Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2022

NẮNG ẤM CUỐI CHIỀU XUÂN Phần cuối.

 


NẮNG ẤM CUỐI CHIỀU XUÂN

Phần cuối.

Dương Thu Hương

 

Buổi sớm hôm ấy tôi định vào trong xóm dân bàn chuyện mua ít bò giống cho nông trường. Lượng phân cá chở từ đất liền ra không thể nào đủ bón cho cây cối. Bởi thế, đàn bò vẫn là nguồn phân chính cho tất cả những ai muốn sống bằng nghề canh tác trên hòn đảo này.

Vừa chụp mũ bước khỏi cửa tôi gặp Phức. Anh ta trợn mắt lên một giây vì sửng sốt. Sau đó cúi chào:

- Ông giám đốc... Dạ... chào đồng chí giám đốc !

Tôi đáp:

- Vâng, chào anh !

Rồi định đi luôn. Nhưng không hiểu vì sao Phức đứng chặn, miệng nhoành ra một nụ cười:

- Đồng chí giám đốc đi đâu ạ?

Tôi trả lời:

- Vào trong xóm.

Phức kêu to:

- Trời đất, vào trong xóm mà đồng chí đi một mình? Sao đồng chí không báo cho tổ tự vệ hay? Lỡ sớm nay tôi không lên bàn công chuyện với thủ trưởng Quắc thì thiệt gay.

Mặt anh ta hiện lên dáng vẻ của một con chó nhà. Từ cách nói năng xăng xái, từ điệu bộ hăm hở chú tâm đều bộc lộ sự xu nịnh. Bất chợt, tôi nghĩ: Trong chiến tranh không có cái bộ mặt này. Chỉ có bộ mặt hèn nhát khiếp sợ của kẻ đào ngũ. Còn ngoài ra là gương mặt của những người lính. Đã là lính không ai chết hộ được cho ai và cũng không có danh hiệu nào, hưu bổng nào ngang giá được với mạng sống của con người... Tôi không nhìn vào mặt Phức. Tôi không thể nhìn vào mặt người nào đó, bất kể đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, khi trên mặt họ hiện lên vẻ xu nịnh. Nó khiến tôi có cảm giác chính mình đang làm điều gì lỗi lầm và bị sỉ nhục. Tôi bảo Phức :

- Có gì là gay? Tôi vào trong xóm là thường.

Anh ta không chịu buông tha, kiên quyết ngăn tôi lại:

- Trời đất, như vậy thiệt phiêu lưu, thiệt vô trách nhiệm với tánh mạng. Xin đồng chí chờ đây. Chỉ ba phút sau tôi sẽ cử anh em trong đội tự vệ đi hộ tống. Tụi phỉ ở đảo này toàn những thằng dựa cột. Tụi nó bắn xiếc lắm. Mà rất có thể chúng nó tràn xuống các xóm dân...

Tôi bỗng dưng bật cười vì cái ý tưởng ngộ nghĩnh :

- A, nếu vậy tôi còn cần cả người đi trước dẹp đường nữa.

Nhưng Phức đã quay đầu chạy về khu lán. Và tôi đứng ngây ra trong một tình thế dang dở. Tuy nhiên, tôi vẫn quyết định đi một mình. Hình như tư chất một người lính trong tôi vẫn trội hơn tư chất một cán bộ ngoại giao hay một nhà quản lý. Tôi bảo cô văn thư trong nhà vừa cầm bình trà ra sân đổ:

- Lát nữa cô nói với anh Phức rằng tôi đã có hẹn nên không thể đợi được.

Nói xong, tôi bước đi. Nhưng lúc đó Quắc từ phòng điều hành sản xuất tới. Anh hỏi tôi :

- Vô xóm dân à ?

Tôi gật đầu. Anh nói:

- Ta cùng đi. Tôi cũng có việc ra khu chăn nuôi chút xíu.

Từ nông trường bộ đến xóm dân khoảng năm cây số. Phải qua một đồng tranh, một dải tiêu đã bắt đầu kết trái, khu chăn nuôi rồi tới con suối nhỏ. Con suối này làm ranh giới giữa các trái đồi quây gia súc của nông trường với khu vực vườn thơm, đồi mì của dân. Mùa khô, chỉ một dòng nước mảnh như sợi chỉ réo rắt chảy qua bãi sỏi. Người lội vừa thấm ướt bàn chân. Nhưng một cơn mưa trút xuống, lập tức trên mặt đất hiện lên một con sông ngầu bọt. Nước chảy xiết, ngay cả những con bò vạm vỡ nhất trong vùng cũng không dám lội qua. Đám dân chăn dê, chăn bò thường phải ngủ đêm ngay bên dòng sông hung tợn, nơi buổi sớm họ còn lùa bầy súc vật qua một cách ngon lành. Những đêm ngủ ngoài trời như vậy phải đốt lửa suốt đêm canh thú dữ và kẻ gian. Trước đây, bò nông trường thường qua suối ăn ở những vùng xa. Những đêm mắc lũ ngủ lại, mấy cậu chăn bò bán tống bán tháo cho dân xóm lấy tiền tiêu xài. Một con bò chỉ được dăm chầu nhậu dưới thị trấn. Lúc về, họ báo cáo đàng hoàng bò bị hổ cõng. Vùng này hổ thường lui tới luôn nên không làm sao quản lý được. Giám đốc trước đã hạ lệnh cấm đưa bò đi ăn xa. Chỉ nửa tháng sau cả đàn bò nông trường biến thành những con vật kỳ dị trước đám dân đảo. Người ta gọi chúng là lũ nộm da của nông trường. Mỗi lần những con vật ốm đói xiêu vẹo bước qua đường, dân trong xóm lại xúm đen xúm đỏ nhìn ngắm. Người cười giễu, người lắc đầu thương hại. Nhưng giám đốc nông trường không muốn ra một cái lệnh thứ hai xóa đi lệnh trước. Và đàn bò bị khoanh giữa vùng đồi đầy gai kim chi với cỏ xước cứ chết dần chết mòn cho tới lúc chúng tôi trở về đây. Giữa đám chuồng trại thênh thang chỉ còn mười tám con vật gày trơ xương sọ, nằm ngồi dưới bóng những giàn dưa, mắt đờ dẫn, đuôi thõng thượt không buồn đuổi muỗi, đuổi ruồi.

Tôi bảo Quắc:

- Ít nhất cũng phải phục hồi đàn bò như cũ.

Quắc đáp:

- Một trăm hai mươi con? Như vậy ít nhất cũng mất ba năm. Mà những lô tiêu phải thiệt tốt. Thằng cha giám đốc trước nó phá dữ hả? Đời người cũng lạ, phá thì mau mà làm thì khốn khổ.

Chúng tôi trò chuyện về những công việc của nông trường. Gần hết đồng tranh, một con thỏ chạy vụt qua :

- Ối, con thỏ đẹp như trong tranh vẽ !

Quắc bỗng bật ra tiếng kêu rồi đứng ngẩn ra nhìn. Con vật xinh đẹp phóng lóc bóc cho tới khi nó biến trong các lượn cỏ tranh. Tôi không ngờ anh nói được một câu văn vẻ đến thế. Và lúc đó, gương mặt anh hiện lên vẻ thơ ngây sáng láng. Có lẽ trong anh, đứa bé bị giam cầm bỗng nhiên đẩy bật hai cánh cửa sắt và nhảy ra nhìn ngắm mặt trời.

Đã hết đồng tranh. Từ đây, những lô tiêu mùa đầu kết trái kéo thành vệt xanh om ven đường. Các cô gái nông trường đang nạo cỏ. Màu áo hoa, áo trắng thấp thoáng giữa những hàng tiêu thẳng tắp. Gương mặt họ khuất lấp dưới vành nón hoặc vành mũ rộng. Nhìn lên lô tiêu tôi thầm hỏi.

- Không biết Huệ lai có ở đây không?

Thấy vài cô trông dáng quen quen cùng ở đội sản xuất với Huệ. Bất chợt, một người đàn bà ló mặt khỏi đám lá nhìn chúng tôi:

- Chào ông giám đốc! Chào ông phó giám đốc!

Đó là người đàn bà xấu xí có cái tên diễm lệ: Kiều Nga. Hôm nay chị ta đã khỏi bệnh nên không còn vàng ệch ra như một kẻ mắc chứng viêm gan. Nhưng khuôn mặt vẫn nhợt nhạt. Những chiếc răng dài như răng ngựa lộ ra dưới vành môi héo úa khi chị cất tiếng chào và mỉm cười.

Tôi bảo Quắc:

- Dừng lại xem tiêu đã. Tôi thấy mấy ngọn gần đường vòng cao quá rồi.

Khi bông tiêu trổ quá cao phải bấm bớt ngọn và các nhánh phụ để dồn nhựa nuôi trái. Nhưng cách tính ngọn để ngọn bấm là cả một kỹ thuật tinh nhạy của những người làm vườn.

Quắc bảo:

- Cho bấm được rồi. Để tôi triệu tập các đội trưởng họp.

Tôi đáp:

- Cũng còn phải nhờ mấy ông già trong xóm ra xem giúp. Hôm nay tôi sẽ lo luôn cả chuyện ấy.

Nghe tiếng trò chuyện, các cô gái khắp lô tiêu kéo đến. Mặt cô nào cô nấy đỏ bừng, nhễ nhại mồ hôi. Đứng trong các rạch cây cao không cơn gió nào lọt tới. Tiện dịp, các cô kéo ra bìa cây hứng gió trời. Lúc đó Quắc đi sâu vào các rạch cây nên chỉ mình tôi ở lại ven đường. Các cô gái rộ lên :

- A, ông giám đốc. Ông đi đâu vậy? Có chi úy lạo cho chị em không đấy?

- A, chú Hưởng, mới sáng đã nóng dữ, mấy bình nước đem theo hết trơn trọi. Tụi cháu muốn lội suối quá đi thôi...

Tôi bảo:

- Phải nói với nhà bếp tiếp tế nước cho đủ. Uống nước suối là sốt rét hàng loạt đấy.

Lúc đó Huệ lai từ trong rạch tiêu bước ra. Bao giờ cô cũng xuất hiện đột ngột như vậy. Hoặc vì tôi ngờ nghệch, vụng dại nên không đoán được nơi ẩn nấp của cô. Hoặc vì cô cố tình trêu chọc và bắt tôi luôn luôn lúng túng. Bấy giờ, cô cũng làm tôi trở nên luống cuống trước đám đông:

- Tụi tôi sốt rét chớ ông đâu có sốt rét mà phải lo?

Huệ nói, miệng mím lại nhưng cặp mắt ánh lên tươi cười.

Đáng lẽ phải kiếm lời đối đáp thì tôi lại đứng yên bối rối cười trừ. Các cô gái thấy thế kêu ré lên:

- Chú Hưởng thua chị Huệ rồi… Trời ơi, bộ bà này có thần bảo mạng đi theo hay sao mà thắng ngon lành vậy ?

- Ông giám đốc ơi, con mụ này ác miệng lắm, đừng chấp nó nghen. Tốt nhất là bắt nó về vá áo cho ông. Kìa, đường may sút trơn trọi rồi…

Người đàn bà xấu xí tên Kiều Nga nói vậy. Hàm răng ám khói nhe ra cười. Những nếp nhăn hiện lên chi chít sau đuôi mắt và hai bên má. Vẻ tiều tụy khiến tôi mủi lòng. Đôi mắt sâu đờ dại lóe lên những tia lửa hiếm hoi của niềm trìu mến :

- Nè, ông giám đốc biết không ? Con Huệ giỏi nữ công lắm đó. Hồi còn học văn khoa, nó theo lớp L’automne. Bà bầu lớp này là thợ may có hạng ở Sài Gòn.

Mấy cô gái nhao nhao nói theo:

- Đúng rồi, đúng rồi. Chị Kiều Nga bao giờ cũng nói thiệt. Chú Hưởng à. Ngon lành vậy còn ngập ngừng chi nữa ?

Tôi thấy mình như tắc họng lại. Còn Huệ lai thì vùng lên kêu:

- Trời ơi, bà trăn tinh nói chi lạ lùng vậy?

Rồi cô chạy biến giữa hai hàng tiêu cao chót vót. Những gương mặt tươi cười quanh tôi bỗng trở nên gần gũi và thân thiết. Tôi đứng im lặng giữa vòng vây mỉm cười.

Nhưng niềm vui tắt đi mau lẹ và đột ngột. Quắc từ trong rạch tiêu bước ra:

- Đùa chi tầm bậy tầm bạ vậy?

Anh ném một câu hỏi trống không giữa đám người. Mặt anh sắt đanh không gợn nét rung. Và đôi mắt dữ dằn lạnh lẽo của anh táp xuống họ ngọn thác băng giá. Những người đàn bà co rúm lại. Hổ thẹn và sợ hãi, họ len lén lủi vào các rạch cây. Cái nhìn báng bổ của anh ném theo họ. Sau đó, quay sang tôi, Quắc dằn giọng:

- Anh thiệt lạ. Tôi dã nhắc anh nhiều rồi. Quý cò, cò mổ mắt, yêu chó, chó liếm mặt.

Anh nói dằn lừng tiếng. Trong không trung đột nhiên im lặng chỉ có tiếng nói đó văng lên. Mỗi từ ngừ như một viên đá trên thiên thạch rụng xuống. Tôi tái người. Chắc hẳn ai nấy đều nghe rõ mòn một câu nói của anh. Và họ sẽ thấy vị trí anh sắp đặt họ trong cuộc đời. Những người đàn bà ấy, kẻ đã từng là nữ sinh viên, người từng là cô giáo, những cô gái chất phác của đồng quê, những người đàn bà lăn lóc dọc phố xá, người này rơi vào cái hố rủi ro của số mệnh, người kia bị rượt đuổi vì ngọn lửa của chiến tranh... Tất cả... Tôi chưa thấu hiểu họ… Tôi chưa đọc được những ý nghĩ của họ. Nhưng một linh cảm ghê rợn đã nhập vào tôi từ phút giây ấy...

- Đi đi thôi! Nắng bể sọ rồi!

Quắc gọi giật giọng. Tôi đi theo anh. Lúc đó hình như tôi mụ mẫm. Hình như tôi biến thành một kẻ đần dại và ngớ ngẩn. Những sự kiện liên tục đến khiến tôi không kịp phản xạ. Nhưng cái linh tính ghê rợn kia vẫn bám theo. Càng ngày càng bám sát. Giống như một con bướm đen chập chờn bay lượn. Lúc sau lưng khi trước mặt, không lúc nào đôi cánh đen rời khỏi tôi. Ngày hôm đó tôi thỏa thuận việc mua bán với dân trong xóm, nhờ cậy những tay chủ trại sành sỏi ra xem giùm các ngọn tiêu và cả buổi chiều ngồi uống rượu với khô mực nướng, nói chuyện về những tù nhân xa xưa nhất, đám người quả cảm và hung bạo đã phóng lưỡi dao đầu tiên cắm đất trên vùng đảo hoang dã này. Trong thời gian đó, đôi cánh đen của con bướm tai ương kia không ngừng bay lui bay tới. Cho đến hoàng hôn, khi sao Hôm đã hiện lên như giọt thủy ngân ở góc trời, tiệc rượu còn nồng, những người nói chuyện còn say, nhưng tôi kiên quyết cáo từ. Nỗi lo âu mơ hồ đè trĩu tâm can. Rời xóm trại, lội qua suối, tôi đến khu chăn nuôi. Trong nhà thắp đèn. Hẳn Quắc đã về nông trường bộ. Nghĩ tới lúc gặp anh, tôi bỗng ngao ngán. Tại sao số phận lại giao cho tôi người đồng hành lạ lùng vậy ? Tôi tạt qua đường chính, rẽ lên đồi, nằm xuống vạt cỏ xước, ở đó, tôi thấy bầu trời dần dần thẫm lại. Các vì sao sáng hơn và gần hơn. Những con chim lẻ loi vỗ cánh bay về khe nước. Tiếng kêu của chúng như những tia sáng mảnh và lấp lánh kéo những vệt dài trong thinh không. Khi con chim cuối cùng đã bay qua, mọi vật trở lại yên tĩnh. Chỉ còn tiếng dế gáy, tiếng bọ rầy vo ve. Lúc ấy, con bướm đen từ đám cỏ leo bay tới. Nó vẫy đôi cánh chậm chạp, lách qua những ngọn cỏ rối, lơ lửng trên bụi kim chi hồi lâu tiến về phía tôi. Dường như không phải nó bay mà nó bò giữa không khí. Vì cảnh ấy xảy ra trong ánh sáng mờ ảo của đêm sao nên nó giống như một cơn mê. Nhưng khi con bướm đen bay hút vào bóng tối dưới chân đồi, tôi chợt nghe gió đưa lại tiếng nỉ non. Tiếng nỉ non hòa lẫn tiếng rền rĩ của côn trùng. Chỉ mười phút sau tôi đã nghe rõ ràng tiếng khóc của đứa bé từ đồi bên vẳng tới. Và lúc phủi những ngọn cỏ bám trên lưng tôi nhận ra tiếng khóc đó của bé Ly. Lưng tôi còn nóng hơi đất. Cảm giác ấm nóng ấy cùng tiếng khóc của đứa trẻ bỗng nhiên làm nước mắt tôi ứa ra. Tôi bước hối hả trong bóng tối. Những con muỗi lao vào mắt tôi lẫn với dòng nước mắt cay xè. Có lúc tôi chợt thấy mệt mỏi rồi sau đó lại quên đi rất nhanh. Chân tôi bước khập khễnh. Tiếng khóc của đứa bé mỗi lúc mỗi gần. Giữa những cơn nức nở nó gọi:

- Má, má ơi má, mở mắt ra kẻo con sợ quá chừng...

- Má ơi, dậy đi về, trời tối quá má ơi i i …

Con bé khóc đã lâu giọng khản đặc. Nó cứ lặp mãi điệp khúc đó một cách vô vọng, cặp mắt nhắm nghiền, đầu lắc lư. Tôi đi tới nơi, ngồi xuống một bên mà nó không hay biết:

- Ly ! - Tôi gọi.

Đứa bé mở choàng mắt. Nhận ra tôi, nó bỗng hoàn toàn tỉnh ngủ khóc òa lên như bất cứ đứa bé nào rơi vào cảnh oan ức, khốn đốn bỗng gặp người che chở:

- Nín đi. Nín đi nào.

Tôi vuốt ve tấm lưng nhỏ dỗ dành. Giờ đây nước mắt tôi đã khô. Mọi cảm giác lắng xuống. Tôi bảo đứa bé:

- Con hãy kể cho bác nghe !

Bé Ly gục đầu vào cổ tôi. Và nó bắt đầu nói bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng mạch lạc, xen lẫn những tiếng nấc. Ở vườn tiêu về mẹ nó nằm vật xuống giường, không ăn cơm, uống nước. Dì Kiều Nga cho bé Ly ăn chè rồi bồng nó ngủ trưa ngoài võng. Huệ lai nằm như vậy cho tới hơn ba giờ chiều. Lúc đó, mọi người đã đi làm hết. Lán vắng trơ vắng trọi. Người đàn bà lục tìm chai rượu uống liền mấy chén. Sau đó, Huệ lai lấy cuốn an-bom ra xem.

- Má con khóc hoài khóc hủy. Rồi má con lên đồi, vài bước lại té sấp. Đi tới tận đây. - Đứa bé nói, tay đặt lên ngực mẹ đang ngủ li bì trên đám cỏ. Cô ta cứ chệnh choạng như vậy mà đến tận khu chăn nuôi cũng thật lạ. Đoạn đường khúc khuỷu khi lên dốc, lúc vượt lối mòn. Có dễ tới mười cây số. Và đứa bé lẽo đẽo theo sau. Tôi vuốt ve từng đốt xương sống nổi lên trên tấm lưng gầy của nó.

- Con ngoan lắm Ly ạ. Giờ bác bế con về trước nhé ? - Tôi bảo đứa bé.

- Không. Bác đưa má con về trước. Má con đau. - Con bé buông tôi ra tới bên mẹ - Bác xem đây nè, má con chảy máu hoài. Con phải kiếm lá rịt mới lành đó.

Bé Ly cúi lom khom trên mặt Huệ lai với dáng điệu hệt như con chó con liếm láp chó mẹ. Cảnh bìu ríu ấy khiến tôi se lòng. Tôi nhận thấy mình lại mất đi trạng thái bình thản vừa có, trạng thái tôi luôn luôn phấn đấu để duy trì, trạng thái tinh thần cần thiết với người đàn ông đích thực. Tôi lại bắt đầu run rẩy. Tại sao mình lại dễ dàng bị lay động như vậy ? Bao nhiêu năm chiến tranh vẫn không xóa đi cậu học trò đa cảm hay sao ? Bực tức với chính mình tôi bỗng cất giọng gay gắt.

- Cho mẹ mày nằm đấy. Đàn bà gì mà hư hỏng rượu chè... Đáng kiếp !

Bé Ly quỳ xuống, hai tay chắp vào nhau. Gương mặt đầm đìa nước mắt ngước lên. Và dưới ánh sao tôi thấy những ngấn nước loang loáng:

- Bác Hưởng ơi, con chắp tay lạy bác. Xin bác đừng bỏ má con ở đây. Xin bác đừng ghét má con tội nghiệp.

Tôi đứng lên:

- Xin xỏ làm gì thứ đàn bà đánh con như két.

Đứa bé ôm lấy gối tôi vội vã. Chắc nó đoán tôi bỏ má con nó giữa vùng đồi mù mịt này:

- Con chắp tay lạy bác. Má con khổ lắm bác Hưởng à.

Không hiểu ai đã dạy con nhỏ những lời lẽ khôn ngoan ấy. Sự nhẫn nại của nó chọc thủng lớp vỏ tôi vừa dựng lên:

- Xin bác đừng ghét bỏ má con !

Bé Ly nói thêm. Tóc nó cọ vào gối tôi êm dịu. Tôi luồn tay nâng đầu người đàn bà lên. Gương mặt xinh đẹp của cô hiện lên dưới ánh sao như mặt đứa bé ngủ. Một vệt đen kéo từ trán xuống thái dương. Đó là vệt máu khô. Mồi thuốc lá đứa bé rịt cho mẹ rơi xuống. Vết thương của cô ta không rộng nhưng chắc hẳn sâu nên mất máu khá nhiều. Tôi xé khăn tay băng lại vết thương, và đụng phải một món tóc khô cứng bên tai:

- Huệ! Cô Huệ!

Tôi lay gọi người đàn bà nhưng cô ta không tỉnh dậy. Có lẽ Huệ lai đã uống quá nhiều rượu trong lúc đói. Hơi rượu xộc vào mũi tôi. Hẳn đứa bé đoán được sự khó chịu của tôi nên nó ôm đầu ghé tai mẹ gọi:

- Má, bác Hưởng kêu má nè… Dậy đi má ơi i i…

Thấy mẹ không tỉnh, con bé quay lại chắp tay vái lần thứ hai:

- Bác Hưởng, con chắp tay lạy bác đừng ghét bỏ má con. Tội nghiệp xin bác đừng ghét bỏ má con...

Dứt lời van vỉ, con bé lại khóc nức lên. Và những giọt nước mắt lòng ròng tuôn chảy. Giây lát, tôi thấy mình nhỏ nhoi, hèn kém. Đứa bé đã tha thứ mọi lỗi lầm cho mẹ, xóa bỏ những bất công ngược đãi đối với mình. Còn tôi, một người có quyền lực, ít nhất cũng đối với vài trăm con người nơi đây, tôi đã không dám bước qua một định kiến của chính mình. Tôi không dám độ lượng một lần với người đàn bà đó. Ấy thế mà tôi vẫn thầm thương trộm nhớ cô ta. Và trong mọi giấc mơ về hạnh phúc tôi đã tìm cô ta làm bến để neo giữ con thuyền mình. Một gã đa cảm và ích kỷ... Ngay phút đó, tôi hình dung tới gương mặt sắt đá của Quắc. Anh ta là một người đàn ông đích thực. Tuy trong tâm hồn thô bạo có cái gì đó thiếu hụt, què quặt nhưng Quắc vẫn là một người đàn ông.

Thấy tôi im lặng, đứa bé rụt rè đặt tay lên gối tôi, cất tiếng gọi :

- Bác !

Tôi bảo nó:

- Bây giờ bác đưa má con về. Còn con thì sao?

Đứa trẻ đáp:

- Con đi theo bác liền. Con đi được mà. Bác đừng lo.

Nói xong nó xăng xái lau nước mắt, rồi cúi xuống tìm một vật gì đó trên đám cỏ. Tôi hỏi:

- Cái gì thế ?

Bé Ly trả lời:

- Quyển an-bom, má con cầm theo.

Nó giơ trước mặt tôi một cuốn sổ dày cộm. Tôi xốc Huệ lai lên lưng, đứng dậy. Cô ta khá nặng, cơ thể săn chắc và đầy dặn. Mặc dù người đàn bà đang ngủ li bì nhưng da thịt ấm nóng của cô vẫn truyền sang tôi cảm giác ngây ngất từ lâu thiếu vắng. Mặt nóng bừng, tôi như nhìn rõ những sợi tóc mượt êm của Huệ lai cọ buồn buồn nơi cổ và bầu má mịn màng như phấn nổi những mạch máu hồng :

- Má con có nặng không bác ? - Đứa bé cất tiếng hỏi.

- Không. Má con vừa phải thôi. - Tôi đáp lời.

Con bé bám hờ vào ống quần tôi và nói bằng cái giọng khôn ngoan:

- Bác ráng lên chút xíu, bác nghen...

Tôi gật đầu:

- Ờ...

Rồi bước trong bóng đêm, tôi vừa chống lại cảm giác mệt mỏi với chỗ chân bị trẹo, vừa mơ tưởng đến một gian nhà nhỏ nơi ánh đèn rọi sáng lên tấm màn gió và những bông đỗ quyên rực rỡ, nơi Huệ lai nằm ngủ trên giường trong tấm áo hoa hở vai. Tấm áo đã một lần tôi thấy. Trong tấm áo sơ sài ấy, người đàn bà có một vẻ gần gũi, quyến rũ. Chỉ cần nhìn tấm áo đó cũng đủ thấy niềm vui thường nhật và ngọn lửa ấm gia đình. Tại sao tôi lại không thể có niềm vui đó? Bờ vai cô ta tròn trĩnh tươi mát làm sao? Và những lượn tóc hung rơi trên bờ vai ấy thật đẹp... Cô ta đã từng là một người đàn bà hạnh phúc. Giờ đây, cô ta cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi. Miễn là tôi xóa được những dấu vết cay đắng và nỗi thất vọng đã hủy hoại cô trong quá khứ…

Chúng tôi về tới khu lán lúc mọi người đã tụ tập đánh cờ, đàn hát. Người đàn bà xấu xí tên Kiều Nga đón tôi ở hiên. Hình như chị ta đã đoán trước mọi sự:

- Chào ông giám đốc. Cám ơn ông đã có lòng tốt đem cô ấy về đây.

Chị ta nói chậm rãi, mắt nhìn xói vào mặt tôi. Dứt lời, người đàn bà bế bổng Huệ lai vào giường. Tôi không ngờ với dáng vẻ của một con ngựa ốm chị ta lại khỏe đến thế. Bé Ly vẫn đứng sau lưng tôi. Tôi bảo :

- Chị chăm sóc cô ta. Để đứa bé lại đằng kia.

Người đàn bà cúi đầu :

- Xin cảm ơn ông!

Tôi gật đầu, dắt bé Ly đi. Nhưng cái nhìn nóng bỏng của người đàn bà ném theo như dính vào lưng tôi thứ nhựa nóng rẫy không thể nào gột rửa được. Đó là cái nhìn của một con nhân sư.

- Bác Hưởng ơi, phần cơm của bác có đủ cho con ăn không? Con đói bụng quá nè. - Bé Ly nói, tốc áo lên để phơi cái bụng lép kẹp. Tôi hỏi :

- Từ sáng tới giờ con mới ăn chè thôi à ?

Đứa bé gật đầu :

- Dạ, mới ăn một bát chè thôi bác à.

- Phần cơm bác đủ con ăn căng bụng. Đừng lo.

Tôi đáp, xiết chặt bàn tay bé bỏng của nó trong tay. Bé Ly đi sát vào tôi, dường như để tìm nơi tựa đỡ. Nó đâu có biết tôi cũng bơ vơ như nó. Tôi mơ tưởng tới ngọn lửa ấm buổi chiều. Tóc tôi đã bắt đầu bạc, tôi còn có bao nhiêu thời gian nữa ?

Những cơn gió từ dưới khe nước thổi lên đem theo hơi lạnh. Tiếng hò hét của đám người chơi cờ đánh bài từ các khu lán vọng ra. Xen vào đó là tiếng ghi-ta bập bùng và một giọng hát sai lạc :

Đi qua vùng cỏ non ngỡ mùa xuân đã tới...

Tôi chợt nhận ra giọng hát của Bép xoăn, một đồ đệ của võ sĩ Hai. Gã vốn là con một người đàn bà nghèo góa bụa làm thuê khắp các miệt Đông. To béo như con voi, da đen thui, tóc phơi nắng loăn xoăn đỏ quạch. Bép xoăn là hình ảnh khủng khiếp nhất đối với các cô gái nông trường cũng như trong các xóm dân. Chẳng cô nào dám thương yêu gã. Tính gã hung như một ác thần nhưng cũng nhiều lúc gã đần dại và khù khờ tới mức đáng kinh ngạc. Không biết một chữ quốc ngữ, gã giơ ngón tay cái điểm chỉ vào mọi thứ giấy tờ. Không có người yêu, gã nhìn những cô gái lướt qua mặt mình với nỗi khát khao kinh hãi. Vậy mà giờ đây gã đang hát bài hát về mùa xuân. Hẳn là dưới cái giọng khàn khàn sai lạc ấy tâm hồn trơ trọi của gã đang run rẩy. Giống như những ngọn lá ngủ trong lũng sâu khuất lấp tới lúc nào đó cũng sẽ bị gió lay...

- Bác ơi, bác Quắc có ở đó không? - Bé Ly níu tay tôi, cất tiếng hỏi. Tôi nói lại:

- Có thì sao? - Đứa bé ngần ngừ giây lát rồi trả lời - Con sợ. Con sợ lắm bác Hưởng à!

- Nó thì thầm như sợ ai đó sẽ nghe rõ lời mình. Thái độ con bé khiến tôi bừng lên tức giận.

- Làm sao phải sợ ? không có gì đáng sợ hết!

Tôi gắt. Bé Ly im bặt. Từ đó tới khi bước vào nhà nó không dám nói thêm lời nào nữa.

Trong nhà, ngọn đèn cầy khêu to quá bốc khói mù. Quắc bò trên giường cộng trừ gì đó trong cuốn sổ tay. Thấy tôi, anh ngẩng lên hỏi:

- Sao anh về muộn vậy ?

- Bận!

Tôi đáp cộc lốc rồi kéo bé Ly vào nhà, không cho nó đủ thời gian dừng ở cửa cúi chào Quắc. Con bé len lét bước theo tôi, dưới ánh mắt soi mói ghẻ lạnh của anh. Hình như đứa trẻ đã cảm thấy mình sẽ là cái cớ để bùng nổ một cuộc xô sát nên nó cố co rúm lại. Có lẽ nó muốn thu nhỏ bằng hạt đậu để lọt vào cái khe tối tăm nào đó cho yên thân. Nhưng nó không thể tàng hình, Quắc vẫn giương mắt nhìn nó và buông tiếng hỏi:

- Mẹ mày đâu mà tới đây, hả ?

Đứa bé nép vào ngực tôi. Tôi nhìn Quắc nói:

- Nó không liên quan gì tới cậu. Đừng hỏi han lôi thôi!

Quắc không hề phật ý vì câu nói trịch thượng và thái độ tức bực của tôi. Anh ta chậm rãi đáp:

- Tại sao anh thích mua dây buộc vào mình? Anh nên nhớ anh là giám đốc, người lãnh đạo cao nhất. Đám nông trường viên là đối tượng phải giáo dục cải tạo lao động. Trên phải ra trên mà dưới phải ra dưới, chớ có lộn sòng.

Tôi nói:

- Chính cậu mới cần biết thế nào là trên và thế nào là dưới. Những kẻ tới đây không chỉ là đối tượng cải lạo lao động. Cậu nên hiểu quá khứ của họ.

- Tôi hiểu làm gì? - Quắc hỏi lại, thản nhiên - Tôi còn bao nhiêu việc cần lo cho nông trường: vốn liếng, tàu thuyền, lương thực... Tất cả những thứ mà anh đã giao cho tôi đó… Ngoài ra tôi còn phải nghĩ tới vợ con, tôi đâu có dư thời giờ?

Nhìn nét mặt anh, tôi hiểu rằng sự tức giận cũng như ý định thuyết phục của tôi thật hão huyền. Tôi cúi xuống xoa đầu bé Ly:

- Ra bác rửa mặt cho rồi ăn cơm...

Con bé ngoan ngoãn bước theo tôi ra phía sau nhà. Ở đó, nó kiễng chân nhìn vào thùng nước và kêu :

- Bác xem kìa, ngôi sao đẹp ơi là đẹp!

Thấy tôi cầm chiếc gáo nhựa định vục xuống múc nước, con bé hốt hoảng giữ lại:

- Đừng, bác làm vỡ mất...

Rồi chừng như nhận ra sự vô lý trong hành động của mình, nó nhìn tôi bằng cặp mắt biết lỗi vào hạ giọng:

- Bác Hưởng nè, giá có cách chi múc được nước mà đừng làm vỡ mất ngôi sao?

Đột nhiên, tôi thấy trong câu nói vu vơ của đứa bé một nghịch lý thường xảy ra với con người. Chính tôi cũng đã bao lần có mong muốn phi lý đó: Ôi, giá như người ta vẫn múc được nước trong thùng mà không làm vỡ ngôi sao ?

Ở đảo, chiều yên tĩnh. Yên tĩnh không phải vì mọi âm thanh đều tắt, mà chính vì chúng tấu lên bản nhạc êm đềm, buồn tẻ một cách sâu xa đến nỗi những kẻ cô đơn nhìn thấu nỗi cô đơn của chính mình: Tiếng gió rì rào. Tiếng sóng ì ầm vọng tới. Tiếng chim chốc lát lại thánh thót rơi. Và tiếng dế giun rền rĩ trong các lùm cỏ rậm. Mặt trời còn chiếu sáng trên mặt đất nhưng đã hết nóng nhờ hơi mát của gió và cây cỏ bão hòa. Vì thế ánh sáng cũng dịu như ánh sáng những ngày cuối thu phương Bắc. Tôi ngồi với bé Ly trước sân, nhớ vùng đồng bằng quê hương. Đứa trẻ đã tắm rửa và ăn no, đang nghịch những chùm quả nổ. Chốc lát nó ngậm một quả rồi ném xuống sân cho bắn tung đám hạt ra xung quanh. Vọp đi tới cất tiếng hỏi:

- Thưa chú, chú đã biết chương trình ngày mai chưa ?

Chàng trai mặc áo thun ngắn, quần soóc, trông đẹp như một tay thể thao nhà nghề. Thấy Vọp, con bé Ly nhỏm lên, ôm cổ đánh đu. Tôi bảo cậu trai trẻ :

- Lên huyện à? Chú mới nghe văn thư nói qua loa như vậy.

- Đâu có chú ? - Vọp trợn mắt lên - Nói tầm xàm quá đi. Sáng mai chú lên dự phiên tòa xử bọn phỉ tại Bắc đảo. Đường xa hơn từ đây xuống thị trấn hai mươi bảy cây. Mà xóc muốn ói cơm luôn.

- Từ ngày tới đảo cháu đi đường ấy nhiều chưa? - Tôi hỏi.

- Đâu có chú ? - Chàng trai đáp - Mới đi tới công an huyện một lần mà con ngán quá trời. Nhưng công việc thì phải lo. Con chuẩn bị xăng nhớt, khám lại bộ máy bà già đây. Năm giờ sáng mai ta lên đường.

Nói xong, Vọp véo má bé Ly rồi xuống nhà để xe. Tôi quay lại bảo đứa bé:

- Con vô nhà với má Huệ. Bác phải đi xa nên không đem con đi theo được như mọi lần.

Con bé ngoan ngoãn đáp :

- Dạ ! - Rồi nó tụt xuống đất vào nhà lấy quyển an-bom :

- Thưa bác con về. Khi nào lên huyện, bác cho con đi nghen.

Lúc đó, tôi chợt nhớ tới quyển an-bom Ly đem theo từ tối qua nhưng sau trận tranh luận với Quắc tôi đã quên mất:

- Lại đây con. Chơi lát nữa rồi bác đưa về với má.

Tôi gọi bé Ly. Chúng tôi bắt đầu lật cuốn an-bom xem. Cuốn an-bom đó hẳn trước đây rất đẹp. Bìa bằng gỗ chạm đánh dấu. Bên trong là những tấm các-tông trắng dày bọc giấy bóng lụa. Lớp giấy bóng đã mờ và màu các-tông ngả sang ngà đục vì thời gian nhưng những tấm ảnh còn nguyên vẹn:

- Đây là hình ngoại. Đây là hình mấy dì con bà dì em ruột của ngoại con. Má đây nè. Đây cũng là má nữa... Má chụp hình trước nhà. Còn đây là hình má cưỡi con ngựa Hồng, con ngựa Kíu...

Bé Ly giảng giải. Ngón tay nhỏ xíu di động từ tấm ảnh này sang tấm ảnh kia thật nhanh nhẹn. Đứa bé đặc biệt tự hào vì những tấm hình của má nó. Huệ lai có khá nhiều ảnh. Và với những bức ảnh ấy, người ta đọc được quá khứ trong sạch và tươi sáng của cô. Những tấm ảnh thời thơ ấu khi cô hệt như thần ái tình mũm mĩm, bịt mắt cấm cung, đôi cánh dang sau vai trắng muốt. Ngôi nhà nhỏ với vòm cây rủ bóng, cô bé Huệ tóc xòa trên vàng trán bướng, cưỡi con ngựa. Một dòng chữ ngoằn ngoèo đề phía sau: “Con lên năm tuổi chụp với ngựa Hồng”. Một tấm ảnh khác chụp Huệ lai đã lớn hơn, đội mũ vải trắng ngồi trên lưng con ngựa ô cao to, bờm rủ dài như bờm sư tử, hàm răng dữ tợn nhe ra: “Huệ lên bảy chụp với con Kíu trước ngày đi miền Đông”. Rồi những tấm ảnh thời con gái khi Huệ lai ngồi xe thổ mộ, lúc đứng trước giảng đường hoặc sân nhà thờ. Trong bộ áo dài trắng cô giống như người con gái ở thế kỷ xa xôi nào đó trở về. Không thể ngờ được cô gái ấy lại có lúc lăn lóc trên đám cỏ như một gã dô kề và hơi thở nồng nặc mùi rượu mạnh. Giữa người đàn bà tôi cõng từ đồi cỏ xước về tối qua với những tấm ảnh này đã qua một đoạn đường bao nhiêu cây số? Tôi biết lấy gì để xóa đi con đường dằng dặc ấy? Giá như cô ta chưa phải là người say mê gã đại úy dù, chưa phải người vợ bị bội phản và nỗi thất vọng chưa dắt tay cô ta vào quán rượu ?... Tôi thấy đau rát khi nghĩ tới cuộc yêu đương giữa một thằng cha cao lớn, đẹp trai, để ria mép, đeo lon đại úy ngụy với Huệ lai khi cô ta mơn mởn như đóa hồng, cảm giác ghen tuông làm tôi khó chịu đến tức thở. Bất giác, tôi bóp chặt cuốn an-bom. Con bé Ly hoảng hốt ngước lên :

- Trời ơi, bác Hưởng!... Bác làm sao vậy?

Tôi giật mình buông tay vuốt lại những nếp nhăn trên làn giấy bóng. Bấy giờ, tôi chợt nhận ra sự vô lý của mình. Trước khi gặp Huệ lai tôi cũng đã từng yêu say đắm một người đàn bà khác, có với cô ấy hai đứa con gái ngoan ngoãn, và nếu bom đạn không cướp gia đình yên ấm của tôi đi ?...

- Bác ơi, con về với má...

Chừng như thấy thái độ bất thường của tôi, con bé Ly hoảng sợ đòi về. Tôi gật đầu. Lúc ấy đã tối. Sao Hôm đứng trơ trọi ở góc trời. Vành trăng mảnh vắt trên ngọn núi xa xanh biêng biếc. Con bé Ly kẹp cuốn an-bom vào nách, níu tay tôi chạy lon ton:

- Má thấy con về mừng lắm nghen. Từ hôm qua tới giờ mà nhớ quá chừng.

Chúng tôi đến khu lán. Bé Ly nhìn chăm chăm gian nhà mẹ con nó ở và kêu :

- Ủa, sao bữa nay vắng trơ vắng trọi ?

Quả thật, tối nay không thấy tiếng hò reo la hét của những đám chơi cờ, chơi bài vẽ râu hoặc bói số chẵn lẻ. Cũng không thấy tiếng ghi-la bập bùng như thường lệ. Các lán đều im ắng dù vẫn thắp đèn. Thấp thoáng chỉ vài người đàn bà đi lui đi tới và tiếng cười rúc rích của họ. Vừa bước lên thềm, con bé Ly buông tay tôi chạy vào nhà:

- Má!

Tôi nghe tiếng kêu mừng rỡ kéo dài và giọng nói êm ái của người đàn bà đáp lại:

- Cưng của má, cho má thơm chút xíu nào.

Hai mẹ con yên lặng vài giây. Chắc chắn Huệ lai đang ve vuốt bé Ly. Sau đó cô ta cất tiếng:

- Từ tối qua tới giờ, con có vui không? Ông giám đốc cho con ăn no chớ ?

- No. No lắm má à - Con bé đáp lời: - Bác Hưởng tắm cho con nè, cắt móng chân móng tay thiệt sạch nè. Lại còn xức dầu thơm vô tóc nữa. Má ngửi xem…

Tiếng người đàn bà rất khẽ:

- Thơm. Thơm như bông lan ấy. Con gái mẹ bảnh ghê.

Tôi gõ lên tấm liếp rồi đứng chờ bên ngoài khuôn cửa in vệt đèn cầy vàng ửng. Huệ lai lên tiếng:

- Ai đó, xin mời vô!

Cô ta ngồi dựa lưng vào tường bận chiếc áo hoa không tay mà tôi đã một lần nhìn thấy. Tối nay, tóc Huệ lai không thả từng lọn xuống vai mà cuốn lên cao. Cần cổ lẫn khuôn ngực phơi bày. Cằm tròn đầy tương xứng với làn môi và sống mũi thanh thanh. Tôi chợt nhớ lại giấc mơ tối qua trên đường từ đồi cỏ xước trở về. Một gian nhà xinh, ngọn đèn cầy dọi lên tấm màn gió và những bông đỗ quyên rực rỡ. Người đàn bà mặc chiếc áo hở vai. Chiếc áo mỏng gợi cho ta hơi ấm của gia đình. Tôi kéo ghế ngồi:

- Cô Huệ, sao hôm nay vắng vẻ thế?

Huệ lai nhìn đâu đó, đáp lời:

- Mọi người vào xóm đi săn. Chắc ông giám đốc không được báo cáo? - Giọng nói của cô ta dửng dưng và có phần mai mỉa.

Tôi cười xòa:

- Có phải lúc nào cũng nghe báo cáo đâu ? Tiện đưa bé Ly về tôi đến chơi. Cô Huệ đã khỏe hơn chưa?

- Thưa ông giám đốc tôi đã đỡ.

Người đàn bà trả lời ngọt ngào, mát mẻ. Đoạn cô lật gối lấy chiếc khăn tôi đã dùng băng vết thương tối qua. Chiếc khăn được giặt sạch khâu lại vệt xé, gấp cẩn thận. Người đàn bà đưa nó cho tôi:

- Xin gửi trả ông giám đốc. Đáng lẽ tôi có thể thường ông chiếc khác, nhưng không dám mạo muội với bề trên. - Cô ta vẫn tiếp tục nói bằng một giọng mỉa mai khiến tôi nóng mặt.

Tôi hỏi:

- Sao cô kỳ quặc thế ?

Người đàn bà nhìn tôi dửng dưng nói tiếp:

- Bận sau cảm phiền ông đừng làm như vậy. Dơ mất chiếc khăn.

Tôi cố gắng ôn tồn:

- Khăn đã xé đôi cô còn can chắp cầu kỳ làm gì? Cô cho tôi keo bẩn lắm sao?

Người đàn bà đáp:

- Không. Nhưng đồ của ông là đồ riêng cho con người. Còn tụi tôi là chó. Chó đâu dám xài thứ sang như vậy?

Nói xong, cô ta ngửa cổ ra phía sau cười. Dáng điệu thật kiêu hãnh và khiêu khích. Vòng cổ áo viền đăng-ten rung rinh. Tấm áo cô ta đang mặc dù đã cũ mòn vẫn là thứ hàng sang trọng. Và chiếc quần sa-tanh đen với những dây hoa thêu ở hai gấu bỗng gợi tôi nhớ đến những ống quần vải thâm đất dày cộp, mốc meo mà đàn bà vùng quê tôi thường dùng. Giấc mơ vừa hiện lên tan biến. Tôi thấy mình như kẻ bước hụt xuống hố sâu. Nỗi đợi chờ phấp phỏng dọc đường đã bị những lời mỉa mai ngọt nhạt của Huệ lai dội tắt. Lòng tự ái của người đàn ông trôi khỏi mặt hồ. Tôi đứng lên, buông một câu nói chính tôi cũng không tưởng tượng ra:

- Đừng có giận... - Tôi bảo người đàn bà với nụ cười trịch thượng - Quắc rất tốt. Dù có nói như vậy, cậu ấy vẫn là một người đàn ông chân thực đàng hoàng.

Có lẽ với Huệ lai, câu nói ấy giống một cú sét. Đang cười cô ta chợt im bặt, nét mặt như dại như ngây. Làn da Huệ trắng bạch. Trên vầng trán, dưới vết thương nhỏ dính băng những thớ thịt run giật liên hồi. Cặp mày dãn ra trên đôi mắt mất hết sinh khí. Tôi chưa thấy người bị điện giật hay sét đánh bao giờ. Nhưng nhìn người đàn bà lúc ấy tôi hiểu thế nào là một ngọn đòn bạo liệt. Trong khoảnh khắc nó biến đổi Huệ lai hoàn toàn. Từ một thiếu phụ tinh nhanh, ngang ngạnh và kiêu hãnh cô ta trở thành kẻ vô hồn... Tôi hiểu rằng đã lỡ. Nhưng không biết cứu vãn ra sao. Bé Ly ngồi giữa hai chúng tôi, ngơ ngác. Thời gian chậm chạp trôi. Cả đến tiếng mọt nghiến gỗ hoặc tiếng tắc kè kêu cũng tắt ngấm.

Bên ngoài gió ào ào rung. Trong lán ánh đèn trải trên hai dãy giường trồng xếp đều đặn những chiếc gối chưa hằn vết người nằm. “Giá có một ai? Bà trăn tinh Kiều Nga cũng được..”. Tôi nghĩ vậy khi loay hoay tìm cách gỡ lại câu nói lỡ lầm. Nhưng không có ai bước vào lán lúc ấy. Tôi đứng trơ trọi trong tình cảnh oái oăm. Hồi lâu, tôi lắp bắp:

- Cô Huệ...

Người đàn bà ngẩng đầu. Trên gương mặt nhợt nhạt hiện lên một nụ cười :

- Cảm ơn ông giám đốc !

Nụ cười cô ta có màu xanh xám. Phía sau nụ cười đó, mắt người đàn bà đó lóe lên những tia lửa thù hận. Những tia lửa tích tụ từ một quá khứ xa xôi. Giờ đây, nỗi thất vọng thổi bùng lên giữa tro trấu.

Tôi lùi ra cửa. Nỗi sợ hãi bản năng đã khiến tôi có cử chỉ đó. Dường như tôi quay lưng bước ra thì lòng căm hận của người đàn bà phóng tới một mũi tên độc và tôi sẽ trúng thương mà chết. Đây là nỗi sợ hãi hoàn toàn nhục thể. Đứa bé thấy tôi lùi tới khuôn cửa vội vã kêu:

- Bác Hưởng. Bác về đó sao?

Huệ lai hét lên:

- Ly !

Tiếng hét của cô ta vang trong không gian, lạ lùng và ghê rợn. Các bức vách rung lên. Tôi tưởng như những chùm cỏ rối trong bóng đêm cũng rung lên như vậy. Không dám trả lời đứa bé, tôi bước ra hiên trở về. Dọc dường, tôi nhớ tới giấc mơ của mình. Nhớ tới những rạng đông tươi mát, khi Huệ lai vui vẻ chọc ghẹo tôi… Tất cả giờ đây đã xa cách.

Sau buổi tối hôm đó, cuộc sống đối với tôi trở nên nặng nề. Ngoài công việc không còn gì hơn nữa. Tôi như kẻ leo núi vừa tới lưng chùng đã đứt dây rơi xuống, đành đứng nhìn lên những mỏm đá tràn ngập ánh nắng mặt trời. Ngay con bé Ly tôi cũng không còn được gặp, biết bao lần tôi trông thấy nó. Nhưng vừa cất tiếng gọi con bé lủi trốn ngay. Và tôi lắng nghe tiếng gọi của chính mình rơi vào im lặng, tan biến trong cảm giác bẽ bàng. Đã có một thời con bé yêu tôi đến thế. Ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau ít nhất là một lần. Con bé sà vào lòng tôi sờ râu, túm tóc. Còn tôi xoa đầu nó, hôn cặp má măng sữa của nó hoặc rờ bàn tay lấm lem đất cát. Lúc rảnh rỗi con bé thủ thỉ nói với tôi đủ thứ chuyện. Từ chuyện má nó có một mụn ruồi trên bả vai nó thường sờ lúc đi ngủ tới chuyện dì Kiều Nga đẻ bảy lần mà không còn sống đứa con nào... Những khi tôi bận rộn, đứa bé ngoan ngoãn ngồi trong một góc nhà ngậm kẹo hoặc bóc những hạt thóc nếp rang. Thỉnh thoảng nó lại ngước mắt nhìn tôi, cặp mi cong như cánh én. Vậy mà giờ đây nó đối với tôi dửng dưng như một kẻ qua đường. Ý nghĩ ấy khiến tôi thương thân tủi phận. Chiều chiều như có bàn tay vô hình dẫn dắt, tôi cứ đi quanh những lối mòn qua đồng tranh, qua các vườn khoai mỡ, các trái đồi, mơ tưởng gặp cái đầu tròn của đứa be nhô lên trên các bụi gai, hoặc cặp mắt long lanh của nó hiện ra sau kẽ lá.

Một sáng tôi lên các lô tiêu. Lúc đang nhẩm tính số phân cá còn thiếu hụt tôi nghe thấy tiếng đứa bé hát. Vẫn những câu hát buồn sầu của má nó và người lớn dạy. Tôi theo tiếng hát mà đi tới. Bé Ly nằm dưới gốc đào lộn hột trên đỉnh trái đồi. Những tán lá sà xuống gần mặt đất đã che lấp con bé. Giống như những cánh hoa trong cổ tích giấu kín nàng tiên tý hon. Bữa nay, trông Ly nhem nhuốc. Nó bận một bộ đồ hoa lâu ngày chưa thay. Nằm trên vạt cỏ xước lưa thưa, Ly nhắm mắt, chân đập theo nhịp lời hát. Bụng nó đặt con thỏ nhựa, quấn trong miếng giẻ.

- Ly! Sao cháu nằm dưới đất bẩn? - Tôi cất tiếng hỏi.

Đứa bé mở mắt ngồi nhỏm dậy. Thoạt tiên nó nhón chân định bỏ chạy. Nhưng nhìn quanh không thấy ai con bé ôm choàng lấy tôi. Tôi bồi hồi bảo con bé:

- Sao không lên chỗ bác ?

Bé Ly vòng tay đáp:

- Thưa ông giám đốc... - Nói tới đó, nó ngập ngùng rồi nói khẽ: - Má con bắt kêu bác như vậy, bác Hưởng à. Nhưng mà con không...

Tôi ngắt lời nó:

- Nằm dưới đất bẩn lắm.

Đứa bé nhìn tôi:

- Cả kiến cắn nữa, đau muốn chết luôn. Nhưng má không cho con lên văn phòng. Lên đó má đánh què chân.

Tôi thở dài không biết tìm cách gì an ủi đứa bé. Nhưng chính nó lại vuốt ve mái đầu tôi mà thỏ thẻ :

- Má bậy quá bác Hưởng à... Bác đừng buồn nghen. Con thương bác lắm. Khi nào má xuống huyện con sẽ trốn lên với bác. Bữa qua má có hẹn với mấy cô rồi. Chúa nhật này má với mấy cô sẽ nhảy xe lam.

Rồi sực nhớ mình còn vài túi kẹo. Tuần qua, xuống huyện làm việc luôn luôn. Theo thói quen, bà bán kẹo trước cửa ngân hàng mời tôi:

- Ông mua cho con nhỏ túi kẹo chớ? Bữa nay kẹo Nuga tôi mới lấy trong đất liền.

Lần sau lại là:

- Túi kẹo của con nhỏ hết chưa? Chắc hết trơn trọi rồi hà. Mua túi khác cho cháu đi ông. Kẹo hồng ngon lắm.

Lần nào tôi cũng vào hàng mua kẹo trước cặp mắt tò mò xen chút thương hại kín đáo của cậu lái xe. Những túi kẹo đó tôi để trong ngăn tủ. Vậy mà bấy giờ tôi vẫn hớt hải đưa tay lục tìm túi áo và kêu:

- Chết thật. Bác quên mất rồi.

Bé Ly lo lắng:

- Quên gì vậy bác Hưởng?

Tôi đáp:

- Quên mất túi kẹo của cháu. Chắc nó nằm trong ngăn tủ rồi.

Bé Ly nói dịu dàng:

- Vậy bác vẫn mua kẹo cho con?

Tôi gật đầu:

- Mua chứ. Lần nào xuống huyện bác cũng rẽ vào thăm bà bán kẹo quen.

Đứa bé cười:

- Không cần nữa đâu. Mai mốt rồi con ăn cũng được.

Nó lùa những ngón tay bé xíu vào mái tóc tôi. Mắt nó rọi vào mắt tôi những tia sáng êm đềm. Nhìn đôi mắt ấy tôi thấy những vòm lá rủ bóng xuống mái nhà, một khu vườn tràn ngập tiếng chim, tiếng vó ngựa lộp cộp trên đường và tiếng cười ròn rã của Huệ lai thời thơ ấu... Tôi vẫn nghĩ về người đàn bà ấy, dù cô ta đã tuột khỏi tay. Nhưng dẫu sao, còn đứa bé. Nó thương tôi và ở hòn đảo này, tôi còn có một chỗ tựa đỡ tinh thần. Tôi ôm chặt bé Ly vào lòng:

- Bác nhớ con lắm Ly à.

Con bé thở dài trả lời:

- Con cũng nhớ bác lắm. Bác biết không ?

Rồi chợt nhớ tới ngọn roi đe đọa của mẹ, con bé vụng trộm nhìn quanh:

- Thôi bác về đi. Chúa nhật con sẽ tới.

Nó giơ tay xua xua ra hiệu cho tôi đi. Rồi nó lại nằm xuống vạt cỏ, gối đầu lên rễ cây đào, ôm con thỏ nhựa lên bụng và ê a hát. Tôi vạch chùm lá bước ra. Trên lối mòn qua đồng cỏ, nón mũ nhấp nhô. Tôi nhận được chiếc mũ rộng vành có những tua cói lòe xòe của Huệ lai. Bao giờ cô ta cũng đội thứ mũ ấy. Trông giống như một thiếu nữ tới trường.

- Hôm nay thứ ba, còn bốn ngày nữa là tới chủ nhật.

Trên đường lên các vườn tiêu, tôi dự tính cái ngày vui vẻ đó sẽ làm gì? Đối với người đàn ông độc thân và một đứa trẻ côi cút, ngần ấy thời gian cũng đủ vẽ ra biết bao niềm hy vọng: Buổi sáng mình sẽ dắt con bé vào trong xóm ăn cơm với ông già Năm chủ tịch xã, ở đấy có nhiều cây trái và trẻ nhỏ. Ly tha hồ chơi. Lúc về, hai bác cháu sẽ dừng lại suối, tắm giặt rồi ngủ trưa dưới vườn đào lộn hột của nông trường. Hẳn bé Ly thích lắm. Nó sẽ được nhìn thấy những cỗ xe thổ mộ gõ lóc cóc trên đường. Con ngựa cắm túm lông ngũ sắc trên đầu bước đi đầy kiêu hãnh. Chùm lục lạc đeo dưới cổ lắc leng keng. Nó cũng sẽ được thấy những chuyến xe Lambro phóng vụt qua, cuốn theo làn bụi đỏ. Trên nóc xe, ngất nghểu những quang thúng, lồ sọt của đám dân buôn. Và các bà các cô đứng bám sau thùng xe áo đỏ, áo tím bay phất phới. Tuy chỉ cách vài cây số, nhưng con lộ lớn với các xóm dân là một thế giới khác biệt. Bé Ly kể với tôi rằng từ ngày tới đảo, má nó mới cho xuống huyện chơi một lần. Mà lần đó hai má con phải ngồi rơ-moóc chở thực phẩm của nông trường, hôi mùi cá mắm.

- Mình sẽ có một ngày thú vị. Miễn là kịp đem bé Ly trở lại nông trường trước khi mẹ nó ở huyện về...

Nhưng mọi tính toán của tôi đều sai lệch. Chưa tới ngày chủ nhật, tai ương đã xảy ra. Hôm đó là thứ sáu, sau buổi sáng tôi gặp bé Ly bảy mươi hai giờ. Đảo lặng gió, đến nỗi mới chưa đầy chín giờ mà không khí ngột ngạt như đang trưa. Trời cao chót vót không vẩn một gợn mây. Ngay cả những đám mây xốp thường đùn từ mạn biển phía đông lên tối ngày cũng tan biến. Mặt trời sáng đến nhúc mắt. Và cỏ cây ngùn ngụt bốc hơi. Đám cây dày đặc dưới khe nước, không một tiếng chim kêu, không mảy gió xao động. Trong những vũng nước còn lại của trận mưa hôm trước, những con nhái nhảy choanh choách. Chúng không sao thoát được cơn nóng hiếm hoi.

Tôi ngồi làm việc với Quắc và nhân viên tài vụ của nông trường. Còn Vọp đã đánh xe vào nhà chủ tịch Năm trong xóm để lấy ít hạt hoa cúc, hạt chè và cà phê ông già hứa cho tôi. Vọp đi từ sớm. Hẳn anh chàng la cà tán tỉnh đám con gái trong xóm hoặc tạt qua các vườn tiêu chơi nên chua thấy về. Càng ngày tôi càng yêu mến chàng trai đó. Trong cách cư xử của cậu ta vua có sự tinh khôn của một người hiểu biết lại vừa giữ được nét chất phác của những ai đã sinh ra và lớn lên dưới bóng lá của miệt vườn.

Anh chàng nhân viên tài vụ cùng Quắc đang chụm đầu trên những cột số dài đặc. Thỉnh thoảng lại kéo chiếc bàn tính cổ lỗ gảy tanh tách. Tôi đã mua máy tính điện tử nhưng anh chàng tài vụ này chưa học đươc cách sử dụng. Họ vẫn cứ làm việc như mấy anh thư ký riêng của nhà buôn thời Pháp. Ô cửa trước mặt nhìn thẳng ra sân. Và phía sân bên kia là con đường cát dẫn thẳng tới lộ. Ánh nắng trắng lóa khiến con đường uốn lượn như dải lụa bị gió lồng. Những búi cỏ ven sân rung rinh theo. Từng làn hơi trong suốt bốc lên cao rồi tan dần trên các ngọn soài, ngọn mít. Chợt một con bướm đen từ vùng cỏ tranh bay tới. Nó vượt qua đường, len giữa những vòm cây, đến khoảng trống giữa sân. Tôi choàng mắt nhìn. Đúng là con bướm tôi đã thấy vào buổi chiều từ xóm dân trở về. Chính nó đã lượn lờ trước mặt tôi hồi lâu trên đồi cỏ xước. Nơi tôi bắt gặp Huệ lai say rượu nằm lăn trong đám cỏ với vết thương còn rỉ máu. Giờ đây con vật không to lớn dị thường như bữa trước. Nhưng nó vẫn khác biệt những con bướm tôi gặp ngày ngày. Đôi cánh đen óng ánh tụ quanh một vòng hào quang hư ảo. Và khi con bướm lượn từ ngọn cây soài sang cây đu đủ hoặc bay vọt từ những bụi lóc tiên lên những bông hướng dương, quầng sáng hư ảo đó di động theo. Tôi nheo mắt lại: phía sau cánh bướm chập chờn, xuất hiện một chấm đen. Chấm đen trượt theo viền cỏ, kéo lê cái đuôi hồng của đất bụi. Tôi nhận ra chiếc Dép của nông trường. Vọp đã về. Nhưng cậu ta đùa giỡn với ai mà lái xe với tốc độ khủng khiếp như vậy ? Tôi không kịp nghĩ, chiếc Dép đã cua một vòng gắt trước sân rồi dừng lại trong tiếng phanh nghiến ghê rợn. Cái tiếng động hốt hoảng ấy làm Quắc và nhân viên tài vụ buông bút ngẩng lên. Cửa xe vừa bật ra, Vọp đã nhảy xuống đất. Rồi không kịp đóng cửa, cậu chạy thẳng vào nơi chúng tôi ngồi:

- Chú Hưởng!

Ngay tiếng kêu đầu tiên của chàng trai, tôi đã thấy tim đập mạnh. Những phỏng đoán mù mờ cùng một lúc sổ tung ra như hàng trăm mối chỉ. Vọp đặt hai tay lên bàn. Tôi liếc thấy những dòng mồ hôi chảy nhễ nhại trên lớp da cháy nắng.

- Ngồi xuống cho bình tĩnh. Rồi hãy kể xem có chuyện gì? - Tôi bảo.

Nhưng Vọp không ngồi. Cậu ta cứ đứng như vậy và bắt đầu nói:

- Họ sắp sửa tới đây bây giờ, chú Hưởng à. Cả hai đội sản xuất, và còn có thêm một số người bên chăn nuôi nữa...

Quắc hỏi cắt ngang :

- Kéo tới làm gì? Biểu tình hả ?

Vọp quay mặt đi:

- Cháu không biết !

Ánh mắt chàng trai ẩn giấu mối ác cảm và khinh thị. Nhưng Quắc không hiểu nổi điều đó. Anh đập tay xuống bàn quát:

- Nổi loạn à? Điện xuống huyện gọi công an lên tóm cổ chúng nó lại. Cho vô tù. Vào trong đó mà đếm rệp.

Mắt Quắc long lên. Hai gò má càng nhô cao hơn và gương mặt anh biểu thị quyền uy của một ông chúa đất. Thứ quyền uy sung mãn và u tối.

Khi ngẩng lên, tôi bắt gặp Vọp cùng đang nhìn Quắc. Trong cái nhìn của chàng trai có ngọn lửa thù hận lẫn niềm sung sướng hả hê. Dường như một chung cục bi thảm sẽ tới. Nó đang tới. Con thú tai ương từ cánh rừng đi xuống các ngọn đồi... Nhờ vào ánh mắt của Vọp mà tôi đoán định được một phần sự việc xảy ra. Tôi đứng lên lạnh lùng bảo Quắc:

- Tôi yêu cầu đồng chí im lặng. Người chỉ huy cao nhất ở đây là tôi. - Rồi tôi đặt bàn tay lên vai chàng trai - Cháu ngồi xuống. Và nói cho chú biết.

Vọp ngồi xuống ghế kể :

- Từ nhà ông già đi lui, cháu ghé qua các lò tiêu chưa được mươi phút nghe có người la: “Tư lao chết rồi! Tư lao bị đánh chết...”. Ai nấy đều bỏ việc chạy tới. Rồi những người tới đầu tiên lại chạy khắp các vườn kêu gọi. Cả khu đồi náo động, dân trong xóm qua lại với tổ chăn nuôi cũng xúm đến xem. Tư lao nằm dưới rạch tiêu mặt cắt không còn hột máu, cả tấm áo vải Lào huyết thổ đầm đìa. Hắn không nói được. Nhưng cậu Duệ cùng làm với Tư lao kể rằng mấy bữa nay hắn biếng ăn. Đội trưởng Phức không cho nghỉ nên lên tới vườn tiêu hắn đã thở như bò rống, mồ hôi vã ròng ròng. Lần nào cũng vậy, vừa đứng lên hắn lại tối tăm mặt mũi té xuống. Sau rốt hắn rục đầu dưới gốc tiêu mà ngủ. Ông Phức đi tua một vòng quay về la hắn nhác. Tư lao không trả lời chỉ giương mắt nhìn. Ông Phức nghĩ hắn dám láo với mình nên túm cổ áo dựng Tư lao dậy thoi cho một đấm. Sau cú đấm Tư lao rụng liền. Hắn ngã vùi xuống gốc tiêu, huyết thổ ra ồng ộc như suối tưới... Vọp khẽ rùng mình giơ tay che mắt - Cả cần cổ, cả ngực, và bụng hắn ướt nhẫy máu tươi...

Chắc hẳn cảnh tượng vừa chứng kiến còn làm chàng trai xúc động. Tôi rót nước đưa cho Vọp:

- Cháu uống nước rồi nói tiếp cho chú nghe.

Vọp nhìn chén trà tươi sóng sánh, đẩy sang một bên, kể tiếp:

- Tư lao xưa nay là đứa hiền lành nhất nông trường. Cả đời hắn không dám to tiếng với ai. Hắn bị lao truyền, quanh năm rúm ró như con gà mắc dịch. Quê hắn tận Biên Hòa. Cha chết trận từ năm hắn chưa đầy tuổi, còn mẹ lấy chồng sang tận Căm-pốt làm ăn. Bà bác bán cơm trong đất liền nuôi hắn cho đến ngày hắn xin ra đảo. - Chàng trai ngừng lại vài giây - Đám nông trường viên ở đây là dân tứ xứ, tốt xấu, lành dữ có đủ. Nhưng chưa ai nỡ một lần giơ tay đánh hắn. Kể cả cái thằng quỷ Bép xoăn...

Tôi đã hiểu sự tình. Vọp nói tiếp:

- Họ sẽ tới bây giờ chú à. Khi thấy Tư lao ngã, Phức bỏ chạy. Mọi người rượt đuổi không được sẽ kéo tới đây.

Chàng trai ngừng lời chưa được bao lâu, chúng tôi đã nghe tiếng chân chạy thình thịch. Rồi Phức nhảy qua cửa sổ vào. Mặt anh ta tái mét không còn chút sinh khí. Với màu da đỏ, sống mũi gãy càng lộ rõ. Chưa bao giờ tôi nhìn kỹ mặt Phức bằng lúc ấy. Nó giống hệt như mặt một tên ác ôn chúng tôi bắt dược. Cũng cặp mắt láo liên trắng dã. Cũng nỗi sợ hãi của con thú bị bẻ hết nanh. Cũng bóng tối bạc nhược rơi rớt lại khi cơn hung bạo đã no nê. Phút chốc, tôi thấy như chiến tranh chưa đi qua. Có lẽ nó không đi qua mà chỉ núp vào những ngõ sâu. Nó trú ngụ trong các tâm hồn cuồng dại.

Thấy tôi đứng im, chòng chọc nhìn vào mặt Phức, Quắc không giữ nổi bình tĩnh. Dẫu sao, Phức cũng là kẻ giúp việc đắc lực cho anh. Và chính nhờ anh mà hắn còn được giữ chức đội trưởng sản xuất lẫn đội phó đội tự vệ nông trường. Muốn hay không, Quắc cũng phải chịu trách nhiệm về hắn. Quắc đưa mắt nhìn tôi thăm dò. Thấy tôi im lặng, anh hỏi Phức :

- Thế nào ?

Phức nhìn Quắc. Và trên gương mặt anh ta, tôi lại thấy vẻ quỵ lụy ghê tởm như bộ mặt của tên ác ôn khi y quỳ xuống ôm gối tôi xin tha tội chết.

- Dạ thưa…. Dạ... báo cáo đồng chí phó giám đốc, mấy thằng lưu manh lười nhác lắm. Chúng nó không chịu làm, không chịu thi hành mệnh lệnh sản xuất của đồng chí. Tôi đã cảnh cáo nhiều lần nhưng chúng không nghe. Dạ thưa… đồng chí, đối với lũ người vô kỷ luật đó cần thẳng tay trừng trị... Để... đảm bảo năng suất lao động, để xây dựng nông trường, để...

Phức còn lảm nhảm hồi lâu những điều anh ta đã học được như một con vẹt. Nhưng cặp mắt láo liên vẫn không ngừng liếc ra ngoài. Tôi cũng nghe thấy tiếng lao xao của đám đông ở xa. Chắc hẳn họ đi qua lối đồng tranh. Tiếng người nói đứt quãng. Những tiếng hét chốc lát lại ré lên. Vọp ra cửa nhìn rồi quay lại bảo :

- Họ tới đồng cỏ rồi chú à.

Tôi gật đầu.

Đang lảm nhảm nói, Phức chợt im bặt, anh ta nhìn quanh như để tìm nơi ẩn nấp. Nhưng văn phòng bốn bề trổ cửa, ngoài ra chỉ có mấy chiếc tủ lớn đựng công văn tài liệu, bộ bàn ghế, giường của tôi và Quắc cùng những thứ đồ sinh hoại lặt vặt khác. Biết moi đâu ra một chỗ kín đáo mà trốn bây giờ. Mắt Phức ngả sang màu chì. Anh ta nhìn ra ngoài. Bên ngoài, các vườn cây non chưa kết trái. Không một mô đất, không một bụi rậm. Khoảng sân rộng nắng chiếu trắng lóa như tráng thuỷ ngân. Còn phía sau các khu vườn lại là đồng vắng. Ở đó dù con thỏ chạy qua cũng không lọt được mắt đám người. Nhất là khi họ có non một chục cây súng trong tay.

Tôi lẳng lặng nhìn Phức. Mỗi lúc hắn mỗi cuống cuồng sợ hãi. Hệt như con gà nuốt phải bọ xít. Kể ra đối với tôi cái trò ấy không vui gì nhưng cũng đáng xem. Quắc thấy được sự ghẻ lạnh của tôi. Anh đứng đậy tới sát một bên hạ giọng:

- Anh Hưởng. Mọi chuyện chúng ta sẽ giải quyết nội bộ.

Đây là lần đầu tiên tôi thấy anh nhún nhường. Không những thế anh còn nhìn tôi như nài nỉ. Dẫu sao Phức cũng thông minh. Hắn đã biết cách trói buộc Quắc vào với mình bằng sợi dây chắc nhất.

Đám đông đã tiến đến sân nông trường bộ. Tôi thấy họ qua khuôn cửa mở. Họ đã đi thẳng từ các vườn tiêu, các đội trồng thơm, trồng mì về. Người nào người nấy lấm lem đất bụi và lễ loại mỏ hòi. Giá ngày thường chắc tôi không chú ý nhiều lắm tới các gương mặt ấy. Nhưng vào khoảnh khắc họ bị nung nấu bởi ý chí hận thù, tôi chợt nhìn rõ những dấu vết đau khổ hằn lên. Những dấu vết không dễ xóa. Có lẽ chính điều đó khiến tôi đủ kiên trì chịu đựng cơn cuồng nộ của họ. Họ đã bao vây ngôi nhà, súng ống lăm lăm, la hét:

- Bắn bỏ thằng Phức !

- Giám đốc phải nộp mạng thằng Phức. Đem con chó độc đó ra đây bắn bỏ !

Tất cả các khuôn cửa đều lấp đầy bởi những bộ mặt thù hằn, đằng đằng sát khí và những ngọn súng. Hẳn là họ đã bàn bạc trước lúc đến nên phân bổ các tay súng thành nhóm một cách đều đặn. “Đấu tranh có tổ chức và kế hoạch” - Ý nghĩ đó khiến tôi muốn mỉm cười.

- Máu phải trả bằng máu.

- Đem thằng Phức ra cho chúng tôi...

Đám người vẫn gào thét bên ngoài. Có cả tiếng lên đạn lách cách nghe khô đanh. Lúc đó Quắc bỗng cau mày bảo tôi:

- Anh đứng im nghe chúng nó la hét đấy à ? Để tôi gọi công an huyện.

Rồi anh nhào tới chụp ổ điện thoại. Tôi không kịp phản ứng nhưng một ý nghĩ vụt lóe lên: Tai họa! Bộ mặt Quắc đã trở lại vẻ chai sạn thường ngày. Anh cầm ống nghe, quai hàm bạnh ra tự mãn.

- Bỏ ra !

Tôi quát lên, nhoài người giật lấy chiếc ống nghe trong tay Quắc. Lúc đó đúng như tôi linh cảm một tiếng kêu ghê rợn xé không gian :

- Họ bán rẻ chúng ta cho nhà đá rồi. Anh em ơi, chỉ còn đường chết thôi.

Khi tiếng kêu vừa dứt, làn sóng lạnh buốt trùm phủ lên tất cả. Đám đông im lặng như hóa đá. Nhưng trăm nghìn cặp mắt dọi về phía chúng tôi. Chỉ cần bảng số điện thoại xoay tới vòng thứ hai là hết. Những họng súng sẽ nhả đạn. Những xác người đổ xuống. Và khi xe mô-tô ba bánh của công an huyện tới đây, chỉ còn lại những thây ma, những vũng máu khô quánh và lũ ruồi vo vc trong im lặng. Những kẻ sống sót sẽ bỏ chạy toán loạn khắp nơi hoặc trở thành phỉ trong rừng Bắc đảo hoặc chui nhủi ở xó xỉnh nào đó qua ngày, qua tháng, hoặc gặm móng tay trong tù… Trong giây phút, tất cả đều hiển hiện trước mắt tôi. Tôi bảo Quắc:

- Yêu cầu ngồi im. Tôi là giám đốc. Chính tôi sẽ giải quyết mọi việc.

Có lẽ vào lúc ấy tư chất người lính trong tôi đã lấn lướt và buộc Quắc phải khuất phục. Nhìn vào mặt anh, tôi chắc anh không hiểu những hành động của tôi. Nhưng anh đã ngồi xuống ghế, cúi gầm mặt, nhìn những viên sỏi trên nền nhà. Phức lùi vào xó tường, tay thu trước bụng. Chỉ còn Vọp là vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, trước chén nước trà đã nguội tanh, tôi hước ra cửa :

- Mọi người bình tĩnh. Nghe tôi nói !

Tôi bảo đám đông như vậy. Có lẽ, tôi sẽ tiếp tục giảng giải khuyên can họ. Nhưng tôi đã nhìn thấy Tư lao. Đám đông đặt cậu ta ngay trước thềm nhà. Tôi sực nhớ tới câu chuyện của Vọp kể về kẻ tội nghiệp đến mức nguy cả thằng quỉ Bép xoăn cũng không nỡ giơ tay đánh. Tư lao mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi. Trên mép còn phủ lượt lông tơ. Gương mặt nhát nhúa và cam chịu. Ngay cả lúc nằm phơi dưới ánh nắng, ngay trước hàng trăm con mắt của mọi người, cậu bé vẫn có dáng vẻ nhát nhúa và cam chịu đó. Con người này như một thứ hoa mỏng mảnh, chỉ cần ngón tay đụng tới cũng đủ rơi cánh. Vầng trán tái mét còn lấm tấm mồ hôi. Trong khi máu nhuộm đỏ từ cằm xuống cổ, thấm đẫm ngực và một vạt áo vải Lào. Những sợi tóc người bệnh dính bết trên trán. Tôi cúi xuống vén những sợi tóc đó lên. Một hơi gió mơ hồ lướt qua cổ tay tôi. Cảm giác ấy gần như hư ảo. Nhưng tôi thử đưa cánh tay lần nữa. Và lần này hơi gió yếu ớt kia vẫn lướt trên da thịt. Hồ nghi, tôi nhìn cặp mi xanh tím của Tư lao. Không có chút dấu hiệu nào của sự sống còn tồn tại dưới hai vành mi cứng lạnh như đá. Nhưng linh cảm ở trong tôi dai dẳng hơn. Tôi nhổ một sợi tóc trên đầu mình, khẽ đặt trước mũi kẻ khốn khổ. Sợi tóc rung rinh tí chút, yên lặng, rồi lại đung đưa. Giờ đây nó đung đưa đều đặn.

Tôi đứng lên:

- Cậu bé này còn sống, hãy đưa về bệnh viện huyện ngay. Vọp đâu rồi?

Chàng lái xe từ trong nhà bước ra.

- Cháu đây. Cháu mang Tư lao lên huyện ngay bây giờ.

Nói xong Vọp quỳ xuống loay hoay tìm cách bế người bệnh. Lúc đó, một giọng đàn bà hét lên:

- Khoan ! Chưa cần đưa Tư lao xuống huyện. Đem thằng Phức ra hỏi tội trước đã....

Đó là tiếng của Huệ lai. Người đàn bà đứng ngay hàng đầu tiên. Vì chú ý tới Tư lao tôi đã không nhận ra. Hôm nay cô ta mặc bộ bà ba đen, đầu đội mũ cói rộng vành. Hai cánh tay gồng cứng đơ trong thế tấn. Vọp đã kể rằng Huệ lai giỏi võ, có thể quật ngã dăm bảy gã đàn ông một cách ngon lành. Hẳn vì vậy và cả vì sự cứng cỏi trong tính cách mà giờ đây cô ta nghiễm nhiên thành thủ lĩnh của đám đông. Phía sau Huệ lai là võ sĩ Hai. Còn bên trái là gã Bép xoăn xấu xí. Đám thanh niên tự vệ nông trường đứng rải rác thành hàng rào. Tất cả bọn họ đều lắng nghe cô. Dường như Huệ là linh hồn của cơn phẫn nộ. Mắt long lanh thù hận cô ta nhìn xói vào mặt tôi và nói tiếp:

- Ông đừng đóng trò nhân đức. Chúng tôi chưa cần đưa Tư lao đi đâu hết. Hãy tóm cổ thằng Phức ra đây!

Hai gò má Huệ đỏ phừng phừng. Thật lạ, càng cáu giận, trông cô ta càng quyến rũ. Tôi nhìn người đàn bà với một tâm trạng êm dịu bình thản. Suốt thời gian xảy ra cơn tai biến đó tôi đã hoàn toàn bình thản, không mảy may giận dữ, không mảy may lo âu và run sợ. Bây giờ tôi nói với cô ta bằng một giọng nhẹ nhàng lẫn chút buồn rầu:

- Cô Huệ... Tại sao là đàn bà mà cô hung bạo thế ? Cô thích giết kẻ này hơn là cứu sống người kia? Chẳng lẽ mạng sống của Tư lao đối với cô rẻ rúng thế sao ?

Huệ lai thừ ra trong giây lát. Gương mặt cô ta đang đỏ ửng hồng trắng bệch như vôi. Sau đó, lấy lại bình tĩnh Huệ lai cười nhạt :

- Ông nói nghe ngon lành thiệt. Nhưng nếu tụi tôi đưa Tư lao đi, liệu ông có rình rập mà đánh tháo cho thằng Phức chạy thoát thân không?

Cái lối vặn vẹo của người đàn bà vừa khôn ngoan vừa dại khờ như con trẻ. Tôi nhìn cô ta đáp ôn tồn :

- Được rồi. Hãy bình tĩnh nghe tôi nói!

Mắt Huệ lai chớp lia lịa. Hình như cô ta đã đoán được ý nghĩ của tôi và điều đó khiến cô ta lại rơi vào trạng thái rối loạn:

- Tụi tôi không nói chuyện chánh trị. Ông hãy đem thằng Phức ra đây. - Bất chợt Huệ lai vung lay, thét lớn thật to khiến đám đông nhớn nhác. Rồi vài giọng hưởng ứng, dóng dả theo:

- Đúng rồi đó, ông giám đốc đưa thằng Phức ra đây!

- Chúng tôi yêu cầu nộp mạng thằng Phức!

Tuy nhiên, những tiếng nói phía sau nghe chừng không được rành mạch. Và cũng không còn hừng hực bốc lửa như trước. Bà thủ lĩnh bối rối. Sau khi hét lên một cách đột ngột như vậy, hai gò má trắng như đá của Huệ lai lại đỏ ửng lên. Cô ta không nhìn vào mặt tôi nữa mà nhìn chằm chằm vào khoảng tường trên khuôn cửa. Tôi vẫn nói ôn tồn:

- Đây không có chuyện chính trị, đây là chuyện giữa tôi với các anh các chị. Chúng ta cùng ăn một bếp, cùng cày xới một mảnh đất...

Huệ lai bĩu môi nói trổng:

- Trời đất, phỉnh ngon lành vậy nhưng cho tay chân thả sức đánh đập ức hiếp dân lành.

Tôi thấy làn mi đen trên cặp mắt người đàn bà máy động liên hồi. Hẳn cô ta đang cố gắng để lấy lại thế chủ động. Tôi hỏi đám đông :

- Ở đây ai có bằng cớ chứng tỏ đội trưởng Phức là tay chân của tôi?

Người nọ đưa mắt nhìn người kia. Không ai dám trả lời. Tôi biết mình bắt đầu thắng. Cả nông trường đã bàn tán việc tôi hạ lệnh bãi bỏ hình thức kỷ luật phạt quỳ. Ngay việc tôi định cách chức Phức nhưng Quắc giữ lại cũng không giấu được ai. Vì vậy Huệ lai thất thế.

Mặt cô ta đỏ gay gắt như say rượu. Không chỉ có hai gò má mà cả trán, cả cằm cho đến từng chân tóc cũng bị nỗi hổ thẹn hơ lửa nóng. Hẳn người đàn bà ý thức được vai trò thủ lĩnh của mình nên cô ta bị đẩy vào nỗi bối rối, bức bách. Cô ta ngước nhìn tôi một thoáng rồi cúi xuống ngay. Tôi bỗng thấy thương Huệ lai. Nhưng tôi vẫn phải nói một cách nghiêm trang và quyết liệt.

- Ở đây không có ai là tay chân tôi cả. Trước mắt tôi, tất cả các anh và anh Phức như nhau. Ai có hành động sai trái người đó phải chịu. Còn tôi, tôi đã có điều gì sai trái với mọi người?

Đám đông lặng tờ cúi đầu xuống. Tôi nhìn rõ ngón chân họ sục đất xoay thành những lỗ tròn. Những giọt mồ hôi lăn từ chân tóc xuống cằm rồi từ cằm xuống ngực. Bóng những vành nón phân cắt gương mặt họ thành hai phần. Và những cặp mắt lấp trong bóng râm kéo sụp vành mi xuống một cách bẽn lẽn... Huệ lai nhìn quanh, có lẽ cô ta thấy con thú dữ trong đám đông bắt đầu lười biếng khép mắt lại. Có lẽ cô cũng thấy sự thảm bại sẽ tới. Đôi mắt đẹp của người đàn bà loáng vụt lên những tia sáng. Cô ta bước lên một bước rồi quay lại đám đông kêu gọi:

- Anh em ! Ông giám đốc khéo bày vẽ chuyện mình để tránh tội cho thằng Phức. Lâu nay có trù úm ức hiếp mọi người. Bây giờ đừng nói chính trị lôi thôi. Cứ lôi thằng Phức ra đây xử theo luật đời. Bắn bể sọ thằng chó đẻ đó ra rửa hận !

Quả là người đàn bà đó có năng khiếu để làm thủ lĩnh. Lời nói của cô ta giống như con mòng chích vào hông con bò khiến con vật sắp lơ mơ ngủ nhảy chồm dậy. Những cặp mắt bẽn lẽn nấp dưới bóng vành mũ đều ngước lên nảy lửa. Những gương mặt đờ đẫn vì phân vân suy ngẫm bỗng rắn đanh lại, đằng đằng sát khí. Mặt trời đang trưa chiếu hừng hực. Thứ ánh sáng đó lại hun thêm cơn giận dữ cuồng bạo của đám người:

- Đúng rồi không nói chuyện. Đem thằng Phức ra đây.

- Bắn bể sợ thằng khốn quen áp chế dân chúng.

Tiếng la ó của họ chồng lên nhau dữ tợn, lộn xộn. Một người khác hẳn sẽ mất hết trí khôn và sự bình tĩnh trong tình cảnh ấy. Nhưng tôi thấy mình bình thản, khoan hòa. Có lẽ vì những chấn động khủng khiếp của chiến tranh đã làm tôi chai lỳ không còn biết sợ hãi và tức giận trong các cảnh huống khác. Có lẽ vì đám đông đang cuồng nộ kia gợi cho tôi lòng thương xót nhiều hơn là tức giận. Có lẽ vì họ chỉ là những hình ảnh phía sau Huệ lai. Giờ đây, tôi vẫn yêu người đàn bà ấy. Tôi vẫn thấy ân hận vì lỗi lầm của mình vì sự nhục mạ của Quắc đối với cô.

Người đàn bà đang nhìn tôi đăm đăm. Đôi mắt rực lên dưới viền mi đen thẫm. Những tia sáng đắc thắng rung rinh. Cả mặt trời lẫn những vòm lá cùng phản chiếu trong đôi mắt ấy. Chưa bao giờ tôi thấy mắt Huệ lai đẹp thế. Nó bùng cháy ngọn lửa phản kháng của tâm hồn bị chà đạp. Nó rực lên niềm kiêu hãnh thơ ngây.

Thấy tôi im lặng, Huệ lai nhếch mép cười:

- Sao? Ông trả lời tụi tôi đi chớ ? Hay ông còn lo kiếm bài bản nào khác để phủ dụ đám dân chó má này ?

Giọng lưỡi cô ta mài nhọn căm uất và cái nhìn ngạo nghễ chứng tỏ nước cờ đã thay đổi. Cô ta đang nắm phần ưu thế trong tay. Lúc đó, tôi chẳng cay cú cũng không hề bối rối. Tôi tính cách rút chân khỏi tình thế này. Đám người hằm hằm nhìn tôi chờ đợi. Những tay súng tự vệ lâu nay bị Phức quát nạt giờ lên súng rôm rốp chĩa về phía cửa. Tuy họ đã tránh tôi và Vọp ra nhưng tôi biết những họng súng đó không chỉ nhằm vào một mình Phức. Chỉ cần một tín hiệu nhỏ tất cả những họng súng sẽ nhả đạn, và hai người ngồi trong nhà biến thành những tấm bia. Vọp đưa mắt nhìn tôi thay cho câu hỏi. Tôi không đáp lời. Tôi nghĩ đến những đứa con của Quắc, đến người vợ quặt quẹo đau ốm của anh ta. Tôi hình dung lại cái lưng gù gù của anh ta đêm nào ngồi đánh trứng… Và con người đó bỗng phơi bày trước mắt tôi trần trụi như một trái đồi hoang, đất cằn cỏ lụi, không bóng mát cho ta trú náu, không bông hoa quyến rũ gọi mời. Tôi thấy ba cái đầu bé nhỏ chít khăn tang. Và lòng tôi bỏng rát...

Bước lên một bước, xáp gần những kẻ sừng sỏ nhất trong đám đông, nhìn vào mắt từng người tôi nói chậm rãi:

- Phức có súng.

Không hiểu sao lúc ấy tôi mới nhớ tới cử chỉ lạ lùng của Phức. Hắn cứ thu bàn tay trước bụng khư khư. Và thần may mắn đã bảo cho tôi biết đó là cây súng ngắn tối tân mà Phức luôn luôn mang trong mình. Một lý do thật chính xác để thuyết phục những tay súng khác.

Tôi nhắc lại lần nữa vì đám đông bắt đầu bị cuốn hút:

- Phức có súng. Nếu các anh bắn chết anh ta thì ít nhất anh ta cũng bắn đổ dăm bảy mạng người trong số các anh. Anh Phức không hiểu được sai lầm của mình mà các anh thì mắc thêm sai lầm mới. Anh ta không tốt lên được còn các anh lại xấu đi. Và cả hai bên đều sẽ chết. Có ích gì?

Tôi ngừng lại vì thấy đám người cúi đầu ngẫm nghĩ. Ai chẳng biết suy tính một khi cơn điên cuồng đã dịu đi? Những vành mũ lấp một nửa bóng râm trên các khuôn mặt đen đủi. Và bàn tay lấm lem của họ buông thõng bên đùi. Rồi ai đó cất tiếng:

- Nhưng thằng Phức làm phách quá xá. Vậy ông lãnh đạo bao che cho hắn ức hiếp tụi tôi.

Tôi không nhìn rõ mặt người đàn ông vừa lên liếng. Nhưng giọng diệu của anh ta chứng tỏ đó là tấm rào chắn cuối cùng. Tôi lắc đầu đáp:

- Điều đó không đúng. Trong chế độ này mọi người đều bình đẳng. Tôi, giám đốc nông trường, người nắm quyền cao nhất ở đây, cũng không thể ức hiếp các anh. Anh Phức sai lầm. Tôi sẽ có biện pháp cứng rắn hơn.

Không gian im ắng. Nghe rõ tiếng mấy con tò vò bay vo ve quanh cậy cột rui nhà. Trời nắng đến nhức mắt. Những làn hơi bốc lên không ngừng từ mặt đất còn sũng nước của trận mưa chiều qua. Tôi bỗng thấy ngây ngất vì hơi nóng và cả vì những làn phản quang không ngừng rọi tới. Đám người vẫn đứng yên lặng trước mặt tôi. Chắc hẳn họ đã chùng gân cốt. Giờ đây, người ta cần một cốc nước mát, một bữa cơm và một giấc ngủ để nguôi đi cảm giác căng thẳng mệt mỏi sau những khoảnh khắc hủy hoại của cơn cuồng nộ. Nhưng họ đã trót giương những nòng súng lên, họ đã trót leo lên vũ đài. Bao giờ bước lên vũ đài cũng dễ dàng hơn là rút xuống. Cần phải giúp họ:

- Bây giờ tất cả các anh hãy hạ vũ khí xuống. Nhà nước trao vũ khí cho chúng ta để tiêu diệt kẻ thù bảo vệ thành quả của cách mạng chứ không phải đe sát phạt lẫn nhau.

Từ nãy Huệ lai vẫn đứng yên lặng chờ. Tôi vừa nói tới đó cô ta chợt kêu lên:

- Đùng tin. Nộp súng là họ tống vô nhà đá. Hết đường cựa.

Đám người sửng sốt nhìn tôi. Mắt họ vằn lên những tia máu nghi kị và đau đớn. Tôi nhìn thẳng vào người đàn bà. Nhưng cô ta đã quay sang thì thào với Bép xoăn :

- Đừng có khờ mà tin ba thằng cha Cộng sản. Nó thịt mình liền...

Gà béo đần độn liền chộp cây súng trong tay một cậu tự vệ đứng gần gã:

- Vậy thì lia cho lão ấy một băng.

Nháy mắt, gã móc tay vào cò súng. Chưa đủ thời gian một con bướm vỗ cánh bay. Bằng phản xạ tinh nhạy của người lính, tôi đẩy Vọp ngã chúi xuống. Viên đạn găm vào cánh tay tôi, thay vì lồng ngực săn chắc của chàng trai. Đám người đứng lặng, giương mắt nhìn tôi. Bấy giờ, tôi không cảm thấy đau đớn. Dòng máu nóng hôi hổi bò qua cùi tay, nhỏ xuống nền đất. Nhưng tôi vẫn cử động được bình thường vì vết thương phần mềm. Vả chăng, lúc ấy tình thế buộc tôi phải bình tĩnh: “Điều quan trọng nhất là không được rời bỏ mục tiêu”. Bằng kinh nghiệm, tôi hiểu rằng chỉ cần tỏ ra nao núng chút ít, hoảng hốt chút ít, là mọi sự sẽ đổ vỡ. Và sự thắng bại của con người đôi khi cách nhau chỉ một sợi tơ. Máu vẫn cứ nhỏ đều, đã thành vũng trên nền đất rắn. Tôi quên nó đi, tiếp tục nhìn đám đông nói lạnh lùng:

- Tất cả hạ súng! Tôi sẽ thu súng anh Phức trước rồi thu súng các anh sau.

Có lẽ thái độ bình thản của tôi đã biến tôi trở thành một người anh hùng trước mắt họ. Như bị thôi miên, hơn một chục tay súng vây thành một hàng rào hạ xuống. Tiếng lách cách khua bầu không khí im ắng nặng nề. Tôi không hề liếc qua mặt đám người vừa buông súng với thái độ khiếp sợ và nghi ngại, quay lưng bước vào nhà. Phức vẫn ngồi bên Quắc, tay giấu dưới vạt áo sơ mi, mắt ngước nhìn tôi dè chừng. Hai chân anh ta thu dưới đất như sẵn sàng nhún một bước lấy đà để nhảy vọt qua cửa sổ, biến vào đồi cỏ tranh. Bỗng dưng, tôi hình dung anh ta dưới hình dạng của con chồn. Một con chồn tinh ranh đã hóa thành người nhưng vẫn mang lòng ruột của loài thú rừng sâu. Tôi bảo:

- Anh nghe tôi nói chưa? Anh không có quyền sử dụng súng trong lúc này.

Phức rúm người lại:

- Để ông nộp mạng tôi cho mấy thằng lưu manh sao?

Tôi mỉm cười:

- Đừng run rẩy lên như thế. Ngoài kia có hơn mười cây súng. Nếu tôi không đứng ra bảo vệ, anh đã bị nghiền thành cám.

Phức đảo mắt nhìn bên ngoài rồi lại cúi xuống. Nhìn từ trên xuống, mặt Phức ngắn và nhọn, vừa láu lỉnh độc ác lại vừa có những nét ngu độn. Tôi cao giọng bảo anh ta:

- Muốn đảm bảo cho tính mạng anh và không khí hòa hảo trong nông trường, tôi yêu cầu anh nộp ngay súng.

Phức cúi thấp hơn nữa cái gáy dẹt. Tôi nhìn vào đó và nảy ra một ý nghĩ lạ lùng: Nếu ta chỉ nhìn vào gáy, tất thảy mọi người đều bình dị và lương thiện như nhau, một tên đao phủ và một kẻ tu hành, cả Hít-le lẫn thánh Găng-đi. Phức im lặng một lát rồi móc khẩu súng khỏi lưng quần đặt lên bàn ngay sát cạnh tôi. Khẩu súng ngắn của anh ta không thể trộn lẫn với bất kỳ khẩu súng nào khác. Nơi hộp đạn có treo đám đồ trang sức: một chiếc mỏ neo bằng đồng đánh bóng, một bông hồng tết bằng sợi ni-lông, một trái tim bằng nhựa đổ. Tất cả được cột chung vào một vòng khóa bạc và buộc sợi dây chuyền. Tôi cầm khẩu súng của Phức ra ngoài cửa, trước những cặp mắt riết róng của đám đông. Sát vách có một chiếc bàn gỗ thô chưa đánh véc-ni kê tạm làm nơi úp mũ nón. Tôi đặt khẩu súng của Phức lên đó một cách lặng lẽ. Rồi tôi lùi lại vài bước nhìn mọi người. Tang vật mạnh hơn lời nói. Từng người một sau khi nhìn rõ khẩu súng với đám đồ trang sức lòe loẹt kia liền xách súng ngoan ngoãn đặt lên bàn. Từ người đầu tiên cho tới người cuối cùng chẳng một lời ồn ào bàn tán. Không khí bỗng dưng trang nghiêm như không khí của một buổi mặc niệm. Đống vũ khí trên chiếc bàn gỗ mộc cứ đầy lên.

- Thưa chú hết rồi đó.

Vọp nói với tôi khi chàng tự vệ thứ mười lăm nộp cây súng thứ mười lăm. Thấy tôi im lặng Vọp nói tiếp:

- Chú băng vết thương đi. Mọi chuyện ổn rồi.

Bây giờ tôi mới có cảm giác đau đớn nơi thớ thịt bị xé rách. Vì tay cử động được, tôi biết xương còn nguyên vẹn. Đạn chỉ vào phần mềm. Nhưng vết thương cũng khá sâu nên máu chảy mãi. Tuy nhiên, tôi hiểu rằng, chưa tới lúc mình được phép lo cho bản thân. Ván cờ chưa thể kết thúc vội vã như thế. Đám đông đứng nhấp nhô quanh nhà. Tấm thân đẫm máu của người bệnh còn nằm phơi dưới ánh trời. Mà thứ mặt trời gay gắt dễ làm cho con người bước từ cơn cuồng nộ đến trạng thái mệt mỏi lười biếng và quên lãng. Họ không được phép quên lãng... Tôi gạt chàng trai sang một bên nói:

- Trong thời gian gây chuyện cãi vã với tôi, cậu Tư lao có thể chết oan uổng. Và các anh chị sẽ hối hận mãi mãi vì chuyện đó. Nếu có một trái tim, nếu là một con người...

Đám đông đứng rũ xuống như những tàu lá héo. Nhất là Huệ lai. Gương mặt kiêu hãnh và hiếu thắng của người đàn bà giờ đây chỉ còn lại vẻ bồn chồn mỏi mệt. Hẳn cô ta biết trong những lời lẽ tôi nói có nửa phần riêng ám chỉ mình. Hàng mi dày sập xuống che đôi mắt long lanh. Những giọt mồ hôi lăn tăn đọng trên cánh mũi. Cô ta sẽ khóc chăng? Tôi tự hỏi. Và bỗng nhiên tôi mong muốn nhìn thấy người đàn bà đó khóc, rồi gằn giọng nói tiếp:

- Tôi mong rằng các anh các chị sẽ ghi nhận bài học ngày hôm nay. Phản kháng lại thói áp bức là đúng, những để lòng thù hận lôi kéo đến mất trí khôn bước qua tình thương và lòng nhân ái là sai lạc. Bây giờ cử người đưa ngay Tư lao đến bệnh viện huyện. Còn các đội trưởng dẫn quân về tiếp tục công việc.

Hai thanh niên lực lưỡng xốc Tư lao lên xe. Còn những người khác lục tục kéo nhau về lán. Vọp nói với tôi:

- Chú xuống viện luôn đi.

Cậu bé cho xe nổ máy xăng xái lấy mũ, lấy cặp mang lên trước. Tôi đứng lại dưới hiên. Khoảnh khắc đó tôi chờ đợi người đàn bà. Tự nhiên cô ta cũng đưa mắt nhìn tôi. Huệ lai không khóc. Cô ta cứng rắn hơn là tôi tưởng. Trong đôi mắt mênh mông ấy, tôi không đọc được điều gì. Nó chói sáng như hai vì sao. Có lẽ vì mất máu tôi thấy người choáng váng. Tôi lảo đảo bước lên xe vừa lúc Vọp vội vàng giơ tay đỡ. Chiếc ghế da phơi nắng quá lâu bỏng rát lên khiến tôi thấy như mình ngồi trên lò than. Nhưng ngay cả cảm giác ấy đối với tôi cũng lơ mơ. Tôi gục xuống tấm chắn phía trước chỗ ngồi. Thấy mặt trời rọi vào da thịt mình một thứ ánh nắng chói chang tàn nhẫn, thấy buồn đến nỗi nước mắt muốn ràn rụa qua mi:

- Cô ta tàn nhẫn quá. Con người này tàn nhẫn quá...

Xe cua một vòng quanh sân nông trường rồi rẽ ra đường chính. Gió lướt ào ào bên tai. Qua làn nước mỏng chập chờn tôi thấy những mái lán, những vườn cây, những bờ cỏ trôi vút về phía sau. Cảm giác ấy giống như lần đầu tiên bị thương. Hai chiến sĩ khiêng tôi trở lại trạm phẫu vùng trung tuyến. Nhưng bây giờ nó diễn ra với tốc độ mãnh liệt hơn. “Cô ta không hề nhỏ một giọt nước mắt. Cô ta tàn nhẫn quá”. Tôi ôm lấy cánh tay bị thương máu đã khô quánh trên làn vải. Và tôi chợt thấy tôi đã yêu người đàn bà đó đến nỗi sự dửng dưng của cô ta khiến tôi đau đớn, bơ vơ như một đứa bé bị ruồng rẫy. Một đứa bé yếu ớt gục mái tóc điểm bạc lên tấm chắn xe mà vụng trộm khóc thầm.

Vết thương của tôi không có gì nguy hiểm. Người ta yêu cầu nằm lại viện chừng mười hôm nhưng tôi kiên quyết trở về. Từ nhỏ tôi đã ghét bệnh viện. Tất cả những khu nhà mang dấu thập đỏ phía trước đều gợi cho tôi cảm giác sợ hãi bí ẩn. Những bệnh nhân mặc bộ quần áo trắng có in số hiệu làm tôi liên tưởng đến những người tù. Những tù nhân của bệnh tật. Hình ảnh họ in trong óc não tôi dấu ấn của tai họa, của sự rủi ro không thể tránh né. Bởi thế trong chiến tranh khi nào bước được vững trên đôi chân là tôi tìm cách rời bỏ bệnh viện trở lại tiền duyên. Còn giờ đây nằm trong bốn bức tường, ngửi mùi phê-nôn và nghe những tiếng kêu rên than vãn đối với tôi là một hình phạt. Cử người ở lại chăm sóc Tư lao xong, tôi gọi điện cho Vọp tới đón mình. Dẫu sao tôi cũng không thể giao toàn bộ công việc cho Quắc. Nhất là khi cơn tai biến còn nóng hổi sau lưng. Tính cách Quắc hầu như bất biến. Ngay lúc lên viện báo cáo tình hình công việc với tôi, anh ta đã lại mang bộ mặt chai sạn lì lợm, ẩn giấu một ý thức tự thị đáng kinh hoàng. Nhìn anh tôi bị ám ảnh bởi cặp cánh đen của con bướm tai ương. Giống như bóng đêm nó trùm lên những giấc mơ chập chờn của tôi nỗi lo âu dài dặc. Cô văn thư ở nông trường báo cho tôi qua điện thoại rằng Vọp đã đi lấy thực phẩm cách đây ba giờ. Chừng nửa giờ nữa xe về cô ta sẽ bảo chàng lái đi đón tôi ngay. Trong thời gian đó, tôi lững thững rời bệnh viện ra chợ. Mặc dù qua lại thị trấn luôn luôn nhưng chưa lần nào tôi rảnh rỗi vào chợ được lâu lâu. Lần thì gấp về vì công việc, lần lại bận đưa bé Ly vào tiệm ăn kem hoặc mua kẹo. Tôi vẫn nghe người qua lại trầm trồ nhắc nhở khu chợ này. Cho dù khách tha phương là công tử bột hay dân buôn, người thành phố hay dân miệt đồng, trẻ trai hay già lão cũng vậy... Giống như các chợ vùng biển, chợ này nằm sát bến cá, có thể bốc dỡ dễ dàng những thuyền cá còn tươi ròng nước biển. Bến cá thông với một dòng sông nước mặn. Khi thủy triều rút, sông xanh như lá rừng vì các nguồn suối đổ về hòa tan lớp muối bùn đen quánh nơi cửa sông. Thủy triều lên, con sông trở lại nhơ nhớp, đen như mực Tàu. Bùn tanh bốc lên cùng mùi rác rến, mùi hoen rỉ của các sà-lan, các thuyền máy ăn gió mặn. Để đánh bạt thứ mùi đó các quán ăn hai bên bờ sông thi nhau nướng khô mực, khô cá thiều, thịt lợn ướp tiêu xanh, thịt bò trộn ớt sả... Hai dãy quán ăn đó chỉ chiếm một phần ba chợ nhưng lại thâu tóm linh hồn của cả khu chợ. Bất kì người nào tới đây, dù giàu nứt đố đổ vách hay nghèo xơ rơ cũng đều mài đũng quần trên những chiếc ghế thấp, to thù lù, nhẵn bỏng vì mồ hôi người. Dân bán cá, dân bán hồ tiêu, dân buôn đồ la-ghim, dân bán dầu cù là, tăm ngoáy tai, hộp đựng vôi ăn trầu... từ trong đất liền ra. Dân làm và buôn nước mắm. Người trồng thơm, trồng mì trên vùng núi Bắc đảo và cả khách tha phương ghé tới… tất thảy đều túm tụm quanh chiếc chảo gang lớn, lò lửa cháy bùng bùng bên dưới, mỡ xèo xèo và những chiếc bàn sản bóng loáng múa qua đảo lại nhoang nhoáng như làm xiếc. Ở đây, người ta không ăn ban đêm như ở trong đất liền mà ăn ban ngày. Và khách có thể ngồi từ lúc mặt trời mọc cho tới hoàng hôn. Ở đây, người ta hóng đón mọi tin tức từ đất liền đem ra, khảo giá phân cá, phân hóa học, xăng nhớt, chạy máy, bò sữa, bò nuôi. Ở đây, người ta có thể được nghe nhiều câu chuyện ly kỳ cho thỏa những chuỗi ngày cặm cụi giữa vườn tiêu, vườn mì hoặc phai lưng giữa biển. Nào là chuyện một thằng gù ngớ ngẩn nhảy tàu theo người khác vượt biển sang Ca-na-đa, giờ trở thành triệu phú. Y gửi về tấm hình chụp y đứng giữa hai chiếc ô tô. Nào là chuyện ở Châu Đốc người ta tìm được một tên ác ôn giả làm sư trong chùa. Tên này trước đây đã giết một trăm linh ba cán bộ Cách mạng xâu một trăm linh ba cái tai phơi khô bằng một sợi dây thép. Hắn cũng tự nhận là ăn ngót sáu mươi bộ gan người nên có sức khỏe phi thường như Hạng Võ. Nào là chuyện mấy cô gái Thái Bình, Hưng Yên vô trong này vỡ đất làm lúa, cô nào cô nấy mập mạp như khúc giò, ăn bận kỳ hết chỗ nói...

Tôi lắng nghe tất cả những thứ chuyện trên trời dưới biển ấy, dạo quanh các dãy quán. Tiếng chào mời của các cô bán hàng ríu rít như tiếng chim. Màu áo họ mặc cũng chói chang như những loài hoa dại. Chợt tôi nhận ra tiếng còi xe quen thuộc của chiếc Dép ngoài đường. Lách đám người, tôi rẽ về phía xe đó. Vọp đang nhớn nhác chạy theo một cô gái nào đó đưa cho cô ta chiếc túi. Thấy tôi, cậu vội dúi nó vào tay người con gái kia rồi hấp tấp quay lại:

- Chú Hưởng, chú lành chưa?

Tôi gật đầu:

- Ít nhất cũng ngồi được lên chiếc Dép cà khổ của cậu. Cô bạn mới nào thế ?

Chàng trai sửng sốt:

- Đâu có? Đó là... - tới đây, cậu ta dừng lại, nhảy lên ghế ngồi nổ máy và bảo tôi: - Về thôi chú. Trời nắng quá mà.

Mắt chàng trai nhìn tôi ẩn chứa một hàm ý nào đó mà tôi không đoán ra. Suốt dọc đường về Vọp không chuyện trò ròn rã như mọi bận, chỉ huýt sáo mãi một giai điệu quen thuộc. Chúng tôi phải dừng lại bên một cây cầu mất nửa giờ vì sặc xăng. Khi về tới nông trường trời vừa đứng nắng. Tất cả các dãy nhà im phắc. Đám bà già con nít đang ngủ trưa. Còn hầu hết các đội sản xuất đi làm ở các lô tiêu xa nên mang võng ngủ trưa tại chỗ. Đón tôi chỉ có mấy nhân viên hành chính và một cô cấp dưỡng dưới bếp ăn lên. Họ đang đánh bài để chống đỡ cơn buồn mệt mỏi:

- Chú Hưởng, chú về muộn chút nữa tụi cháu ngả mâm cơm phần ra ăn mất. Thứ gió này đói bụng thấy ông nội luôn.

- Vắng chú buồn quá hà. Khu văn phòng lảng vào trong xóm dân chơi hết. Mỗi một thiếu tướng Quắc giữ mấy cây đèn thôi.

Đám nhân viên văn phòng vốn sợ Quắc. Họ lén phong cho anh chức thiếu tướng để châm biếm vì vẻ uy quyền khe khắt của anh. Tôi mỉm cười lảng sang chuyện khác. Cô cấp dưỡng lật chiếc lồng bàn nhựa, đặt mâm cơm trước mặt tôi. Đúng là một bữa cỗ sang trọng ở vùng đất hẻo lánh này. Từ gà luộc chặt miếng, gà xé phay tới chả rán, chả kẹp đều có đủ. Duy có điều đáng tiếc là món nào món nấy nguội tanh. Chúng tôi vừa ăn uống vừa tán dóc hồi lâu. Mãi tới hai giờ chiều mọi người mới rủ nhau về.

Buồn, vắng lặng, tôi chợt nhớ tới đất liền. Cái thánh phố biển mà tôi đã sống trong một thời gian quá ngắn ngủi. Những dãy nhà dưới nắng. Những khu vườn kín đáo có hàng rào quét vôi chạy quanh và có những vòm hoa chìa ra đường rắc bóng râm lên đầu khách hộ hành. Tiếng xe lôi chạy lọc xọc xen lẫn tiếng còi ô-tô và hon-da. Tiếng lục lạc reo dưới cổ chú ngựa kéo xe thổ mộ. Giá tôi cứ nhận công việc ở Ban khai hoang cũng được. Đó là khả năng thứ hai mà người ta đã nêu ra. Dẫu sao tôi cũng sẽ có một thành phố nhiều kỳ thú. Tuy khu chợ ồn ào, mùi bùn thối rữa từ các bến sông tanh sặc cá chết bốc lên tối ngày nhưng cuộc sống vui nhộn liên tục. Cuộc sống ấy thích hợp với một người đàn ông lẻ loi như tôi. Thiếu một bát cháo nóng, một tô phở, một cây kem chỉ cần lên tiếng gọi là có. Muốn xem phim, xem hát chỉ cần tốn vài ba đồng là thỏa mãn ngay. Và trong đám đông của thành phố biết đâu tôi chẳng gặp được một người đàn bà có khả năng yêu thương mình? Nhưng tôi đã lãnh nhiệm vụ ra đảo một cách nhiệt nồng và đơn giản quá. Tôi chưa kịp suy tính... Nằm nghĩ lan man mãi tới chiều, nghe tiếng Quắc tôi nhỏm dậy:

- Thế nào, thuận buồm xuôi gió chứ? - Tôi hỏi anh với nỗi vui mừng của một kẻ đồng sự vừa xa cách và niềm sung sướng của một người đàn ông muốn chạy thoát sự cô đơn đang ám ảnh mình.

Nhưng Quắc đáp lại bằng cái giọng chủng chẳng:

- Thường thường.

Tôi tưởng anh có điều gi đó giận dỗi nên nói:

- Mình sốt ruột quá mà chẳng sao báo tin cho cậu được. Sáng gọi điện thoại về chỉ gặp văn thư. Cô ấy nói cậu đã lên vườn tiêu từ sớm.

Quắc lẳng lặng cởi áo, rút khăn lau mồ hôi. Tôi hỏi liếp:

- Công việc ra sao rồi ?

Người bạn đồng sự hất hàm :

- Đó. Vô số thứ còn chờ anh.

Nói xong Quắc cầm chậu thau xuống khe rửa ráy. Tôi nhìn chồng công văn, thư từ đặt dưới hòn đá chặn bỗng thấy ngao ngán.

Có lẽ mình đã lầm. Thật sự lầm...

Tôi tự nghĩ. Trên mái nhà chiếc làn nhựa treo tòng teng bị gió lắc. Làn bánh soài Quắc vừa đổ trong thời gian tôi nằm viện. Anh ta đã chuẩn bị cho kỳ nghĩ phép sắp tới.

- Một con người kỳ quặc. Giống như một chiếc hòm. Bên trong nó có thể chứa đựng rất nhiều thứ nhưng cũng có thể không chứa đựng gì hơn ít bụi mốc. Nhưng dù có hay không, sống với một cái hòm cũng thật khổ tâm.

Quắc đi từ khe nước lên, cất cái chậu thau vào góc nhà. Anh lục túi tìm ra chiếc lược cẩn thận chải tóc trước một mảnh gương vỡ. Bếp ăn bưng cơm lên. Đồng thời tiếng kẻng chiều cũng vang lên từng hồi dóng dả. Tôi bảo Quắc là ngang dạ không muốn ăn cơm nữa. Rồi tôi lấy võng ra sau vườn. Ở đó có hai cây soài đứng cách nhau vừa đủ tầm mắc một chiếc võng. Vòm lá tươi xanh thơm hăng hắc mùi nhựa lẫn mùi nắng rất dễ chịu. Tôi nằm, ngắm những đốm nắng cuối cùng của hoàng hôn in trên ngọn cây. Rồi trời tối mịt. Những con dơi bay chập choạng trong bóng đêm tìm muỗi. Lác đác đã có những vì sao hiện lên cùng với sao Hôm. Gió từ dưới khe nước thổi tới xua làn khí nóng còn lưu lại. Không gian dần êm dịu và mát mẻ hơn. Tôi lơ mơ ngủ.

Lát sau, chợt có bàn tay ai đặt nhẹ trên lớp băng cuộn vết thương. Bàn tay mơ hồ lướt trên cánh tay tôi, biến mất trong khoảnh khắc rồi lại máy động trên lớp vải áo. Tôi choàng mắt dậy :

- Cô Huệ !

Không hiểu sao bằng linh cảm tôi đã gọi đúng tên người đàn bà ấy. Cô chỉ là một cái bóng kề sát bên tôi, trong khoảng tối thẫm của khu vườn. Gọi xong, tim tôi đập thình thịch vì hồi hộp và vì sợ lầm lạc. Người đàn bà đứng lặng hồi lâu, rồi cô cất tiếng:

- Vết thương của ông đã lành chưa?

Đúng là tiếng nói của cô, không thể trộn lẫn bất kỳ tiếng ai khác. Một giọng nói nhiều biến đổi, lúc bổng lúc trầm, lúc trong như nước mưa, lúc rối ren như cỏ rậm. Người tôi chợt nóng ra vì vui mừng. Chính tôi cũng không hiểu tại sao mình lại sung sướng như đứa bé được nhận quà. Tôi đáp:

- Sắp lành rồi. Chỉ vài ngày nữa thôi.

Nói xong tôi im bặt chờ đợi tiếng người đàn bà. Mắt đã quen với bóng tối, tôi nhìn rõ dáng hình cô: cả đường nét cơ thể, cả gò trán bướng, cả những lọn tóc buông xuống bên vai, cả mùi hương riêng biệt khó gọi được tên. Huệ lai đứng im lặng như lẫn vào cây vườn. Tôi chờ mãi đâm hốt hoảng “Sao bỗng dưng cô ta im bặt thế nhỉ?”. Tôi tự hỏi. Đúng lúc ấy Huệ lai thì thầm :

- Ông Hưởng, ông có giận tôi không?

- Không! Không!

Tôi hấp tấp đáp lời. Lúc đó, tôi có một thèm muốn rõ rệt là nghe Huệ lai nói. Dường như sự im lặng thật khắc khoải, nặng nề và bóp nghẹt trái tim tôi. Tôi đón nhận những âm thanh hiếm hoi từ miệng cô phát ra với lòng hân hoan của một thiếu niên thơ ngây, nồng nhiệt. Có lẽ những giây phút lẻ loi vừa qua khiến tôi rơi vào trạng thái ấy.

Người đàn bà vẫn đứng im trầm ngâm suy nghĩ. Tôi hình dung rõ hai làn má trắng mịn như đá phấn của cô, cả đôi mắt mênh mông dưới bóng vườn tối thẫm. Một con chồn vụt chạy qua khiến Huệ lai giật mình. Tiếng sột soạt tắt trong bụi rậm. Người đàn bà suy ngẫm chút nữa rồi lại hỏi :

- Ông có thù tôi không?

- Không!

Tôi đáp rành mạch. Câu trả lời ấy có lẽ đã gây xao xuyến trong người đàn bà sắt đá và táo tợn. Tôi cảm thấy cô ta rùng mình và hai thái dương đỏ lựng lên. Hình như cô ta đã phải kìm giữ để khỏi thốt lên một lời nào đó. Lời nói đó chắc sẽ vô cùng trọng đại đối với cuộc đời tôi. Điều phỏng đoán khiến tôi run rẩy. Tôi thấy hơi thở nóng hổi của chính mình. Tôi cũng thấy hai bàn tay tôi chợt nắm cứng đơ. Chắc hẳn Huệ lai cũng cảm nhận được phần nào. Cô ta cúi đầu khe khẽ thở dài. Sau đó ít phút, cô ta cao giọng hỏi:

- Thế theo ông tôi là người như thế nào ?

Tiếng nói của Huệ lai vói lên cao ngạo và căng thẳng. Nhưng tôi biết được sau câu hỏi ấy là sự phấp phỏng, xao xuyến như chính bản thân tôi. Tôi bỗng thấy thương người đàn bà trơ trọi đó. Giây phút ấy tình thương còn mạnh mẽ và lấn át sự say mê. Tôi đặt tay lên vai Huệ thong thả đáp:

- Cô là một người đàn bà... - Ngừng lại vài giây đắn đo chọn lời, tôi tiếp: - Một người đàn bà đã từng đau khổ và cần được yêu thương dìu đỡ…

Một ngọn lửa vô hình phóng rọi từ trái tim người đàn bà sang tôi, thiêu đốt những rơm rác cuối cùng che phủ trên đồng ruộng. Rồi sau đó đất đai tươi rói phơi bày. Huệ lai òa khóc, lao đến ôm choàng lấy tôi. Cả một triền sóng ấm nồng xa lạ trùm phủ thân xác và tâm hồn tôi, khiến tôi sững sờ kinh hoảng. Nhưng sau giây phút ban đầu tôi nghe rõ tiếng nức nở rất đàn bà, tôi cảm nhận được những giọt nước mắt thấm trên vai mình bị gió thổi ướt lạnh, tôi ngửi thấy hương thơm nhẹ nhàng trong mái tóc cô tỏa ra mùi cỏ mần trầu lẫn mùi hoa hương nhu và một thứ dầu thơm nội hóa… Tôi chợt bình tĩnh cứng cỏi hẳn lên. Dù còn ngây ngất vì những cảm xúc mới lạ nhưng tôi đã biết mình là một người đàn ông đích thực. Niềm kiêu hành ngấm ngầm lan tỏa trong tôi, hòa lẫn những khát khao đã trú ngụ qua nhiều năm tháng. Mùi thơm trong mái tóc Huệ lai trở thành lớp khí trời vây bọc lấy tôi, nhào nặn tôi theo hình dáng niềm hoan lạc. Và những con sóng từ lâu ngủ vùi dưới đáy nước bỗng trồi lên, cuộn xoáy và gào thét... Hạnh phúc đã tới với tôi, đột ngột quá, mãnh liệt quá. Tôi không sao ngủ được. Khi Huệ lai đã trở về lán, tôi còn trăn trở mãi trên võng nhìn những ngôi sao lọt qua kẽ lá, lắng nghe tiếng biển ầm ì gào thét, bước chân sột soạt của bày chồn ăn đêm và thỉnh thoảng con cú rúc trong các vòm cây rậm.

- Có lẽ nào mình cô đơn mãi sao? Cuối cùng cuộc sống đã công bằng... - Tôi thầm nói với niềm mãn nguyện. Gần sáng tôi ngủ thiếp đi...

Khi tôi sực tỉnh, mặt trời đã mọc. Tia sáng của nó xuyên qua đám lá soài rọi thẳng vào mắt tôi. Vọp từ khe nước đi lên gọi:

- Chú Hưởng, ngủ đêm ngoài trời như vậy dễ bịnh lắm đó. Hôm nay chú có rảnh vào rừng săn gà lôi với tụi cháu?

Tôi lắc đầu :

- Còn một chồng công văn, thư từ đang đợi. Các cậu cứ đi với nhau cho vui.

Chàng trai nài nỉ:

- Tụi cháu nghe nói chú bắn khá lắm. Bữa nay chủ nhật, nghỉ đã. Làm việc ngày nào mà không được? Cháu chỉ ngại vết thương chưa lành...

Trông cậu bé thật dễ thương, nhưng tôi cương quyết chối từ. Kể ra vết thương chưa lành hẳn ở cánh tay trái không hề ảnh hưởng tới đường đạn. Nhất là thứ đạn bắn gà lôi. Nhưng tôi phải làm bản báo cáo gửi về đất liền. Tuần sau, Quắc sẽ làm nhiệm vụ ấy. Anh ta nhắc từ lúc tôi còn ở trong bệnh viện.

Đám trai độc thân trong nông trường rủ nhau vào rừng hết. Sáng nay Quắc đáp xe Lambro xuống chợ mua sắm cho kỳ nghỉ tới. Nếu Quắc ở nhà không đánh bột đổ bánh, anh cũng đục đẽo cái này, sửa sang cái kia ầm ầm như xưởng rèn hay xưởng mộc. Tôi mở cửa sổ hết cỡ cho gió sớm ùa vào rồi ngồi xuống ghế lật chồng công văn. Chợt hai con mắt đen láy thập thò ngoài khuôn cửa. Rồi sau đó bé Ly thận trọng bước vào nhìn trước, nhìn sau, thì thào nói:

- Bác Hưởng, má con gởi cho bác nè!

Nó đặt lên bàn một chiếc làn tre nhỏ có nắp. Tôi lật chiếc nắp lên. Trong làn có một tô miến gà bốc khói và một gói lớn bọc lá chuối:

- Bánh bột lọc nhân thịt gà tiêu đỗ đấy bác hà. Ngon lắm cơ. Hôm qua má con xuống chợ mua về để bác ăn cho khỏi bịnh.

Như vậy, tôi vỡ lẽ. Hóa ra cô gái mà Vọp nhớn nhác chạy theo dúi cho chiếc túi là Huệ lai. Hẳn cô ta đã nói cho cậu lái xe biết nên suốt dọc đường đi cậu ta cứ huýt sáo tràn và thầm vụng nhìn tôi bằng con mắt đầy hàm ý. Một cảm giác sượng sùng, nửa như lo âu, nửa như bực bõ gợn lên trong tôi.

-Không hiểu cậu ta nghĩ thế nào về chuyện này ? -Tôi tự hỏi. Dẫu sao tôi cũng muốn đừng ai biết, đừng ai chõ mũi vào đời mình. Thấy tôi thẫn thờ, con bé Ly ngước mắt nhìn :

- Sao vậy bác ?

Tôi lắc đầu :

- Bác có sao đâu ?

Con bé cầm tay tôi ân cần :

- Thế bác ăn đi cho nóng. Má con bảo phải ăn miến trước rồi ăn bánh sau.

Sự chu tất của người đàn bà với đứa bé khiến tôi cảm động. Tôi quên đi ý nghĩ vừa thoáng qua :

- Bé Ly ngoan lắm. Bác ăn ngay đây. Cháu về bảo với má là bác Hưởng khen ngon.

Tôi bảo đứa bé như vậy. Nó gật đầu, lon ton chạy về. Tô canh miến thịt gà xé vẫn bốc khói nghi ngút. Tôi lật tấm lá chuối hơ mềm bóng loáng mỡ ra xem: Có tới gần hai chục chiếc bánh lọc. Bột trong suốt nhìn rõ lớp thịt gà vằm lẫn tiêu xanh và đỏ nghiền nhỏ bên trong. Huệ lai quả là một người đàn bà khéo léo. Tôi hình dung lại buổi trưa cô ta đóng vai thủ lĩnh cầm đầu đám đông lên gặp tôi chất vấn đòi nộp mạng Phức. Không ai nghĩ được rằng vị thủ lĩnh đó lại có thể nặn được những chiếc bánh tròn trặn khéo léo này. Đàn bà thật bí ẩn, và sung sướng thay khi ta nắm giữ được người đàn bà bí ẩn đó. Tôi mỉm cười. Trên bàn, một cốc nước sóng sánh mặt trời, phản chiếu ánh sáng của nó vào mắt tôi...

Chiều hôm đó, lúc đám trai tráng ở rừng về đang nhóm lửa quay gà, tôi đem chiếc làn tre và bát xuống lán trả Huệ lai. Một đám đàn bà con gái trong đó có cả bà trăn tinh Kiều Nga đang xúm quanh Huệ chuyện tào lao cười rũ rượi. Tôi đi loanh quanh lúc lâu họ cũng không chịu giải tán. Mãi sau, con bé Ly bỏ ra ngoài tôi mới gặp được nó, đưa chiếc làn cho đứa trẻ, tôi khẽ bảo:

- Nói với má con rằng lên gặp bác có việc nhé.

Dứt lời hai mang tai tôi nóng lên. Niềm hoan lạc, những phút giây hạnh phúc ngắn ngủi đêm qua bừng bừng thức dậy. Tôi chợt thấy hoảng sợ vì chính sự táo tợn của mình. Rất có thể Huệ lai sẽ cho tôi là một kẻ khả ố và quê mùa. Ở vào tuổi tôi và địa vị của mình, tôi không nên có những hành động bồng bột rồ dại như vậy.

Tuy thế, buổi tối tôi vẫn mắc võng dưới vườn soài chờ đợi. May sao lũ thanh niên trong văn phòng mải chơi cờ nên không để ý tới tôi. Tôi nằm võng chơi chừng nửa giờ, người đàn bà đi đến. Tiếng chân bước trên lá khô sột soạt như chân chồn. Nhưng mùi hương từ mái tóc và mồ hôi trộn vào nhau tỏa trong không gian khiến tôi nhận được cô ngay. Tôi ngồi nhỏm dậy:

- Huệ!

Tiếng gọi của tôi vừa thắc thỏm vừa sung sướng. Huệ lai đã đến sát bên võng đáp lại bằng một giọng êm nhẹ :

- Ông kêu em có việc gì vậy, nói cho em biết để em còn về tắm ?

Tiếng người đàn bà rơi từng giọt, ngọt ngào. Dáng vẻ cô nhu mì quá. Và những đường cong mềm trên thân cô khắc trên bóng vườn tối thẫm những niềm khao khát đang thức tỉnh. Khoảnh khắc đó, hạnh phúc dâng lên, tràn ngập. Mọi thứ lùi về phía xa: cả quá khứ, cả những cách biệt, cả những định kiến và những niềm tin. Mọi thứ đều ở ngoài chân trời của chúng tôi. Tôi ôm người đàn bà vào ngực, ghì riết đến nỗi vết thương trên cánh tay trái đau nhói. Nhưng cả nỗi đau cũng không còn hiệu lực trong lúc này:

- Tôi yêu em, Huệ ạ... Yêu em rất nhiều.- Tôi lắp bắp.

Người đàn bà trả lời tôi trong hơi thở dồn dập và nóng hổi:

- Em cũng vậy. Em thương ông.

Nụ hôn của cô dài và nồng nhiệt. Mái tóc cô lấp hết khoảng trời sao trước mắt tôi. Tôi chỉ còn thấy những ngôi sao nhỏ và giả tạo như đá trên mặt nhẫn qua những sợi tóc thơm mùi cỏ mần trầu. Chút mồ hôi đọng dưới gáy tỏa ra một thứ mùi thơm của da thịt và đời sống. Mùi thơm đó xóa đi khoảng cách cuối cùng còn lại giữa hai con người, dắt tôi tới niềm hoan lạc của ái ân. Đã bảy năm nay, từ ngày vợ chết, hạnh phúc đó mới trở lại tim tôi. Buổi tối hôm trước, vì tiếng khóc nức nở của Huệ lai, vì vòng tay ôm cuồng nhiệt và đột ngột của cô, niềm ái ân đến với tôi bàng hoàng như cảm giác của một giấc mơ. Giờ đây, nó đến với tôi với thịt da nóng ấm của đời thường. Tôi yêu người đàn bà đó. Bên ngoài ánh mắt cô, những ngôi sao lùi xuống đường chân trời, nhợt nhạt bất động.

- Đừng giận em nữa nghen...

Cô nói với tôi bằng một giọng cầu khẩn nhún nhường. Dù là Huệ lai, khi yêu cũng trở nên dịu hiền như con thỏ. Cô khiến tôi cảm động. Tôi vuốt ve bàn tay cô và trả lời:

- Chưa bao giờ tôi giận em hết.

Lúc người đàn bà ra về, trong nụ hôn tạm biệt, tôi thì thầm:

- Đến với tôi nhé.

- Dạ!

Huệ đáp. Rồi cô lẹ làng bước khỏi vườn soài, mềm dẻo như con hươu bước trên những sườn non...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét