NẮNG ẤM CUỐI CHIỀU XUÂN
Phần 1
Dương Thu
Hương
Bấy giờ là tháng bảy, những
cơn mưa ngắn ngủi khô rất nhanh trên mặt đường. Thành phố biển oi nồng, vì hơi
nóng tỏa ra từ các bức tường, vì mùi tôm cá ươn bốc lên trong các bến, vì làn bụi
đậm suốt ngày lơ lửng trong không trung, và cả vì những chùm hoa giấy đỏ gắt
vươn qua hàng rào các khu vườn. Ở Chợ Lớn, các cô bán dưa hấu cắp các mẹt hàng
vào bụng hoặc đội trên đầu lượn quanh những dãy quán rao ơi ới. Đan vào tiếng
rao của họ là tiếng rao của lũ trẻ bán kem, của mấy ông già bán bánh bò, bánh
linh lăng, bánh cua ròn, và mấy bà nạ dòng bán bánh chuối tẩm bột. Đám người chợ
búa xôn xao như bầy ong. Tất cả những âm thanh ấy gia tăng thêm sức nóng của mặt
trời.
Tôi đứng chờ. Lòng bực tức
không hiểu sao người ta lại đặt Ban khai hoang của tỉnh vào tòa nhà trước cửa
chợ. Ngồi trong phòng cũng khó tĩnh tâm vì trăm ngàn tiếng động ném rào rào lên
kính cửa. Thêm nữa, người tới làm việc đông, nhưng mấy cô văn thư luôn luôn tìm
cách biến. Vòng ra sân sau, các cô sà vào hàng bún bò giò heo, bánh chuối rán,
hoặc chè thập cẩm ngồi hàng giờ. Mặc cho khách chờ một con dấu ê lưng. Tôi
không chờ một con dấu như họ. Tôi chờ một con người. Anh ta tên là Quắc, nguyên
là cán bộ tài chính một tỉnh miền Trung chuyển vào đây sau giải phóng. Anh ta sẽ
là phó giám đốc cho nông trường tôi tiếp quản. Một nông trường ngoài đảo, cách
thành phố tám mươi tư hải lý. Nông trường này thành lập trước đây một năm, thu
thập đám dân vỉa hè của các thành phố biển, những kẻ lang thang làm mướn khắp
các miệt đồng, và những người bị rượt đuổi ở các chi khu quân sự sống lay lắt bằng
đủ thứ nghề vặt vãnh. Nghe nói tình hình ngoài ấy xấu lắm nên họ cử tôi, một
trung tá chuyển ngành ra nhận chức giám đốc, với một cán bộ tài chính sắt thép
đủ năng lực chế ngự đám dân ô hợp đó.
Tôi đợi thêm nửa giờ nữa.
Trong chợ xuất hiện một người đàn ông thấp lùn. Vai ngang, ngực nở, bận áo sơ
mi màu da trời đã cũ và chiếc quần len đen. Một khuôn mặt ngắn, hai lưỡng quyền
rộng vừa cao. Cặp mắt hẹp màu chì. Mũi hơi gãy và cằm bạnh. Người đàn ông len lỏi
giữa hai dãy hàng quán đi tới trụ sở Ban khai hoang Ty nông nghiệp. Nhìn dáng
điệu anh ta, tôi linh cảm đây là người mình chờ đợi, người cộng sự gần gũi nhất
trong đoạn đời phía trước. Người đàn ông đã leo lên bậc thềm. Không thèm bỏ chiếc
mũ cối chụp trên đầu, anh ta hỏi tôi:
- Anh tên là Hưởng?
Tôi ngạc nhiên nhìn những giọt
mồ hôi rơi lã chã từ chiếc cằm bạnh xuống cổ áo.
- Vâng. Sao anh biết?
Người đàn ông đáp:
- Biết chớ. Tôi là Quắc. Tôi
sẽ làm phó cho anh. Cấp trên bảo chúng ta phải ra đảo ngay hôm nay. Vé tàu tôi
đã mua rồi.
Anh ta rút trong túi ngực
hai chiếc vé:
- Bảy đồng tám hào. Anh trả
cho tôi.
Tôi móc ví lấy tiền trả Quắc.
Anh ta nói tiếp:
- Hai giờ chiều tàu chạy.
Anh lo kiếm đồ ăn đi. Cả đêm nay với ngày mai nữa. Phần tôi, tôi có rồi.
Nói xong anh ta đi tuột vào
trong trụ sở.
Tôi đứng thêm một lát, sững
sờ vì cuộc gặp ngoài ý tưởng. Tuy nhiên, ánh nắng gay gắt bò tới chân thềm nhắc
tôi rằng đã non trưa. Kiếm một quán cơm, tôi ngồi ăn thật no rồi mua máy ổ bánh
mỳ, mấy cặp bánh ú và một túi dưa Hoàng Kim. Xong xuôi, tôi ra khỏi khu chợ, lững
thững bước dọc theo kè đá đến bến tàu.
Con tàu nằm bên đám thuyền
buôn vừa cập bến. Gọi là tàu nhưng nó nhỏ bé dúm dó đến tội nghiệp. Nước sơn
tróc từng mảng. Rỉ sắt hoen quanh thân. Nơi ngàn nước hà bám thành vệt xù xì. Một
tấm ván nứt toác bắc từ sàn tàu lên kè đá. Những bà lái buôn gánh dưa dẫm lên
ván khiến nó nhún nhảy một cách kinh sợ. Tôi ngồi dưới hiên ngôi nhà nguyện của
dòng Tin Lành, giờ cửa đóng im ỉm đứng lạc lõng bên cái bến tàu ồn ào dơ dáy.
Gió mặn từ cửa biển phả lên làn hơi mát tanh ngái. Những cành hoa giấy đỏ vươn
qua hàng rào. Bóng áo đàn bà thấp thoáng sau các vòm cây rung rinh nắng. Và tiếng
rao của những người bán quà rong ở bến cảng lẫn các phố xung quanh vọng tới khiến
tôi đờ đẫn dần. Tôi ngủ đi lúc nào không rõ. Cho tới khi một bàn tay nặng trịch
đập lên vai:
- Xuống tàu. Hai giờ kém mười
rồi...
Tôi mở mắt, Quắc đứng lừng lững
trước mặt tôi:
- Đi thôi.
Nói xong, anh ta quay lưng bước. Tôi khoác ba lô bước theo. Chúng tôi đi qua tám ván nhún nhảy xuống tàu. Khắp sàn, những sọt dưa Hoàng Kim bộn bề chát ngất. Một bà lái buôn ngồi chom hỏm giữa đống dưa, khuôn mặt đen và gân guốc như mặt gã dô kề. Cuối cùng chúng tôi cũng tới được chỗ ngồi. Chỗ ngồi đây chỉ là những tấm ván bào sơ sài đặt song song trong khoang không có lưng tựa, cũng không ghi số thứ tự. May sao chúng tôi tìm được chỗ áp thành tàu. Ở đây có thể nhìn trời và biển qua ô cửa hẹp. Mặt khác, có thể dựa lưng nghỉ ngơi dù thành tàu bốc mùi nước mắm và đầy những vết dầu lem luốc. Tàu không nhổ neo đúng giờ. Đám thủy thủ la cà nhậu nhẹt trên phố mãi tới ba giờ kém mười lăm mới chệnh choạng bước lên cầu tàu. Ba giờ hơn họ nổ máy cho tàu rời bến.
- Không có luật tắc chi hết.
Đã vậy lại ngu như heo.
Quắc làu bàu, nhổ nước bọt
liên tiếp qua ô cửa. Tôi hỏi:
- Sao thế anh bạn ?
Quắc đáp:
- Phỉ thui. Nó nhổ neo giờ
này là giờ tắc tử. Dân đi biển rành không bao giờ ngu như vậy.
Những bãi nước bọt chưa tan
trên mặt nước. Tôi thầm ngạc nhiên vì tính nết của người cộng sự. Với gương mặt
chai sạn vả cục cằn ấy, không thể ngờ anh ta lại mê tín như một bà già.
“Dẫu sao Quắc cũng sẽ là người
thân số một của mình trên vùng đất lạ. Phải biết bỏ qua những điều dị biệt. Và
phải biết tin yêu nhau trên cơ sở lợi ích chung. Biết đâu tính cách của anh
chàng lại thích hợp với công việc ?...”.
Tôi nghĩ vậy để dẹp bớt vết
cộm trong lòng. Tôi bảo Quắc:
- Cậu đói bụng chưa? Chúng
mình cùng ăn cho vui.
- Anh cứ ăn trước. Tôi có phần
của tôi rồi.
Nói xong Quắc vỗ bồm bộp chiếc
sắc du lịch đã hỏng khóa được buộc kín bởi năm nút dây khâu vào hai bên. Tôi
nhìn ra ngoài ô cửa. Nước chưa xanh vì còn quẩn bùn. Trong mùi sóng, thấy rõ những
rác rến mà thành phố đã táp vào bãi sú. Con tàu rú còi, vượt cửa sông. Đêm ấy
trăng đẹp làm sao. Mặt biển sáng lên như trái cầu bằng bạc. Tôi không ngủ. Tôi
thắc thỏm hình dung ngày mai. Một nông trường đang gây dựng, náo loạn và có
nguy cơ tan vỡ. Những con người xa lạ. Những khó khăn không thể nào lường trước.
Tôi sẽ sống ra sao ở đó? Tôi sẽ làm gì? ...
Quắc há mồm ngáy từng hồi.
Tôi nhìn người bạn đồng sự, thấy nỗi cô đơn kề sát bên mình. Ngả lưng vào thành
tàu, tôi cố gắng ngủ. Chiều hôm sau tàu cập bến. Hòn đảo hiện ra ngay dưới tầm
mắt chúng tôi với những bãi cát phẳng lặng, những khu vườn tiếp giáp đồi cỏ và
rừng non, những con đường cát đỏ. Thị trấn nhỏ bằng bàn tay nhưng ồn ào và sặc
sỡ. Nhiều quán ăn và tiệm bán trái cây. Những người đàn bà cao lớn, da rám nâu,
nói tiếng véo von như chim hót. Nghe mười câu mới hiểu nổi một câu nói của họ.
Quắc nhìn tất cả bằng con mắt thận trọng. Tôi chưa thấy anh cười từ khi gặp
mình nên châm chọc một câu:
- Cô bán cá kia xem chừng vừa
đôi với cậu đấy. Đất lành chim đậu luôn đi.
Quắc gườm gườm nhìn cô gái xứ
đảo tôi vừa chỉ, sì một tiếng thật to qua kẽ răng:
- Thứ đó tôi đá một đá văng
qua mũi Cà Mau luôn.
Rút cục anh ta vẫn không chịu
nhếch môi cười. Tôi thất vọng im lặng bước đi. Chúng tôi ra khỏi thị trấn chừng
năm trăm mét gặp xe nông trường tới đón Cậu lái xe chỉ độ mười bảy, mười tám tuổi.
- Nghe tàu hú còi cháu cho
xe chạy thí mạng mà vẫn không kịp. Hai chú bỏ lỗi cho ... Dọc đường còn phải dừng
mấy lần hỏi thăm. Cứ thấy hai người đàn ông một cao một thấp là ngờ ngợ - Cậu
bé nói với một nụ cười.
Tôi hỏi:
- Sao cháu biết?
Cậu bé đáp:
- Bữa công văn xuống nông
trường có cán bộ Ban khai hoang xuống luôn. Ảnh tả hình dáng các chú như vậy.
Nói rồi chàng trai lột chiếc
mũ Cát-skét đội đầu vốn đã bẩn ghê gớm lau chiếc ghế rách lòi cả mút đệm bên
trong mời tôi.
- Chú Hai ngồi đây cho êm.
Còn chú Ba thì ... - Cậu ta nhìn Quắc ngượng nghịu như mắc lỗi - Ghế đó …
Chiếc ghế dài phía sau đã bị
gỡ. Thế vào đấy là một chiếc ghế gỗ vừa đóng bằng ván tươi bào sơ sài xiên xẹo,
trông cục mịch như thứ ghế ghép vào xe trâu chở lúa.
Quắc hừm hừm trong họng đẩy
tôi lên phía trước:
- Anh già hơn tôi lên đó mà
ngồi. Tôi còn sức chịu được thứ quỷ này. Chắc từ đây về nông trường nó cũng dằn
cho đít thành chai.
Chiếc Dép kéo theo rơ-móc.
Thứ toa chở hàng kì cục đó nhảy tưng tưng trên đường. Quắc bảo tôi:
- Xe cộ gì trông như đồ thổ
tả?
Rồi anh quay sang hỏi cậu bé
lái xe:
- Mày tên gì ?
- Dạ cháu tên Vọp.
- Xe ngựa của nông trường cả
thảy có mấy chiếc?
- Dạ, chỉ có chiếc Dép khổ
này thôi. Phải ghép rơ-moọc vào chở thực phẩm. Nghe nói trước kia có chiếc
Pơ-giô ngon lành lắm. Nhung ông giám đốc cũ đem đổi cho tay Ba Hơn chủ trại lấy
chiếc Dép này. Xe chi mà hệt cái thùng xả rác. Cháu mới nói tổ thợ mộc đóng cho
chiếc ghế gỗ sau đó. Trước nó trông lơn lởn. Máy móc hư trơ trọi, vừa đại tu hết
cả chục ngàn.
Quắc gằn giọng:
- Xe mới giá cũng chỉ ngần ấy
thôi. Làm ăn kiểu lưu manh ... Này, hồi chạy chiếc Pơ-giô mày cũng ở đây sao?
- Đâu có? Cháu vừa được bổ
sung ra đảo. Trước các chú một tháng sáu ngày. Vị chi năm chúa nhựt...
Nói xong cậu bé quay lại cười.
Tôi thấy gương mặt cậu sáng ngời ngợi.
Xe chúng tôi đi qua những
trái đồi thấp. Đường ở đây rất xấu. Vô số ổ gà. Thỉnh thoảng, một chiếc rãnh cạn
lại xoáy sâu xuống nền đá cấp phối, đào trơ lượt đất đỏ dưới cùng. Hai bờ đường
cỏ lau phơ phất trắng. Còn sau nó là những vườn đào lộn hột đang thay lá. Từng
đám lá vàng xáo động giữa vòm xanh. Tôi lần lượt nhớ lại những điều người ta đã
nói ở Ban khai hoang tỉnh. Chúng tôi phải gây dựng một vùng dân cư mới, sinh sống
bằng cây hồ tiêu và những hạt đào rang xuất khẩu. Và cuộc sống đó bắt đầu với
những con người bị trôi dạt sau chiến tranh, họ hoàn toàn xa lạ với mình. Tôi
nhìn gương mặt nghiêng nghiêng của cậu bé Vọp, cố tìm câu trả lời. Nhưng chỉ thấy
một bên má bầu bĩnh phơn phớt lông măng.
Vừa tới nông trường thu xếp
nơi ăn chốn ở xong, Quắc rủ tôi xuống thăm các đội sản xuất. Hôm đó là ngày chủ
nhật. Các nông trường viên nghỉ làm. Lán họ ở rải rác dọc theo khe nước. Từ
nông trường bộ xuống các lán phải qua những vườn mít, vườn khoai của đám nhân
viên hành chính. Đa số đã có gia đình và là nông trường viên ngoài Quảng Binh,
Vĩnh Linh chuyển vào. Những người dân cần cù này tới đâu, tức khắc ở đó mọc lên
những mảnh vườn rào kiên cố, những chuồng heo, chuồng gà và những luống cúc vạn
thọ hoặc hoa mồng gà nhỏ xíu. Các mụ gà mái túc túc dẫn bầy con đi ăn dưới gốc
mít. Vài con lợn ủn ỉn trong chuồng. Một đứa con gái tóc buộc túm đuôi gà ngồi
thái cây chuối trên sân đất. Cảnh sinh hoạt của thôn ở hiện lên ngay trong chiếc
cổng chào kết bằng lá dừa mang dòng chữ Nông trường Chiến Thắng.
Quắc có vẻ hài lòng khi nhìn
những luống khoai mỡ xanh um. Anh gật gù bảo tôi:
- Cán bộ của mình chịu
thương chịu khó thật. Tới đâu cũng gây dựng được đàng hoàng.
Tôi không nghĩ như anh.
Nhưng tôi im lặng. Những ngọn cỏ bò trên mặt đường leo tới thềm các lán. Đám
nông trường viên này không thu vén trồng trọt cái gì hết. Phía sau các lán chỉ
thấy các thùng tô-nô chứa nước và thau chậu ngâm đầy quần áo. Trên bãi cỏ phía
trước, một đám lửa cháy rừng rực. Ngọn lửa liếm quanh những cây củi bằng bắp vế.
Giá ở đồng bằng những súc củi đó đủ cho thợ mộc sướng run, tha hồ xả ván đóng
bàn đóng ghế. Ở đây, người ta đốt nó thành than hồng quay lợn, quay chim. Hai
thanh niên lực lưỡng cởi trần đang quỳ trước đống lửa. Họ cầm những chiếc xiên
lớn xâu đùi lợn, chim cu, thịt bò miếng trộn sả ớt lật đều đặn trên đám than vừa
gạt.
Thấy tôi và Quắc đi với cậu
lái xe đến, họ đứng lên:
- Xin chào...
Vọp nhắc:
- Chú giám đốc và phó giám đốc
nông trường mới về đó.
Hai thanh niên đồng thanh:
- Chào ông giám đốc. Chào
ông phó giám đốc.
Tôi chào lại họ rồi bước tới
lán. Ở đó đang vang lên tiếng đàn ghi-ta và giọng ca nam. Trong lán, một đám
người đứng ngồi lộn xộn khắp nơi: dưới đất, trên giường, trên nóc tủ. Một chiếc
bàn kê giữa nhà đầy ly cốc, chai rượu, giấy lau miệng, vỏ lạc, lá chuối lót thịt
nướng và những bao thuốc bọc giấy bạc óng ánh. Cả đám người đứng dậy chào chúng
tôi, sau khi nghe Vọp giới thiệu. Cũng vẫn tiếng chào xa lạ đầy vẻ canh chừng:
- Xin chào ông giám đốc!
Tôi bảo anh chàng ôm ghi-ta
nhỏ thó giọng như một kép hát loại ba:
- Anh cứ hát tự nhiên.
Nhưng anh ta mỉm cười sợ sệt.
Chiếc móng tay dài, cong như móng chim khẽ cạo lên phím đàn. Trên nóc tủ, một
người đàn bà liếc nhìn tôi vẻ ngạo nghễ. Tuy cô ta cũng cất tiếng chào như mọi
người nhưng không chịu nhảy xuống, có lẽ đó là một người đàn bà quen được đàn
ông chiều nịnh. Không nhìn kỹ nhưng tôi biết cô ta rất đẹp. Gương mặt trắng ngần,
thuôn thả. Đôi mắt lớn dưới cặp mi đen không cần tô chì. Sống mũi thanh thường
gặp trong các bức tranh Ki-tô giáo. Cô ta bận áo màu mận chín trễ cổ. Những món
tóc hung nâu, quăn tự nhiên rơi xuống ngực. Hai cánh tay vắt trên gối, vẻ như mệt
mỏi, chán chường. Những ngón tay rám nắng, thỉnh thoảng khẽ máy động. Hình như
người đàn bà định làm một việc gì đó nhưng lại ngại ngần ngồi im. Tôi bối rối
nghĩ: “Mình cư xử ra sao bây giờ ? Chẳng lẽ quát nạt cô ta? Dù sao đó cũng là một
phụ nữ. Nếu im lặng, đám người này sẽ cho rằng mình bị mê hoặc bởi nhan sắc. Đằng
nào cũng lố bịch...”.
Trong lúc tôi đang tìm biện
pháp giải thoát, người đàn bà vẫn lặng lẽ quan sát tôi bằng ánh mắt cao ngạo:
A! Lại một thằng đàn ông... Để xem nó có gì khác những thằng đàn ông trước...
Dường như cái nhìn của cô ta nói thế.
Quắc đứng sau tôi bỗng bước
lên. Từ nãy đến giờ anh ta nhìn ngó mọi xó xỉnh trong lán. Giờ Quắc mới để ý tới
người đàn bà ngồi vắt vẻo trên nóc tủ:
- Người kia, tên gì ?
Anh ta quát to đến nỗi cả
đám đông giật thột. Tay anh chỉ thẳng vào mặt người đàn bà. Cô ta cũng nảy lên
hoảng hốt vả kinh sợ.
- Nhảy xuống!
Quắc lại gầm lên lần thứ
hai. Người đàn bà bị tiếng gầm của anh làm nhủn trí, ngoan ngoãn nhảy xuống như
một con chó con:
- Tên gì ?- Quắc hỏi.
- Nguyễn Thị Chi Huệ.
- Từ rày không được phép vô
lễ với cán bộ. Đừng giở thói mất dạy. Giờ hồn!...
Mặt Quắc sắt lại, những thớ
thịt không lay động. Tôi vội vã kéo anh khỏi lán trong bầu không khí lặng lẽ
như lễ tang.
Từ phút Quắc nhục mạ người
đàn bà, Vọp mất hẳn vẻ tươi cười lúc đầu gặp gỡ. Thỉnh thoảng cậu bé liếc trộm
chúng tôi với vẻ dè chừng. Trong thâm tâm tôi vừa chịu ơn Quắc vì anh đã cứu
tôi thoát khỏi một tình thế trớ trêu lại vừa lo ngại trước bản tính thô bạo của
anh. Đêm hôm ấy, chúng tôi ngồi ngoài thềm. Tôi lựa lời nói với người đồng sự.
Nhưng chưa kịp nói anh đã lên tiếng trước:
- Anh vào Đảng năm nào?
Tôi đáp :
- Một chín năm tám.
Đốm lửa trên điếu thuốc của
anh ngùn đỏ lên.
- Sau tôi hai năm. - Quắc
rít hơi thuốc nữa, cấu tàn tro rồi nói thêm: - Tôi vào Đảng đúng thời kỳ cải
cách. Hồi đó cả xã không có ai xứng đáng hơn tôi. Vừa kết nạp xong, lên huyện
đoàn công tác liền.
Giọng anh đầy tự bào. Không
hiểu sao anh vẫn giữ nguyên gốc tiếng Quảng Nam mặc dù sống ở miền Trung khá
lâu. Rút điếu thuốc, tôi châm lửa và nói:
- Tôi cũng như anh đều thiếu
kiến thức nông nghiệp. Có lẽ mọi sự sẽ khó khăn. Nhưng đất đai rất nhiều. Khí hậu
đảo thích hợp với cây hồ tiêu và đào lộn hột. Cứ nhìn những vườn trại của dân
là thấy rõ.
Quắc ngắt lời tôi:
- Muốn làm gì cũng phải rèn
lũ người này đã. Nhìn qua cũng đủ biết một tụi cứng đầu. Chúng ta cần có bàn
tay sắt.
Ném mẩu thuốc cặn ra đám cỏ
trước sân. Quắc ngẩng lên hỏi:
- Anh là sĩ quan cấp tá mà
sao mềm yếu vậy? Tôi chưa hề bắn một viên đạn nào trong đời. Nhưng tôi có cách
trị bọn cứng đầu.
Tôi hỏi :
- Sau khi lên huyện đoàn,
anh làm gì?
Quắc trả lời:
- Tôi sang phòng tài chính.
Từ đó tới nay, tôi làm công tác thuế. - Anh nhếch mép cười - Bọn đàn bà tiểu
thương thấy tôi rúm lại tựa gà thấy cáo. Chúng nó rạp xuống như cỏ vậy.
Đó là nụ cười đầu tiên từ
khi chúng tôi gặp nhau. Người đồng sự nói tiếp:
- Vào đây, tôi vẫn ở bên Ty
tài chính. Nhưng ông anh ruột trong Ban khai hoang kéo về trợ sức với anh làm lại
cái nông trường này. May mà anh đã gặp tôi. Tại sao đã cầm súng ngần ấy năm mà
anh bệt như vậy?...
Tôi im lặng rít thuốc. Quắc
không đợi câu trả lời. Anh đứng dậy vặn lưng răng rắc rồi vào giường nằm. Phút
sau tiếng ngáy đã vang lên.
Tôi ngồi im. Ban đêm đảo như
thu lại và chìm xuống. Biển hóa gần hơn. Tiếng sóng vọng đầy không gian làm
rung động ánh trăng và khiến núi đồi huyền bí như những con thú lạ.
Sớm hôm sau Quắc gọi tôi dậy
sớm. Chúng tôi xuống khe rửa mặt đánh răng để đi sang khu vỡ đất xem mấy chiếc
máy ủi san nền. Tôi trù tính cùng lắm tới mùa mưa phải hoàn tất những bìa cây
chắn gió và trồng đủ số nọc tiêu. Sau đó sẽ gỡ dây gióng. Ban khai hoang đã cho
chúng tôi một số tiền mua phân cá chở từ đất liền ra. Phần mình, chúng tôi lo gây
dựng đàn bò để tạo nên nguồn phân tại chỗ. Ở những cánh rừng tiếp giáp rặng núi
Bắc đảo có vô số dây leo lá mềm và rộng bản. Một thứ độn ủ phân hảo hạng. Những
ý nghĩ đó làm tỏi phấn khích.
Hít một hơi dài trong không
khí thoáng đãng, tôi bảo Quắc:
- Ít nhất ở đây cũng hơn
trong thành phố vì không khí thanh sạch. Cứ ngửi mùi cá ươn và bùn rữa dưới các
bến sông tôi đã chóng mặt rồi.
- Ồ! - Quắc gật đầu.
Rồi chúng tôi đi. Con đường
mòn ngoằn ngoèo bò qua đồng tranh. Các nông trường viên cũng đã đi làm. Áo nón
của họ nhấp nhô trên những lượn cỏ xám óng ánh lửa mặt trời.
Ngày hôm đó chúng tôi làm được
nhiều việc. Mải mê tới quá chiều Quắc mới bảo tôi cùng về. Rời khu chăn nuôi,
hai chúng tôi trượt theo sườn đồi vòng về nông trường bộ theo lối mới. Lối này
Vọp chỉ cho chúng tôi lúc cậu đem cơm trưa. Đoạn đường rút ngắn gần một nửa so
với đường cũ nhưng gập ghềnh hơn. Và phải qua một thân gỗ bắc ngang khe nước.
Dưới khe rất nhiều cây bị dân trong xóm đốn làm củi còn nhô lên những khúc thân
vát chéo trông như những mũi tên khổng lồ. Trượt chân rơi xuống đó, chắc chắn
không chết cũng nát xương. Tôi run sợ. Nhưng Quắc đã tụt dép bước nhon nhón
trên cầu, tay vắt vẻo như đàn bà đi chợ :
- Đi di. Không có gì đáng sợ.
Anh chưa bao giờ qua cầu khỉ trong này sao?
Anh gọi tôi, tiếng oang oang
vọng xuống lòng khe. Tôi trấn tĩnh. Quả nhiên, tôi đã vượt qua vực sâu hiểm
nghèo đó. Bên kia khe là dãy đồi thấp mọc đầy những bụi kim chi và trân châu.
Chúng tôi vừa đi vừa tránh gai móc vào gấu quần. Đột nhiên một sinh vật hiện ra
trên lối mòn. Chỉ chút nữa tôi dẫm phải. Đó là một đứa bé gái đang ngủ mê mệt.
Nắng soi qua bụi kim chi rọi lên mặt nó những đồng xu vàng, ở những điểm ấy da
con bé hồng mọng lên. Gương mặt mịn màng hơi rám nâu. Cặp môi nhỏ đỏ thắm. Những
giọt mồ hôi li li đọng trên trán và hai cánh mũi. Một lũ kiến lửa bò trên tràng
mày cong cong. Tôi cúi xuống phủi thật nhanh lũ kiến rồi bế con bé lên. Nó hé cặp
mắt nhìn khiến tôi giật mình. Mắt đứa trẻ giống hệt mắt người đàn bà mặc áo màu
mận chín hôm qua:
- Bác là ai vậy?
Con bé thỏ thẻ hỏi, không lạ
lùng, không xa cách. Cặp môi nhỏ thắm he hé cười, để lộ những chiếc răng sữa nhỏ
xíu.
- Bác là bác Hưởng. - Tôi trả
lời.
- Bác Hưởng. Ôi, tên lạ hoắc.
Con bé lẩm bẩm rồi lại nhắm
mắt. Dường như nó định ngủ thêm một giấc nữa trên tay tôi. Tôi gọi:
- Cháu dậy đi chứ. Chiều rồi.
Con bé vẫn nằm yên, mở mắt
nhìn tôi, đáp:
- Nhưng đã đến giờ ăn đâu?
Má con bảo đi chơi tới giờ ăn hãy về.
- Bao giờ mới tới giờ ăn ?
- Buổi tối, má thắp đèn cầy,
và... - Đứa bé giơ tay chỉ - Ông sao mọc trên rừng cây kia.
Tôi phủi những lá cỏ khô
dính trên tóc con bé. Mùi mồ hôi chua chua và mùi thơm của da thịt non trẻ xộc
vào mũi khiến tôi nao lòng. Tôi bế nó đứng lên:
- Đừng ngồi đây kiến đốt. Để
bác đưa cháu về.
Quắc đi sau tôi gật gù:
- Con bé này cũng ngoan đấy
- Anh hỏi nó: - Mày là con nhà ai ?
Đứa bẻ thỏ thẻ:
- Cháu con má Huệ.
Quắc giật giọng:
- Huệ nào? Nguyễn Thị Chi Huệ
phải không?
Con nhỏ gật đầu:
- Dạ phải.
Người bạn đồng sự kéo áo
tôi:
- Này, bỏ nó xuống. Mẹ nó là
cái con mụ cứng đầu bữa qua.
Hình như đứa bé cảm thấy
thái độ khác biệt của Quắc liền nhớn nháo nhìn quanh. Tôi vỗ lưng nó nhè nhẹ, bảo
anh:
- Cậu đừng làm thế. Trẻ con
không chịu lỗi thay cho người lớn.
Quắc im lặng. Tới ngả rẽ anh
nói:
- Tôi về đây !
Anh qua những vườn mít, vườn
khoai về nông trường bộ. Tôi theo lối mòn ngược lên khu lán ở của nông trường
viên. Bấy giờ, mặt trời đã lặn. Mây chiều cháy rực trên những vườn tiêu. Con bé
ríu rít bảo tôi:
- Bác xem kìa, đẹp không?
Khi nào rảnh bác kiếm cho con một con chim thiệt đẹp bác nghe...
Giọng nói của nó thật dễ
thương. Khó mà từ chối được một giọng thơ ngây dịu dàng như thế. Tôi ôm chặt đứa
trẻ vào ngực, lòng tràn ngập niềm vui sướng. Mấy cô gái nông trường xuổng khe tắm
trở về nhìn chúng tôi cười. Mắt họ ánh lên vẻ tò mò ngờ vực.
- Thây kệ! - Tôi thầm nghĩ:
- Ai cũng có quyền yêu thương một đứa bé. Mình là người đàn ông độc thân. Mình
cần tiếng thỏ thẻ của con bé ngoan ngoãn này.
Những lời lẽ đó không đủ
giúp tôi trấn an. Tôi nghe tim đập thình thịch khi bước tới khu lán. Một đám
người ngồi trong quầng sáng vàng vọt của ngọn đèn cầy. Những gương mặt bị lấp
chìm nửa phần trong bóng tối. Người đàn bà ngạo mạn hôm qua tựa lưng vào tường.
Cô ta mặc chiếc áo hoa không tay, mái tóc xổ tung xuống vai trần. Một chiếc vỏ
chai lăn lóc trên giường phản chiếu ngọn lửa. Đối diện với cô là gã ca sĩ nhỏ
thó bữa trước. Tay lướt trên phím đàn, gã cất giọng sầu buồn hát:
Hãy
hôn anh em ơi
Cho
anh hôn lần cuối
Một
lần cuối trong đời...
Không hiểu sao một cảm giác
cay đắng, hung bạo bỗng trào lên trong tôi. Hệt như nước ớt xộc vào mũi. Tôi biết
mình đang rơi vào một trạng thái bất bình thường, mất hết khôn ngoan và bình
tĩnh. Nhưng ý thức đến muộn quá. Tôi đã bật tiếng kêu:
- Ai là mẹ cháu bé này ?
Tiếng nói đó nửa như tiếng
kêu, nửa như tiếng thét, lại vừa như một câu hỏi đầy uy quyền. Âm thanh sai lạc
và xa lạ đến chính tôi cũng không nhận biết được giọng mình. Tiếng đàn trong
lán tắt ngấm. Đám đông ngồi náu mình trong yên lặng còn người đàn bà vén tóc chạy
ra:
- A ! Ly!... - Cô ta kêu lên
sửng sốt.
Tôi nhìn gương mặt dưới ánh
đèn cầy còn lộng lẫy hơn cả ngày qua, bỗng run lên vì tức giận :
- Cô rượu chè ca hát. Còn
con cô lang thang ngủ ngoài đồi, kiến leo đầy mặt...
Hẳn nỗi giận dữ trong tôi
thái quá và lạ lùng nên người đàn bà đứng lặng đi. Đám đông trong lán cũng im bặt.
Lúc đó tôi nghe rõ cả tiếng gió lộng dưới khe, cả tiếng chim trong các vòm lá
và cả tiếng nổ lách tách của ngọn đèn cầy.
Giá như tôi rút lui ngay lúc
ấy !... Nhưng thần khôn ngoan đi vắng nên tôi đứng thẫn thờ. Vẻ cam chịu khiến
gương mặt người đàn bà hiền và đẹp quá. Tôi muốn ngắm mãi những nét dịu dàng, cố
gắng tìm một câu nói nào khác áp đảo cô ta. Nhưng Huệ đã trở lại ngạo mạn. Cô
khẽ nhếch mép cười gằn, rồi cao giọng hỏi đứa con:
- Ly, mày ngu vậy hả ? Ai
cho lăn giữa cát mà chơi ?
- Đâu có má... Con lạy má
!...
Đứa bé sợ hãi giơ tay lên
che đầu theo thói quen. Nó ép vào lồng ngực tôi run rẩy. Mắt người đàn bà long
lên thách thức và kiêu ngạo. Hẳn cô ta đã nhìn thấu những giây phút bối rối của
tôi. Biết mình thất thế, tôi lại khùng lên. Và lần này không còn sự đắn đo nào
ghìm giữ tôi nữa. Nhìn thẳng vào mặt người đàn bà, tôi quát:
- Không được đánh nó!
Cô ta ngước cặp mày đen lên:
- Tôi sanh ra nó!
Hơi thở người đàn bà nồng
mùi rượu. Bất giác, tôi nhăn mũi đứng lùi lại. Cử chỉ đó giống một cú đấm giáng
xuống. Mặt Huệ tái nhợt, vành môi run rẩy. Người đàn bà đã hoàn toàn tỉnh táo
và hiểu nỗi ghê tởm hiện lên trên gương mặt tôi. Mắt cô ta phóng lên những tia
sáng căm thù. Bất chợt, cô ta xông tới, giằng đứa bé trong tay tôi và tát hai
cái liền vào mặt nó.
- Má á á…
Con bé kêu thét lên trước
khi ngã. Cặp mắt ướt loáng ngước nhìn như khẩn cầu, che chở. Lúc đó, mặt tôi
nóng bừng, trong khi toàn thân lạnh và nặng như chì. Cử động thật chậm chạp.
Hai tay run đến mức tôi phải tự bấu vào quần để khỏi ném vào mặt người đàn bà một
cú đấm. Khó khăn lắm tôi mới bế được con bé lên. Nó áp má vào ngực tôi. Và cảm
giác xót xa khiến tôi rung chuyển. Tôi nói:
- Tôi nghĩ rằng cô vẫn còn
là một người mẹ. Hổ cái nó cũng còn biết thương con...
Giọng tôi bỗng mất hết nhuệ
khí, chùng xuống, mệt mỏi. Người đàn bà trân trân nhìn. Hai giọt lệ long lanh từ
từ trào lên khóe mắt. Trước khi chúng lăn xuống, cô ta đã kịp quay ngoắt đi, biến
vào bóng tối...
Tôi quay về nông trường bộ.
Con bé Ly vẫn ôm riết cổ tôi. Lúc đó, tôi nghe tiếng Vọp:
- Chú đưa cháu bế con nhỏ!
Cậu lái xe đã đứng sau lưng
tôi từ lúc nào không rõ. Tôi đưa con bé cho Vọp. Chúng tôi thong thả bước đi.
Bóng đêm đã bao phủ khắp vườn cây, khe nước và những mái nhà lợp cỏ. Chân tay mỏi
rã rời. Lòng hoang hoải. Tôi tự dằn vặt mình:
- Tại sao bỗng dưng lại lâm
vào tình thế lố bịch này? Thật ngu xuẩn...
Vọp đi sát bên tôi, khẽ nói:
- Chú đừng buồn... Đừng giận
chị Huệ Lai... Chị ấy là con nhà lành nên không quen đối xử như...
Tối hôm đó, sau khi ăn cơm,
Vọp kéo tôi ra sân nói chuyện, chắc hẳn cậu bé đã giành cho người đàn bà này
không ít niềm trìu mến. Vọp kể rằng Huệ là con của một giám mục người Ý và một
thiếu nữ nổi tiếng ngoan đạo. Thân thể cũng như nét mặt cô phảng phất như Đức Mẹ
Đồng Trinh. Vì thế người ta gọi cô là Huệ lai. Giám mục đã bị gọi về Tòa Thánh
Tây Ninh khi người thiếu nữ đẹp nhất dàn thánh ca mang thai. Từ đó ông ta biệt
tích không trở lại vùng Châu Đốc. Mẹ Huệ lai dồn sức nuôi con như tất cả những
người đàn bà rơi vào cảnh trớ trêu. Bà hy vọng con gái sẽ trở thành tài, Huệ học
thông minh. Bao giờ cô cũng đứng đầu lớp. Hết trung học, bà gửi con lên Sài Gòn
theo lớp văn khoa. Ở thành phố này, mái tóc hung, đôi mắt mơ màng và sống mũi
nàng La Giô-công-đơ của Huệ lai đã khiến cho đám đàn ông giàu sang lẫn lũ bạn
sinh viên cuồng dại. Huệ lai sống thanh bạch, buổi sáng ăn một ổ bánh mỳ muối
tiêu trước giờ tới giảng đường. Trưa và chiều ăn cơm rau với bà dì bán bánh
linh lăng nghèo khổ. Suốt năm bận bộ đồ đen hoặc áo dài lụa trắng. Nhưng những
thứ màu giản dị đó lại ăn nhập với nhan sắc thánh thiện của cô. Vả những kẻ cuồng
si ngày cứ nhiều thêm mãi. Tuần một lần, mẹ Huệ viết thư cho con. Thư nào bà
cũng dặn con phải giữ thân, tu chí học hành. Cuộc sống lỡ dở của mẹ khiến cô
gái sớm khôn ngoan. Cô bước qua tiền bạc, hạt soàn, khăn áo của những gã đàn
ông săn đuổi mình, mái đầu ngẩng lên kiêu hãnh. Bà dì Huệ mắc chứng tê thấp.
Trước bà còn gánh bánh bán rong. Sau bà ôm thúng bánh ngồi dưới cây cột đèn chờ
lữ trẻ về học ghé qua mua vài xu lẻ. Tình thế ngoặt nghèo vậy mà cô cháu gái cứ
ngoảnh mặt làm ngơ trước những xếp bạc dày cộm, những sợi dây chuyền nặng trĩu
hạt soàn, khiến bà bực tức. Huệ đành bớt giờ học lội sông vớt củi bán. Khi cô sắn
quần để lộ hai bắp đùi trắng như tuyết với cặp gót sen, cả đám dân nghèo dô kề
chuyên vớt củi giật mình. Họ nhìn Huệ lai như nàng tiên giáng thế. Dòng nước sủi
bọt đen tựa nước cống. Rác rến, xác súc vật chết lẫn với củi khô gỗ mục trôi bập
bềnh. Người con gái vượt qua nỗi sợ, lội xuống con sông dơ dáy. Cô nhập vào
dòng người lam lũ của đô thị. Để lấy cho được nhiều củi, chống thói ức hiếp của
bọn lưu manh, Huệ lai phải tập võ. Mình cô có thể đánh ngã bay dăm bảy gã trai
mèng. Và thế là sổ tay ghi chép của lũ trai si mê lại thêm những dòng sửng sốt.
Tính cách cương cường của cô gái khiến cô trở thành thần tượng trong lòng họ.
Kiếm đâu ra trong thế kỷ của tiền tài và danh vọng, một người con gái cao thượng
như thế? Nhưng dù trong trắng và cao thượng, nữ thần vẫn không tìm được hạnh
phúc cho mình. Cô vẫn bị số mệnh đánh lừa như những người đàn bà xấu số khác.
Năm học thứ ba cô mềm lòng trước một đại úy dù. Gã trai cao lớn, râu hùm hàm
én, tính tình khoáng hoạt. Huệ lai bị chinh phục bởi vẻ hảo hớn của gã với lũ
đàn em. Cô nghĩ rằng gã đích thực là một gã đàn ông nên gạt phăng những túi hạt
soàn của đám con trai thương nhân mà đi theo gã. Tình yêu của cô cuồng dại như
một cơn bão, hoàn toàn tương phản với thái độ lạnh lẽo chai đá trước đây. Cô có
con với gã nên phải nghỉ học. Lúc đó gã mới lộ nguyên hình là một thằng bẻm mép
máu mê cờ bạc đến nỗi bán hết cả cơ nghiệp lừa từ bà cô ruột tới đứa em họ bán
kem rong để lấy tiền nướng vào cuộc đỏ đen. Sau rốt, gã bỏ Huệ bám lấy một mụ
già bốn mươi tám lấy tiền tiêu xài. Túng quẫn, đau đớn Huệ lại ôm đứa con gái về
Châu Đốc, trước ngày giải phóng ít lâu mẹ cô buồn sầu mà chết. Và mẹ con Huệ
theo đám người trôi dạt tới hòn đảo này.
Vọp ngừng lại. Ánh đèn trong
nhà rọi vào lớp lông măng trên má cậu khiến nó ánh lên. Chàng trai hất món tóc
trước trán nhìn vào mắt tôi:
- Chú biết hết các nông trường
viên chưa?
Tôi lắc đầu.
Vọp trầm ngâm nhìn khoảng
sáng hắt lên từ khu lán tranh rồi tiếp:
- Ở đây tụ họp dân tứ xứ,
thượng vàng hạ cám đủ cả. Từ cỡ tú tài Đíp-lôm tới hạng một chữ ký không biết
phải nhúng ngón tay cái vào mực tàu điểm chỉ giấy hành. Con nhà lành cũng có mà
gái bất lương, trai bụi đời cũng có... chú biết thằng cha nhỏ thó chơi ghi-ta
không?
Tôi gật đầu:
- Biết. Chắc anh ta là dân bụi?
Vọp lắc đầu:
- Sinh viên luật năm thứ ba
đó chú à. Ba má hắn là hai đốc-tờ nổi tiếng ở Sài Gòn có phòng mạch riêng với
ba mươi giường bệnh. Giờ họ sang Mỹ. Ở nông trường này chị Huệ lai thân nhất với
hắn. Mà hắn cũng coi chị như chị ruột của mình.
Tôi nhìn Vọp:
- Thế còn cháu? Chú thấy
cháu cũng thương mến, bênh vực cô ta.
Chàng trai gật đầu:
- Vâng. Chị Huệ là bạn học của
anh trai cháu. Hồi ảnh trọ học ở Sài Gòn, lâu lâu má con cháu lên thăm.
- Giờ anh ấy đâu rồi?
- Ảnh bị dính đạn lạc chết
ngày giải phóng. Nếu không thì đã... - Cậu bé buông lửng câu nói, đứng lên -
Cháu bồng con Ly về trả cho chị Huệ. Chú ngủ đi. Đêm nay chắc có mưa rào.
Vọp vào nhà bế con bé Ly trở
về khu lán. Khi cậu bé khuất trong bóng đêm, tôi vẫn còn ngồi giữa sân băn
khoăn bởi chính mình:
- Tại sao ta lại chú ý tới
người đàn bà đó một cách vô cớ như vậy? Và bỗng dưng chuốc vào thân biết bao
nhiêu phiền nhiễu? Xét cho cùng, cô ta cũng chỉ là một kẻ xa lạ. Kẻ không can hệ,
không tham dự vào cuộc sống của ta?
Nhưng tôi biết những ý nghĩ
đó giả trá và không bền vững. Kẻ xa lạ kia cứ hiển hiện trước mắt tôi. Hai giọt
lệ long lanh trên khóe mắt.
Trong tôi có cái gì đó bất ổn,
nặng nề và thắc thỏm. Trạng thái ấy ngắt đứt giấc ngủ khiến tôi nửa mơ nửa tỉnh
cho tới lúc bình minh. Quắc gọi tôi đúng giờ thể dục. Anh quả là một chiếc đồng
hồ sống.
Hôm nay tôi dự định xem xét
toàn bộ khe nước để cải tạo nguồn nước cho nông trường. Bởi lẽ nó là nguồn sống
duy nhất cho cả vùng nhưng chưa bao giờ được để ý tới. Chiều qua tôi bàn với Quắc
chuyện này. Thoạt tiên anh gạt phắt đi:
- Thiếu gì việc đáng lo? Đám
đất vỡ, lô tiêu đang san nền, chuồng trại gia súc... Rỗi hơi hay sao mà lo chuyện
nước nôi? Trước khi anh với tôi về đây đã qua hai ba đời giám đốc, có ai bày đặt
việc này đâu?
Nhưng tôi chỉ cho anh xem những
con cung quăng và bọ nước trong thùng nước của tổ chăn nuôi:
- Nguồn nước này không sớm
thì chầy sẽ dẫn tới bệnh tật. Anh làm sao trồng được tiêu, hái được trái điều nếu
không có công nhân?
Quắc lặng im. Thế nghĩa là
anh đã chấp thuận. Sớm hôm nay chính anh lại xăng xái giục tôi:
- Nhanh tay lên. Tôi nghe
nói khe này dài tới ngót chục cây số.
Bếp ăn cho người mang suất
xôi sáng lên. Chúng tôi ăn ngay khi xôi còn nóng rồi xuống khe nước. Buổi sớm
trời lạnh. Làn hơi bốc dưới đáy vực trắng như sa mù. Những đám lá hai bên dòng
nước ướt đẫm. Mỗi lần một con sóc chạy, sương lại rơi lộp độp xuống ướt cả đầu
tóc và vai áo. Lòng khe không có sỏi nên rất khó đi. Thêm vào đó, nước lạnh giá
làm hai bàn chân tê cóng. Vừa đi Quắc vừa làu bàu rủa mấy con vắt nhảy dù vào cổ:
- Cái giống vắt này gớm thật.
Giá có thứ thuốc nào diệt hết chúng đi ?
Tôi cười:
- Có thứ thuốc diệt hết côn
trùng. Nhưng đồng thời nó cũng làm cho cây cối bị thiêu hủy. Cái gì cũng bao gồm
hai mặt. Mặt tốt đi kèm mặt xấu.
Quắc nói:
- Anh hay lý luận thật. Tôi
nghiệm rằng anh chàng hữu khuynh nào cũng thích lý luận. Hồi chúng tôi chỉnh huấn,
mấy tay ấy bị đánh đổ trước tiên.
Nói xong, anh tụt dép xách
lên. Tôi không tranh cãi với anh nữa, vì phải vẽ sơ đồ dòng khe và đánh dấu những
nguồn nước cần khai thông. Càng ngược lên, càng thấy khe nước đáng kinh sợ. Rác
rến và lá mục tấp xuống lòng khe thành lớp dày hàng thước. Phân voi xác thú chết
ươn sình nằm chắn trên các dòng chảy từ vách núi ra. Có những đám rễ cây móc lại
cả bộ lòng thú hổ ăn thừa. Tất cả ngấm vào nguồn nước mà ba trăm con người ăn uống,
giặt giũ và ngụp lặn, tắm táp đêm ngày... Khe nước dài trên trên một chục cây số,
đúng như lời Quắc nói. Buổi trưa chúng tôi mới trở về, vừa đi vừa bàn một
phương án tỉ mỉ nạo vét lòng khe, khai thông các nguồn nước. Sau đó, đẵn gỗ, bứt
tranh xây dựng hệ thống nhà vệ sinh. Lúc sắp tới nông trường bộ chợt nghe tiếng
kêu ré lên sau đám lá um tùm. Rồi một lũ các cô gái trần trụi từ lòng khe chạy
tứ tung chui vào các bụi rậm.
Quắc nhổ nước bọt:
- Đàn bà con gái gì thứ quỉ
đó ? Ra ngoài mà cởi trần lông lổng.
Tôi nhìn vẻ mặt cau có của
anh, nổi cáu thực sự:
- Tại sao cậu không trách những
kẻ tổ chức nông trường này mà lại trút lỗi lầm lên đầu họ? Hàng trăm phụ nữ mà
không có lấy một nhà tắm. Muốn họ làm việc thì phải lo cho họ sống đã.
Quắc lặng im. Từ đó tới lúc
về nông trường bộ chúng tôi không nói với nhau một lời nào. Nhưng buổi chiều,
Quắc đã điều các đội sản xuất tiến hành công việc đúng như tôi đã bàn với anh.
Các đội trưởng nghe lời anh răm rắp. Vẻ mặt lạnh lùng thô bạo của Quắc có một
uy quyền khó cắt nghĩa! Và điều đó rất có lợi cho công việc của một người lãnh
đạo. Về mặt này, tôi thua kém anh. Hẳn là người ta đã sáng suốt khi ghép hai
chúng tôi lại.
Tôi đang nghĩ lan man, cô
văn thư vào đem theo giấy mời của ngân hàng huyện, mời tôi sáng mai lên làm việc.
Tôi lục tìm những tài liệu chuẩn bị sẵn. Phải trình bày mạch lạc và chính xác
các kế hoạch triển khai kinh tế của nông trường, thuyết phục họ cho vay tiền mặt
và vay vốn. Ở đảo, bảy mươi phần trăm việc giao dịch, mua bán của chúng tôi phụ
thuộc vào dân chúng. Đối với họ, chỉ tiền mặt mới có giá trị, còn séc là những
tờ giấy vô nghĩa. Tôi chuẩn bị quần áo đem theo vì nghĩ rằng công vụ có thể kéo
dài tới vài ngày. Nhưng thật may mắn, chỉ hơn một ngày, mọi việc đã xong xuôi.
Khoảng mười giờ rưỡi sáng, tôi cùng Vọp ghé vào một quán chè trong thị trấn, ăn
chè đỗ xanh, nước cốt dừa. Sau đó hai chúng tôi trở lại nông trường. Trời nắng
như đổ lửa. Mặt biển ở cách chúng tôi chừng vài chục bước, chỉ qua một bãi cát
hẹp là tới mép đường. Những lượn sóng trắng như muối liếm vào bờ, dịu hiền. Nước
trong ngắt màu lam, tưởng như chỉ nhìn thấy đã nguôi cơn khát. Công việc xuôn xẻ
khiến tôi nhẹ cả người, cứ tình hình này chắc đoạn đời còn lại cũng không vô
nghĩa. Vọp nhìn tôi tủm tỉm cười:
- Hôm nay chú vui dữ. Chắc mọi
việc qua ngon lành ?
Tôi gật đầu :
- Cũng gần được như thế.
Xe tới nông trường lúc mười
hai giờ kém hai phút. Vừa bước xuống tôi sững lại vì cảnh tượng kỳ cục trước mắt
mình. Giữa sân, trước phòng điều hành sản xuất một thanh niên mặc quần cụt,
lưng trần, đầu trần quỳ phơi nắng. Cậu ta cũng trạc tuổi Vọp. Chắc độ mười tám
mười chín, gương mặt rắn rỏi, nhưng thanh tú, thân hình cân đối, mái tóc đen
nhánh như lông hắc điểu. Hẳn cậu phơi nắng đã lâu, nên từ mặt xuống cổ đỏ gay gắt,
mồ hôi tuôn thành dòng. Thấy tôi, cậu ngước mắt nhìn như thay một tiếng chào.
- Cháu làm gì thế?
Tôi hỏi, băn khoăn và nghi
ngại.
Chàng trai đáp:
- Chú thấy rồi đó, cháu bị
phạt quỳ.
Tôi nói:
- Ai phạt ?
Cậu bé đáp gọn lỏn:
- Thưa, ông Phức.
Trong giọng nói của cậu có
cái vẻ cam chịu khiến tôi điên lên. Hẳn là cậu đã quen hình phạt này, và ở đây,
người ta cũng coi nó bình thường.
Tôi quát:
- Đứng lên. Đi vào nhà rồi
tôi hỏi!
Cậu bé đứng dậy rồi theo tôi
vào nông trường bộ. Ở đó, vừa ngồi xuống ghế cậu vừa vớ chén nước nguội không
biết ai uống dở trên bàn nốc một hơi. Khóe mắt cậu tụ những tia máu li ti thường
có ở những người cảm nắng. Tôi lấy hai viên Xê-đa bảo cậu uống rồi hỏi:
- Tại sao cháu bị phạt ?
- Thưa, vì cháu vào rừng bắn
gà gô.
- Từ xưa tới nay có ai bị phạt
như thế không ?
- Thưa có luôn luôn. Vì tụi
cháu phải thay nhau vào rừng bắn gà gô về nhậu. Quanh năm cơm nông trường chỉ
có cá biển. Thỉnh thoảng mới được bữa thịt bò hoặc thịt heo.
- Rồi mỗi lần đó lại về chịu
phạt quỳ ?
- Thưa vâng!
- Quỳ bao lâu ?
- Thưa, từ tám giờ sáng cho
tới bốn giờ chiều. Nếu nửa chừng bị té thì ông Phức cho khiêng vô lán.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi chiến hữu đánh gió, đổ
thuốc cho. Vì tụi cháu kiếm được gì cũng ăn chung.
Lời lẽ của cậu bé cứa vào
tôi như những lá cỏ tranh già. Niềm vui dọc đường về tắt ngấm. Tôi bỗng thấy
ánh mặt trời xứ đảo, màu nước xanh lộng lẫy kia, bộ áo lộng lẫy của cỏ cây nhuộm
nắng... Tất cả đều biến khỏi cuộc đời.
- Đứng dậy!
Không hiểu sao tôi lại quát
cộc cằn khiến cậu bé hoảng.
- Từ lần sau không được phép
quỳ như vậy. Bất cứ ai cũng không được nhận hình thức kỷ luật ấy. Nếu có trắc
trở gì lên gặp tôi. Hãy nói rằng giám đốc ra lệnh: Cấm phạt quỳ!
Nói xong, tôi ngồi xuống ghế,
thấy mệt và ngột ngạt.
Trời lại im gió nên hơi nóng
hầm hập tỏa khắp gian nhà. Cậu bé bị phạt chào tôi trở về lán. Cậu ta vừa ra khỏi,
Quắc bước vào. Anh gỡ chiếc mũ lấy khăn lau khuôn mặt bóng nhoáng mồ hôi. Tôi hỏi
anh:
- Anh đã xem kỹ lý lịch của
đội trưởng Phức chưa ? Cậu ta là người thế nào?
Quắc kéo ghế ngồi:
- Thằng ấy trước đây đã là
lính xăm hầm chỉ điểm cho Mỹ ngụy. Quê nó cách xã tôi non hai chục cây số. Giá
nó còn ở ngoài đó người ta sẽ băm vụn ra. Nhưng vừa giải phóng, nó đã khôn
ngoan lặn miết vào đây. Dựa vào thế ông chú họ là phó chủ tịch tỉnh, nó được
Ban khai hoang bố trí vào làm đội trưởng từ ngày thành lập nông trường. Hai ba
đời giám đốc, đời nào nó cũng được sủng ái hết.
Tôi hình dung nét mặt bình
thản của Quắc, cố tìm xem nó ẩn chứa điều gì nhưng bất lực. Tôi đành hỏi anh:
- Anh có biết hắn làm điều
gì sớm nay không?
Quắc gật đầu:
- Biết. Nó phạt quỳ một đứa
trong đội. Lúc đó tôi cũng có mặt.
Tôi gặng:
- Anh có biết ? Tức là anh
chấp thuận hành động của nó ?
Quắc im lặng. Tôi cũng không
nói gì hơn. Chúng tôi cứ ngồi như vậy hồi lâu trong bầu không khí ngột ngạt của
trưa hè. Trong không khí đó, thời khắc như kéo dài vô tận. Bức bối tới mức khó
chịu nổi, tôi định đứng lên ra khu vườn phía sau. Lúc đó Quắc nói:
- Đừng giận tôi anh Hưởng ạ.
Tôi đã đồng ý cho thằng Phức làm thế không phải vì tôi quý hắn mà vì hắn được
việc cho chúng ta. Tụi nông trường viên cứng đầu cứng cổ lắm. Không dùng những
thằng ác ôn như thế làm sao yên ổn? Các cụ đã có câu: “Dĩ độc trị độc”. Câu nói
đó không ngoa…
Tôi bảo anh:
- Tại sao đã biết lai lịch
tên Phức như vậy anh còn giấu tôi?
Quắc đáp:
- Tôi biết anh sẽ đuổi cổ nó
đi, ít nhất cũng cách chức đội trưởng. Nhưng nó được việc cho tôi. Hồi xưa làm ở
phòng tài chính, tôi cũng đã từng sử dụng những thằng như nó.
- Còn anh, anh dùng cái gì để
cai trị hắn ?
- Quyền lực của cách mạng.
Mình là người chiến thắng. Nó phải khuất phục. Nếu không nó sẽ chết.
Quắc phác một cử chỉ quyết
liệt, môi nhếch lên cười. Tôi lại nhớ nụ cười đầu tiên khi anh nói tới đám người
tiểu thương cúi rạp trước anh như đám cỏ. Tôi nói:
- Dù sao tôi cũng sẽ cách chức
đội trưởng của tên Phức.
Quắc đứng lên:
- Đừng. Anh có thể chửi mắng
nhưng đừng cách chức nó. Trong lĩnh vực này tôi nhiều kinh nghiệm hơn anh.
Tôi cũng đứng lên định phản
bác ý kiến của Quắc, nhưng cô cấp dưỡng đã mang phần cơm của chúng tôi vào. Quắc
cởi áo ngoài nói:
- Cơm thôi.
Tôi mệt mỏi ngồi xuống ghế.
Rồi chúng tôi cùng nhau ăn cơm và đi nghỉ trưa. Hai giờ chiều, khi tôi tỉnh giấc
Quắc đã xuống các đội sản xuất đốc thúc việc xây dựng nhà tắm và nhà vệ sinh.
Chỉ mới hai ngày công việc đã hoàn thành quá nửa. Công bằng mà nói anh là một
người hành động đầy năng lực. Nhưng tôi không hiểu anh. Mặc dù ở bên nhau suốt
ngày đêm, cho đến bây giờ tôi mới chỉ biết anh vào Đảng trước tôi hai năm, thời
kỳ cải cách. Là một cán bộ Đoàn cấp huyện và sau đó là cán bộ tài chính. Anh lấy
một cô vợ ở Đức Thọ, nơi anh sống rất lâu. Họ đã có ba con và hiện giờ cô vợ
anh nghỉ việc, hưởng lương bảo hiểm vì đau ốm sau khi sinh đứa con út... Ngoài
ra tôi không thể lục tìm được điều gì trên gương mặt như đá đẽo, thô bạo và quyết
liệt. Có thể Quắc là một người đàn ông thâm sâu có quá khứ và những ý tưởng phức
tạp? Cũng có thể anh ta là con người đơn giản tới mức thô kệch? Giữa hai khả
năng ấy điều nào có lý hơn?... Tôi lan man nghĩ một lúc lâu không tìm được câu
giải đáp. Cán bộ tài vụ của nông trường đem vào một tập giấy tờ, công văn sổ
sách. Gạt bỏ những thắc mắc riêng tư, tôi cùng làm việc với anh ta...
Không khí oi nóng tăng dần
lên cho tới khoảng bốn giờ chiều. Lúc đó gió biển bắt đầu xua đi làn hơi tích tụ
trên mặt đất. Trời êm dịu. Cây cỏ núi đồi tươi lại trong gió. Những đàn bò diễu
qua đồng tranh kêu mò ọ ọ vang lừng. Những bày dê kêu be be dọc đường mòn ven
núi, vừa kêu vừa nhảy cẫng rượt đuổi nhau. Ngay những ngọn lau khô xác và những
chùm lá linh chi đỏ cũng xào xạc không ngừng. Tôi ra khỏi phòng làm việc, đi dọc
theo khe nước. Ở các khu nhà vừa dựng không còn bóng người. Chỉ độc nhất một
chú bé gầy gò cầm bó lạt đi nuộc lại các mái tranh. Tôi hỏi:
- Tại sao chỉ có mình cháu ở
đây ?
Chú bé vòng tay cúi đầu đáp:
- Thưa ông giám đốc, mọi người
vào rừng cả. Con tàn tật nên được nuộc lạt tranh.
Lúc ấy tôi mới biết chú ta bị
thọt. Cái chân hư hoại đó vừa ngắn vừa bé quắt như ống nứa. Chắc chắn nó chỉ nhỉnh
hơn cổ tay tôi chút xíu.
Khi tôi đi, đứa bé cúi thấp
đầu chào. Xong nó lại cặm cụi lần theo từng bó tranh nuộc thêm mối lạt. Quanh
các khu nhà còn quá nhiều bụi rậm. Cần phải phát sạch để tránh rắn rết. Cũng cần
phải mua xi măng về xây bể chứa nước cho các lán. Tránh tình trạng sớm sớm chiều
chiều hàng trăm người đi xuống khe... Tôi đang tính toán chợt một cành gai kim
chi móc vào ống quần. “Roạt!” một tiếng, mảnh vải bục bị xé ra. Chiếc quần này
tôi mặc đã bốn năm rồi. Màu cỏ úa đã bợt gần như trắng. Nhưng nó thoáng mát lại
vừa vặn nên tôi chưa nỡ bỏ đi. Vừa cúi xuống tần ngần xem chỗ rách, tôi bỗng
nghe tiếng kêu sau lưng:
- A? Bác Hưởng. Bác Hưởng có
nhìn thấy con không ?
Tôi quay lại. Những bụi gai
kim chi, gai trân châu và dây hoa kim ngân nhấp nhô bao phủ trái đồi. Chưa nhìn
thấy con bé Ly đâu cả. Nhưng tiếng gọi của nó vang lên trong trẻo:
- Con ở đây nè. Bác Hưởng ơi
i i... Con ở đây nè…
Phải lát nữa tôi mới tìm thấy
đứa bé sau bụi kim ngân trắng xóa. Hôm nay nó bận chiếc váy đầm thêu hình nàng
Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Đầu tóc sạch sẽ hơn lần trước. Ngay cả móng tay,
móng chân cũng xinh xẻo hồng hào. Dưới chân nó, một tòa lâu đài xây bằng các
cánh hoa kim ngân, những chùm quả trân trâu và kim chi, những túm hoa linh chi
mỏng như giấy. Một con thỏ với một chiếc kèn nhựa đặt giữa thành trì nguy nga ấy.
Tôi biết con bé cô đơn. Suốt ngày nó làm bạn với những vật vô tri này. Thấy
tôi, nó mừng đến thế.
- Mấy hôm rầy bác đi đâu?
Sao con hổng thấy bác tới bồng con như bữa trước ? -Con bé hỏi.
- Bác bận. Bác phải lên huyện
làm việc với ngân hàng. - Tôi đáp lại.
- Bác lên huyện hả? - Con bé
ôm choàng lấy cổ tôi, hai mắt sáng rỡ: - Trên đó có cà-rem chớ? Cà-rem sữa,
cà-rem trái sầu riêng ấy mà?
- Có. Có cả hai thứ kem đó.
Tôi gật đầu, hôn lên tóc nó.
Con bé thò tay vào cổ áo tôi gãi gãi:
- Vậy bữa sau bác Hưởng cho
con lên huyện với nghen. Con xin má con tiền. Rồi bác mua giùm cho con hai cây
cà-rem.
Tôi bế xốc con bé lên, áp mặt
nó vào cằm:
- Được rồi, bác sẽ cho con
lên huyện. Nhất định bác sẽ cho con đi. Giờ bác bế con lên vườn tiêu chơi nhé.
Con có lấy cây kèn với chú thỏ kia không?
Bé Ly lắc đầu :
- Hổng cần bác ạ. Con để ở
đó nhiều lần mà đâu có mất? Kiến không cắn thỏ nhựa với kèn. Ban đêm thì có ma.
Nhưng ma hổng chơi đồ của con nít.
- Ai bảo con thế ?
- Má con.
- Dạo này má hay tắm cho con
lắm à?
- Dạ bữa rày má tắm hoài. Má
sợ bác chê như hồi trước.
- Má còn đánh con không?
- Hổng đánh nữa. Mà má cưng
con dữ. Má gửi mấy cô chú tiếp phẩm xuống chợ mua kẹo cho con hoài…
Một con chuột trong đồng
tranh chạy vụt qua. Tôi giật mình đứng lại. Bất giác, tôi đưa mắt nhìn quanh. Nếu
có người nào đó nghe được câu chuyện tôi với bé Ly? Thật tai hại... Cả nông trường
sẽ ầm ĩ lên vì ông giám đốc mới mê Huệ lai. Ông bồng bé Ly và gọi nó là con ngọt
sớt. Ông trò chuyện với nó như một người bố dượng trò chuyện với con. Như vậy
những lời mắng mỏ của ông bữa trước không phải để huấn thị mà chỉ bộc lộ tình
thương một cách sớm sủa và mê đắm. Họ sẽ còn nói gì nữa? Nhưng đáng sợ không phải
những dị nghị của đám đông trong nông trường mà là thái độ khinh thị của Quắc.
Đối với anh, Huệ lai là một trong đám người chúng tôi có nhiệm vụ cai trị.
Thương yêu cô ta là điều ngoài sức tưởng tượng của anh.
Những ý nghĩ ấy khiến tôi sợ
hãi. Khi con bé Ly giơ tay chỉ đám nọc tiêu lô nhô trên các ngọn cây hỏi:
- Máy cây cột kia dựng nhà
được không bác?
Tôi nghiêm giọng trả lời:
- Không!
Con bé thắc mắc :
- Tại sao chứ?
Tôi đáp :
- Vì kích thước của nó không
đủ dựng nhà.
Con bé lại hỏi :
- Nhưng kích thước là cái
chi hở hác ?
Tôi trả lời:
- Lớn lên cháu sẽ hiểu.
Con bé không để ý tới nét mặt
cùng sự thay đổi cách xưng hô của tôi. Trẻ con bao giờ cũng tin vào cảm giác đầu
tiên. Sau đó nó không cần nghi ngờ và xét đoán lại như những người lớn. Bé Ly
ôm thật chặt cổ tôi. Hơi thở nó tỏa mùi thơm măng sữa. Thỉnh thoảng gió tạt mùi
mồ hôi chua chua bám sau gáy con bé làm tôi xao xuyến. Đứa con gái tôi cũng có
mùi thơm giống hệt như vậy. Trước ngày một trái bom biến nó với mẹ và chị thành
đất bùn. Tôi bước chệnh choạng như người say. Đã mấy lần tôi định đặt bé Ly xuống
đất nhưng lần nào nỗi hổ thẹn cũng ngăn tôi lại. Khi bước lên một lô tiêu tôi bỗng
bị mắc vào cành gai rấp ngoài bìa cây chắn gió. Gai xé toạc thêm chỗ rách ở gấu
quần. Bé Ly nghe thấy, nó vội tụt xuống đất nhanh như sóc:
- Trời ơi, quần bác rách rồi
nè ! - Con bé kêu lên. Vừa kêu vừa cúi lom khom xem xét mảnh quần rách hệt một
bà già.
- Không sao đâu. Mặc bác. -
Tôi nói.
- Đừng... - Con bé kêu thật
dài - Để con xem đã. Ôi trời, chân bác bị gai cào chảy máu đây nè. Đứng im
nghe. Rồi con chữa cho.
Nó quỳ xuống, nhấp nước bọt
vào ngón trỏ, di lên vết da xước của tôi:
- Bác nhắm mắt lại đi. Một
chút xíu thôi mà. Có xót chút xíu cũng ráng chịu cho ngoan nghe.
Giọng nói của con bé chứa đựng
vẻ ân cần lẫn niềm âu yếm, dịu dàng. Tôi không còn nhớ tới những nỗi sợ hãi.
Tôi quỳ xuống ôm chặt nó vào lòng:
- Bác khỏi rồi, cảm ơn con
nhé. Con ngoan lắm. Con ngoan nhất trên đời...
Hơi thở ấm nóng của đứa bé
lướt trên mặt tôi. Tôi nhắm mắt vì thấy mình run rẩy. Lát sau, khi mở mắt người
đàn bà đã đứng trước mặt tôi tự lúc nào rồi. Cô ta khuất sau một bức rèm cây
nên chúng tôi không nhìn thấy. Hẳn cô đã nghe hết những lời trò chuyện giữa tôi
với đứa con. Nghĩ tới đó, người tôi nóng bừng. Lưỡi tôi cứng lại. Tôi vội buông
đứa trẻ. Nó nhìn mẹ dè chừng và nói:
- Má hổng mắng con chớ? Hôm
nay con chơi sạch quá mà.
Nói rồi con bé xòe hai bàn
tay ra. Người đàn bà lặng lẽ không đáp. Cô ta nhìn tôi chăm chú. Ánh mắt trầm
tĩnh nhuốm đôi chút buồn rầu. Tôi thu hết can đảm để nhìn vào đôi mắt đẹp của
cô. Nhưng chỉ một giây, nó làm tôi choáng ngợp. Hôm nay Huệ lai lại mặc chiếc
áo cũ. Gương mặt cô rạng rỡ như phảng phất làn ánh sáng màu trắng sữa. Tôi thấy
cô hoàn toàn giống Đức Mẹ Ma-ri-a. Có lẽ vì câu chuyện của Vọp ám ảnh.
Người đàn bà đi tới bồng đứa
con. Rồi trước khi trở về, cô ta nghiêng đầu chào tôi:
- Tại sao cô ta không nói lấy
một lời? Cô ta căm ghét mình? Hay cô ta muốn đóng vai một người đàn bà hiền thục?
Tôi nhớ lại chiếc vỏ chai
lăn lóc trên giường, dưới quầng sáng vàng đục của ngọn đèn cầy và băn khoăn
mãi. Trên cặp mi đen tự nhiên, trong những tia nhìn đột nhiên sáng chói và
trong dáng người của người đàn bà ấy có cái gì đó mà tôi không thể gọi tên,
không thể nói thành lời ?
Hoàng hôn tím dần trong những
tro tàn ở phương tây. Đám nông trường viên tắm rửa đã trở về lán. Những ngọn
khói ngoằn ngoèo từ khu gia đình nhân viên nông trường bộ bay lên. Mùi thơm của
thức ăn phảng phất trong gió. Tôi theo đường cũ về phòng. Quắc đã ăn cơm trước
đang nằm duỗi dài trên giường. Thấy tôi anh nói:
- Mai tôi cho toàn thể các đội
sản xuất lên rừng chặt gỗ. Cần phải làm lại cả kho chứa lương thực, cả kho chứa
phân và các vật liệu nữa.
Tôi đáp:
- Anh bảo bếp nắm cơm cho
tôi. Phần việc của tôi xong rồi. Tôi muốn cùng làm với các nông trường viên.
Quắc bảo:
- Theo tôi, anh nên ở nhà.
Nhưng nếu anh muốn đi thì cũng được.
Tôi ngồi xuống ghế lật chiếc
rổ nhựa úp trên phần cơm. Một tô cơm gạo dối, một tô canh loáng thoáng mấy ngọn
rau, hai con cá kho và mấy miếng thịt rán. Món thịt rán là xuất riêng cho tôi với
Quắc. Còn tất cả các nông trường viên chỉ thứ canh lõng bõng, mấy ngọn rau và
cá biển kho. Thực đơn này ít nhất cũng hàng tháng ròng không đổi. Nhớ tới cậu
bé bị phạt quỳ. Tôi hỏi Quắc :
- Cậu có biết vì sao các
nông trường viên phải thay nhau vào rừng kiếm gà gô không?
Quắc ngáp rất to. Rồi trả lời:
- Tụi vô kỷ luật. Để ý tới
chúng nó làm gì cho mệt. - Anh bẻ xương lưng răng rắc; - Tôi ngủ đây. Ăn xong,
anh nhớ bóc mấy bì công văn của công an huyện gửi về.
Nói xong anh im bặt. Tôi chắc
Quắc đã ngủ say. Gương mặt chai đá thật bình thản. Hai gồ xương lông mày nhô
cao khiến đường nét của anh nhang nhác giống người Chàm.
Một con bướm đêm đập cánh loạn
xạ trên ngọn đèn cầy. Nó tung lên làn bụi trắng mịn khiến tôi bật ho. Giãy giụa
mãi con vật phù du vẫn không thoáng chết. Chờ nó cụp cánh nằm cứng đơ trên mặt
bàn, tôi mới lấy bút gẩy đi. Rồi tôi bóc những bì công văn Quắc đặt dưới hòn đá
chặn giấy. Công an huyện thông báo hoạt động của tụi phỉ Bắc đảo. Cách đây một
tuần, chúng mò xuống các xóm dân cướp gạo, cá khô và thuốc hút. Ngày hôm qua,
chúng đã đốt trụi lâm trường, bắn chết hai cán bộ kiểm lâm. Nông trường của
chúng tôi nằm giáp lộ lớn và chỉ cách thị trấn vài chục cây số nên không hiểm
nguy lắm. Nhưng dẫu sao cũng phải dè chừng. Tất cả các kho vựa chứa thóc gạo, vật
liệu xây dựng và máy móc xăng dầu đều bằng gỗ ván sơ sài mỏng manh. Chỉ cần một
mồi lửa của tụi phỉ hoại là tiêu ma.
Tôi ngủ muộn. Khi tôi thức dậy
nông trường bộ vắng tanh. Chỉ còn cậu tài vụ ngồi gảy máy tính. Xuất xôi sáng của
tôi đặt trên bàn với mẩu giấy Quắc ghi lại:
Nếu anh mệt cứ ở nhà. Nếu
thích vào rừng cũng được vì tôi đã báo bếp ém cơm đi.
Tôi ăn sáng vội vã, chụp chiếc
mũ quân nhân lên đầu rồi ghé qua bếp mượn dao chặt củi. Mấy cô cấp dưỡng mặc quần
xà lỏn, áo xẻ tà đang hì hục bổ củi nhao nhao cất tiếng chào:
- Chú ở nhà cho khỏe. Trên
đó lắm vắt đói. Nó đốt trầy da luôn...
- Chú ở nhà đi. Mấy trăm người
vô rừng ăn nhằm chi một mạng nữa?
- Ở nhà hôm nay cánh tụi con
nấu canh chua cá suối cải thiện à…
Đám con gái này loàn là dân
quê. Họ mau gần gũi với người khác bởi tâm tính hồn hậu và cởi mở. Tôi chào các
cô cầm dao đi về phía đồng tranh. Vượt qua đây còn phải đi chừng hai cày số rưỡi
nữa mới tới bìa rừng. Ngang khu lán bất giác thấy mình liếc nhìn gian nhà mẹ
con Huệ lai ở. Cánh cửa mở. Và giây thép căng trước hiên phơi những chiếc áo
diêm dúa của người đàn bà. Tại sao cô ta lại ở nhà? Không lẽ cô ta ốm hoặc đứa
bé ốm? Có một giây tôi định vòng qua cửa xem xét, nhưng kịp dừng lại. Thật may
mắn vì vừa lúc đó trong khuôn cửa ló ra một bộ mặt héo úa. Một bà già không thể
đoán tuổi người cao lòng khòng, tóc xơ xác như cỏ mọc đồng chua. Bộ mặt bà ta
dài gân guốc với hàm răng cũng dài và vàng khè khói thuốc. Có lần Vọp bảo tôi :
- Chị Huệ kiêu lắm. Chỉ
không chịu ở cùng lán với đám con gái bụi đời, thậm chí không cho họ bước chân
vào phòng mình. Vậy mà chỉ thương mụ trăn tinh đó.
- Bà ta làm nghề gì ? - Tôi
hỏi
- Bán dầu cù là, kim chỉ, ba
thứ đồ ngoáy tai, quết trầu của dân quê - cậu bé trả lời tôi rồi nói thêm: Vậy
mà chú biết bà ta lên là gì không ?
Tôi lắc đầu. Vọp chẩu môi
đáp:
- Kiều Nga... Tên mụ trăn
tinh đó là Kiều Nga...
Người đàn bà bước ra biên
xúc miệng òng ọc nhổ. Rồi ngoái đầu vào nhà nói:
- Ly, ca đi con. Ca đi vài
câu không mày lại díp mắt ngủ trước bữa ăn bây giờ.
Tôi nghe con bé Ly ứ ừ phụng
phịu. Và người đàn bà quát to:
- Dì biểu con ca lên. Ca lên
không dì quất cho mấy roi đây nè.
Những chiếc răng ám khói nhe
dài như răng ngựa. Sau đó tức khắc giọng hát ri rỉ của đứa bé cất lên:
Em
ơi đời em gió dập mưa vùi
Như
cánh hoa trong cát bụi...
Tôi bước vội để bà ta đừng
thấy mình. Tiếng hát của đứa bé vẫn đuổi theo. Bài ca tan nát ấy chắc mẹ nó đã
dạy. Cô ta đến làm hỏng đứa bé vì thói rượu chè và vì những bài hát sầu não như
thế này. Chẳng lẽ nỗi thất vọng trong tình duyên ghê gớm đến mức làm cho Huệ
lai không còn đứng dậy được nữa sao? Cô ta còn trẻ, còn khỏe mạnh. Và cô ta lại
xinh đẹp đến như thế?... Quãng đường chói nắng như ngắn lại. Làn hơi rung rinh
trong không khí cũng như những con chim cỏ chốc chốc lại vụt bay lên không còn
làm tôi mê mải như mọi bữa. Tôi nôn nóng muốn tới rừng. Tiếng dao đẵn gỗ, tiếng
rìu và cả tiếng cưa đã vọng ra rõ mồn một. Trong đám người đó có người đàn bà
mà tôi đã không ngừng nghĩ tới. Mỗi lúc, tiếng rìu cưa, tiếng lao xao một rõ
hơn. Thấp thoáng màu da rám đen hiện sau cây lá.
- A, chào ông giám đốc! Ông
giám đốc lên úy lạo anh em !
- Chú Hưởng tới rồi nè. Chào
chú!...
Mọi người đã thấy tôi trước
khi thấy họ. Ngay tức khắc họ đã quây kín xung quanh. Đàn ông lẫn đàn bà. Các
thiếu niên và các cô gái. Tất cả đều bận quần cụ và áo hở nách, một thứ trang
phục khiến cho mọi người đều giống như một lũ híp-pi. Trời quá nóng. Không khí ẩm
bị hun ngưng đọng giữa các tầng lá dày và mặt đất giống như trong nồi súp-dc.
Chẳng có lấy một gợn gió. Ngay cả những dây bướm bạc mỏng manh leo khắp các bờ
vực cũng đứng im phăng phắc. Vừa ở ngoài đồng tranh vào, tôi như ngộp thở. Mồ
hôi bắt đầu vã ra sau lưng, trước ngực, chảy ròng ròng trên mặt và ướt đầm mái
tóc. Tôi lật mũ ngồi xuống một thân cây vừa chặt. Đám người xúm quanh:
- Giám đốc lên, nghỉ đã anh
em!
Một tay đội trưởng hô to. Tiếng
anh ném vào các vách đá dội lại hai ba lần nghe cứ như người hét trong một chiếc
thùng đậy kín nắp. Các nông trường viên tiếp tục kéo đến. Không thấy Huệ lai
đâu. Đám đàn bà con gái cùng lán với cô ta ngồi thành cụm phía sau những chàng
trai. Vài cậu lăn kềnh tấm lưng trần xuống đất:
- Trời ơi, sướng quá chừng...
Tôi bảo :
- Hơi đất ngấm vào dễ cảm lắm.
Chịu đựng lát nữa sẽ có gió. Ngồi lên đi...
Một chàng trai nhỏm dậy. Cậu
ta có gương mặt tròn trịa như mặt thiếu nữ. Nhưng lại để hàng ria con kiến trên
môi:
- Trời đất. Bộ chú sợ con cảm
hay sao?
Tôi gật đầu.
Chàng trai phá lên cười:
- Cảm như vậy làm sao sống nổi
tới hôm nay?
Cậu ta cười sằng sặc như một
kẻ điên. Trong tiếng cười đó ẩn giấu sự cợt nhả thật khó chịu. Lặng lẽ, tôi móc
bao thuốc trong túi mời đám đông. Một người đàn ông trạc tứ tuần quẹt lửa châm
thuốc cho tôi nói:
- Ông giám đốc chưa biết đó
thôi. Chú em này là dân làm mướn miệt đồng. Đã là dân làm mướn miệt đồng làm
sao còn sợ hơi đất ?... Ông có thấy những túp rơm nhỏ xíu dọc các con lộ
không?...
Tôi đáp:
- Trước giải phóng tôi ở
trong rừng. Gần đây tôi cũng có vài lần thấy những túp rơm đó. Tôi nghĩ rằng
người ta dùng để cất nông cụ cho khỏi han rỉ.
Người dàn ông dúi điếu thuốc
tôi vừa mời vào tay một cậu mới tới, rồi móc chiếc túi đựng thuốc ở thắt lưng
ra. Chiếc túi thuộc da đen bóng như lụa. Người đàn ông thong thả cuộn thuốc, mồi
lửa và nói tiếp:
- Đó. Chính những túp rơm đó
là nhà của dám dân này. Họ chỉ dựng nhà vào những dịp công việc vẫn nhiều, đàn
bà sinh nở, hoặc không may có đứa bé nào đó mắc bệnh trọng. Còn quanh năm họ
lang thang từ miệt đồng này tới miệt đồng kia. Mùa gieo cày vỡ đất gieo hạt mướn.
Mùa gặt, gặt lúa, giũ lúa, chở lúa cho đám chủ ruộng. Rồi lượm hạt vãi hạt rơi.
Kẻ làm mướn kiếm đâu ra nhà? Họ gần giống như thứ dân đánh cá đen. Tức thị là
người trốn tù, bỏ xứ đóng một chiếc thuyền câu chui nhủi trong các mương rạch
giữa rừng rậm mà bắt rùa, bắt vích, đâm cá qua ngày. Tới đâu, dân làm mướn gánh
theo gia tài tới đó. Gia tài nhiều nhặn gì ? Túi gạo, dăm ba cái bàu đựng nước,
vài bộ quần áo, dăm chiếc chén ăn cơm. Ngày xưa là chén đá, giờ chén nhựa. Một
tô đựng canh. Ít tiền tích cóp được. Làm mướn đồng nào mua thức ăn đồng ấy. Nấu
nồi cơm, tô canh còn con cá nướng bày lên lá chuối. Tối đến chui vào nóp, úp
chiếc nón lên mặt hệt như con sâu kèn.
Tôi ngắt lời anh ta :
- Nhưng còn những ngày mưa?
Người đàn ông bập một hơi
thuốc thật sâu, nuốt khói rồi đáp:
- Ông giám đốc chưa sống qua
một mùa mưa vùng ruộng nên chua biết, có gì khó khăn đâu? Mưa to mấy nước cũng
rót xuống chỗ trũng. Vậy thì chọn gò cao quấn vải nhựa mà nằm, úp nón lên mặt.
Cứ yên tâm chờ mưa lạnh, đứng dậy gỡ áo mưa ra hơ nắng một chặp là khô cong. -
Nhìn vẻ mặt tôi, ông ta tủm tỉm cười nói tiếp:
- Chắc ông giám đốc sẽ hỏi,
khi đàn bà sinh nở, bà già con trẻ đau ốm thì sao ? Vậy nè: Đã dân phiêu bạt
thì không có quyền được ốm. Đàn bà tới cữ sanh chồng lo kiếm rơm túp lên chóp lều
cho vợ. Đó, những túp rơm ông đã thấy ven đường. Đứa bé khóc chào đời trong các
túp lều, khi bố nó ngồi chực ngoài trời, còn mẹ nó thò hai cẳng chân cho mụ đỡ
lau rửa các vết máu. Dẫu đêm tối hay trưa nắng rọi cuộc sống đứa bé vẫn bắt đầu
như vậy. Rồi nó được bú mớm tránh nắng, tránh mưa trong các túp rơm tới ngày đầy
tháng. Khi đó họ đốt mái lều, bế đứa trẻ ra đi...
Người đàn ông ngừng lại.
Trong đôi mắt xa xôi của ông ta ánh lên một thứ tia sáng vừa như cười cợt vừa
như buồn phiền. Sau làn khói thuốc, gương mặt ông ta càng thêm phiêu lãng. Tuy
vậy tôi không đọc thấy nét dãi dầu chất phác của dân xứ ruộng. Trước đây ông ta
làm nghề gì? Câu hỏi chập chờn trong óc tôi. Lúc đó, ông ta lại nói tiếp:
- Dân Tsư-gan ở châu Âu cũng
sống lang thang trên các ngả đường. Gia tài chất trong chiếc xe ngựa. Nhưng họ
không thể cày thuê, cuốc mướn như đám dân miệt ruộng của mình. Họ sống bằng nghề
trộm cắp, bói bài, đoán mộng và nhảy múa. Ông giám đốc thấy không? Ngay cả loại
người lang thang ở nước mình cũng cơ cục và cần cù hơn xứ khác.
Ông lại mở bao thuốc, bốc ra
một nhúm. Lần này tôi thấy miệng bao da viền bạc và chốt bấm cũng bằng bạc tán.
Vì dùng nhiều nên lớp da mềm óng mịn như vuốt sáp: Chắc chắn ông ta không phải
dân làm mướn. Tôi thầm nghĩ.
Một giọng đàn bà cất lên:
- Anh Hai kể làm chi chuyện
bao đồng. Ông giám dốc lo tính việc lớn chớ đâu cần biết túp lều của dân làm mướn?
Giọng Huệ lai. Cô ta ngồi giữa
đám phụ nữ với dáng điệu của con công đứng giữa bầy gà. Chiếc áo vải mỏng bó
trong lưng quần Soóc. Thân thể và cặp đùi trắng như bọt biển phô diễn trọn vẹn
sức hấp dẫn đàn bà. Nhưng vẻ mặt tinh quái của cô ta lại giống như một thiếu
niên. Thấy tôi đưa mắt nhìn Huệ lai mỉm cười. Nụ cười đó xóa đi giọng nói đầy
khích bác. Nó thật hồn nhiên và vui tươi. Cậu bé làm mướn miệt đồng đang lăn dưới
đất nói với tôi:
- Chú đừng giận chị Huệ lai
nghen. Quanh năm bả nói rỡn không mà...
May mắn sao cơn gió đầu tiên
đã thổi tới. Những vòm lá xào xạc đu đưa khắp bốn bên. Tôi đứng dậy nói thật
dõng dạc để trấn áp nỗi ngượng ngùng:
- Mát rồi đấy. Tiếp lục làm
đi thôi.
Đám đông quanh tôi đứng dậy.
Từng tốp một tản mát sau các bụi rậm, các thân gỗ ngổn ngang. Tôi đi sâu vào
phía trong tìm Quắc. Chắc chắn anh đi cùng với đội sản xuất của Phức tiến sang
dãy núi bên kia.
Từ ngày hạ lệnh cấm phạt quỳ
và cảnh cáo Phức tôi chưa hề gặp mặt anh ta ngoài những cuộc họp chung của các
đội trưởng. Có lẽ con người này cảm thấy sự khó chịu của tôi nên luôn luôn tìm
cách lẩn tránh. Có lần thấy tôi bước lên cây gỗ bắc ngang vực, anh ta đã nấp
vào bụi rậm chờ tôi đi khuất mới ló mặt ra. Mấy cô nấu bếp vào rừng kiếm lá
thơm nấu thịt bò chứng kiến đã kể lại với Vọp. Rồi Vọp kể lại với tôi. Cậu lái
xe còn nói thêm rằng Phức nịnh Quắc thật ghê gớm. Kể cả hai giám đốc trước anh
ta cũng không quỵ lụy đến như vậy. Quắc đi đâu, bất kể vào rừng hay ra xóm dân
chơi, xuống thị trấn hay dạo mát quanh vườn, Phức đều đeo súng đi theo bảo vệ.
Ngoài chức đội trưởng sản xuất, anh ta còn là đội phó đội tự vệ của nông trường.
Huyện đội đã phát súng cho họ từ ngày đầu thành lập:
- Chú cứ tưởng tượng xem.
Chú Quắc đi trước còn ổng bồng súng đi sau. Hệt như sĩ quan cận vệ đi hầu đại
tướng...
Thế nhưng năng suất lao động
ở đội Phức bao giờ cũng nhất nhì nông trường. Điều đó khiến tôi hoang mang. Đã
ba lần Quắc bảo:
- Anh cứ xét thành tích cụ
thể thì biết. Sách lược dùng người của tôi hơn bài bản chánh trị suông không?
Tôi biết rõ Phức vẫn dùng mọi
cách hăm dọa kỷ luật các đội viên trong đội. Mặc dù đã phải bãi bỏ hình thức phạt
quỳ phơi nắng. Không lẽ roi vọt và sự nhục hạ lại làm tăng phẩm chất lao động của
con người? Không lẽ có những thứ người chỉ thích hợp với cách thức giáo dục bằng
bạo lực? Mọi lý lẽ của Quắc đều hàm chứa chiều sâu đời sống và sự nghiệm sinh.
Anh tự tin hơn tôi và kiên quyết hơn tôi. Có lẽ anh là một người đàn ông đích
thực. Có lẽ trong tôi có một khoảng trống mà cuộc sống thời chiến không thể lấp
đầy. Các chiến thuật, sự tinh nhạy, sức chịu đựng dẻo dai, tình bằng hữu... Tất
cả những phẩm hạnh giúp con người vượt qua mọi nan nguy trong chiến tranh giờ
đây chưa được thử nghiệm. Nó vẫn là các ẩn số giống như những cánh buồm bập bềnh
trong lớp mù khơi. Có thể đó là những con thuyền. Cũng có thể đó chỉ là ảo giác
của người trên bờ biển. Chưa có gì chắc chắn.
Những ý nghĩ đó bám lấy tôi.
Chân tôi bước hoàn toàn theo thói quen. Những thân gỗ thẳng, những cành tươi
cong queo hay nứt nẻ, những đám lá đung đưa sàng sẩy ánh nắng xuống khoảng rừng
thưa... Tất cả lướt qua mắt tôi như những cột số lướt qua mắt kẻ bộ hành.
- Á á á…
Một tiếng thét thất thanh đột
ngột xé rách màng nhĩ. Đầu tôi choáng váng như uống rượu say trúng gió. Tôi đứng
lặng giữa lối đi không hiểu chuyện gì đã tới. Thoạt tiên, tôi chỉ đoán biết đó
là tiếng hét của con người. Sau đó tôi nghĩ tới tai nạn lao động xảy ra. Hoặc
có người trèo cây ngã xuống vực. Hoặc ai đấy bị gỗ đè. Những khả năng tồi tệ nhất
đã phải tính trước, lúc bắt tay vào việc. Nghĩ thế tôi nhìn quanh. Bên trái
tôi, Huệ lai đứng như pho tượng. Không hiểu bằng cách nào mà cô đã rơi sát bên
tôi. Gương mặt người đàn bà biến dạng. Đôi mắt bạc phếch, làn da trắng mịn biến
mất những gợn hồng li ti trở thành mảng da trắng. Cặp môi xinh xắn nhợt màu run
run không khép lại được. Cô ta đứng gần đến nỗi chỉ quay đầu thêm chút nữa, mặt
tôi sẽ chạm vào má cô. Tôi nhìn rõ từng sợi mi cong tròn làn mi đen thẳm và đám
lông tơ dưới những sợi tóc mai. Tôi cũng nhìn rõ cả những giọt mồ hôi trong suốt
đọng trên cánh mũi. Trong khi tôi lặng lẽ nhìn người đàn bà, chính cô ta cũng
giương mắt trân trân nhìn tôi. Nhưng ánh mắt sợ hãi man dại của cô khiến tôi thấy
mình giống như một thây ma và bước lên từ nấm mồ hoặc một sứ giả của hành tinh
khác. Tôi lùi lại. Lúc đó, tôi nhìn thấy con rắn xanh trong tay Huệ lai. Đó là
một con rắn lục. Những ai đã từng ở trong rừng sâu đều hiểu thế nào là tai ách
này. Trong mọi thứ hiểm họa, nó là thứ hiểm họa đáng kinh hãi nhất. Loài rắn bé
nhỏ có màu diệp lục thường lẫn trong những đám lá khiến người đi đường trở nên
mù lòa và bất cẩn. Những đám lá rắn ẩn náu thường có chiều cao ngang với tầm
cao của con người. Thế là từ vị trí độc ác ấy, nó phóng tới mổ kẻ xấu số. Nọc rắn
lục độc hơn cả nọc rắn hổ mang hoặc mai gầm. Vết thương lại thường ở trán, gáy
và mang tai nên vô phương cứu chữa. Tôi đã nghe kể về thứ rắn khủng khiếp này từ
ngày mặc áo lính. Nhưng bao nhiêu năm sống trong rừng, từ rừng Việt Bắc đến rừng
Tây Bắc. Từ rừng Lào tới rừng phương Nam, tôi chưa hề đụng độ.
Vậy mà, tôi gặp nó ở đây.
Con quỷ xanh ngọ nguậy điên cuồng trong bàn tay trắng muốt của người đàn bà. Huệ
lai đã cứu sống mình. Tôi chợt hiểu...
Con rắn lục cong đuôi quấn
quanh cổ tay Huệ lai như chiếc vòng. Tôi vội nắm chặt bàn tay ấy đặt lên khúc rễ
cây chồi trên mặt đất. Bắt buộc người đàn bà phải ngồi xuống bên tôi. Hơi thở
cô khiến một bên tai tôi buồn buồn. Tôi nhặt hòn đá gần đấy đập nát cái đầu dẹt
và xanh của con rắn. Giữa hai hai hàm răng chiếc lưỡi chẻ của nó vẫn phóng lo
loe không ngừng. Người đàn bà chỉ lỏng tay chút xíu con rắn sẽ quay sang đớp cổ
tay cô ta. Và lúc đó... Tôi rùng mình. Cái đầu rắn đã nát bét trên khúc rễ cây,
tôi vẫn đập mãi như hóa cuồng. Hai má người đàn bà đã nổi lên những mạch máu li
ti giống hệt hai cánh hoa hồng xứ Bắc. Cô ta nhìn tôi cười nghặt nghẽo:
- Thôi, kẻo rắn không chết
mà tay tôi bấy ra đây nè...
Chợt tỉnh, tôi dừng lại. Cả
tay tôi lẫn tay Huệ lai đều chi chít vệt máu rắn. Đầu con vật độc ác đã bẹt như
mảnh vỏ cây trộn lẫn với rễ cây và đất cát xung quanh.
Hai chúng tôi cùng đứng dậy.
Lúc đó sự gần gũi khiến tôi luống cuống. Tôi định nói: “Cô đã cứu sống tôi. Xin
cảm ơn cô...”. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ hình thành trong óc não. Lưỡi tôi trở nên vụng
dại và tôi đứng đờ ra. Người đàn bà đã linh hoạt. Cặp môi cô lấy lại sắc hồng
cười ngạo nghễ:
- Bữa nay ông được mẻ hoảng
hồn. Về nhà nhớ cúng tiên tổ nghen...
Cái giọng nói ngạo nghễ của
Huệ lai không còn làm tôi khó chịu. Nó bao hàm tính nghịch ngợm và hài hước của
một chú nhỏ hơn là sự kiêu sa của một người đàn bà. Tôi cũng cười và đáp:
- Nếu biết cúng tôi sẽ cúng
ngay. Hay tôi nhờ cô làm giúp ?
Huệ lai cười thành tiếng rồi
biến sau một đám cây. Tôi tiếp tục sang trái núi bên kia tìm Quắc. Nhưng suốt
đường đi một thứ rượu ngọt ngấm vào huyết mạch khiến tôi nửa như say, nửa êm ái
như ngâm mình trong suối mát. Những cơn gió ngoài đồng tranh thổi mọi lúc mỗi mạnh
hơn. Làn hơi ẩm và nóng ngưng tụ giữa mặt đất với các tầng lá dầy bị gió lùa
như một con thú khổng lồ đi qua cọ vào thịt da ta tấm thân mềm mại và ấm nóng.
Năm giờ chiều, khi chúng tôi
ra khỏi rừng cây. Trời bỗng đổ mưa. Thoại tiên chỉ nghe tiếng gió hụt hơi chìm
xuống. Và lúc đó không trung ngưng trệ oi ả khiến người ta tức thở. Sau khoảnh
khắc vờ vĩnh đó, cơn giông từ khơi xa kéo về. Những đợt gió lạnh ẩm ướt chồm
lên nhau phóng qua đất đai, rừng núi. Cứ mỗi cơn gió lại có những tiếng rền xa
xôi từ khoảng trời mịt mùng âm u nào vẳng tới. Âm thanh đó giả trá như những âm
thanh trong cơn mê của kẻ mắc chứng tâm thần. Rồi đột nhiên, một tiếng sấm nổ rền
cuối chân mây. Những núi mây đen trồi lên như hung thần nhô từ đáy nước. Ngay tức
khác cả vòm trời tối sầm lại. Rồi đột ngột, lộp độp những hạt mưa giáo đầu ném
xuống vai kẻ bộ hành. Mỗi hạt mưa lớn bằng đồng xu. Chưa có cơn mưa rừng, mưa
biển nào tôi đã gặp trong đời lại có những hạt mưa lớn như vậy. Khi in lên mặt
đất nó để lại vô số những ngôi sao nhiều cánh vừa vặn một đồng bạc đánh cảm mà
các bà già vẫn đeo trong túi bảo bối bên mình. Mỗi hạt mưa nặng như một viên sỏi
ném xuống khiến ai nấy tưởng thiên nhiên trừng trị mình vì những tội lỗi còn ủ
trong bóng tối. Khi làn mưa giáo đầu chấm dứt, những tràng pháo trắng xóa nổ
tung khắp nơi. Mặt đất chìm trong một trận gieo nảy điên cuồng, ồ ạt. Những roi
nước vụt xuống liên hồi không ngưng nghỉ. Ngàn ngàn tiếng động trầm đục đan hòa
nhau. Mưa quẫy lộn như một con giao long cuồng dại. Chân trời bị đục ruỗng bởi
tiếng mưa khoan xoáy. Rừng cây, xóm trại, đồng cỏ, đồi núi chìm dưới dòng thác
tàn nhẫn.Thỉnh thoảng tia chớp xé vòm trời lóe lên ngọn lửa nồng nhiệt, để sau
đó sấm bùng nổ giữa thinh không như tín hiệu của một cuộc tế lễ uy nghi.
Từ ngày tới đảo, đây là cơn
mưa đầu tiên. Cũng là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh thiên nhiên hùng vĩ thế.
Rừng cây đang gào rú sau lưng. Tôi chưa tìm đâu ra chỗ trú, đã có bàn tay ai
lay nhẹ:
- Chạy đi. Vào lều đốt than
kia kìa.
Tiếng nói bị quất chìm ngay
xuống. Cả bóng người cũng lướt qua mắt tôi như một vệt nước trắng đục. Tôi bỗng
cảm thấy đó là Huệ lai. Và không kịp suy nghĩ, tôi chạy theo vệt nước xối, giống
như những người dân bộ lạc chạy theo tiếng gọi của ngẫu thần.
Cách cửa rừng chừng ba trăm
mét, có một dãy lều nhỏ. Đó là lều trú ngụ của những người đốt than. Người ta dựng
chúng lên vào thời khắc an nhàn nhất trong năm. Khi các vườn điều đã thu trái.
Các đồi dứa đang còn xanh và những chuyến xe từ miệt biển chưa đem theo mùi
tanh nồng nặc của những lồ cá trích, cá phèn. Dân đảo dùng thứ cá đó làm phân
bón tiêu, bón trái đào lộn hột và bón củ mì. Những nguồn sống chính không còn bận
rộn, dân xóm trại vào rừng đốt than. Các cánh rừng thay đổi luôn vì mỗi ngày
các bì than thêm đắt và do đó thêm quyến rũ những ai ham kiếm tiền. Những cánh
rừng ít hiểm trở bị dân đốt than bóc trơ trọi. Mùa than qua, họ phóng lửa đốt
tiêu những lều canh và các hầm than há hốc cái miệng đen sì tang thương như mõm
con cá sấu bị bỏ hết răng. Đôi khi, họ không đốt mà bỏ mặc những mái lều đó ải
dần, tới lúc sập xuống. Nhờ vậy chúng tôi tìm được chỗ trú thân.
Tôi đến quá muộn. Người dẫn
đường của tôi đã đứng giữa đám chị em vuốt những lọn tóc ướt sũng. Khi tôi bước
vào, cô ta không thèm quay mặt ra mà chăm chăm nhìn vào ngọn lửa vừa nhóm. Đám
đàn bà nhanh chân vào trước đã kịp kiếm những cành củi vương vãi trong lều nhen
lửa. Những cành nhỏ còn khô bén bát đầu cháy. Nhưng những cành ướt bên trên bốc
khói trắng mù. Mấy bà mấy cô thi nhau thổi. Sau lưng họ, trai tráng đứng ngồi
thành từng cụm. Họ nhìn dòng thác trắng đổ ào ào ngoài mái tranh. Nét mặt họ thản
nhiên chẳng nôn nóng cũng không bực tức. Họ ra đảo đã hai năm và quen với thứ
mưa này.
- A, khá thiệt, khá thiệt…
Coi chừng mà mưa đá đó nghe…
Người đàn ông khi nãy nói
chuvện với tôi kêu trong tiếng gào thét của rừng cây bị gió giật và mưa xói. Cậu
bé miệt đồng nói theo:
- Chú nói năm nay mưa lớn
hơn năm trước không ? Cháu e như vậy?
Người đàn ông gật gù giơ tay
gạt lớp bụi nước bắn vào mặt. Nhìn qua làn nước ngoài mái tranh, tôi thấy lờ mờ
những bóng người trú ngụ trong các lều lân cận. Lều nào cũng đã nhen lửa vì từng
cuộn khói như một thứ bông bẩn không tan được quần tụ lửng lơ trong các khoảng
trống nhỏ hẹp mà khối nước mênh mông kia còn chừa ra.
Người đàn ông có bao thuốc bằng
da quay lại nhìn tôi:
- Ủa, ông giám đốc cũng vô lều
này sao? Mời ông tới sưởi lửa.
Tôi lắc đầu :
- Cám ơn. Không cần đâu.
Người đàn ông kéo tay tôi:
- Ông sẽ lạnh ngay bây giờ.
Coi chừng bịnh đó.
Ông ta bảo mấy cô gái:
- Dẹp ra tụi bay. Con gái gì
vô ý vậy? Lẽ ra thấy mấy ông già là phải qua một bên nhường chỗ chứ ?
Mấy cô gái quê cười hi hí xích
sang một bên. Hai chúng tôi ngồi xuống. Bấy giờ, tôi thấy lạnh, đúng như người
đàn ông hảo tâm kia đã nói. Da tôi nổi gai và dọc sống lưng một cảm giác tê buốt
chạy lần lần. Giống như có que kem ai đùa bỏ vào trong áo. Tôi giơ tay hơ sát
ngọn lửa. Làn hơi nóng truyền vào tôi một cảm giác dễ chịu. Đám trai tráng đã
ngồi vòng trong vòng ngoài. Tất cả cố gắng áp gần ngọn lửa để chống chọi làn
hơi giá quây bốn xung quanh. Tôi nhìn ngọn lửa nhảy nhót. Giây phút đó tôi bỗng
thấy thương những con người trần trụi ngồi bên mình. Những con người xa lạ. Mỗi
quá khứ của họ giống như một loài cây lạ mọc trong các miền đất lạ tôi chưa hề
nhận biết. Giờ đây họ cũng bị hơi giá của những cơn mưa xua đuổi và cầu xin
chút lửa sưởi như tôi. Giờ đây, họ cũng kinh sợ những tia chớp rạch sáng bầu trời
và những tiếng sấm vỡ như tôi. Và cũng như tôi, họ phải chịu đựng, phải vượt
qua để sống...
- Ông giám đốc làm mồi thuốc
không? Thứ thuốc của tôi nặng dân nghiền mới xài nổi.
Người đàn ông ngồi bên lại
móc cái túi thuốc sang trọng trong lưng ra. Ông ta hơ qua cho hết hơi nước bên
ngoài rồi lấy thuốc quấn. Những ngón tay của ông rắn rỏi nhưng không thô kệch.
Tôi hỏi:
- Trước đây anh làm gì?
Không ngẩng đầu lên người
đàn ông cẩn thận vấn điếu thuốc cho tròn rồi đáp:
- Trước khi tới đây tôi là một
võ sĩ.
- Võ sĩ quyền Anh? - Tôi hỏi
tiếp.
- Không... - ông ta lắc đầu
- Tôi chỉ xài ba thứ võ của tổ tiên để lại thôi.
Gương mặt ông ta lúc đó thật
đẹp. Sau này Vọp cho tôi biết ông ta nguyên là một giáo sư ngôn ngữ. Giàu sang,
vợ đẹp con ngoan, sống như người Mỹ giữa đất Sài Gòn. Sau đó gia đình ông xảy
ra bi kịch. Thủ phạm là một đồng nghiệp Mỹ. Gã sang đây nghiên cứu ngôn ngữ
Khơ-me và Chàm. Nhưng nhan sắc bà vợ của nhà ngôn ngữ Việt đã kéo dài thời hạn
rong chơi trên Hòn ngọc Viễn Đông của gã một cách bất thường. Nỗi thất vọng đã
ném giáo sư vào một ngôi chùa tịch mịch. Ở đó ông là môn đệ của võ phái Thiếu
Lâm. Dân nông trường gọi ông là anh Hai hoặc võ sĩ Hai. Không ai nhớ họ tên thật
của nhà ngôn ngữ.
Cơn mưa kéo dài chừng nửa giờ
nữa rồi tạnh. Nó tạnh cũng đột ngột như khi nó tới. Trong khoảnh khắc, gió biển
cuốn sạch những đám mây rải rác trên bầu trời, để lộ lớp da xanh lơ trong trẻo.
Và mặt trời như chiếc đồng thau đánh bóng, ngay tức khắc tỏa xuống những tia nắng
chói lọi. Làn ánh sáng rực rỡ đó khiến ta có cảm tưởng cơn mưa vừa đi qua chỉ
là ảo ảnh, là giấc mơ ngắn ngủi chóng tan. Mọi người ùa khỏi lều, vừa khoan
khoái vươn sải chân tay vừa hối hả bước. Chắc hẳn ai nấy đều đã thấy đói, mong
mau mau trở về tắm táp cho khỏe rồi ăn cơm. Đám trai tráng và thôn nữ vượt lên
trước tiên. Sau đó là những người trạc ngoài ba mươi hoặc tứ tuần có lẻ. Tôi
lùi lại cuối cùng. Tôi muốn tìm xem Huệ lai ở đâu. Không thấy cô ta trong đám
đông phía trước. Trong lúc tôi đang mê mải nhìn ngó, người đàn bà từ phía sau
đi sướt sát bên tôi như có phép tàng hình:
- Nè, coi bộ ông xanh mét, dễ
bịnh lắm nghen.
Huệ lai nói nhỏ vừa đủ cho
tôi nghe. Rồi không chờ tôi trả lời, cô ta bước dấn lên lẫn với đám dông. Chỉ
vài giây sau đã nghe tiếng cười ngạo mạn chói chang vượt lên mọi tiếng cười
khác. Giống như một bông hoa đỏ chót hay vàng rực giữa đám hoa màu sắc nhợt
nhòa. Tại sao cô ta lại nói với mình bằng cái giọng thì thầm ấy ? Tôi băn khoăn
mãi. Tuy không giải đáp được câu hỏi đó nhưng niềm say sưa ngây ngất mỗi lúc mỗi
thấm đậm vào lòng. Tôi lội cả vào những vũng đầy nhái cỏ khiến chúng nhảy tứ
tung. Cố dồn nén niềm vui bùng nổ trong mình, tôi tự mắng: “Chẳng có cái gì
đáng hồi hộp đến như vậy. Đối với một người đàn ông đã sấp xỉ tuổi năm
mươi...”. Tuy thế tôi vẫn bồn chồn như con thỏ đứng trước đồng cỏ ban mai.
Cuộc sống ở nông trường có
những thú vui không báo trước. Buổi tối tôi chưa kịp ăn cơm, ngoài sân bóng có
tiếng hô hét nhộn nhạo. Đám cán bộ nhân viên nông trường đang bắt rắn. Từng
nhóm sục sạo vào bụi rậm, tay hèo, tay gậy, người này đuổi, người kia chắn khiến
tôi nhớ tới hội đuổi chim cun cút tháng giêng vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tuy ở mọi
nhà, những ngọn đèn cầy đã thắp lên, nhưng ánh tà dương chưa tắt hẳn. Vì thế vẫn
nhận được vết rắn bò trên nền đất ướt.
- Lẹ lên, lẹ lên anh Hai...
- Qua lối này, trơn dữ thiệt...
Đưa cho tôi cây hèo đó. Nào, lẹ lên...
- Trời ơi, ráng lên chúi xíu
đi. Con này nặng tới hai kí chớ không ít. Anh em ta làm mấy khúc bỏ lò còn bao
nhiêu hầm nồi cà-ri tiêu ớt.
Những cậu trai Nam Bộ hò la ầm
ĩ. Mấy anh dân Quảng Bình, Quảng Trị lẳng lặng chụp rượt. Cuối cùng con rắn nào
to nhất cũng lọt vào tay họ. Và những công tử trẻ trai đành chịu nhặt xâu rắn
nhỏ đem về. Vừa đi vừa ca cẩm:
- Trời ơi, mấy cha cù lần lại
được nhậu lớn. Tụi mình hăng tiết vịt rồi cũng chẳng ăn nhằm chi.
Tiếng cười nói tan dần trong
các lối. Chừng nửa giờ sau khi tôi vào bàn lật chồng hồ sơ lưu xem xét. Vọp gọi
:
- Anh em mời chú xuống nhậu.
Tôi hỏi:
- Thịt rắn hả? Minh không biết
ăn.
Vọp cười:
- Nói cho đúng là chú chưa biết
ăn. Hồi mới tới nông trường cháu cũng vậy. Nhưng đụng đũa vào rồi khắc quen. Mà
cháu nghe nói trong quân đội chú đã từng nhậu thịt vích với kỳ đà ?
Tôi gật đầu :
- Có như thế. Nhưng thịt rắn
thì chưa.
Chàng trai nói:
- Thịt rắn cũng không khác
thịt kỳ đà là bao. Có phần thú vị hơn nữa. Nào, chú đi xuống với anh em một
chút cho vui.
Tôi định rủ Quắc nhưng không
thấy anh đâu. Nếu Vọp có mời chưa chắc Quắc đã chấp thuận. Anh có những nguyên
tắc sống thật lạ với tôi. Nhưng niềm tin bất di bất dịch và sự kiên định của
anh với những nguyên tắc đó khiến tôi bị lay động.
- Trời ơi, không khí ngon
lành quá. Đêm ở đảo thiệt tuyệt vời, khác hẳn với những đêm mù mịt khói Hon-đa
và xích lô máy ở Sài Gòn. Đúng không chú?
Vọp ngửa mặt hít những hơi
dài khoan khoái nói vậy. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu bé.
Những người thỏa mãn với cuộc
sống buồn tẻ và hiu quạnh nơi đây thường phải từng trải, mệt mỏi với đời sống
đô thị. Còn chú bé có hai bầu má phan phớt lông măng này làm sao sớm chán ghét thành
phố? Tuy nghĩ vậy tôi chỉ đáp vắn tắt:
- Ờ, chú cũng thấy thế.
Những đám cỏ mát lạnh quệt
vào chân chúng tôi. Bóng soài, bóng mít chụp những tán ô đen lên mặt đất. Còn
trên mặt đất, những vật lân tinh lấp lánh giữa các bụi gai và các ổ lá mục.
Không khí trong như thủy tinh khiến các vì sao xa xôi hơn và rực rỡ hơn.
Tôi hỏi Vọp :
- Cháu có ở đây được mãi
không?
Chàng trai đáp:
- Được. Nếu có những người
thương mình.
Tôi sực nhớ tới cậu lính út
trong đơn vị. Có lần cậu ta cũng đã trả lời tôi một câu tương tự như thế. Bữa
đó, chúng tôi tổn thất nhiều vì trinh sát mục tiêu không kỹ. Tôi và cậu bé dạt
vào bìa rừng trốn nhủi hai tuần liền mới tìm được lối về cứ. Hai tuần đó chúng
tôi bị các tốp thám báo săn đuổi, ăn uống như những con sóc và nói với nhau đủ
thứ chuyện trên đời…
- A! Chú Hưởng đã tới. Mời
chú vô.
- Chú Hưởng xem làm thịt rắn
chưa? Tụi cháu biểu diễn cho chú xem ngay tức thì...
Dưới ánh đèn cầy, các chàng
trai giống như các Rô-bin-sơn hiện đại. Anh nào anh nấy đều cởi trần mặc quần cụt
màu đỏ hoặc đen. Những vồng ngực và các lườn thịt trên lưng họ phô bày vẻ đẹp
tươi nguyên của đời sống. Một chảo nước sôi sùng sục trên bếp lửa tạm thời kê bằng
ba hòn đá. Các chàng trai tuốt rắn cho rãn xương, nhúng nước sôi rồi lột da thật
sạch. Khi con rắn đã phơi lớp thịt trơn láng hồng hồng từ đầu tới khấu đuôi họ
mổ từng con móc ruột bỏ đi và lấy giấy bản thấm khô máu. Thấm tới đâu thịt rắn
trắng ra tới đó. Khi con rắn đã trắng nõn họ thoa nghệ muối tỏi ớt giã nhỏ cho
đều. Rồi các chàng trai cuộn những con rắn đó thành khoanh tròn quanh các ống
tre bôi mỡ:
- Ngửi xem gia vị đã đủ thấm
chưa?
Một chàng trai vẻ sành sỏi
chỉ huy cả đám cất tiếng hỏi. Hai ba anh khác chúi mũi ngửi, đáp lời:
- Coi bộ đủ thấm rồi đó.
Họ đổ chảo nước sôi ra sân,
gạt than thành một lớp bằng phẳng và gác các ống tre tươi lên những chiếc giá sắt.
Những chiếc giá sắt hẳn được dùng luôn luôn nên nhờn bóng mỡ. Hơi than nóng rừng
rực xông lên ngay tức khắc. Và chỉ chừng mười phút sau mùi thịt, mùi tỏi, ớt,
nghệ cuộn lên cay sặc sụa thơm lừng. Những giọt mỡ vàng tiết từ thịt rắn chín
sém nối nhau nhỏ xuống than xèo xèo. Các chàng trai ngồi xung quanh đám lửa,
nhìn những ống tre béo ngậy tươi cười:
- Chỉ hai phút nữa, ta nhậu
được thôi, chú Hưởng à..
Họ vui vẻ nói với tôi như vậy.
Anh chàng trùm bếp đứng lên lấy chai rượu đế và mấy chiếc ly thủy tinh. Bỗng
dưng tôi thấy buồn, một cảm giác mà lẽ ra trước bữa nhậu người ta không nên có.
Ánh mắt tươi cười hỉ hả của đám trai khiến tôi nhìn rõ khoảng thiếu hụt nào đó
trong cuộc sống. Một vực sâu đột nhiên hiện giữa đồng bằng. Có lẽ tôi phải làm
điều gì đó để niềm vui của họ khác biệt đi. Người ta không thể chỉ bằng lòng với
những nhu cầu của sự sinh tồn, có lẽ đời sống thật sự của con người còn nhiều
niềm vui khác. Tôi chưa nhìn rõ chúng, giống như người đi biển chưa thấy những
con tàu lạ ẩn khuất sau đường cong chân trời. Nhưng tôi cảm nhận được điều ấy.
Hồi chiến tranh chúng tôi sống những nguồn sống riêng biệt. Nguồn sống ấy mỗi
chiến binh tiếp nhận khi trút bỏ bộ thường phục và khoác lên vai cây súng. Nó
khiến họ đủ sức mạnh để quên đi nhịp điệu cuộc đời thường. Từ ga tàu đầu tiên,
chúng tôi phải biết quên đi những con đường tĩnh lặng, nơi lá rụng xuống thảm cỏ
hoặc xuống những viên gạch mòn nhẵn, nơi những đứa bé tung tăng bước ngày tựu
trường hoặc những ông già lững thững chống gậy đếm từng cột cây điện, từng tấm
biển quảng cáo hàng, nơi chúng tôi có thể đi bộ hàng ngày trời để nói với một
cô gái những điều ngớ ngẩn. Từ ga tàu đầu tiên, chúng tôi phải biết quên những
ngọn khói ấm áp trong tiệm cà phê, những điệu nhạc quen thuộc đã một thời rung
động các trái tim trẻ trung khao khát, ánh đèn nhấp nháy nơi ngả rẽ những con
đường, tiếng còi báo giờ của nhà hát thành phố, không khí náo nhiệt ở các rạp
chiếu bóng hoặc các khu chợ... Nhưng cuộc sống thời chiến đã qua. Dòng sông cuồng
nộ chảy cuồn cuộn trên mặt đất xóa sạch các ao hồ, cuốn theo mọi con suối, dòng
kênh đã ra tới biển. Giờ đây, trên đất đai phẳng lặng lại hiện lên những con
kênh ngang dọc, những sông suối ao hồ của đời sống bình yên. Và vì thế, người
ta phải nhìn ngắm nó dưới ánh mặt trời thường nhật. Phải chăng vì trước đây các
cán bộ quản lý đã thi hành luật sống của người lính đối với đám nông trường
viên vô thời hạn nên họ phản ứng? Trong hồ sơ nông trường, tôi liên tục đọc được
các vụ bỏ trốn, cướp tàu dân vượt biển về đất liền, các vụ đánh lộn với cán bộ,
bỏ vào các xóm trại làm thuê... Quả thật con người không thể làm quần quật suốt
ngày để được hai bữa cơm nghèo nàn với những niềm vui tạm bợ. Tôi nhìn đám trai
tráng đang lăng xăng bày mâm, lau bát, rót rượu quanh mình và nghĩ:
- Chính lũ trẻ đang vui vẻ
trước bữa nhậu này, lúc khác sẽ bất bình và phản kháng. Chính chúng sẽ chất vấn
mình: Nông trường đem cho cuộc đời tôi những gì ngoài hai bữa cơm và nỗi buồn tẻ
? Rồi sẽ đến lúc đó... Bi kịch xảy ra khi người ta chỉ thấy niềm vui trước mặt
mà không đoán được những bất mãn sẽ đến sau lưng...
- Vô nhậu chú! Xong trơ trọi
rồi. - Cậu chủ nhà xoa hai tay mời.
Các chàng trai xúm xít quanh
tôi, họ giơ cao những ly rượu đầy tới miệng. Tôi đáp lại lời chào mời nồng nhiệt
của họ trong lúc những ý nghĩ chưa dứt.
Tan bữa rượu về phòng mình,
tôi thấy Quắc ngồi trước một thau trứng nổi bọt. Cái lưng gù gù quay ra cửa nên
anh không nhìn thấy tôi. Hai tay Quắc cầm hai thanh tre lớn đánh liên tục. Tiếng
tre đập xuống đáy thau men đều đặn như tiếng gõ của quả lắc đồng hồ. Tôi hỏi
anh :
- Cậu làm gì thế ?
Quắc không ngừng tay đáp:
- Đánh trứng đổ bánh soài.
Ngoài đảo, trứng gà rẻ hơn trong đất liền tới ba đồng một chục. Lớp này tụi nhỏ
nhà tôi thả sức ăn bánh. Trong đó, mỗi lần vòi mua, má nó chỉ cho mua hai ba
cái chả bõ chua miệng.
Tôi sực nhớ tới kỳ nghỉ đầu
tiên của Quắc từ khi ra đảo. Hình như anh đã mua vé tàu tuần tới. Tôi bảo anh :
- Tớ có hai mảnh vải đẹp lắm.
Cậu đem về cho bà xã với đứa bé may.
Quắc lặng thinh hồi lâu rồi
hỏi:
- Này anh Hưởng. Hồi trên
Ban khai hoang người ta có bảo tôi vợ con anh chết. Vì sao vậy?
- Bom !
- Ngoài Hà Nội bom dữ vậy à
? Tôi nghe nói chỉ có một đợt B.52 thôi.
- Không. Hồi thanh niên mình
có yêu một cô cùng phố. Nhưng vào chiến trường mình mới cưới vợ và sinh con. Vợ
mình quê Tây Ninh.
- À... Ra thế...
Quắc “À” lên một tiếng rồi lại
cắm cúi đánh trứng. Hai cánh tay đen rám cử động không ngừng. Tôi cởi bớt quần
áo ngoài, mắc màn chuẩn bị ngủ. Lúc đó, Quắc bỗng ngửng lên :
- Này, tôi nghe nói anh
thương con mẹ Huệ lai, đúng không?
Tôi hỏi:
- Ai bảo với cậu thế?
Quắc đáp:
- Nhiều người. Họ nói con Ly
quấn anh hơn quấn mẹ nó. Và mụ Huệ lai bữa rày không chọc ghẹo chửi rủa anh như
đối với mấy cha giám đốc trước mà coi bộ tử tế hơn nhiều.
Tôi cười:
- Nếu cô ta không chửi rủa
tôi thì tôi đáng mừng hơn hai ông giám đốc kia chứ?
Quắc nghiêm giọng:
- Con mẹ đó có nhan sắc. Hai
thằng cha kia sán tới vậy là nó được nước chửi xằng. Còn anh... tôi chắc anh
không tán tỉnh con mẹ đó mà anh thương thiệt...
Mặt tôi bỗng rưng nóng rần rật.
Quả là Quắc đã biết diễn đạt mọi điều đơn giản đúng theo lối nghĩ của anh. Và
trong giọng nói, anh ta tỏ ra đôi chút thương hại lẫn khinh thị. Tôi hỏi:
- Nếu như vậy thì sao?
Quắc xì qua kẽ răng:
- Chuyện tầm xàm? Mà dễ làm
gì chớ? Chẳng lẽ anh tính chuyện cưới con mẹ cứng đầu đó? Có họa một thằng
khùng...
Đầu tôi nóng sực. Nghe rõ tiếng
tim đập thình thình trong lồng ngực, nhưng tôi giả bộ cười cợt bảo Quắc:
- Ngộ nhỡ tôi giở chứng như
vậy thì sao ?
Quắc bưng thau trứng gần như
trắng xóa và phồng tới miệng đặt lên bàn. Sau đó anh rửa tay cẩn thận rồi tới
kéo ghế ngồi đối diện với tôi:
- Anh đừng giỡn. Con mẹ đó
trước là vợ một đại úy dù. Nó là đối tượng ta giáo dục cải tạo lao động. Tôi
cho hai thằng cha giám đốc trước tán tỉnh như vậy bậy bạ. Nhưng thà như họ còn
hơn.
Tôi nhìn Quắc:
- Còn hơn ai?
Anh giơ tay chỉ:
- Hơn anh chớ còn hơn ai nữa
? Họ làm bậy nhưng họ tỉnh táo. Ai hơi sức đâu mà thương yêu một mụ đàn bà như
vậy?
Tôi hỏi:
- Cậu phải giải thích cho
tôi hiểu...
Quắc lắc đầu, cắt ngang lời
tôi:
- Tôi không ưa lý sự. Nhưng
dứt khoát là không được. Anh mà cưới con mụ đó còn đâu danh dự?... Các giám đốc
nông trường nhà máy của Ty, nhân viên trên Ban và trên tỉnh, ngay cán bộ cấp
huyện ở đảo cũng sẽ đem anh ra làm trò cười. Còn nói chi tới đám nông trường
viên? Tụi cứng đầu cứng cổ ấy sẽ đánh giá chúng ta ra sao? Chúng nó sẽ lộn sòng
trên dưới, coi tất cả là cá đối bằng đầu. Chúng nó sẽ lấn lướt, lếu láo. Lúc
đó, tôi với anh biết xử trí thế nào? Anh đừng coi đây là chuyện giỡn. Anh đã bắt
đầu thụt chân xuống hố rồi đó. Coi chừng... Mà bỗng dưng anh cắc cớ làm vậy?
Đâu có thiếu đàn bà? Kỳ này vô đất liền tôi sẽ gặp bà chị họ bên hội phụ nữ. Ở
đó có nửa tá các bà các cô muộn chồng. Tôi sẽ kiếm cho anh một mống.
Quắc nói một thôi liền. Nói
xong, anh phác một cử chỉ để kết thúc câu chuyện. Nhìn mặt anh, tôi biết rằng
không thể nói thêm một lời nào nữa nên lặng im. Câu chuyện của chúng tôi dừng tại
đó. Quắc mắc màn ngủ. Và anh ngủ ngay tức khắc. Còn tôi nằm im trong bóng tối,
không ngủ được và không biết mình nghĩ ngợi những gì. Khoảng ba giờ sáng, Quắc
thức giấc nhóm bếp lửa ngoài hiên. Ngọn lửa bập bùng khiến cái bóng hắt lên tường
phình ra quái dị. Quắc đốt tàn một lượt củi, gạt than đổ bánh soài. Trông cử chỉ
cũng thấy anh là một con người nhẫn nại. Tôi chắc anh nghèo. Từ ngày về nông
trường anh không hề tơ hào một xu của nhà nước. Cũng chưa thấy anh bày đặt một
cuộc chè chén liên hoan mặc dù ở cương vị anh thừa khả năng làm việc đó: “Một
người tốt! - Tôi thầm nghĩ: - Nhưng con người tốt này thiếu hụt một khả năng
nào đó trong tâm hồn. Cũng giống như một kẻ bị cụt tay hay teo một bên chân”.
Lửa ngoài hiên tàn, trời
cũng vừa sáng. Tôi thức dậy, đầu nặng trĩu như người sống lâu trong hầm thiếu
không khí. Quắc bảo tôi:
- Thử cái bánh soài xem sao?
Trình độ này mai mốt về hưu tôi mở quán cà phê đổ bánh soài. Học thêm nghề làm
bánh kem nữa là dư sức sống.
Tôi ăn một cái bánh vừa lật
còn nóng. Quả thực, bánh nở mềm và rất thơm, lửa xém đều khiến vỏ bánh có màu
vàng sậm:
- Cậu quả là một ông bố tốt!
Tôi khen bánh ngon rồi xuống
khe nước rửa mặt.
Thứ ba tuần sau Quắc về đất
liền, tôi bảo anh rút tiền mua mấy cặp vợt cầu lông, bóng đá và bóng chuyền, một
chục bàn cờ, bàn cá ngựa với bài Tu-lơ-khơ và tam cúc cho nông trường viên:
- Ta phải thành lập câu lạc
bộ nông trường. Khi đã khá tiền phải mua một cây đàn phong cầm và bộ kèn trống.
Trong đám trai trẻ ở đây có những cậu tài hoa lắm đấy.
Quắc bảo:
- Cũng được. Nhưng tính anh
cũng kỳ, toàn lo những chuyện đâu đâu trước. Ba cái đồ tầm bậy này đâu có dính
tới việc làm ăn mà cũng chịu tốn kém như vậy?
Tôi không giải thích. Quắc
chuẩn bị hành lý gọi Vọp đưa lên huyện. Đúng mười hôm sau anh trở lại nông trường,
không sai hẹn quá nửa giờ, trên xe có đủ những thứ tôi bảo anh mua. Ngoài ra,
còn thêm một món quà bất ngờ tôi không chuẩn bị đón, đó là một người đàn bà trạc
bốn mươi tuổi:
- Chị Hòa, cán bộ phụ nữ tỉnh
ra đảo công tác. Tôi mời chị tới nông trường của chúng ta để... tham quan…
Sau khi lựa tìm từ ngữ, Quắc
giới thiệu với tôi như vậy. Chị cán bộ phụ nữ giơ tay bắt tay tôi. Điệu bộ của
chị cứng cỏi bình thản chứng tỏ những cuộc “tham quan” như thế này trong đời chị
đã xảy ra khá nhiều. Tôi vừa cảm động vừa bực mình vì thiện ý của Quắc: vì thấy
Hòa cảm giác chán ngắt đã tràn đầy. Gương mặt chị hơi vuông, sống mũi và hai gò
má nhô lên xương xẩu. Một cặp mắt hẹp với cái nhìn lúc nào cũng như xét đoán và
kết tội. Một cặp môi dày lúc nào cũng mím lại để nhỏ bớt và để chứng tỏ sự đoan
trang.
- Mời chị vào nông trường bộ
nghỉ ngơi rồi xơi cơm trưa. Sau đó chúng tôi sẽ đưa chị tới thăm các đội sản xuất.
Tôi nói với người đàn bà mà
Quắc định xe duyên cho mình. Hòa gật đầu trong một thoáng, tất cả lũ cặp trên
tóc chị bắt nắng sáng lóa lên như một dàn ra-đa. Hòa hỏi tôi:
- Xin anh cho biết nông trường
có bao nhiêu cán bộ phụ nữ? Ở đây chị em có mấy tổ nữ công và sinh hoạt thường
kỳ ra sao?
Tôi mỉm cười:
- Báo cáo chị tôi xin lỗi vì
không biết nông trường mình có tổ nữ công nào hay chưa? Hình như chưa thì phải...
Hòa quay sang nhìn tôi ngạc
nhiên: Dường như chị cho rằng một cơ sở sản xuất của nhà nước mà không có tổ nữ
công là phi lý :
- Sao lại thế? Tôi nghe nói ở
đây có trên một trăm phụ nữ cơ mà ?
Tôi gật đầu:
- Vâng.
Hòa hỏi tiếp:
- Thế các anh lãnh đạo chị
em ra sao ?
Tôi đáp :
- Chúng tôi nắm các nông trường
viên qua các đội sản xuất Thanh niên có tổ chức Đoàn. Thú thực với chị, mới nhận
nhiệm vụ quản lý một thời gian nên còn nhiều việc phải lo và còn nhiều khiếm
khuyết.
Hòa gật gù tỏ vẻ cảm thông.
Nhưng sau đó chị vẫn nhắc:
- Theo tôi, các anh nên chú
ý tới tổ chức giới tính. Đó là một công cụ tốt trong công tác quản lý.
Nhà bếp đã cho người bưng
cơm khách lên. Tôi mời Hòa đi rửa mặt rồi ăn cơm. Chắc cuộc hành trình đã khiến
chị đói và mệt. Thế nên, suốt bữa ăn chị đã bớt thẩm vấn tôi về công việc quản
lý nông trường và ban phát những lời dạy dỗ. Cơm xong, khi cô y tá dẫn Hòa sang
phòng khách, chị tỏ ý vui mừng. Rồi chị ngủ ngay. Và ngáy rất to.
Việc làm của Quắc đã có một
tác dụng trái ngược với ý muốn của anh. Từ khi Hòa xuất hiện, tôi biết chắc chắn
rằng không sức mạnh nào có thể tách tôi ra khỏi Huệ lai nữa. Người đàn bà như
cái bóng, len lỏi trong mọi ý nghĩ, mọi cơn mơ màng và những phỏng đoán của tôi.
Màu áo của cô, những món tóc hung rơi trên bờ vai trắng, cặp má với những mạch
máu li ti hồng, ánh mắt nhìn lúc khiêu khích, lúc dịu hiền, tiếng cười chói
chang ngạo mạn... Có lẽ đó là hạnh phúc cuối cùng cuộc đời đã giành cho tôi ?
Phần bù đắp sau những năm chiến tranh dài dặc, sau những thua thiệt cay đắng...
Mỗi buổi sáng, con bé Ly tới
trước cửa văn phòng. Tôi chơi với nó chừng nửa giờ rồi làm việc. Ngày nào lên
huyện tôi đem con bé cùng đi theo. Nó ngoan ngoãn ngồi chờ tôi cả buổi với chú
Vọp ngoài xe. Khi tôi trở ra, miệng nó tím đen nhựa sim hoặc dính đầy kẹo đường.
Bao giờ, trước khi trở về nông trường tôi cũng đưa con bé tới hiệu kem:
- Cho cháu hai cà-rem nghen.
Một cà-rem sữa. Một cà-rem trái sầu riêng...
Ly ngồi chĩnh chệ trước bàn,
gọi dõng dạc như một bà chủ nhỏ. Người bán kem vừa bưng hàng ra vừa cười:
- Chui cha con nhỏ này coi bộ
bảnh dữ!
Tôi nhìn Vọp cười. Con bé
nghiêm nghị cúi xuống xúc kem ăn. Khi nó cúi xuống, hai viền mi cũng đen nhánh
như hai viền mi trên mắt Huệ lai, càng ngày con bé càng giống mẹ. Ngay cả tiếng
cười cũng vậy. Nhưng giọng nói của bé Ly thật dịu hiền dễ thương. Có lẽ bao
nhiêu phần chua chát mẹ nó đã gánh hết. Có lần tôi bảo con bé như vậy. Ly về
nhà nói với Huệ lai. Và hôm sau gặp tôi trên đường ra vườn tiêu, người đàn bà
nheo mắt cười:
- Ông giám đốc nói xấu gì
tôi với con nhỏ vậy?
Tôi cười im lặng.
Huệ lai nói tiếp:
- Lần sau như vậy tôi trị đó
nghen.
Tôi nhìn cặp má hồng hào của
cô đáp:
- Cô có mạnh hơn một đại đội
thám báo không?
Người đàn bà vênh mặt trả lời:
- Hơn chớ ạ, ăn nhằm chi mấy
thằng thám báo?
Tôi cười:
- Nhưng ít ra chúng cũng giỏi
hơn mấy thằng du côn ăn chặn củi của cô ở Sài Gòn.
Người đàn bà đỏ ửng lên tựa
chùm tiêu chín. Gương mặt cô như chìm dưới lớp phấn dịu dàng. Có lẽ, Huệ không
ngờ tôi biết rõ cô đến thế, cô ấp úng:
- Thiệt là... thiệt là...
Rồi xây lưng bỏ đi.
Tôi qua đồng cỏ, thầm nói với
người đàn bà những lời thương mến. Dáng vẻ thiếu nữ lần đầu tiên hiển hiện ở cô
khiến tôi bàng hoàng. Trong lớp vỏ gai góc, tôi đã bắt gặp trái chín. Phía sau
sự chát chúa và từng trải còn ẩn giấu một trái tim ngọt ngào.
Người đàn bà sao giống vùng
đất tôi vừa gặp? Cảnh vật đẹp mãnh liệt uốn lượn như làn gió thoắt tới thoắt
đi. Màu cây xanh bốc lửa. Ánh lửa từ các đám cây hắt xuống nồng nàn như rượu mạnh
tưới xuống thế gian. Tiếng chim kêu trong lá. Trên đồi hoa trắng bạt ngàn.. Dưới
khe sâu một vùng cây tối lạnh thì thầm trên dòng nước xiết... Chính cô đã dạy
tôi nhận biết vẻ đẹp của hòn đảo. Có lẽ cũng chính cô sẽ cầm tay tôi tới hạnh
phúc nếu như một tai họa bất thường không đổ sụp xuống đầu tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét