô Long bị chém
cụt đầu là người tình của ngài. Ba thực sự kính trọng, ngưỡng mộ Thủ trưởng
cũng như ông đã kính trọng, ngưỡng mộ mọi thủ trưởng trên đời.“Đồng chí
rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí!” Ba hạnh phúc vô cùng khi được Thủ
trưởng xiết chặt tay, rưng rưng cất lên chín tiếng tuyệt vời.
Những ngày Thủ trưởng lãnh đạo Chiến khu Đá Mài, ngài đã dạy cho
ba biết thế nào là cán bộ đầu tàu và giá trị thực của hai chữ gương mẫu. Khăp
chiến khu Đá Mai hầu hết mọi người đều kính trọng và ngưỡng mộ Thủ trưởng như
ba, sự kính trọng và ngưỡng mộ chí thành. Nói “hầu hết” không phải vì ba biết
vẫn có người căm ghét hay xem thường Thủ trưởng, chỉ vì ba sợ sự tuyệt đối- một
khái niệm kiêng kị của triết học- nên không dám nói “tất cả”. Gần một ngàn
người ở Chiến khu Đá Mai đều tự giác viết báo tường ca ngợi Thủ trưởng, số nịnh
bợ chắc cũng có nhưng không nhiều. Thời này nịnh bợ chưa có lợi lộc gì lại dễ
bị đồng đội bóc mẽ. Sự ca ngợi quê mùa ấu trĩ, lời lẽ của fan cuồng vào cái
thời chưa có chữ chứ không phải lời lẽ của nịnh bợ thô thiển. Ai ở chiến khu Đá
Mài thời này đều xác nhận điều này.
Những bài viết tay được dán lên vách tường trong hang đá nơi Thủ
trưởng sống và làm việc gọi là báo tường. Khắp các bức tường nhan nhản các bài
báo ca ngợi Đảng quang vinh, ca ngợi Hồ Chủ Tịch kính yêu, ca ngợi Thủ trưởng
kính mến. Dưới các bài báo là các bình luận của người khác viết bằng bút chì,
bút chì xanh đỏ, bút mực, bút máy. v.v. Bài hay có tới hàng trăm bình luận chứ
không ít
Bài báo tường phê phán thẳng thừng Mao Trạch Đông:
Tôi khẳng định bảy tiếng Mao Trạch Đông khen tặng cấp dưới: “Đồng
chí làm việc, tôi yên tâm” tầm thường hơn nhiều so với chín tiếng tuyệt vời của
Thủ trưởng: “Đồng chí rất
tốt, tôi tin tưởng đồng chí!”. Chỉ quan tâm đến làm việc, bỏ qua sự tin yêu cấp
dưới là vô hình chung tầm thường hóa vai trò người cán bộ đảng viên. Cấp dưới
cần biết bao sự tin yêu của cấp trên, dù cấp trên ngàn lần không tin yêu cấp
duới thì cấp dưới vẫn phải hy vọng ở lần tin yêu thứ một ngàn lẻ một. Đó là
triết lý sâu xa của người làm cách mạng, vì khiêm tốn Thủ trưởng của chúng ta
đã không nói ra. Nhưng chúng ta là người Cách mạng phải hiểu được tấm lòng bao
la của Thủ trưởng.
Tác giả: Tâm Ngôn
Bình luận:
- Đúng quá!
- Rất sâu sắc!.
- “Chúng ta là người Cách mạng phải hiểu được tấm lòng bao
la của Thủ trưởng.”- Tôi rất nhất trí!
- Bài viết tốt. Tuy nhiên tôi đề nghị không nên so sánh
Mao Trạch Đông với Thủ trưởng. Làm thế vô hình chung hạ thấp Thủ trưởng.
Ba luôn có mặt trong các bình luận những bài báo viết về Thủ
trưởng. Ba viêt háo hức say mê, với các bút danh Chiến sĩ, Quyết Thắng, Trung
Thành, Thi Đua v.v và khấp khởi mong chờ Thủ trưởng nhận ra nét chữ của ông.
Thủ trưởng không thích điều này, nhiều lần ông xuống khu tuyên giáo Đá Mài đề
nghị chấm dứt mọi sự ca ngợi ông. Ngài sợ mang tiếng sùng bái cá nhân, thứ mà
ngài rất ghét. Dù sự sùng bái chỉ gói gọn trong khu rừng với gần một ngàn con
người. Ba càng kính trọng và ngưỡng mộ Thủ trưởng tuy thỉnh thoảng lại rộ lên
tin Chiến khu có kẻ bị chặt đầu, và cái nhìn ớn lạnh của Thủ trưởng bất chợt
xói vào gáy ba, làm ông không thể không nhớ lại chuyện xưa.
Năm 1937 Thủ trưởng còn hoạt động ở nội thành và chưa là thủ
trưởng của ai hết, ba được phân công đến ga tàu Thị xã Ô Lệ đón Thủ trưởng,
nhận từ Thủ trưởng một bao tải truyền đơn. Thủ trưởng chưa kịp giao bao tải
truyền đơn cho ba, cảnh sát đã ập đến. Họ bắt Thủ trưởng cùng với bao tải
truyền đơn đẩy lên xe. Thủ trưởng nhìn ba cầu cứu khẩn thiết. Ba nhận ra từ cái
nhìn tuyệt vọng ấy một nhiệm vụ vẻ vang. Ngay lập tức ông lao đến xe cảnh sát
giằng lấy cái bao tải. Đây là bao tải của tôi! Cảnh sát tóm luôn ba đưa về đồn.
Tại đồn ba chứng minh cái bao tải là của ông, Thủ trưởng là ai đó ông không hề
quen biết. Anh mang bao tải truyền đơn này giao cho ai? Cảnh sát hỏi ba. Sao
lại truyền đơn? Ba làm bộ sửng sốt kêu lên. Hóa đơn của ông bác tôi thuê in ở Huế,
giao tôi vô Huế lấy đem về. Ba nói như không.
Cảnh sát cho người ra gặp ông bác Vĩ. Là người có chỉ số IQ cao
nhất mọi thời đại của đất Kô Long, vừa nghe cảnh sát nói ba bị bắt cùng bao tải
truyền đơn ông bác tôi biết ngay ba đã khai những gì và ông bác phải xử lý thế
nào. Ông bác trợn mắt lên. Tôi giao cho nó vô Huế nhận bao tải hóa đơn, sao lại
ra bao tải truyền đơn? Như sực nhớ ra điều gì, ông bác cười khà khà. Chắc đêm
hôm ngủ gật, cu cậu lấy lộn bao tải của ai rồi. Cảnh sát vừa rời nhà, ông bác đã
gọi điện cho ông chủ nhà in ở Huế là con trai của ông bác Phú Huệ, nói như vầy
như vầy… Một giờ sau cảnh sát Huế đến nhà in, ông chủ nhà in vừa kịp có hợp
đồng thuê in hóa đơn và biên lai xuất kho bao tải hóa đơn cùng biên lai thanh
toán tiền của ông bác Vĩ. Ba được thả ra cùng Thủ trưởng.
Chia tay ở Bến Nước, Thủ trưởng ôm chầm lấy ba. Đồng chí rất tốt,
tôi tin tưởng đồng chí! Thủ trưởng khóc. Ba cũng khóc. Những giọt nước mắt nồng
ấm đến chết vẫn không quên. Hai người quấn lấy nhau nơi Bến Nước từ chiều tối
cho tới khuya. Rồi chia tay. Cứ tưởng ngày mai gặp lại, nhưng không, Thủ trưởng
không gặp ba nữa. Cứ như là Thủ trưởng đã độn thổ hoặc thăng thiên. Ba bỗng
nhiên mất liên lạc với Cách mạng, những đầu mối tổ chức bỗng biến mất tăm,
không để lại dấu vết. Ba hoang mang cực độ, càng cố sức tìm kiếm nguyên nhân
ông càng rơi vào vực thẳm im lặng. Đời cách mạng sợ nhất là im lặng, càng im
lặng bất thình lình càng sợ. Ba có quá nhiều kinh nghiệm về các loại im lặng.
Ông sợ, nhiều đêm mồ hôi lạnh chảy dọc xương sống lưng. Luôn thấy xa xa một cái
bóng chờn vờn, một cái gì lành lạnh sau gáy. Nhiều khi luồn rừng va phải một
cành cây bật lên nghe vút rất nhanh hệt tiếng gió con dao phay đang bổ xuống
gáy, tim ba treo cứng đơ giữa lồng ngực lạnh toát.
Một năm sau ba thình lình bắt được liên lạc với mọi đầu mối trước
đây. Họ như mọc dưới đất lên nói nói cười cười như không hề có chuyện họ đã lặn
mất tăm trước đó. Phải chục năm sau ba mới hiểu vì sao.
*
Năm 1947 Pháp tái chiếm Thị trấn Kô Long, ba được lệnh rút lên
chiến khu Đá Mài. Vì có chút chữ nghĩa ông được điều về làm trợ lý cho thủ
trưởng chiến khu. Thủ trưởng chiến khu bây giờ chính là Thủ trưởng, ba phấn
khởi khoác ba lô đi ngay. Cơ hội “gần mặt trời” ai không thích. Nhất là khi
“mặt trời” vốn dĩ là tình xưa nghiã cũ. Được gần gũi Thủ trưởng là giấc mơ kéo
dài suốt đời ba.
Thủ trưởng là người được ba cứu thoát khỏi tù đày. Cái ôm chầm
xiết chặt rưng rưng, nụ cười ấm áp tình đồng chí cùng với chín tiếng tuyệt vời
làm sao ba quên được. Thủ trưởng cũng không quên. Khi ba vừa khoác ba lô bước
vào, Thủ trưởng đã ôm chầm lấy ba . Mừng lắm mừng lắm Vũ ơi! Thủ trưởng chân
tình nói. Mười năm rồi anh em mình lại được sống với nhau… Thủ trưởng như nghẹn
lại. Cái ôm chầm xiết chặt rưng rưng và nụ cười ấm áp tình đồng chí làm ba ứa
nước mắt. Ba hạnh phúc lâng lâng, niềm hy vọng “gần mặt trời” của ông ngày mỗi
rực lên.
Sống gần Thủ trưởng thật đầm ấm, ngài không xưng em với ba nữa,
rất nhiều khi ngài nói chuyện với ba như nói chuyện với thằng em. Điều đó không
quan trọng, ba càng phấn khích hơn, ông đinh ninh mình chỉ là đứa em, là học
trò nhỏ của Thủ trưởng. Không chỉ riêng ba, ở Chiến khu nhiều người đáng tuổi
cha chú của Thủ trưởng cũng tự nép mình dưới bóng Thủ trưởng, kính cẩn coi ngài
như đấng sinh thành. Chẳng phải vì ngài khét tiếng khắp chiến trường miền Trung
với những trận chiến có một không hai, lính Pháp khắp ba miền đều khiếp sợ, chỉ
vì Thủ trưởng ở đâu thì các chữ “đầu tàu”, “gương mẫu” như những phép thánh
khuyến dụ đồng đội, lôi cuốn đám đông, làm cho đám đông đang ngủ gật bỗng sống
dậy lạ thường. Người như thế đứng bên ai người đó tự khắc thấy mình bé nhỏ và
sung sướng tự hào về điều đó. Vậy mà vẫn có chuyện không hay làm ba hết đau khổ
đến sợ hãi nhiều năm trời.
Một hôm Thủ trưởng kêu mất cái ví. Thủ trưởng rất lo lắng, ngài
gọi ba vào phòng riêng tâm sự. Trong ví nỏ có chi, chỉ có ảnh vợ con. Thủ
trưởng thủ thỉ chân tình. Vợ con mình đang ở vùng tạm chiếm, lỡ may địch bắt
được cái ví thì nguy. Giọng Thủ trưởng như sắp khóc. Ba lại háo hức tự giao cho
mình nhiệm vụ vẻ vang: phải tìm cho được cái ví cho Thủ trưởng!
Một tuần lùng sục khắp nơi không thấy. Sang ngày đầu tuần thứ hai
ba bỗng thấy cái ví bên bờ suối gần ngay lán của Thủ trưởng. Ba mừng quýnh hét
lớn, đây rồi đây rồi!… Tiếng hét còn to hơn cả tiếng hét ơ-rê-ca của Ac-shi
med. Ba vội vàng giao nộp cái ví cho Thủ trưởng. Thủ trưởng ôm chầm xiết chặt
lấy ba. Cảm ơn Vũ lắm lắm! Thủ trưởng nồng nàn nói. Cái ôm chầm xiết chặt rưng
rưng và nụ cười ấm áp tình đồng chí của Thủ trưởng báo cho ba biết từ nay Thủ
trưởng sẽ coi ông như anh em, không được như anh em cũng bạn bè chí thiết. Hai
cái tình ấy mới quan trọng chứ không phải tình đồng chí. Nếu không có hai thứ
tình đó làm nòng cốt, tình đồng chí tóm lại cũng là thứ tình suông. Ba thừa
biết điều đó, ông khấp khởi mừng thầm.
Chẳng ngờ hôm sau đi tắm về, ba bắt gặp liên lạc của Thủ trưởng
đang xổ tung ba lô của ông. Răng lục ba lô tui? Ba túm ngực liên lạc nghiến
răng hỏi. Liên lạc đỏ mặt tía tai ú a ú ớ, mãi sau mới khai thật. Trong ví Thủ
trưởng còn năm trăm đồng bạc Đông Dương, Thủ trưởng kiểm tra ví không có mới
sai anh ta lục tìm ba lô của ba. Nổi điên ba chạy thẳng vào lán Thủ trưởng. Thủ
trưởng nghi tôi lấy tiền trong ví phải không? Nói thẳng cho Thủ trưởng biết,
nếu cần năm trăm đồng bạc Đông Dương không đời mô tui đi theo Cách mạng! Ba
không kìm được lời nói thật, suýt nữa ba văng tục.
Thủ trưởng đứng đơ người, ngài không hiểu ba nói chuyện gì. Mải
rồi ngài mới hiểu ra câu chuyện, té ra chính ngài sai cậu liên lạc đi lục soát
ba lô của ba. Cả Chiến khu không ai tin, ba cũng vậy. Thủ trưởng lặng im không
nói gì, ngài chỉ gọi cậu liên lạc lên hỏi. Có đúng là tôi sai cậu lục ba lô
đồng chí Vũ không? Đó không phải là câu hỏi áp đảo buộc cậu liên lạc phải câm
mồm. Thủ trưởng hỏi rất chân thành, khẩn khoản là đằng khác. Cậu liên lạc chẳng
biết nói sao, chỉ biết đứng khóc.
Nửa đêm cậu liên lạc lén sang lán ba, quì lạy ba như tế sao. Tội
em đáng chết… tội em đáng chết. Ba xốc cổ áo cậu ta lên. Có đúng Thủ trưởng sai
cậu lục ba lô tôi không? Cậu liên lạc khóc oà. Đời em chưa vu oán giáng hoạ cho
ai, sao lại vu cho Thủ trưởng. Em kính Thủ trưởng như kính núi Thái Sơn, sao
lại làm chuyện đó. Em làm chuyện đó để làm gì? Ba đấm vào mặt câu liên lạc rồi
ôm cậu ta khóc. Hai anh em ôm nhau khóc suốt đêm, chỉ khóc vậy thôi chẳng biết
vì sao khóc.
Ngày hôm sau ba khoác ba lô về khu tuyên giáo, khu buồn chán nhất
trong bảy khu thuộc chiến khu Đá Mài. Bù lại ba gặp được cô gái tên Mai, người
đẹp chiến khu. Vài ngày chịu khó hái hoa rừng, ra sức trổ tài đọc thơ Xuân
Diệu, Nguyễn Bính, ba đã đánh gục được người đẹp, đêm đêm kéo người đẹp vào
hang đá ân ái cho tới khuya. Nhờ đó ba mới biết vì sao năm 1937 ông đột ngột
mất liên lạc.
Ái ân với người đẹp được hơn một tháng ba mới biết bà Mai vốn là
hoa khôi Chiến khu Đá Mài, lên trạm xá Chiến khu trước ba mấy năm, bị Thủ
trưởng yêu quá mới bỏ chạy về khu tuyên giáo. Lần đầu tiên ba biết có người bỏ
chạy vì sợ Thủ trưởng. Ba quá ngạc nhiên. Chú em nhỏ nhắn xinh trai của ba ngày
xưa giờ đã một vợ hai con vẫn nhỏ nhắn xinh trai, với phụ nữ vô cùng lịch thiệp,
chưa hề tai tiếng gì dù nhỏ về chuyện trai gái. Ở Chiến khu không sợ đói, không
sợ chết chỉ sợ rắc rối với phụ nữ, nhất là những người có chút uy quyền. Thủ
trưởng là người có uy quyền nhất, dưới trướng có 50 người đẹp ở Ban hậu cần, 30
người đẹp ở trạm xá, 36 người đẹp ở Ban thông tin, chưa kể 100 cô ở rải rác các
ban khác. Vậy mà tuyệt không một xì xào về ngài với chị em. Ba cho là bà Mai
phóng đại, tự tưởng tượng ra nỗi sợ Thủ trưởng để lấy le với các chị em khác
trong Chiến khu.
Anh không biết gì Thủ trưởng đâu. Bị ba đặt quá nhiều ngờ vực, bà
Mai chị mỉm cười cay đắng, nói đúng một câu. Cũng chỉ nói đúng mỗi câu ấy vào
các đêm khác mỗi khi ba hỏi bà về Thủ trưởng. Ba kể cho bà nghe quan hệ của ông
với Thủ trưởng thân thiết đến thế nào, bà Mai vẫn một câu “anh không biết gì về
Thủ trưởng đâu”. Là sao? Ba bỗng to tiếng, ông cảm thấy bị xúc phạm. Em cho Thủ
trưởng là kẻ hai mặt? Không không không! Bà Mai kêu lên. Em không nói thế. Chưa
người đàn ông nào tuyệt vời như Thủ trưởng. Ba cười. Và vì không có người đàn
ông nào tuyệt vời như Thủ trưởng nên em sợ phải không? À… anh đã hiểu rồi!
Không không không! Bà Mai lại kêu lên. Vậy thì vì sao? Đến lượt ba lại kêu lên.
Bà Mai im lặng hồi lâu mới thì thầm. Em biết anh không tin nhưng em cứ nói. Thủ
trưởng không phải kẻ hai mặt. Con người tuyệt vời đó là hai con người.
Hai con người là sao? Ba hỏi đi hỏi lại. Bà
Mai không làm sao diễn đạt thế nào là người đa nhân cách cho ba hiểu, cả bà lẫn
ba cũng chưa bao giờ nghe nói về loại người này. Ba cười ngao ngán. Không phải
anh không tin mà anh không hiểu gì hết. Ba nói, ông rên rỉ thì đúng hơn. Thôi
về! Bà Mai đứng dậy. Ba kéo bà ngồi xuống. Anh ghét sự lấp lửng lắm. Nói hết
cho anh đi. Bà Mai bất ngờ kể cho ba hay, suýt nữa ba bị mất mạng vì Thủ
trưởng. Chuyện thật như đùa.
Thật không ngờ chính Thủ trưởng đã báo lên
Chiến khu: Phạm Vũ là cháu ruột của hai đại tư sản Phạm Vĩ và Phạm Phú Huệ.
Phạm Vũ được đại tư sản Phạm Vĩ nuôi nấng dạy dỗ từ tấm bé, nhận làm con thừa
tự. Đại tư sản Phạm Vĩ lại có quan hệ rất mật thiết với tất cả quan lại trong
tỉnh và khá nhiều quan lại trung ương. Ba bị liệt ngay vào đối tượng nguy hiểm,
đã có kế hoạch thủ tiêu ba vì ông biết quá nhiều đầu mối của Cách mạng. May cho
ba tại thời điểm đó Thủ trưởng chưa là thủ trưởng Chiến khu Đá Mài, Thủ trưởng
chỉ là người đưa tin, chưa quyết định được số phận của ba. Lại may nữa, người
phụ trách quân nhu Chiến khu tình cờ biết được chuyện này, bèn vội vàng báo cho
thủ trưởng Chiến khu biết: Lương thực cho Chiến khu Đá Mài chủ yếu do đại tư
sản Phạm Vĩ đóng góp. Ba thoát chết trong gang tấc, ông bắt được liên lạc với
Cách mạng ngay tức thì.
Nghe bà Mai kể ba dựng đứng tóc gáy, phóng
nước tiểu ướt sũng đũng quần. Lần đầu tiên trong đời ba nghe chuyện khó có thể
tin về Thủ trưởng từ miệng một người thật thà, còn ngưỡng mộ và kính trọng Thủ
trưởng hơn cả ba nữa. Thật đáng sợ. Ba nói. Anh không tin. Anh rên rỉ. Anh
không tin! Thốt nhiên ba gầm lên. Thủ trưởng cũng không tin. Bà Mai ôm chặt lấy
ba thì thầm. Em đã hỏi Thủ trưởng rồi. Ngài cũng không tin. Ba bật cười. Em nói
gì kì vậy? Sao Thủ trưởng không tin việc ngài làm? Vậy mới kì. Bao nhiêu lần
ngài chặn em đòi hiếp, em nhắc lại ngài cũng không tin. Lại có chuyện này nữa
sao? Ba hỏi. Bà Mai im lặng. Anh không tin, ba hét vang. Tiếng dội vang chuyển
động cả rừng đêm.
Ba nhảy bùm xuống suối, lôi cả bà Mai xuống
theo. Quên hết đi em. Ba hối hả dục người tình vào cuộc. Anh muốn quên… thật
mà… anh muốn quên. Lần đầu làm tình dưới suối ba rất phấn chấn. Bà Mai xiết
chặt lấy ba. Chẳng hiểu thế nào giây phút ấy ba lại nhớ cái ôm chầm xiết chặt
rưng rưng, nụ cười ấm áp tình đồng chí cùng với chín tiếng tuyệt vời của Thủ
trưởng, bỗng dưng ông bủn rủn. Cả ông và cái của ông đều tiu nghỉu, dúm dó
trong suối lạnh. Răng rứa anh… răng rứa anh ơi! Bà Mai đã bắt đầu nóng lên,
không kìm được nữa. Bà rên, vừa ghì chặt ba nghiến ngấu ba vừa rên. Tiếng rên
giữa rừng đêm thanh vắng nghe như tiếng kèn xung trận.
Bỗng bùng lên cơn hứng khởi cách mạng. Ngực
ông râm ran nồng cháy tình cảm cách mạng. Ba đọc to câu thơ của Tố Hữu: “Đời
cách mạng từ khi tôi đã hiểu”. Cả ông và cái của ông đều phần khởi dựng ngược
lên. Ông phấn khởi tiếp tục đọc to như thét. Đời cách mạng từ khi
tôi đã hiểu! Tôi đã hiểu!… Tôi đã hiểu!… Tôi đã hiểu!… Ba đâm và hét như một kẻ
cuồng.
Bà Mai sướng ngất đi. Ba lịm dần trên ngực bà
Mai, nửa giờ sau ông ngóc đầu lên ngâm nga câu thơ của Tố Hữu: “Nó chết rồi,
con chim nhỏ của tôi / con chim se sẻ mới ra đời”. Bà Mai cười rúc rích, bóp hạ
bộ ông một cái thật đau, nói, không phải ra đời bốn chục năm rồi à? Ba hôn bà
đánh chụt, nói, với Mai thì nó vừa mới ra đời. Họ ôm chặt lấy nhau cười hể hả,
cái cười hiếm khi sau mỗi cuộc tình.
Ba không thích thơ Tố Hữu. Một khi đã thích thơ Hàn Mặc Tử, thơ
Xuân Diệu và Nguyễn Bính khó có thể thích thơ Tố Hữu. Ba chỉ coi thơ Tố Hữu như
những chỉ thị có vần của Cách mạng, được viết bằng ngôn ngữ Folklore cực kì
xuất sắc. Ba đã hết sức cố gắng để thuộc thơ Tổ Hữu nhưng ông chỉ nhớ vài ba
câu thôi. Tối hôm đó ba đã ghi dưới đáy ba lô của mình: “Đời cách mạng từ khi
tôi đã hiểu”, và đinh ninh đến chết ông cũng không quên câu thơ thần diệu đó.
Thế mà ba đã quên.
Sáu năm sau ba cùng với đồng chí Đội trưởng tham gia cuộc cách
mạng long trời lở đất, ngay khi cái điếu cày và hai lạng thuốc lào đầu tiên
dâng lên Đội trưởng, ba lại được nghe chín tiếng tuyệt vời, báo cho ba biết
đồng chí Đội trưởng là cận vệ tin cậy của Thủ trưởng. Chỉ có cận vệ tin cậy của
Thủ trưởng mới ngang nhiên lấy cắp chín tiếng tuyệt vời, ngôn ngữ độc quyền của
ngài.
Đồng chí Đội trưởng trốn khỏi làng Trung vì can tội giết chết Lý
trưởng làng Trung, lên chiến khu Đá Mài được bổ sung vào trung đội cầm dao phay
của Chiến khu. May mắn làm sao tội giết chết Lý Trưởng làng Trung được Thủ
trưởng khen thưởng thành tích trừ gian diệt ác. Quá vinh dự tự hào, đồng chí
Đội trưởng nguyện là cận vệ trung thành của Thủ trưởng, “dù gan óc lầy đất”.
Thủ trưởng mừng lắm, ban cho đồng chí Đội trưởng được hưởng độc quyền chín chữ
tuyệt vời.
Thế mới biết vì sao ba gặp lại đồng chí Đội trưởng như gặp lại Thủ
trưởng. Ba không còn nhớ cái rùng mình ớn lạnh sáu năm về trước và câu thơ Tố
Hữu dưới đáy ba lô của ông. Trái lại ba vui mừng như được gặp lại cố nhân, chữ
minh trong ba vụt tắt, cơ hội “gần mặt trời” lại tỏa sáng trong ông. Bài học
thuộc lòng “Đánh giá con người cần có cái nhìn biện chứng” ba học được ở Chiến
khu Đá Mài khiến ông quên sạch những gì cần phải nhớ.
Thế rồi việc thường xuyên làm điếu cày cho đồng chí Đội trưởng và
cứ hai ngày một lần đạp xe bốn chục cây số vào Thị xã Ô Lệ mua đúng hai lạng
thuốc lào đã được ba hân hoan coi đó là nhiệm vụ vẻ vang.
*
Sau khi ba nhường suất mèo kêu cho đồng chí Đội trưởng, nhiệm vụ
vẻ vang không chỉ thuộc về ba, còn có cả chị Hiên nữa. Nhiệm vụ vẻ vang của chị
Hiên còn vẻ vang hơn nhiệm vụ của Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ.
Từ ngày đồng chí Đội trưởng trú tại nhà, chị Hiên luôn mặc bộ đồ
màu mực Cửu Long, màu đặc trưng vừa được cách mạng chỉ định là màu giai cấp
nòng cốt. Chị nghe đồng chí giải thích như thế khi đưa tặng chị. Thực tình chị
cũng không hiểu vì sao mấy bộ đồ hợp thời trang đồng chí trưng thu từ nhà một
tên phản động lại trở thành bộ đồ giai cấp nòng cốt và vì sao chị được mặc bộ
đồ của giai cấp nòng cốt trong khi chị thuộc tầng lớp buôn cám lợn. Giải thích
các khái niệm là việc của bè lũ trí thức tiểu tư sản, không phải việc của đồng
chí Đội trưởng. Việc của đồng chí là kiên cường đè ngửa chị ra trên bốn bao tải
cám lợn xếp bằng như nệm đế vương thời trung cổ. Chị Hiên bé nhỏ nhưng lẳn
người, tòa thiên nhiên của chị không đến nỗi nào, ở cái tuổi mười tám tất cả
đều căng ra, vun lên thật thỏa mắt nhìn.
Đồng chí Đội trưởng không vội vàng lâm trận. Thủng thẳng kéo một
hơi thuốc lào, đồng chí thò mồm phun khói thẳng vào hõm sâu bánh ú chúm chím
xinh tươi. Chừng như làm thế vẫn không đã, đồng chí rít một hơi thuốc lào khác,
dí sâu vào hõm, từ tốn cho khói tuồn vào. Chị Hiên cười rinh rích, cặp đùi non
kẹp chặt hai tai đồng chí. Khói thuốc lào không tuồn vào được, dội ngược trở ra
xộc thẳng vào mũi, đồng chí ngạt thở, hất mạnh đầu, nhào lên úp mặt vào bộ ngực
non của chị ho sặc sụa. Răng rứa? Chị Hiên hỏi. Răng là Răng. Đồng chí Đội
trưởng cười hề hề. Dập và ho và hỏi nhau rối rít. Răng? Răng là răng? Là răng
nữa!… Chẳng hiểu mẹ gì. Nhũng nhẵng thứ ngôn ngữ đến Chúa cũng bó tay.
Cơn ho của Đội trưởng không làm chị Hiên cụt hứng, trái lại, nó
như một thứ thuốc kích thích, da bụng chị Hiên rung bần bật, nóng râm ran lan
tỏa khắp người, giần giật giần giật. Chị Hiên như bừng tỉnh. Tay xoa lưng Đội
trưởng, tay khéo léo tìm ngọc hành đồng chí dúi vào nơi cần dúi. Bánh ú chúm
chím xinh tươi gặp ngọc hành kiên cường dũng mãnh, chị siết chặt lấy Đội trưởng
đánh nhịp tới tấp, theo nhịp ho sặc sụa của đồng chí. Tức khắc Đội trưởng hết
ho, đồng chí đặt trang trọng tờ báo tỉnh đăng “Mô hình ba giai đoạn điếu cày”
lên bụng chị Hiên, mắt không rời khỏi tờ báo, ngọc hành không rời khỏi bánh ú,
đánh nhịp cùng chị hơn một giờ không nghỉ.
Đồng chí Đội trưởng đã khởi động tiếng mèo kêu. Tiếng mèo kêu của
chị Hiên là tiếng mèo cái gọi đực đêm động dục, thảm thiết và hân hoan. Tiếng
kêu lúc lúc lại rúc lên khi thì chua loét hệt tiếng heo chọc tiết, giật từng
cơn, khi thì khô đục hệt tiếng ngỗng kêu đêm, tuồn qua tấm vách nứa đan thưa,
tràn ra sân, nhào ra ngõ, lăn lóc dọc đường cái quan, trong vòng bán kính năm
mươi mét không ai không nghe thấy.
Nhầm. Hầu hết hàng xóm của chị cố nuốt cục cười vào miệng, mặt
tỉnh bơ coi như không có gì xảy ra. Không biết không nghe không thấy, phép
phòng thân có từ ngày cách mạng long trời mười lăm năm về trước. Không phải.
Phép phòng thân truyền kiếp có từ thuở Đại Việt ta. Không phải. Kể từ ngày mẹ
Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, dân An Nam quá biết rõ bụng nhau. Cũng không phải
nốt. Kể từ ngày vua Hùng chọn đất định đô quá gần nước Đại Ca, đất nước luôn
sản sinh những thiên tài hai mặt. Chỉ có những cái cười tủm không giấu được
thỉnh thoảng bất chợt nở xoè trước mắt ba, chị Hiên và Đội trưởng cùng với
những khúc đồng dao lũ trẻ chăn trâu vẫn réo lên khắp Thị trấn Kô Long. Vè vẻ
vè ve/ nghe vè con chó/ tiếng giống tiếng mèo/tiếng giống con heo/tiếng giống
con ngỗng/ ngổng ngổng ngổng ngổng…
Ba không nghe tiếng gì cả. Ông không nghe thấy thật, tuyệt không nghe
thấy gì. Hình như ai đó bịt tai ba, xui ông vào chỗ chết. Vừa đạp xe từ Thị xã
Ô Lệ trở về, trong tay cầm đúng hai lạng thuốc lào, ba đi thẳng tới nhà chị
Hiên. Khi người ta hoàn thành một nhiệm vụ vẻ vang, niềm vui sướng làm người ta
quên hết mọi chuyện. Giờ này không có sung sướng nào hơn hai lạng thuốc lào ba
đang có trong tay. Bốc được hai lạng thuốc lào vượt qua tám chục cây số đường
trường cả đi lẫn về kính cẩn dâng lên đồng chí Đội trưởng, ba đã hoàn thành một
nhiệm vụ vẻ vang. Đáng lý ba phải nhận ra tức thì tiếng kêu quen thuộc đó khi
cách nhà chị Hiên năm mươi mét. Khốn nạn, ông đã không nghe.
Ba dừng xe đạp trước ngõ, tháo gói giấy báo bọc hai lạng thuốc lào
ở yên xe, rực lên niềm kiêu hãnh sắp được thấy cái miệng chuột chù của Đội
trưởng bành ra cùng với chín tiếng tuyệt vời. Tiếng mèo kêu đã tắt. Bánh ú xinh
tươi ngưng lại giữa chừng chúm chím. Đồng chí Đội trưởng bỗng thèm thuốc lào.
Không gì khóai bằng vừa làm tình vừa hút thuốc lào. Đồng chí khoan thai cúi
xuống với lấy cái điếu cày, khoan thai thông nõ, tra thuốc, khoan thai châm
đóm, rướn cổ rít một hơi dài. Tiếng điếu cày vang lên.
Trời hại ba tôi, lần này ông lại nghe rất rõ. Tiếng điếu cày báo
cho ông biết đồng chí Đội trưởng đang có nhà và đang hút thuốc lào. Vậy thì
việc gì phải gõ cửa, việc gì phải lên tiếng, cứ thế đi thẳng vào với hai lạng
thuốc lào trong tay, dâng lên đồng chí một bất ngờ thú vị. Ba đẩy cửa bước vào.
Ông đứng chết lặng trước cái đít đang nhoay nhoáy của Đội trưởng. Ba tính tháo
lui, nghĩ thế nào ông cứ đứng trơ ra đấy. Chị Hiên nhác thấy ba đang đứng ngây
như phỗng dưới háng, cái đít thẹn thùng giật nẩy.
Ôi cậu Vũ! Chị Hiên đẩy đồng chí Đội trưởng bật ngửa, ôm ngực
hoảng hốt kêu lên. Ba tỉnh hồn. Ông ngượng nghịu đặt nhẹ hai lạng thuốc lào,
nhiệm vụ vẻ vang đồng chí Đội trưởng giao phó, lẳng lặng tháo lui. Chân nam đá
chân chiêu ba dúi dụi đi ra ngõ. Ông dắt xe đạp lao thẳng về nhà mình, chẳng
hiểu thế nào cứ chui đầu vào lùm dứa dại đầu hồi nhà, loay hoay mãi mới gỡ ra
được, áo quần rách tướp, mặt mày tứa máu.
Ba không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau khi ông bắt quả tang đồng
chí Đội trưởng đang “ba cùng” như thế nào trong nhà một cốt cán. Ông không cách
gì đoán được số phận của mình rồi đây sẽ thế nào. Ba ngồi thất thần trên ngạch
cửa. Mạ hỏi đi hỏi lại dăm bảy lần ông cứ to mắt nhìn, quai hàm cứng ngắc không
thốt được nên lời. Ba tính chạy sang nói chuyện với dị nhân Kiểm Hát, vừa nhổm
đít lên ông lại ngồi xuống. Cho Kiểm Hát biết chuyện này chẳng được dã giúp cho
lại còn bị dã cho ăn chửi. Chẳng dại. Ba ngồi đóng đinh trên ngạch cửa, ngoảnh
mặt về phía nhà chị Hiên, đầu óc rỗng không chẳng nghĩ ngợi được gì, còn nghĩ
gì được mà nghĩ!
Mười lăm phút sau tiếng mèo kêu lại vang lên, lần này dữ dội hơn,
cho hay Đội trưởng đã có phương án khóa mồm hữu hiệu. Vận hạn ba tôi coi như
chấm hết. Kì thực nó đã chấm hết ngay khi ba đứng trước cái đít nhoay nhoáy của
đồng chí Đội trưởng.
9. Đêm định mệnh
Ba tôi uống một cốc rượu to, thêm
một cốc rượu to nữa, tự rủa thầm mình không dưng dính vào cái bướm không lông,
“đụ bướm vô mao số vào chuồng xí”, rồi đây rủi ro rình rập khôn lường, sống
nhục chết oan chỉ trong nháy mắt.
Vốn bà con bên ngoại với chị
Hiên, tuy không ruột cật gì ba cũng đủ gần gũi để biết nguyên lý khép mở dòng
họ ngoại chị Hiên. Nhà tranh vách nứa kề nhau, ba chẳng lạ gì nguyên lý ấy đã
hoạt động như thế nào, ông đã mục sở thị bánh ú vô mao chúm chím xinh tươi thế
nào từ bà ngoại chị Hiên đến mẹ chị Hiên và bây giờ là của chị Hiên. Họa đang
chờ trước cửa. Rượu càng uống càng say cái gì cũng một nhìn ra ba. Ba gương mặt
trái xoan trắng hồng, ba cặp tuyết lê phồng căng, ba cái đít thẹn thùng tròn
đầy, ba bánh ú chúm chím xinh tươi khép mở… bay lượn chập chờn trước mặt ông.
Ba ngửa mặt nhắm nghiền mắt nhớ lại sự tích cái bướm không lông. Không xong
rồi. Ba nhìn rất rõ mối hoạ treo trước mũi.
Đêm đó trôi qua yên bình, tịnh
không một tiếng động. Sáng ra đầu ngõ ba gặp nụ cười tươi tỉnh của chị Hiên.
Cậu dậy chi sớm rứa? Chị nói. Nụ cười chiếu cố vỗ về, ba dịch ra là “Tối qua
cậu khó ngủ phải không?… Không có chi mô cậu!” Trưa ba đến ở sân đình thờ họ
Phạm, nơi Đội cải cách vẫn nhóm họp, nhậu nhẹt, gặp nụ cười ấm áp tình đồng chí
của Đội trưởng. Thuốc lào bữa qua ngon lắm anh Vũ à. Đồng chí xiết tay ba. Hai
lạng thuốc hôm qua mới đúng là thuốc Vĩnh Bảo thứ thiệt! Đồng chí lại xiết chặt
tay ba.
Ba nở cười nụ cười rạng rỡ. Được
đồng chí khen tôi cũng mừng, hôm qua đến giờ tôi cứ lo lo. Ba kiên quyết nói
một câu thật khiêm tốn. Đồng chí Đội trưởng vỗ vai ba đánh bốp, cười to. È he…
lo chi rứa hè! Tiếng cười sảng khoái chí tình, ba dịch ra là, “Xí xóa chuyện
bữa qua nghe!… Coi như anh không thấy tui cũng không hay.” Đồng chí lại vỗ vai
ba đánh bốp. Anh em mình hiểu nhau mà. Cái vỗ vai ấm áp tình đồng chí, ba dịch
ra là “Anh em mình phải bảo vệ nhau nha!”
Ba như trút được một gánh nặng,
ông tự trách mình thần hồn nát thần tính đã suy diễn lung tung, nghĩ về chị
Hiên và đồng chí Đội trưởng chẳng ra làm sao, mất hết tình đồng chí. Vả chăng
làm sao có thể lôi cổ ông ra trường bắn chỉ vì một chuyện vớ vẩn. Ba có ba chục
năm theo cách mạng, ông bác Vĩ cũng có chừng đó năm đóng góp cho cách mạng. Số
lúa gạo ông bác Vĩ chuyển lên chiến khu Đá Mài ba chục năm qua chất cao bằng
đỉnh Đá Mài. Chưa nói đến Tuần lễ vàng năm 1946, trong số 20 triệu
tiền Đông Dương và 370kg vàng đồng bào cả nước đã quyên góp, tiền vàng của ông
bác Vĩ góp vào là không nhỏ. Chính phủ có thể không nhớ ông bác Vĩ đóng góp bao
nhiêu nhưng người bạn chí thiết của ba hiện đang là nhân vật có số má của triều
đình ở Hà Nội thì biết, ông bác Vĩ đã đưa tận tay cho người này nhân chuyến
công cán vào miền Trung.
A, người bạn chí thiết của ba,
suýt nữa thì ông quên mất. Còn người này ba không thể bị bắt tội! Đánh chó phải
nể chủ, đồng chí Đội trưởng dù có ba đầu sáu tay cũng không dám đụng đến một
cái lông chân của ba. Thủ trưởng cũng không dám nói gì đến đồng chí Đội trưởng.
Người bạn chí thiết của ba, bóng Người đang trùm khắp thiên hạ! Dù Người chẳng
đời nào chịu mất thời giờ vì ba nhưng cái bóng ấy vẫn đủ cho kẻ khác phải kiêng
dè khi muốn động đến ông. Phát hiện vừa rồi làm ba vững tin trở lại. Ông hết
khóm róm rụt rè, lại nói cười như không, ung dung nắm tay đồng chí Đội trưởng
đi thẳng vào chính điện đình thờ họ Phạm.
Kô Long có chín họ, đình thờ họ Phạm
to nhất, uy nghi nhất. Nhờ ông bác Phạm Vĩ bỏ tiền ra xây đình thờ, họ Phạm mới
vẻ vang như thế. Họ Phạm không phải là họ giàu nhất Kô Long nhưng có hai người
giàu nhất tỉnh, là ông bác Vĩ và ông bác Phú Huệ. Dân Kô Long cứ thấy họ mình
hơn được họ người ta được chút gì đều lấy đó làm vinh dự tự hào. Ông bác Phú
Huệ như người không mang họ, kiên quyết không liên quan bất kì việc gì của họ
Phạm, từ việc làm đình thờ, cứu trợ người trong họ tới mấy việc vặt như cưới
hỏi, cũng giỗ ổng cũng chẳng chịu xuất một trinh. Cái cổng cao ba mét và 11 con
chó beggie nhà ông bác Phú Huệ cho thấy nguyên lý “Không liên quan” của ổng
ngày mỗi cao vời vợi, không một ai với tới được. Mặc kệ ông bác Phú Huệ coi họ
Phạm chỉ bằng nửa con mắt, họ Phạm vẫn kiên quyết vinh dự tự hào về ổng.
Ông bác Phú Huệ chỉ biết có Cách
mạng, ngoài Cách mạng không còn ai. Tất nhiên ổng cũng chẳng bỏ ra cho Cách
mạng một trinh nào, tiền của đóng góp cho Cách mạng là của ông bác Vĩ, Cách
mạng luôn ghi công cả hai ông bác vì ông bác Phú Huệ áp dụng vô cùng sáng tạo
phương pháp kẻ góp của người góp công. Khi ông bác Vĩ chuyển gạo cho Chiến khu
Đá Mài, ông bác Phú Huệ tích cực thông báo cho Cách mạng với đại từ “chúng
tôi”, đồng thời làm báo cáo trực tiếp cho thủ trưởng chiến khu Đá Mài về số lượng
gạo, địa điểm nhận gạo và kết thúc bằng câu dao: “Trèo lên trên đỉnh Đá Mài
/Quyết tâm theo Đảng không phai tấc lòng.”
Khi bác Vĩ đóng góp tiền của
trong Tuần Lễ Vàng, ông bác Phú Hiệp tích cực báo cáo lên trung ương với đại từ
“chúng tôi”, đồng thời thay mặt ông bác Vĩ đứng ra trả lời phỏng vấn và kết
thúc bằng câu khẩu hiệu sáng ngời: “Cách mạng muôn năm!” Trong cuốn sổ vàng dày
cộp của Cách mạng rất nhiều có dòng chữ “Anh em hai nhà tư sản Phạm Vĩ- Phạm
Phú Huệ” đã… đã… đã… nhiều vô cùng.
Lại nói cái đình thờ họ Phạm ( vì
ba tôi và đồng chí Đội trưởng đang ngồi tán gẫu trong đó), ông bác Phú Huệ
trước sau vẫn bảo toàn nguyên lý “Không liên quan”, kiên quyết không bỏ ra một
trinh xây đình thờ. Mọi người đinh ninh đôi hạc đồng nặng gần ba tạ cao một mét
sáu mươi đặt ở gian thờ cụ tổ họ Phạm là do ông bác Phú Huệ tiến cống, thực ra
không phải. Khi đình thờ xây sắp xong, ông bác Phú Huệ đến chơi nhà ông bác Vĩ.
Chỉ vào đôi hạc đồng đặt ở phòng khách, ông bác Phú Huệ đưa ra sáng kiến. Đôi
hạc này quí lắm, anh đặt đây phí đi, nên tiến cống cho đình thờ họ. Phải phải!
Ông bác Vĩ gật gù đồng tình. Đúng ngày khánh thành đình thờ họ Phạm, ông bác
Phú Hiệp trịnh trọng đem đôi hạc đồng ra, trịnh trọng nói với toàn thể họ Phạm,
thứ dứt là, anh em chúng tôi…, thứ dì là, anh em chúng tôi… Toàn thể họ Phạm có
mặt hôm ấy ứa nước mắt cảm động.
Đội cải cách về Thị trấn Kô Long,
ông bác Phú Huệ đã trịnh trọng rước Đội cải cách về đình thờ họ Phạm ăn ở, sinh
hoạt, hội họp ở đấy. Vì có công xây đình thờ, ông bác Phú Huệ có quyền ra lệnh
dở bỏ chính điện, dở bỏ gian thờ, ưu tiên diện tích tối đa cho Đội Cải Cách.
Đồng chí Đội trưởng lấy làm cảm kích. Đồng chí chưa hết cảm kích, chưa kịp xác
định kẻ thù giai cấp số 1 ở Kô Long chính là Phạm Phú Huệ thì Phạm Phú Huệ đã
cao chạy xa bay. Nếu biết được Phạm Phú Huệ có năng khiếu tận dụng sơ hở của kẻ
khác từ trong bụng mẹ thì ổng đừng hòng thoát khỏi tay Đội trưởng, người có
năng khiếu bịp người từ trong bụng mẹ.
Lúc này Ba và đồng chí Đội trưởng
đang ngồi tán gẫu trong đó, tức trong chính điện đình thờ họ Phạm. Chị Hiên chợ
về, tay xách ba con vịt đi vào. Tiết canh vịt chỉ có cậu Vũ làm là nhất! Chị
Hiên thỏn thẻn nói. Răng Hiên biết tui tiết canh là nhất? Ba rỉ tai chị Hiên.
Em biết anh tiết canh em rồi mà, nhất anh đó! Chị Hiên lườm yêu, xuống giọng
thì thầm. Chị véo ba, cái véo hờn rõ đau. Cái đít thẹn thùng khép mở rưng rưng.
Ngọc Hành của ba ngóc đầu dậy tức thì, nhẫn nhịn đứng im trong đũng quần không
dám ho he.
Mọi người quên cả chuyện họp
hành, rôm rả nói chuyện tiết canh. Đồng chí Đội trưởng liếm một lượt mép thật
trơn, vung tay ca ngợi tài tiết canh của Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ. Ba cười tít
mắt, ông hồ hởi vứt cái xắc cốt lên bàn, hăng hái xắn tay làm tiết canh hầu Đội
trưởng.
Ba làm tiết canh sau chái đình
không hề nhớ cái xắc cốt, vật bất li thân của ông đang ở nhà chính. Niềm vui
được đồng chí Đội trưởng tin tưởng ban cho nụ cười ấm áp tình đồng chí và cái
lườm yêu, cú véo hờn của chị Hiên dẫn dụ ba quên sạch những gì ông không được
phép quên. Rồi tiết canh được bưng lên. Rồi ba ngồi vào chiếu rượu. Rồi cụng ly
lia lịa với mọi người, ba uống cho đến say ông vẫn không nhớ cái xắc cốt nằm ở
đâu. Rượu Kô Long 50 độ, chén đầu tê tê chén sau phê phê, mấy chén sau ngất ngư
không biết gì trời đất. Ba uống và uống. Ông hát rống lên mấy bài hát bằng
tiếng Pháp, các ca khúc kiêng kị của thời này cả thảy chục bài. Đồng chí Đội
trưởng không hề chê trách, đồng chí có chẳng biết gì nhạc nhéo mà chê trách, cứ
bồm bộp vỗ tay thật nhiệt tình cổ vũ ba uống hết mình, hát hết mình.
Đồng chí Đội trưởng cũng hát, ôm
cổ ba mà hát. “Hò dô ta nào… kéo pháo ta vượt qua đèo”, Đội trưởng rống lên.
“Hò dô ta nào… kéo pháo ta vượt qua núi”, ba rống lên.“Dốc núi cao cao nhưng
lòng quyết tâm còn cao hơn núi”, Đội trưởng rống lên. “Vực sâu thăm thẳm
vực nào sâu bằng chí căm thù”, ba rống lên. “Kéo pháo ta lên trận địa đây
vùi xác quân thù”, Đội trưởng rống lên. Vào điệp khúc cả hai thi nhau rống lên
như ăn cướp. “Gà rừng gáy trên nương rồi dẫn bước ta đi lên nào. Kéo pháo ta
sang qua đèo trước khi trời hừng sáng. Hai ba nào...”, Ba rống lên. “Tới
đích rồi đồng chí pháo binh ơi!”, Đội trưởng rống lên…
Chiều tối ba loạng choạng bước ra
đình thờ họ Nguyễn, suýt nữa ông quên mất cái xắc cốt. Đồng chí Đội trưởng
quàng dây xắc cốt qua đầu ba, ôm ba chặt cứng. Đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng
đồng chí. Đội Trưởng nồng nàn nói. Chín tiếng tuyệt vời vang lên trong cơn say.
Ba chuếnh choáng về nhà. Ông ngã vào lòng mạ tôi, chìm đi trong giấc ngủ tràn
ngập niềm mơ tưởng, những mơ tưởng ngọt ngào.
*
Đúng ba giờ sáng ngày 21 tháng 12
năm 1955.
Ba đang ngủ say. Mạ trở mình ôm
quàng lấy ông, áp má vào ngực ông thiêm thiếp ngủ trong trạng thái chờ đợi. Ba
vẫn ngủ say, không một biểu hiện gì cho thấy ông đã nhận được tín hiệu mời gọi
của mạ. Bàn tay mạ vuốt nhẹ lên ngực trần của ông, dần trượt xuống bụng dưới
của ông và nằm yên nơi bà đang muốn nó thức dậy. Bà lật nghiêng người, co chân
gác nhẹ lên bắp vế ông, cố tình ẩn nhẹ vào nơi ấy. Ba bắt đầu lờ mờ nhận ra hơi
ấm của mạ phả ra tràn lên ngực mình.
Râm ran tiếng gà gáy canh ba –
đồng hồ báo thức ái ân của những gia đình đông con nhà chật. Ba từ từ mở mắt,
những sợi tóc thơm lừng hương sả của mạ vắt qua ngực ông cùng với hơi thở nồng
nàn của bà gây cho ông có được cảm khoái bất chợt, ông biết bà đã thức dậy từ
lâu và đang đợi. Ba quay người hôn nhẹ lên trán mạ, cái hôn cho biết “anh đã
sẵn sàng”. Mạ mở mắt vừa như ngái ngủ vừa nũng nịu nhìn ba và mỉm cười hôn nhẹ
lên ngực ông, bà vờ thiếp đi trong nách ông, bàn tay mềm từ từ nắm lấy cái cần
nắm. Cái nắm trong thiêm thiếp khéo đến nỗi chỉ gợi lên một trạng thái yêu
thương chứ không hề phô bày thèm muốn.
Điều đó dĩ nhiên càng kích thích
ba hơn. Ông đã tỉnh hẳn, nhẹ nhàng kéo mạ áp sát vào lòng. Và hôn. Những chiếc
hôn nhẹ và sâu dần tràn lên cơ thể bà. Mạ thừa biết đấy không phải là những
chiếc hôn tình yêu, chúng thuần túy là những chiếc hôn gợi dục. Mạ chỉ cần có
thế, thực lòng bà không dám được nhiều hơn. Bà hân hoan đón nhận những chiếc
hôn của ba, coi đó là món quà tình trời ban tặng. Bà đáp lại bằng những nụ hôn
dè dặt, e ấp nửa muốn lẩn tránh nửa muốn dấn tới, tạo ra vẻ ngượng ngùng nữ
tính và râm ran thông báo niềm vui sướng sắp được dâng hiến.
Rực lên trong ba một niềm yêu.
Ông chồm dậy đè nghiến mạ trong cơn khát chiếm đoạt. Thoáng chốc ông đã ngập
vào bà, điên dại quấy đảo như say như mê sảng. Một cái gì đó hực lên. Mạ nhắm
nghiền mắt, bộ ngực khổng lồ đột khởi nở căng. Mạ mê đi. Gần như mất trí, bà
điên dại túm tóc ba giật nảy liên hồi.
Phạm Vũ mô rồi, mở cửa ra! Một
tiếng gọi chậm rãi, khô khốc vang lên ngay cửa sổ buồng ngủ, gần đến nỗi như ai
đó đang dí mõm vào tai, nhả ra từng tiếng lạnh lùng. Mạ giật mình đẩy vội ba
ra. Ba vẫn giữ nguyên hiện trường, ngồi yên trên bụng mạ, không chịu rút khỏi
vị trí tác chiến, hất mặt ra ngoài cửa sổ. Ai đó… chi rứa?
Câu hỏi khó chịu lẫn một chút
quyền lực của ông chủ tịch Thị trấn chẳng hề làm đám người ngoài cửa sổ xao
động. Một tiếng hắng giọng rõ to kèm tiếng gọi giật. Mở cửa mau! Lại thêm một
tiếng thét. Phạm Vũ, mở cửa mau! Tiếng thét quen thuộc của đồng chí Đội trưởng,
người vừa xiết chặt ba trong vòng ôm trìu mến cùng với chín tiếng tuyệt vời.
Hơn chục người đạp cửa xông vào,
xách cổ ba lôi xềnh xệch. Các đồng chí… các đồng chí… cho tui mặc quần cái đã!…
Ba hoảng hốt la to. Đồng chí Đội trưởng chắp tay sau đít đủng đỉnh đi tới. Đồng
chí nhìn ba cười cười, bất ngờ đá đít ông một cú cực mạnh. Đồng chí cái lồn mạ
mi! Mặt ba trắng bạch.
Mạ và sáu đứa con quây quanh ba,
mặt mày ai nấy cũng trắng bạch. Cả nhà bị lùa vào buồng, buộc ngồi yên ở đấy,
cấm có kêu la. Một tốp thanh niên lùng sục khắp nhà, lôi ra đủ thứ giấy má sách
vở, đồ học tập các anh chị của tôi chất đống giữa nhà. Cái xắc cốt của ba cũng
được ném lên đấy. Đồng chí Đội trưởng lấy cây gậy khều đống giấy tờ sách vở ngó
ngó nghía nghía, thình lình chỉ vào cái xắc cốt. Xổ cái xắc ni ra coi! Đồng chí
ra lệnh. Xắc cốt được xổ ra, một mớ tài liệu đánh máy ba tôi chưa nhìn thấy bao
giờ lần lượt rơi ra trước mặt ông. Đội trưởng cười cái hậc. Thấy chưa Phạm Vũ!
Toàn tài liệu Quốc Dân đảng như ri, hỏi răng không phản động. Ba chết điếng,
ông rũ ra như cây chuối héo.
Ba bỗng chồm dậy vung tay hô
vang. Hồ Chủ Tịch muôn năm! Chẳng có gì lạ. Tất cả những người bị Đội cải cách
tóm cổ, chẳng ai bảo ai họ đều hô vang Hồ Chủ Tịch. Không ai động lòng cũng
chẳng ai chùn tay. Hãy cảnh giác. Bọn phản động giở trò lưu manh, nấp bóng Hồ
Chủ Tịch anh minh hòng cứu được mạng sống của chúng đấy. Hồ Chủ Tịch muôn năm!
Ba tuyệt vọng dãy dụa tuyệt vọng hô vang. Dễ gì! Hồ Chủ Tịch muôn năm! Tiếng hô
như tiếng kêu xé ruột. Còn lâu! Người ta lôi cổ ba tôi đi.
Cả nhà tôi ùa ra cửa. Mạ khóc òa,
cả đàn con khóc òa theo. Ba cố quay lại chào cả nhà, ông ráng nở một nụ cười
méo xẹo. Có ai đó đẩy ba ngã sấp. Sợ con cái thấy cha mình thảm hại quá ông lồm
còm bò dậy thật nhanh. Chưa kịp đứng lên ông đã bị kẻ khác thúc đít ngã sấp một
lần nữa. Cả nhà tôi đứng chết giấc nhìn ba. Đồng chí Đội trưởng thủng thẳng đến
sát mạ, thò tay véo vú bà, cười hắt một tiếng khơ. Vợ thằng phản động bụ to rứa
bay. Đoạn, mắt trợn tay chỉ đồng chí Đội trưởng quát to như sấm. Tịt thu nhà
ni, đưa vợ con nó về chuồng bò gần cầu Phố!
Xong. Đồng chí thủng thẳng quay
vào cửa, thò tay véo vú chị Hai, lại cười hắt một tiếng khơ. Công nhận vợ con
thằng phản động bụ to!
10. Đám rước nhà tôi
Ba đã làm tổng cộng năm
mươi chín cái điếu cày trong vòng ba năm phụng sự đồng chí Đội trưởng, từ ngày
rước đồng chí về Thị trấn cho đến khi ông bị chính đồng chí xông vào nhà ấn mặt
bắt phải quì, nghe đồng chí tuyên bố trọng tội làm gián điệp cho Quốc Dân Đảng.
Quốc Dân Đảng là gì? Tất
nhiên đồng chí Đội trưởng không biết, đồng chí cũng chẳng cần biết, chỉ cần Thủ
trưởng biết là quá đủ. Thủ trưởng đã khẳng định đây là một tổ chức rất ghê tởm.
Một khi Thủ trưởng khẳng định là ghê tởm thì chúng phải ghê tởm. Đồng chí Đội
trưởng tin tưởng chúng rất ghê tởm, chẳng cần biết chúng là những ai mà ghê
tởm, làm những gì mà ghê tởm, ở đâu ra mà ghê tởm, vì sao mà ghê tởm và ghê tởm
từ lúc nào, hiện có còn nữa không mà ghê tởm. Không cần phải nhiêu khê đến vậy,
chỉ cần Thủ trưởng khẳng định chúng là một tổ chức ghê tởm, thế là quá đủ. Ai
làm gián điệp cho chúng tất nhiên phải xử bắn kể cả Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ,
người có thành tích làm năm mươi chín cái điếu cày cho Đội trưởng.
Chủ tịch Thị trấn Phạm
Vũ là tên tiểu tư sản phản động, một tên gián điệp, trong xắc cốt của hắn có
rất nhiều tài liệu của Quốc Dân Đảng. Dù hắn có làm năm mươi chín cái điếu cày
hay năm ngàn chín trăm cái điếu cày thì cũng rứa thôi. Đó là kết luận đanh thép
của đồng chí đội trưởng Đội cải cách sau mười sáu phút hội ý trong bữa thịt chó
thâu đêm tại nhà chị Hiên, đêm trước buổi chiều tiết canh vịt ở đình thờ họ
Phạm ba được đồng chí ban cho chín tiếng tuyệt vời.
Thịt chó vừa bày ra, tập
tài liệu của Quốc Dân Đảng chưa có trong xắc cốt của Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ.
Chị Hiên vừa lên huyện xin về, vẫn còn nóng hổi dưới đít đồng chí Đội Trưởng.
Không quan trọng, đồng chí vẫn kết luận đanh thép. Việc chuyển tập tài liệu từ
dưới đít đồng chí Đội trưởng vào xắc cốt của ba chỉ là chuyện nhỏ, kết luận
đanh thép mới là việc quan trọng. Phàm những gì lãnh đạo kết luận đều hoàn toàn
đúng đắn, nếu chưa đúng đắn thì cấp dưới phải có trách nhiệm khẳng định cho nó
đúng đắn. Ai không thấm nhuần được điều này đừng dại dột theo cách mạng.
Dị nhân Kiểm Hát nói
đúng, ba đã quá dại dột. Chiều hôm sau, xong bữa rượu tiết canh vịt ba ngây
ngất rời đình làng về nhà với vợ, mang theo luôn tập tài liệu ấy trong xắc cốt,
ông đã mang theo “kết luận đúng đắn” của đồng chí Đội trưởng về nhà.
Năm giờ sáng ba bị điệu
ra khỏi nhà. Sáu giờ ba mươi nhà tôi bị lục soát tứ tung. Bảy giờ mười có lệnh
trục xuất gia đình tôi ra khỏi nhà tới “định cư” ở một chuồng bò bỏ hoang,
không được mang theo bất cứ thứ gì ngoài một mớ áo quần rách và vài cái nồi
đất.
Mạ dắt đàn con đi về cái
chuồng bò giữa hai hàng người rạo rực hô vang đả đảo và muôn năm, chủ yếu đả
đảo đích danh tên tiểu tư sản phản động Phạm Vũ. Mạ đi xiêu vẹo như kẻ mất hồn,
mặt bạc phếch, đôi đồng tử cứng đơ như hai hòn sỏi. Rất nhiều lần mạ ngã khụy
giữa đường, mắt dí chặt lấy đầu ngón chân cái. Chị Cả, chị Hai phải xốc nách bà
mới đứng lên được. Chân tay mạ run lẩy bẩy, lại thêm cái bụng chửa vượt mặt khiến
bà lúc lúc lại bổ nhào về phía trước.
Tôi ngồi nghiêng ngửa
trong cái bụng chửa, trạng thái không trọng lượng làm tôi khó chịu. Ở bên ngoài
không phải đám rước của trẻ con. Chỉ có muôn năm và đả đảo, đám rước người lớn
không ca hát không đấm đá cãi cọ nhau chí chóe, chỉ có muôn năm và đả đảo.
Tiếng hô muôn năm và đả đảo của người lớn cũng khác hẳn trẻ con, nó cộng hưởng
vang rền rung chuyển cả không gian. Tôi ở trong bụng mạ cũng bị rung chuyển dữ
dội. Tiếng muôn năm làm tôi khi ngả sang phải khi ngả sang trái, tiếng đả đảo
làm tôi khi chúc lộn xuống khi đảo ngược lên. Cùng với tiếng trống rền vang,
tiếng thanh la nhói óc nhồi tôi phình ra bóp vào theo nhịp gõ. Ôi nếu chết được
thì chết quách đi hơn là phải sống thế này.
Tôi cố tìm hiểu tại sao
bỗng dưng cái bụng mạ lại đảo điên nghiêng ngả. Buồn thay bộ não sáu tháng tuổi
của tôi đang là đám đậu phụ nhão nhoét mới thành hình, chỉ có yes or no và yes
or no, chừng đókhông đủ để giúp tôi hiểu chuyện gì xảy ra ở thế giới bên
ngoài. Nếu tôi đã ra đời không chắc tôi đã hiểu. Dân Thị trấn cũng không ai
hiểu vì sao Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ bỗng nhiên thành tên tiểu tư sản phản
động, gián điệp Quốc Dân Đảng. Một vạn hai ngàn dân Thị trấn nem nép nhìn nhau
tự hỏi đến Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ còn bị đem ra trường bắn thì thân phận họ
rồi sẽ thế nào?
Đám rước rùng rùng
chuyển động, rạo rực hướng theo tiếng hô muôn năm và đả đảo rung động Thị trấn.
Trong tiếng hô rạo rực kia chen lẫn bao nhiêu câu hỏi. Không cần phải hỏi, càng
cố tìm hiểu càng mang vạ vào thân. Đây là thời của phấn khởi tin tưởng, có phấn
khởi tin tưởng sẽ có tự do. Phấn khởi tin tưởng quá dễ tại sao không theo, cứ
đeo lấy tìm hiểu để làm gì?
Nhà tôi dắt díu nhau đi
trong đám rước kinh khiếp này. Cả nhà chỉ thiếu mỗi anh Ba, anh không có mặt
trong đám rước. Anh ở đội Cờ đỏ của huyện, suốt ngày đêm tham gia
cuộc cách mạng long trời lở đất, rất ít khi ở nhà. Anh không biết ba bị bắt,
hoàn toàn không. Sáng nay anh bất ngờ bị loại ra khỏi đội Cờ đỏ, đưa về
giam lỏng ở cái nhà kho phía sau Ủy ban huyện. Lúc này đây anh đang đứng cửa sổ
nhà kho trông ra chờ ai đó đi qua để hỏi vì sao anh bị tống giam.
Anh Ba vốn hồn hậu chất
phác, hồn hậu chất phác từ lúc mới sinh ra cho đến già vẫn hồn hậu chất phác.
Chưa khi nào anh nghĩ về đời xa hơn một bước chân. Mãi tới khi người ta kính
cẩn đeo trước ngực vô số thực danh và hư danh dài đến nỗi phải đọc hai hơi mới
hết, anh vẫn không nghĩ về đời xa hơn một bước chân. Toàn bộ óc não của anh chỉ
để chứa các loại kiến thức về cơ lượng tử và trường lượng tử khiến anh trở nên
nhà vật lý lượng tử danh tiếng.
Như Vũ Hoàng Chương, anh
Ba cũng đầu thai nhầm thế kỉ. Đây là thế kỉ nghiên cứu bèo hoa dâu, sáng kiến
hố xí hai ngăn và cấy giăng dây thẳng hàng, bộ não của anh chẳng biết dùng việc
gì. Giống ba, anh chỉ biết đọc báo Nhân dân rồi đi họp, sáng họp viện
A, chiều họp viện B, cuộc họp nào cũng lấy đồng thuận làm căn bản. Còn lại là
xách cặp đi nước ngoài, vì chỉ nước ngoài mới thấy bộ não của anh là cần thiết.
Anh Ba đã không biết đi
buôn lại rất khinh bỉ việc đi buôn, Hai mươi sáu năm bôn ba nước ngoài, mỗi năm
ba, bốn chuyến, cộng lại đến nay hơn tám ngàn cuốn sách, ngoài ra chẳng có gì
sất. Năm ngoái anh về trời, gia đình mất bốn tiếng đồng hồ hóa vàng tám ngàn
cuốn sách cho anh ở xứ thần tiên có cái để đọc. Chỉ có anh Ba mới đọc được núi
sách ấy, chẳng có ma nào đọc được, để lại chỉ tổ chật nhà.
Anh Ba tôi suốt đời sống
trong sáu chữ: Phấn khởi- tin tưởng- tự hào. Tuồng như mọi đau thương không hề
để lại dấu tích trong bộ não đáng nể kia, kể cả những kí ức cay đắng nhất. Nhiều
lần bị người đời giáng cho vỡ mặt, tưởng có thể nhớ đời anh cũng quên luôn.
Suốt đời anh chỉ có một niềm yêu, không yêu được thì phục, không phục không yêu
thì thân thiện, anh quyết không ghét bỏ ai bao giờ. Từ thủa thiếu thời cho đến
ngày về trời, anh Ba chỉ có một thần tượng. Không phải là Marx, Engels – họ là
thần tượng độc quyền của ba tôi. Không phải là Pele, Maradona – họ là ai đến
chết anh vẫn không biết. Không phải Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần – anh luôn xa lạ
với những ai làm ra một thứ phù phiếm gọi là văn. Không phải Bernouilli,
Lomonosov – họ chẳng qua cũng là nhà khoa học như anh. Thần tượng duy nhất của
anh Ba là Lôi Phong, một ông cha căng chú kiết nào đó chuyên tìm bàn chải đánh
răng trong đống rác đem về dùng, được dân Trung Quốc tôn làm đại thánh thời
thất bát cao lương dư thừa sĩ diện hão.
Ai nói thế nào mặc lòng,
đến chết anh Ba vẫn đinh ninh cuộc sống sở dĩ ngày càng tươi tốt là vì người ta
biết tằn tiện, chỉ cần biết tằn tiện thôi ta sẽ có những gì ta muốn. Anh Ba đã
có những gì anh muốn có: Một bộ vét bốn mươi sáu năm từ ngày du học ở Trường
đại học tổng hợp ở Bungaria, một đôi giày da cừu cao cổ hai mươi bảy năm mua
với giá bốn lev bốn mươi stotinki từ một anh bạn nát rượu người Mông Cổ, một
cái cặp da bò ba mươi chín năm, phần thưởng cho luận văn tốt nghiệp đại học
xuất sắc của anh. Tất cả chỉ có thế, anh cũng không cần gì nhiều hơn thế, có
chăng là thêm một bà vợ có cùng thần tượng Lôi Phong với anh và vô số niềm tự
hào bằng giấy xanh đỏ, bằng sắt đồng nhôm mạ bạc mạ vàng… xếp chật cứng gầm
giường.
Thực ra Lôi Phong là
thần tượng trong cuộc sống hằng ngày của anh Ba mà thôi. Thần tượng vô song của
anh chính là Cách mạng. Năm mười một tuổi, một ngày mùa thu đẹp trời, cách mạng
kéo cờ đỏ trở về, chỉ trong ba ngày làm đảo lộn Thị trấn Kô Long. Cách mạng phá
kho thóc chia cho dân nghèo, kéo mấy trăm xác chết đói rải rác khắp Thị trấn
đem đi chôn, gô cô quan huyện quan tỉnh diễu đi mấy chục cây số đường tỉnh lộ,
cho tới khi họ lăn ra chết nhăn răng. Một vạn hai ngàn dân Thị trấn được lên ngôi,
được gọi là ông chủ và gọi nhau bằng đồng chí. Đó là cuộc đổi thay vĩ đại, với
anh Ba nó là cuộc đổi thay thần kỳ, trên thần kỳ, trên trên thần kỳ, trên trên
trên trên thần kỳ… Cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, chịu chui vào nhà điện táng,
chịu để người ta chặt xương ra thành nhiều khúc nhét vào cho vừa cái tiểu nhỏ,
anh ba tôi vẫn đinh ninh như vậy.
Dễ hiểu vì sao, chỉ một
năm theo đội Cờ đỏ, bộ não trác tuyệt của anh Ba đã thấm nhuần lời
dạy của Trần Ngô Đống Tiên Sinh với hai điều thật giản dị: Điều 1: Cách mạng
luôn luôn đúng; Điều 2: Nếu Cách mạng sai hãy xem lại điều 1. Đó là chân lý vĩ
đại mà sau này mấy ông chồng sợ vợ đã ăn cắp bản quyền chế tạo thành câu chuyện
tiếu lâm. Anh Ba rất khó chịu chuyện tiếu lâm bậy bạ đó, với anh đó là chân lý,
dù có tát cạn Biển Đông chân lý đó không hề thay đổi. Từ thuở trai tráng xông
pha đội Cờ đỏ dưới sự lãnh đạo của Trần Ngô Đống Tiên Sinh tới khi
già yếu oặt ẹo vì bệnh bại liệt không ra được khỏi giường, ngồi ôm cái đài nghe
tin thời sự, chỉ nghe mỗi chương trình thời sự mà thôi, anh vẫn không mảy may
nghi ngờ chân lý đó.
Anh Ba đang đứng trong
nhà kho Ủy ban huyện. Từ trước tới giờ anh toàn được khen thưởng, chưa một lần
bị chê trách, bỗng dưng bị bắt nhốt là chuyện quá lạ. Lạ chứ không phải sai,
Trần Ngô Đống Tiên Sinh đã nói, Cách mạng luôn luôn đúng. Anh Ba bị bắt nhốt là
vì anh sai nhưng sai cái gì thì anh Ba không nghĩ ra. Khoảng một giờ anh Ba
được Trần Ngô Đống Tiên Sinh thông báo Phạm Vũ đã bị bắt vì tội làm gián điệp
cho Quốc Dân Đảng. Anh bàng hoàng mồm há hốc cứng ngắc, hơn mười phút sau mồm
không ngậm lại được. Anh không sao cắt nghĩa nổi, ba không thể là kẻ xấu, Cách
mạng không thể sai, vậy thì lý do gì ba bị bắt?
Ba ơi răng rứa?… Răng
rứa ba ơi!…Anh Ba khóc lóc kêu rên. Trời không nghe. Đất không nghe. Ba không
nghe. Chỉ có một nhân viên đội Cờ đỏ đang nấp rình nghe rất rõ. Nhân
viên Cờ đỏ báo lại cho Trần Ngô Đống Tiên Sinh, Tiên Sinh báo lại cho
Chánh văn phòng Ủy ban huyện, Chánh văn phòng Ủy ban huyện báo lại cho Phó chủ
tịch huyện, Phó chủ tịch huyện báo lại cho Chủ Tịch huyện, Chủ tịch huyện báo
lại cho Trưởng ban cải cách huyện. Trưởng ban cải cách huyện nắn nót ghi
vào sổ tay nhật ký công tác những gì ông theo dõi anh Ba. Hiếm có một cuốn nhật
ký công tác nào ghi chép chu đáo kĩ lưỡng như thế.
Trích nhật ký công tác của Trưởng ban cải cách huyện
12h ngày 21 tháng 12
năm 1955.
Bắt giam Phạm Ba, con
trai thứ ba của Phạm Vũ. Bốn giờ liền y khóc lóc kêu rên: “Ba ơi răng rứa?…
Răng rứa ba ơi!…” Phải chăng là ám hiệu?
Cần theo dõi tiếp.
…………………
18h 21 tháng 12 năm
1955.
Phạm Ba không chịu ăn,
đứng ở cửa sổ nhìn ra. Hắn tiếp tục khóc thêm sáu giờ nữa. Công an xác định: “Ba ơi răng rứa?… Răng rứa ba ơi!…”
không phải là ám hiệu. Tuy vậy không được mất cảnh giác.
Cần theo dõi hướng
nhìn của Phạm Ba: Bụi tre…> Hai cây dừa…> Cái giếng Xóm Đá…> Đền
thờ họ Phạm.
……………………….
21h ngày 21 tháng 12
năm 1955. Theo yêu cầu của Ban cải cách, Đội cờ đỏ huyện đã báo cáo gửi lên,
khẳng định họ Phạm là họ yếu kém nhất Thị trấn.
Cụ thể:
+Thành phần nguy hiểm
đông nhất: bao gồm 16 trí thức, 17 tiểu tư sản, 215 buôn bán nhỏ. Đặc biệt hai
đại tư sản Phạm Vĩ và Phạm Phú Huệ. Bọn này dù có công với Cách mạng nhưng là
mầm mống của Tư bản chủ nghĩa, cần phải tiêu diệt. Đáng tiếc cả hai tên này đã
trốn khỏi Thị Trấn trước Cải cách.
Thành phần tiên tiến
quá ít:
+Giai cấp nông dân:
12 gia đình có ruộng ở Xóm Trầu.
+ Giai cấp công nhân:
hai hộ sửa xe đạp.
Đáng tiếc thành phần
tiên tiến của họ Phạm lại không chịu khó tham gia các phong trào cách mạng cuả
Thị trấn làm gương cho dòng họ Phạm noi theo. Đội cờ đỏ đã nhiều lần tới nhà
động viên họ tham gia, họ nhất trí rất nhanh và cũng lủi về nhà rất nhanh.
Hồ Chủ tịch đã
dạy: “Học cái tốt thì
khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.Học cái
xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.” Tôi
nguyện làm theo lời dạy Hồ Chủ Tịch để cải tạo Phạm Ba nói riêng,
dòng họ Phạm nói chung trở thành con người có ích cho Cách mạng.
Hồ Chủ Tịch muôn năm!
*
Theo dõi anh Ba thật
dễ, anh vẫn khóc lóc kêu rên trong nhà kho. Ba ơi răng rứa?… Răng rứa ba ơi!…
Đội viên cờ đỏ liên tục báo lên cấp trên “không có gì mới.”. 9h15. “Không có gì
mới. Phạm Ba vẫn khóc lóc.” 10h20. “ Không có gì mới. Phạm Ba vẫn khóc lóc”…
May anh Ba chỉ khóc lóc trong nhà kho. Nếu đi giữa đám rước giữa hai hàng người
trống dong cờ mở, rạo rực hô muôn năm đả đảo anh Ba vẫn một mực khóc lóc kêu
rên nhất định có kẻ mắng cho, thằng anh mười tám tuổi đầu cũng ngu như hai
thằng em bốn tuổi và sáu tuổi.
Thằng em bốn tuổi là
anh Chín. Anh túm lấy áo mạ, ngó ngược ngước xuôi giữa hai hàng người đông
nghịt. Trí tuệ non nớt của đứa bé bốn tuổi không giúp anh hiểu được rành rẽ vì
sao ba mình bị trói vày vò như một con chó nhúng nước và người ta đang rạo rực
lôi tên ông ra nguyền rủa. Cho dù trẻ con bốn tuổi có hiểu được chuyện này đi
nữa thì anh Chín vẫn không hiểu. Anh thuộc dòng phi thực, sinh ra để làm thơ
nhớ nhà, để thấy cuộc đời luôn chứa chan hạnh phúc. Những gì liên quan đến đả
đảo đều làm anh kinh hãi.
Anh Chín đang sợ, nỗi
sợ bị ăn thịt, sợ đến nỗi không dám khóc, nước mũi nước dãi chảy ướt dầm dề
quệt mãi không hết. Gương mặt đẹp như chúa hài đồng giờ đây nhem nhuốc bẩn thỉu
như vừa chui ra từ ống cống. Chỉ đôi mắt con gái vẫn sáng long lanh tròn xoe
ngơ ngác. Dù đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo, nhiều người nhìn anh đã bật
khóc. Để không ai trông thấy mình khóc họ đã gào to như điên dại, nhói lên
những tiếng thét thất thanh giữa rạo rực muôn năm và đả đảo, nghe như tiếng
thét của người cuồng, anh Chín càng sợ hãi, anh ngậm miệng khóc ư ử, hai lỗ mũi
liên tục phồng bông bống.
Dẫu sao anh Chín cũng
còn biết sợ, còn mơ hồ cảm được cái chết gần kề của ba tôi. Anh Tám đã sáu tuổi
đầu vẫn ngơ ngơ như bò đội nón. Chứng kiến cảnh bắt bớ ba tối hôm trước, trong
khi cả nhà rúm ró sợ hãi anh Tám vẫn đứng toe toét cười. Bây giờ đi giữa đám
đông anh Tám vẫn toe toét cười. Anh còn nhảy loi choi, vung chân vung tay hò
hét theo mọi người. Trong trí tưởng tượng hoang đường của anh Tám – cơ sở để
sau này anh trở thành viên chức hạng bét và thầy bói trứ danh – việc ba bị trói
vày vò, bị Đội trưởng lôi đi xềnh xệch chẳng qua là trò chơi anh chưa từng biết
bao giờ. Anh hình dung cả nhà đang đi giữa đám rước vĩ đại, vua, hoàng hậu,
thái tử, công chúa và đám tùy tùng đang diễu qua hai hàng thần dân háo hức hô
“Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.
Anh Tám vênh vang đi
giữa đám rước. Từ sáng đến giờ chưa có gì bỏ bụng, không quan trọng, được vào
vai Thái tử vênh vang đi giữa đám rước quan trọng hơn nhiều. Người ta hô muôn
năm, anh Tám nhảy cẫng lên hô muôn năm. Người ta hô đả đảo, anh Tám cũng nhảy
cẫng lên hô đả đảo. Thấy anh đang đả đảo cha mình mọi người cười ầm. Anh cũng
nhăn răng cười. Chị Cả cầm cổ áo anh giật trở lại, cho anh một cái tát nảy đom
đóm. Anh khóc, xông đến đấm đá chị Cả tứ tung, mồm chửi cha chị Cả như hát
tuồng, không hề nghĩ cha chị cũng là cha anh hiện đang diễu qua một ngàn hai
trăm quần chúng hôm qua còn là thần dân của ông, răm rắp làm theo lệnh của ông,
nay đang hân hoan tống tiễn ông đến chỗ hành hình.
Cậu Dư đứng rúm ró
trong đám người hô muôn năm và đả đảo thấy những gì thằng cháu ruột của mình
đang làm, uất lên quên cả sợ hãi cậu xông ra giáng cho anh Tám thêm một cái tát
trời giáng. Răng mà ngu rứa con ơi! Cậu thét lên mấy tiếng xé ruột. Khi đó anh
Tám mới chịu cúp mặt lủi thủi đi sau một quãng khá xa, ra cái điều không thèm
chơi với mọi người nữa. Cũng có thể anh Tám ngây dại của tôi cho rằng tử hình
là một cái chết lẫm liệt không phải ai muốn cũng có được, và người ta chết xong
lại sống lại như thường. Giống ông cu Trí nhà bên, tối nào cũng lên sân khấu để
bị chém ngang đầu, bao nhiêu người than khóc tiếc thương, tóm lại sáng mai đã
thấy ông ngồi lù lù ở hàng cháo bánh canh mụ Đồ. Ba sẽ chết như thế, và cũng
chỉ chết như thế thôi, giữa một ngàn quần chúng rạo rực hô muôn năm và đả đảo.
Rõ là một cái chết không chê vào đâu được. Thế nên anh không thể hiểu vì sao
anh bị giáng liền hai cái tát, suýt nữa bị cái tát thứ ba là của anh Bảy đang
đi cạnh anh không đầy hai bước.
Anh Bảy chín tuổi thừa
sức hiểu ra mối nguy hiểm khủng khiếp khi người ta xông vào nhà bắt sống ba.
Anh đứng góc nhà trừng trừng nhìn Đội trưởng. Anh biết chuyện gì xảy ra trên
bốn bao tải cám lợn nhà chị Hiên, vì sao trên bụng chị Hiên lúc đầu là ba sau
đó là Đội trưởng. Qua khe hở hẹp vách nứa anh đã nhìn thấy rất rõ. Khi cả nhà
tôi đang dúm lại dưới chân Đội trưởng kêu khóc van xin, anh Bảy đứng tách ra,
hai hàm răng nghiến chặt, đôi mắt rực lên một nỗi căm hờn.Và vẫn hàm răng
nghiến chặt, đôi mắt rực lên một nỗi căm hờn như thế, phớt lờ mọi tiếng la hét
chửi rủa bốn xung quanh, anh Bảy ngẩng cao đầu, mắt nhìn thẳng, hiên ngang đi
giữa hai hàng người, cứ như chính anh là anh hùng sa cơ ra pháp trường giữa một
ngàn hai trăm người đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo.
Bỗng những hòn sỏi nhỏ
ném trúng đầu anh cùng với tiếng thét giận dữ sặc mùi a dua của lũ trẻ. Chúng
là những đứa bé chín mười tuổi, bạn bè của anh Bảy. Mới hôm qua anh là thủ lĩnh
của chúng nó, cả lũ không đứa nào không thần phục anh. Anh Bảy luôn dẫn đầu
trong các trận “huyết chiến” với tụi trẻ xóm Cống, chưa bao giờ anh chịu đầu
hàng dù nhiều khi thất bại thảm hại. Nếu có đứa nào đó quân của anh bị bắt, anh
xả thân cứu thoát cho kì được bất chấp hiểm nguy, đừng hòng anh bỏ bạn khi lâm
trận. Nhiều lần cứu bạn anh bị tụi xóm Cống đánh cho tóe máu, nếu bạn chưa chạy
thoát, có chết anh vẫn không lui. Đủ biết vì sao anh Bảy bé nhỏ hơn nhiều đứa
khác anh vẫn được lũ trẻ tôn làm thủ lĩnh.
Anh Bảy sống với lũ
trẻ nhiều hơn sống với anh em trong nhà. Ngày ngày lũ trẻ cùng anh ngụp lặn
trong dòng hói tìm bắt những con cua nước lợ và thi nhau lặn một hơi tìm đến
những người đàn bà tắm truồng, chui tọt vào giữa háng họ, làm các chị các bà rú
lên vừa sợ hãi vừa thích thú. Rồi cả lũ kéo nhau đi đào hang chuột, đi bới
khoai mầm đem về liên hoan cùng với tôm cá đơm bắt được. No rồi chơi ù muỗi,
chơi đánh đáo, đánh khăng, đánh du kích… Tối cùng nhau nằm trong cái chòi canh
nò cá bên bờ hói, kể cho nhau ba mạ chúng đã làm những gì trong đêm và cười rúc
rích, chồm lên vọc chim nhau hoặc tuột quần ngồi đọ chim, cãi nhau hơn thua chí
chóe. Nửa đêm ôm nhau ngủ say sưa cho tới sáng.
Lũ trẻ yêu anh Bảy
thần phục anh Bảy vì anh là thủ lĩnh can trường, cũng vì anh là con ông chủ
tịch thị trấn nhưng chưa bao giờ anh lấy đó làm le; vì anh đi học luôn đứng đầu
lớp và anh em trong nhà ai đi học cũng đứng đầu lớp, chẳng khi nào anh đem việc
học ra khoe mẻ. Anh đã đọc trọn bộ Tam quốc diễn nghĩa như trí
thức huyện Tuy, như trí thức huyện Tuy anh cũng biết Truyện kiều là
của Nguyễn Du, anh còn biết bộ Tấn trò đời là của Balzac mà
nhiều trí thức huyện Tuy không biết. Dầu vậy chưa bao giờ anh nói đến chữ
nghĩa. Mặc cho ai đóng vai “Từ điển sống” ba hoa kể hết chuyện nọ sang chuyện
kia, anh chỉ nằm yên gác tay nghe, thỉnh thoảng tủm tỉm cười, chỉ tủm tỉm cười
thôi không bao giờ tranh cãi.
Ba cũng bất ngờ những
gì anh Bảy tự học, hồi chín tuổi ông không thể được như con ông. Một lần tìm
được cuốn sổ tay của anh Bảy ghi chép những lời dạy của Hồ Chủ Tịch, ba thất
kinh. Ông cũng chưa bao giờ có cuốn sổ tay ghi chép lời dạy Hồ Chủ Tịch được
như anh Bảy. Ba còn thần phục anh Bảy hà cớ gì
lũ trẻ không thần phục.
Trích sổ tay anh Bảy
Ở trong đội Nhi đồng Tháng Tám, lũ trẻ được các anh chị phụ
trách cho hay bọn tư sản phản động và gián điệp Quốc Dân Đảng là kẻ thù của
nhân dân không thể không tiêu diệt. Kẻ thù của nhân dân không thể đội trời
chung, bài học đầu tiên khi vào đội Nhi đồng Tháng Tám anh Bảy đã thấm nhuần.
Đứa nào đó rơi vào trường hợp của anh, như lũ trẻ kia anh cũng chạy theo chửi
rủa và ném đá. Thế mới là Nhi đồng Tháng Tám, dù hỉ chưa sạch mũi vẫn luôn luôn
coi bọn tư sản phản động và gián điệp Quốc Dân Đảng là chó ghẻ, con cái của
chúng cũng chó ghẻ. Nhất định thế rồi.
Chỉ qua một đêm anh Bảy trắng tay, anh mất sạch những gì anh
tưởng là bất biến, mất hết cả với bạn bè là điều anh không thể tưởng tượng nổi.
Mới hôm qua thôi lũ trẻ Kô Long hãy còn yêu anh thần phục anh, hôm nay hết thảy
đã quay lưng lại với anh, coi anh chẳng khác gì con chó ghẻ. Thế là hết, mất
hết. Sạch sành sanh. Anh Bảy đi trong nỗi cay đắng tột cùng. Lũ trẻ vẫn chạy
theo anh, ném những hòn sỏi nhỏ trúng đầu anh và la hét, ê ê con thằng phản
động!… Ê ê con thằng phản động!
Anh
Bảy vẫn ngẩng cao đầu nhìn thẳng, hiên ngang bước, nhưng đôi mắt không còn rực
lên một nỗi căm hờn nữa, đôi mắt ấy đang khóc.
11. Kiến
Ba bị dẫn đến đình làng nhốt vào kho đựng đồ tế lễ nhà tả vu. Từ
ngày có cuộc cách mạng long trời lở đất đây là nơi giam giữ tử tù, dân chúng
vẫn gọi là “Xà lim cải cách”. Chính ba chọn cái nhà kho này làm “xà lim cải
cách”, nó được đổ bê tông cốt thép, tường dày bốn tấc kín như bưng, voi không
thể húc đổ kiến không thể bò qua. Ba năm qua hai mươi sáu tử tù giam giữ ở đây
không một ai trốn thoát khỏi cái xà lim này. Nó cũng là niềm tự hào nho nhỏ của
ba, khắp tỉnh không nơi nào có cái xà lim như thế.
Ba bị đẩy vào xà lim. Cửa xà lim lập tức đóng sập, trong phút
chốc bóng tối phủ kín đen đặc. Ba không dám bước thêm một bước nào, ông không
thể thấy một chút gì, đưa bàn tay lên sát mắt cũng không thấy. Thứ bóng tối đen
đặc mà Balzac nói là có thể xắn được ra từng khúc lần đầu ba mới biết. Ông buộc
phải đứng yên, có cảm giác nếu động cựa sẽ va phải bóng tối. Và im lặng tuyệt
đối. Im lặng lành lạnh. Im lặng rờn rợn. Im lặng cũng có thể xắn ra từng khúc
lành lạnh và rờn rợn. Tựa hồ ba đang ở dưới đáy huyệt, người ta đã đem ông chôn
sống ở nơi đây.
Ba đứng ngây ra giữa bóng tối và im lặng, không biết phải làm gì
với chúng. Ông thử ngồi sụp xuống rồi lại thử đứng lên, cả đứng lên và ngồi
xuống không cho ông một cảm giác gì. Ông thử đi vài bước, đi vài bước nữa… đầu
óc vẫn đặc quánh đen ngòm. Ở cái nơi cuộc sống tuồng như không tồn tại này, đặc
quánh đen ngòm đang bao vây ba, chui vào óc não ông hay chính óc não ông là
nguồn đặc quánh đen ngòm từ đó chảy ra tràn ngập xà lim này, ông cũng không
biết nữa.
Không biết làm gì hơn ba rơi xuống nền xi măng lạnh toát, nằm
bất động, lịm dần đi. Ba ngủ rất nhanh, giấc ngủ cũng là một khối đặc quánh đen
ngòm có thể xắn ra được. Hơn nửa giờ sau ba bừng tỉnh, ông không hề biết mình
đã ngủ ba mươi phút. Chưa bao giờ ba có giấc ngủ thế này. Đó không phải là giấc
ngủ, cơn vắng ý thức như một cuộc chết chìm nhét ba vào cái chết trong vòng ba
mươi phút. Nếu giấc ngủ không chiêm bao vô tri vô giác gọi là chết thì lần đầu
tiên ba biết chết là thế nào.
Ba bừng tỉnh, có cái gì ram rám ngưa ngứa trên mặt ông. Ba phát
hiện má ông đang áp vào vết rạn nhỏ ai đó rạch trên nền, tạo thành đường hào
cho kiến bò. Rất nhiều kiến từ đường hào đó bò lên má ông, chui vào khắp nơi
trên người ông. Ba lần theo vết rạch truy diệt lũ kiến. Dần dà ông phát hiện ra
đó không phải là vết rạch thẳng, nó lòng vòng như nét chữ ai đó rạch trên nền
xà lim. Kiên trì dò lần tới lui, ba đọc được ba chữ “Tôi bị oan!” Ba vụt dậy,
ông nhớ ngay ra thân phận của mình.
Sáng sớm mai ba sẽ bị điệu ra trường bắn, chỉ sáng sớm mai thôi
không thể kéo dài hơn. Bao nhiêu lần chỉ đạo xử bắn phạm nhân ông biết quá rõ,
không ai muốn giam giữ lâu lắc, người ta chỉ muốn bắn quách đi cho xong. Ba
biết chắc bảy giờ ba mươi sáng ông được ăn một bát cháo gà và hai quả chuối,
tám giờ ông bị điệu ra sân đình, quì mọp giữa một ngàn quần chúng đang rạo rực
hô muôn năm và đả đảo. Đồng chí Đội trưởng sẽ luận tội ba với ba giai đoạn điếu
cày, xong một giai đoạn chị Hiên sẽ hướng dẫn một ngàn quần chúng rạo rực hô
muôn năm và đả đảo. Chín giờ ba sẽ bị bịt mắt đứng dựa cột, một loạt đạn vang
lên, rạo rực vang lên tiếng hô muôn năm và đả đảo, đời ông sẽ kết thúc đúng
chín giờ mười lăm phút. Chắc chắn.
Ba không tin ông sẽ chết một cách dễ dàng như vậy được. Thà chết
vì rắn cắn chó đớp có thể hiểu, một cái chết lãng nhách thế này quả thật nực
cười, nhất là với người có trí khôn trong vòng bán kính 5km không ai bì được.
Nếu ông bác Vĩ và ông bác Phú Huệ còn ở Kô Long nhất định họ sẽ chửi ba là ngu.
Ông bác Phú Huệ chửi ngu như chó, ông bác Vĩ không thể chửi ngu như người, đành
chửi ngu như chó. Ông bác Phú Huệ chửi xong chắp tay sau đít túc tắc đi về cái
cổng sắt cao ba mét chui vào nguyên lý “không liên quan” của ổng. Ông bác Vĩ
chửi xong cũng chắp tay sau đít túc tắc đi nhưng không đi về nhà, người có chỉ
số IQ và núi tiền cao nhất mọi thời đại ở Kô Long sẽ đi tới nơi cần đến. Chẳng
cần biết ông bác Vĩ nói gì làm gì, chỉ biết một giờ sau, hoặc hai giờ sau hoặc
cùng lắm một ngày sau ba rời khỏi cái sà lim khủng khiếp này, trở về với vợ
con. Cả hai ông bác giờ này không ở Kô Long, ông bác Vĩ đang ở Sài gòn, ông bác
Phú Huệ nghe đồn đang ở Thái Lan, có thể vĩnh viễn không bao giờ họ về Kô Long
nữa.
Ba cố quên hai ông bác, giờ phút hiểm nghèo ngu nhất là ngồi
chép miệng giá như. Ông ngồi thu lu góc phòng cố tính xem liệu ai có thể cứu
mình. Từ nay đến sáng mai còn mười lăm giờ, tức chỉ còn chín trăm phút nữa
thôi, thời gian quá ít để người bạn chí thiết của ông ở Hà Nội biết tin. Chỉ
cần một cú máy của người đó gọi về huyện nói rằng Phạm Vũ không phải là gián
điệp Quốc Dân Đảng là ba sẽ được thả ra tức thì. Không, chẳng cần đến một cam
kết, chỉ cần người đó nhấc máy hỏi một cách giận dữ: Tại sao lại bắt Phạm Vũ?
Chắc chắn một giờ sau ba cũng sẽ được thả ra.
Vẫn biết hiện thời người đó không chịu mất thời giờ cho bạn bè,
thứ bạn bè tép riu như ba lại càng không, ba vẫn tin một cú điện thoại không
quá mất thời giờ, cũng không nặng nhọc khó khăn gì, nhất là việc cứu người.
Đánh thức chữ nhân của đám quan lại thật khó như đơm đó ngọn tre nhưng không
phải không có những ngoại lệ. Ba tin người đó vẫn còn nhớ những khoản trợ cấp
thường xuyên của ông bác Vĩ và món tiền đút lót khổng lồ cho cả bảy sĩ quan
phòng nhì tại Quy Nhơn nhằm giúp cho người đó thoát tù tội, tránh được cái án
chung thân. Ông bác Vĩ không biết chuyện này, hoặc vờ như không biết chuyện
này, khi ba được tin tưởng giao cho tay hòm chìa khóa đã lén lấy tiền giúp
người đó. Người đó ra tù, ôm chặt lấy ba nghẹn ngào. Ơn Vũ như núi Thái Sơn,
biết bao giờ trả được đây? Và rồi người đó nhảy tàu đi tít mù cho đến bây giờ.
Ba không ngu muội đến mức nghĩ rằng người đó sẵn sàng chết vì
ông, nhưng ba phút cho một cú máy thì ba tin. Vấn đề là ai sẽ báo cho người đó?
Mạ không biết người đó là ai, nếu biết người đó là ai bà cũng không biết gọi về
đâu, nếu biết gọi về đâu cũng không ai cho bà gọi. Thời này điện thoại là một
cái gì rất hệ trọng, bách tính không được mó vào. Ba biết giờ này cả nhà tôi
đang bị giam lỏng trong chuồng bò bỏ hoang gần cầu Phố, chẳng biết làm gì ngoài
việc ôm nhau khóc. Đi ra khỏi cửa chuồng bò còn không được. Nói gì lên huyện
gọi nhờ điện thoại.
Ba chợt nhớ đến anh Ba. Đúng rồi. Thằng con trai lớn của ông có
thể chạy lên tỉnh chạy lên trung ương kêu cứu. Mạ và hai chị gái gặp những việc
thế này chỉ biết ngồi khóc, nhưng thằng con trai lớn của ông thì làm được. Mười
lăm tiếng dù không kịp chạy lên trung ương vẫn thừa sức chạy lên tỉnh, ở đấy có
rất nhiều bạn chiến đấu của ba ở chiến khu Đá Mài. Những bạn nhậu lưu niên với
ông, những người được ông dạy chữ vẫn khiêm tốn gọi ông bằng thầy, những người
đang nợ tiền ông bác Vĩ đến giờ chưa giả, sổ nợ hãy còn lưu nơi ông. Không phải
không có cả những người được ông cứu sống trong các trận càn đột xuất Pháp đổ
bộ lên Đá Mài…. Chỉ cần một trong số đó mủi lòng thương ba, họ sẽ biết làm gì
để cứu ông.
Niềm hy vọng rực cháy, ba đứng bật lên. Có thể giờ này thằng con
trai lớn nhất nhà đang chạy đi cứu ông. Dù nghĩ về đời không quá một bước chân
nó cũng thừa sức biết phải chạy về đâu, tìm đến những ai. Ba đi đi lại lại, đi
đi lại lại, giá có thể liên lạc với thằng Ba trong một phút, chỉ cần một phút
không hơn, ông có thể nói cho con trai trưởng của ông biết làm thế nào để cứu
ông trong trường hợp tất cả bạn chiến đấu của ông đều lánh mặt.
Anh Ba phải chạy vào tỉnh gặp bác Đông trai, hàng xóm chí thân
của nhà tôi. Hiện thời bác Đông trai là phó ty công an, bác có thể yêu cầu giữ
Phạm Vũ lại để khai thác. Gián điệp Quốc Dân Đảng rất nguy hiểm, cần phải khai
thác để nắm được các đầu mối tổ chức Quốc Dân Đảng trên địa bàn. Bác Đông có
quyền điều tên gián điệp Quốc Dân Đảng vào tỉnh để đấu tranh khai thác. Nếu
được vậy thì trời cho ba sống. Ba thừa sức nói cho bác Đông hiểu ba hoàn toàn
vô tội, bác Đông cũng thừa sức nói cho cấp trên hiểu ba hoàn toàn vô tội. Đến
đây vụ án có thể bị lật ngược, Đội trưởng và chị Hiên nếu không bị dựa cột thay
ba cũng bị loại ngay lập tức ra khỏi cuộc cách mạng long trời lở đất này.
Nghĩ đến đây ba sướng điên, ông nhảy liền hai ba cái hú hét hai
ba tiếng. Chợt có con kiến lửa nhéo ở dái tai đau như bị ong đốt. Ba chụp lấy
dái tai cố bóp chết con kiến. Không thấy con kiến đâu. Có tiếng ai đó vang lên
trong tai ông, tiếng kêu mảnh và sắc. Không phải tiếng người, đó là tiếng của
con kiến. Hồn ma của ai đó hóa thành con kiến chui tọt vào tai ba. Nó nhéo một
cái và kêu. Nếu anh Ba không gặp được bác Đông thì sao? Lại nhéo một cái và
kêu. Nếu anh Ba không gặp được bác Đông thì sao? Ba đứng ngẩn, ông sợ câu hỏi
ấy.
Cả tháng nay bác Đông trai không về nhà. Bác Đông gái cũng không
biết bác trai đi đâu. Thời điểm này hết thảy đều nháo nhào chạy về cơ sở, ít ai
dám về nhà hoặc ngồi lì ở văn phòng. Về cơ sở vừa kiếm được cơm rượu vừa khỏi
bị chỉ trích quan liêu, thiếu ý chí tiến công cách mạng. Ấy là chưa kể cứ loanh
quanh văn phòng, lên xe xuống ngựa trước mắt thiên hạ, ngứa mắt người ta khéo
không bị chụp cổ. Cuộc cách mạng long trời lở đất đã ba năm, khắp nơi ra sức
trừ gian diệt ác nhưng hãy còn thiếu chỉ tiêu. Trung ương không giao chỉ tiêu,
tự các cơ sở đua nhau đề ra chỉ tiêu để thể hiện lòng trung thành và tài năng
của họ. Án tử mới quan trọng, mấy thứ án khác người ta không mấy quan tâm.
Từ tỉnh tới thôn xã ra sức thi đua lập nhiều án tử. Con gà tức
nhau tiếng gáy, không có án tử như nơi nọ nơi kia thật tức chết được. Giết
người hóa ra không dễ. Không phải như thực dân phong kiến thối nát, Cách mạng
muốn giết ai cũng phải tìm cho được tội đáng chết. Vấn đề là bắt kẻ nào để moi
ra được tội đáng chết. Địa chủ đã tóm gọn từ lâu, trung nông tiểu tư sản chưa
có lệnh giết, muốn đủ chỉ tiêu chỉ còn cách qui hết cho việt gian phản động.
Bọn này tội trạng vô hình không đo đếm được, rất dễ qui tội. Đội trưởng tóm gọn
Phạm Vũ không ai thắc mắc vì huyện nhà đang quá thiếu chỉ tiêu, cũng vì Phạm Vũ
thuộc nhóm “Tội trạng vô hình”, đúng thế.
Con kiến quay lại nhéo dái tai ba một lần nữa. Lần này ba không
dám tìm diệt con kiến, để xem nó nói thế nào. Con kiến đã chui tọt vào tai, ba
nghe tiếng chân nó đi lại lạo rạo trên màng nhĩ. Con kiến đi lại rất lâu, sốt
ruột. Vào khi ba không quan tâm tới con kiến nữa, nó bỗng nhéo vào tai ông từng
tiếng một. Đừng-ảo tưởng-không-ai-cứu-được-anh-đâu! Tim ba như bị hắt ra khỏi
lồng ngực, ông ôm ngực ngồi rũ. Con kiến không nói gì thêm nữa. Ba ngẩng lên
miệng cười như mếu. Nghe ai lại nghe mồm con kiến, ngu! Ông nhăn nhó lầm bầm.
Ba căm ghét con kiến. Bỗng dưng ba căm ghét kẻ nói trái tai đến
thế. Ông kiên trì tìm diệt con kiến, quyết không cho nó làm nản chí ông. Ba sờ
từ tai trái sờ sang tai phải. Con kiến đâu rồi? Nó biến đâu mất tăm như là ma,
tức thế. Mà thôi, không quan tâm đến nó nữa là xong, việc gì phải tìm diệt nó.
Dù thế nào yes or no không phải là xác suất tuyệt vọng. Nhược
bằng thằng con của ông không tìm được bác Đông trai là số trời đã định, coi như
xong một kiếp người, đếch gì.
Ba đã tính nhầm, ông không biết anh Ba bị tống giam chỉ một giờ
sau khi ông bị bắt. Dầu được thả rong anh Ba cũng chẳng biết chạy đi đâu để cứu
ông. Chạy đi đâu? Bốn phương tám hướng đều đúng, mình ba là sai. Bốn phương tám
hướng đều Cách mạng, mình ba là phản động. Anh Ba chỉ biết ôm mặt khóc chẳng
biết làm gì hơn. Giờ này anh Ba đang đứng khóc trong nhà kho phía sau Ủy ban
hành chánh huyện. Suốt tám tiếng đồng hồ đứng khóc triền miên, chưa khi nào anh
tự hỏi: liệu có cách nào cứu được ba mình không? Chân lý bất biến của Trần Ngô
Đống Tiên Sinh đã chặn đứng mọi nẻo tư duy dẫn về câu hỏi ấy.
Trong nhà còn có một đàn ông lớn tuổi hơn anh Ba, có thể thay
anh Ba chạy lên tỉnh lên trung ương để cứu ba, đó là anh Rể, chồng chị Cả. Mười
tám tuổi anh Rể cưới chị Cả. Cũng mười tám tuổi như anh Ba bây giờ nhưng anh Rể
già dặn hơn, tinh ranh hơn. Mười tám tuổi anh Ba chưa hề biết yêu là gì, vợ con
là thế nào, đến cái bướm cũng chẳng biết tròn méo ngang dọc ra sao, trong khi anh
Rể đã có cả mấy xâu bướm vắt vai. “Làm trai đi đâu về đâu/ cũng cố mang được
một xâu bướm về.”…
Anh Rể dụ dỗ chị Cả ra khỏi nhà, đè chị trên bờ đê từ đầu hôm
đến rạng sáng. Chưa đầy mười sáu tuổi chị Cả đã có chửa , anh Rể mặc nhiên là
chàng rể của nhà tôi không tốn một cắc cưới xin. Anh Rể thuộc nhóm máu tháu
cáy, làm gì cũng khác với anh Ba. Anh Ba theo Cách mạng nhiệt tình cả muôn năm
lẫn đả đảo, anh Rể một mực đeo lấy muôn năm. Làm thế chắc chắn hơn. Muôn năm
nếu không được gì cũng chẳng mất gì, đả đảo tất chuốc thêm thù oán. Trời đất
thừa trừ sự cơ mầu nhiệm, kẻ bị đả đảo hôm nay mai mốt được muôn năm thì sao,
thì mình chạy đi lối nào? Vậy thì muôn năm tất, đứa đéo nào cũng muôn năm,
khỏe!
Ba không coi anh Rể là đứa con trong gia đình, chưa khi nào ông
nhìn sửa mặt anh. Từ khi bị bắt đến giờ không giây phút nào ba nhớ đến anh. Vốn
cẩn thận chu đáo từ khi bị bắt ông điểm danh từng người trong gia đình, nhớ
thùng gạo nhà tôi còn mấy lon, túi áo mạ tôi còn mấy đồng, mái nhà bếp có bao
nhiêu chỗ dột ba tôi cũng nhớ. Ba nhớ cả hố xí sau nhà chưa kịp rắc tro, ông lo
gà qué bới tung. Riêng anh Rể thì không. Với ba, anh Rể chẳng liên quan gì đến
nhà tôi cả. Vậy mà khi có con kiến nhéo vào tai ông từng tiếng một, đừng-ảo
tưởng-không-ai-cứu-được-anh-đâu, ông đã nghĩ đến phương án phải dùng đến thằng
con rể trời đánh này. Cái chết đã không cho phép ông từ chối bất kỳ ai muốn
giúp đỡ mình, huống hồ là thằng con rể. Huống hồ cha đẻ nó là một trong bảy
thành viên quyền thế nhất của Ban cải cách tỉnh nhà.
Mặc kệ kiến nhéo dái tai ba bốn nhéo liền cùng với ba bốn tiếng
hét ngu!… Ngu!… xói thẳng vào tai, ba vẫn ngồi dựa tường cầu Trời khấn Phật giờ
này thằng con rể đang chạy vào cầu cứu cha đẻ của nó. Ba đâu biết sáng nay ông
bị điệu ra khỏi nhà, đàn con sau lưng ông không có anh Rể. Chị Cả năn nỉ mãi
anh Rể buộc phải sang dự vào đám rước tiễn ông bố vợ về “Xà lim cải cách” ở
đình làng. Vừa mới chui vào đám rước anh Rể đã giật mình dựng tóc gáy. Có ai đó
gọi tên anh. Thằng ni là con rể ông Phạm Vũ! Ai đó sau lưng anh lên tiếng. Anh
Rể lẹ làng dọt khỏi đám rước, lặn một hơi đến giờ phút này vẫn không thấy sủi
tăm. Nếu biết chuyện này ba có dập tắt niềm hy vọng về anh Rể hay không? Chắc
không. Khi cái chết cận kề không ai ngu gạt bỏ bất kì niềm hy vọng nào, kể cả
niềm hy vọng chó đẻ.
Đã mười một giờ trưa. Một luồng sáng đập thẳng vào mắt ba. Ông
bị lóa trong mười giây, sau đó dần nhận ra ai đó đã mở cái cửa sổ nhỏ bằng cuốn
vở học trò nằm ở góc cao trên cùng. Một cái rá nhỏ đựng thức ăn được ròng dây
thả xuống, người ta làm vậy để tránh mọi bất trắc khi mở cửa đưa cơm cho tử tù.
Ai đó ơi… ai đó! Ba chồm dậy vội vã lên tiếng. Ngoài cửa sổ
không có tiếng trả lời. Mặc, ba cứ hét lên. Làm ơn làm phúc nói với thằng Cả
nhà tui chạy vô tỉnh gặp bác Đông trai! Ai đó ơi làm ơn làm phúc!…Làm ơn làm
phúc!Tịnh không một tiếng đáp. Nửa giờ sau cái rá được kéo lên, không cần biết
ba đã ăn hay chưa. Ai đó ơi làm ơn làm phúc!… Làm ơn làm Phúc!… Làm ơn làm
phúc! Làm ơn làm Phúc!… Ba lại chồm dậy hét thật to, kéo dài tưởng không dứt.
Bỗng có tiếng đáp gọn lỏn. Thằng Cả bị giam lỏng rồi!
Ba chết giấc chừng mười giây và bừng tỉnh, ông cuống cuồng hét
thật to. Ai đó ơi… làm ơn làm phúc nói với thằng con rể!… Làm ơn làm phúc nói
với thằng con rể!… Làm ơn làm Phúc!… Làm ơn làm phúc! Làm ơn làm Phúc!… Làm ơn
làm phúc! Làm ơn làm Phúc!… Làm ơn làm phúc!… Hét đến khan cổ thì thôi, chẳng
ai trả lời.
Ba đứng khóc lặng lẽ.
*
Cửa sổ nóc xà lim vẫn mở, có lẽ đó là ân huệ cuối cùng tiểu đội
du kích canh gác xà lim dành cho Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ. Ánh sáng ngập tràn
căn phòng mười sáu mét vuông. Ba đứng nhìn bốn xung quanh. Căn phòng trống rỗng
lạnh lẽo ngổn ngang những nét chữ vạch trên tường, mỗi ba chữ “Tôi bị oan”
không có chữ nào khác. Có hai mươi sáu tử tù bị nhốt ở đây, ba là người thứ hai
bảy, lại có hàng trăm dòng chữ “Tôi bị oan” la liệt trên bốn bức tường và nền
nhà. Không biết những ai đã viết, lấy cái gì để viết. Kiến đen bò kín đặc trên
tất cả các nét vạch chữ, không sót một chữ nào, cảm giác chính lũ kiến đen đã
sắp hàng tạo nên hàng trăm chữ “Tôi bị oan” ấy.
Quay lại nhìn bức tường sau lưng, ba thấy dòng chữ “Tôi bị oan”
rất to kéo dài từ đầu bức tường cho đến cuối bức tường, nét chữ đậm chừng bốn,
năm centimet. Kiến đen bu đầy trên những nét chữ đó, nổi cộm lên trên tường.
Không ai có thể vạch được nét chữ to đậm như vậy, có ai đó đã lấy máu viết. Ba
đoán đúng, khi tiến tới gẩy một khúc kiến, ông thấy vệt máu đã khô cứng. Ông
trân trố nhìn hàng vạn con kiến đen bu đầy trên những vết máu khô cứng ấy, nhớ
đến một câu của G.Flaubert, hình như trong cuốn Nhật kí người điên thì
phải, “Em yêu, rồi một ngày em sẽ biết máu người tanh đến thế nào.” Ba bỗng
buồn rũ ra.
Ba ngồi dựa tường lắng nghe những âm thanh ngoài đời lọt qua cửa
sổ. Hình như trời đang mưa. Tiếng ếch nhái nhao nhao cùng tiếng loa phóng thanh
ẩm ướt, thứ âm thanh nhàm chán hàng ngày giờ đây thật quá đỗi thiêng liêng. Lẫn
giữa tiếng ếch nhái và tiếng loa phóng thanh là tiếng gì nghe như tiếng người,
nhiều âm rè, thỉnh thoảng nhói lên chói tai. Mãi sau ba mới nhận ra đó là tiếng
hát say bét nhè của dị nhân Kiểm Hát. Sáu giờ rồi, giờ say của Gã say thời đại
mới. Không, làm gì sáu giờ, người ta vừa đưa cơm trưa xong cơ mà.
Ngoài kia Kiểm Hát vẫn nói và hát triền miên trong cơn say.
Thoạt đầu nghe như tiếng rên, kế đến như tiếng thét, tiếng chửi, tiếng bù lu bù
loa về một điều gì đó. Tại sao dị nhân Kiểm Hát không say ở nhà lại say ở đây?
Tại sao không say vào sáu giờ mà say giờ này? Tại sao cửa sổ không chịu đóng và
dã đứng giữa trời mưa hát vọng vào? Khấp khởi trong ba những câu hỏi hy vọng, bất
chấp lũ kiến vẫn thi nhau nhéo dái tai ông. Có thể người bạn chiến đấu của ông
năm xưa vẫn còn coi ông là người bạn chiến đấu. Có thể lắm.
Một hòn sỏi bắn qua cửa sổ, hòn sỏi bọc giấy! Ba chộp lấy, chữ
dị nhân Kiểm Hát rành rành: “Thằng Tuy đã đi Thanh Hóa từ 5 giờ sáng, thằng bạn
mi đang ở đó.” A đúng rồi! Ba muốn bay ra khỏi cửa sổ ôm chầm lấy Kiểm Hát. Giờ
đây ba mới thực sự hiểu được giá trị lớn lao của tình bạn. Người bạn đã bị ba
bỏ rơi hơn chục năm nay kể từ khi ông làm chủ tịch Thị trấn, trong thâm tâm ông
vẫn coi gã là kẻ đầu bò cần tìm biện pháp xử lý, giờ đây đang tìm cách cứu ông.
Đúng là không ai có thể học hết chữ ngờ. Đây là chữ ngờ tuyệt hảo, chữ ngờ viết
hoa phóng to một ngàn lần vẫn chưa thỏa.
Ba giờ sáng ba bị bắt. Dị nhân Kiểm Hát vội vàng chống nạng đi
lên huyện đánh thức thằng em phó chủ tịch huyện nhằm moi lấy thông tin Nhân vật
có số má của Chính phủ, người bạn chí thiết của ba hiện đang ở đâu. Khi biết
chắc người đó đang thăm và làm việc tại Thanh Hóa, năm giờ sáng dã lôi cổ thằng
con cả dậy, nói như vầy như vầy và giục nó đi ngay, càng nhanh càng tốt. Anh
Tuy lái xe tải cho Công ty lương thực tỉnh, chỉ có anh mới đi về nhanh được,
mới nói được rành rẽ vì sao ba bị bắt. Thế mà ba không nghĩ ra, từ khi bị bắt
đến giờ chưa khi nào ông nghĩ tới phương án này! Trời có mắt…
Bây giờ khoảng ba giờ chiều. Từng sống nhiều năm trong hang đá
ba nhìn vệt sáng qua cửa sổ áng chừng thời gian. Năm giờ sáng anh Tuy đi, mười
hai giờ trưa đến Thanh Hóa, nhiều nhất ba giờ chiều anh Tuy sẽ gặp được người
đó. Nhất định giờ này anh Tuy đã gặp người đó rồi. Bốn giờ chiều anh Tuy sẽ
quay về, chậm nhất chín giờ đêm sẽ có tin, sáu tiếng nữa ba sẽ có tin.
Sáu tiếng đồng hồ dài hơn thế kỉ. Ba đi đi lại lại vài chục
vòng, nằm lăn qua lật lại vài trăm lượt, đứng lên ngồi xuống mấy trăm lần… Sáu
tiếng đồng hồ đã trôi qua, chín giờ tối đã đến. Không thấy tăm hơi Kiểm Hát. Ba
im lìm dán mắt lên cửa sổ bây giờ là khoảng sáng trắng mờ, âm thầm đếm nhịp tim
tính thời gian. Bảy lăm nhịp tim là một phút, một giờ trôi qua, hai giờ trôi
qua, ba giờ trôi qua, bốn giờ trôi qua, năm giờ trôi qua, sáu giờ trôi qua… Ba
giờ sáng vẫn không thấy bóng Kiểm Hát đâu.
Ba nơm nớp lo kiến cắn dái tai. Kiến chưa cắn dái tai ông vẫn
còn hy vọng. Mười hai giờ trôi qua chưa thấy kiến cắn. Thỉnh thoảng có một hai
con bò lên dái tai, ba tôi hồi hộp đến nghẹt thở. Kiến không cắn! A ha kiến
không cắn! Lồng ngực ba muốn vỡ tung. Khoảng sáng mờ cửa sổ bị che khuất, một
cái đầu chuồi vào. Kiểm Hát! Ba chạy tới dưới chân cửa sổ.
Ba thì thào. Gặp không? Kiểm Hát thì thào. Không gặp được nhưng
người ta cho nối máy, thằng Tuy kể hết cho ông đó rồi. Ba hấp tấp hỏi. Sao
sao?… Ông đó nói sao? Ông đó nói: “Thế à!”. Kiểm Hát nói. Là sao?…Là sao? Thế à
là sao? Ba không hiểu cuống quít hỏi lại. Ông đó chỉ nói “Thế à?” rồi dập máy.
Dứt lời, cái đầu dị nhân Kiểm Hát biến mất sau cửa sổ..
Ba rơi xuống nền xi măng lạnh toát, nằm im như chết. Kiến đen
đang ngủ yên trong các vạch chữ ở bốn bức tường và nền nhà bỗng đâu thức dậy,
chúng lũ lượt bò tới ba. Trong phút chốc hàng vạn, hàng chục vạn con kiến đen
phủ kín lấy người ông.
--------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét