HOA TẦM XUÂN CỦA MÙA THU
Dương Thu
Hương
I
Khoảng ba giờ chiều, cơn lốc
bất thần ập tới. Các đám lá úa lẫn bụi cát xoáy tròn trong khuôn viên. Cây cối
bò rạp dưới làn gió chà xát từ mọi xó xỉnh, những mảy lá me vàng lấm tấm… tất
thảy đều bị cuốn lên, bay tơi bời trong khoảng không.
- Chuyển tất cả vào hành
lang. Chú ý những chiếc giá gỗ, gãy một chiếc là toi hai ngàn bạc đấy…
Họa sĩ Thành hét to. Miệng
anh đầy cát ngay tức khắc. Thành ho, quỳ xuống thu dọn thuốc màu và những cây
bút vẽ tung tóe trên cát sỏi. Đám sinh viên mỹ thuật, học trò anh đang hối hả
tháo gỡ các tấm panô, khiêng vào hành lang nhà bảo tàng. Họ nhận trang trí cho
một cuộc hội nghị quan trọng về công tác truyền thống sẽ khai mạc sau ngày quốc
khánh. Khắp khuôn viên, người ta đã treo từng dãy cờ đuôi nheo ngũ sắc lẫn những
tràng hoa giấy rắc bụi trang kim. Dọc các hành lang, những ngọn đèn lồng lụa đỏ
vừa được lấy trong kho ra quét bụi, tô điểm lại, đung đưa một cách mãn nguyện.
Trước bậc tam cấp chừng mười thước một mô hình lớn dựng dở dang, chắc chắn chỉ
vài giờ nữa sẽ hoàn tất… Vậy mà cơn lốc lại ào tới, mọi việc trở nên khó khăn.
- Thời tiết quái quỷ…
Thành càu nhàu, rút mùi soa
lau tóc. Những hạt mưa giáo đầu thấm ướt tóc anh. Giờ này, gió đã giảm bớt cơn
cuồng nộ, những cột bụi tan biến dưới lớp nước trắng. Mưa thực sự. Mưa thu xa vắng
và lạnh. Họa sĩ ngồi xuống chiếc ghế dài kê àp tường hành lang, ngắm bầu trời mờ
đục trên khuôn viên… Bất chợt, anh cảm thấy thoáng một ánh mắt nào đó lướt qua
mình, giống gợn gió may rất nhẹ, rất mau gần như ảo giác nhưng vẫn cảm nhận được.
Thành quay lại, và anh thấy người đàn bà đó. Chị còn nhìn anh thêm một giây nữa,
thản nhiên và điềm tĩnh như nhìn chiếc lá rụng ngoài cửa sổ. Rồi, chị cúi xuống
trang sách đang đọc.
Thành ngạc nhiên, chưa ai
nhìn anh với ánh mắt dửng dưng như thế. Anh là một người đàn ông đẹp theo khuôn
mẫu lý tưởng của thời đại, một vẻ đẹp nhuốm chút ít dãi dầu, chút ít khinh mạn
và sự từng trải về tâm hồn được đặt trong một thể chất dẻo dai. Xưa nay, Thành
vẫn quen nhìn đàn bà với vẻ dửng dưng đúng như người đàn bà đã nhìn anh. Anh vẫn
quen thấy đám thiếu nữ và thiếu phụ si mê, ngưỡng mộ mình. Họa sĩ châm thuốc,
ngoảnh mặt ra ngoài khuôn viên làm bộ ngắm nghía cảnh trời. Nhưng con mắt thật
của anh lại hướng về người đàn bà ngồi cách anh chừng mươi bước chân, đang cúi
đầu xuống cuốn sách.
- Jađich của Von- te… Cô ta
có vẻ là người ham đọc. Dung nhan không có gì đặc biệt, một vẻ xinh xắn bình
thường nhưng bền vững. Vầng trán sáng, đôi mày đều đặn không dày không thưa,
khuôn miệng…
Thành thầm đánh giá thiếu phụ
theo thói quen nghề nghiệp. Chị đã hoàn toàn chú tâm vào trang sách. Tự nhiên
anh nóng má, lòng tự ái bị xúc phạm. Anh thấy ghét người đàn bà ấy. Anh rít thuốc,
chiếu ánh mắt vào chị một cách khiêu khích.Nhưng chị không mảy may để ý tới
anh. Ngón tay út xinh xẻo máy động trên mép giấy, mấy ngọn tóc mai gợn sóng bên
tai, hai tràng mày khẽ nhíu lại trên tinh mũi và vẻ mặt chị chứng tỏ toàn bộ
trí não chị đang rượt đuổi những ý tưởng, những cảnh trí mà chị khám phá được
giữa các dòng chữ. Chị trạc ba mươi tuổi, có thể hơn hoặc kém chút ít. Một thân
thể gọn gàng tươi mát. Một tấm sơ mi cắt rất khéo màu da trời với một chiếc quần
Jean nhung xám nhạt. Chiếc túi lưới đặt trên ghế, nhìn rõ những cuống sách lẫn
với sổ tay và một mảnh len đang đan dở bên trong. Mọi thứ khiến người ta hình
dung tới một cuộc sống chỉnh chu, nghiêm túc nhưng thiếu vắng.
- Có lẽ là cô ta chưa có gia
đình. Nếu là vợ, ắt hẳn trong túi lưới có một gói bột đậu, một gói thực phẩm
khô hoặc dăm ba gói thuốc lá…
Thành đoán vẩn vơ. Anh chợt
thấy mình đã chú ý quá nhiều tới người đàn bà chưa quen biết kia, điều đó khiến
anh nổi cáu.
- Vớ vẩn…
Anh tự mắng mình. Ném mẩu
thuốc cuối cùng vào sọt rác, anh châm luôn điếu thứ hai và cất tiếng gọi:
- Quỳnh ơi…
Từ đầu hành lang đằng kia,
nơi đám sinh viên đang túm tụm chơi cờ, một cháng trai bật đứng lên:
- Thầy gọi em?
Miệng hỏi, chân cậu thanh
niên chạy tới với Thành:
- Cậu chơi cờ à?…
Thành hỏi cho có chuyện.
Chưa kịp nghe Quỳnh trả lời, anh đã rút điếu thuốc nữa và bảo:
- Ngồi xuống đây và hút thuốc
đi.
Chàng trai nhìn anh:
- Mọi ngày thầy vẫn bảo em đừng
hút thuốc cơ mà?
Thành gật đầu:
- Nhưng hôm nay trời mưa. Có
thể phá lệ thường… vì trời mưa người ta dễ buồn hơn…
Anh giải thích trước ánh mắt
tò mò của cậu trai trẻ. Rồi lặng lẽ hút thuốc, không nói gì thêm. Quỳnh cũng lặng
lẽ hút thuốc chờ đợi. Đối với cậu cũng như đối với số đông sinh viên trong trường,
Thành là một thần tượng. Phải nói rằng, anh là một thần tượng quá hiếm hoi
trong cái thời buổi mà học sinh mười ba tuổi đã biết xét nét từng cử chỉ, đã biết
đánh giá từng lời nói của ông thầy dạy nó trước khi dành cho ông ta lòng kính
trọng hay một sự khinh khi thầm kín. Đối với lớp thanh niên ngạo ngược, gây cho
họ niềm tin còn khó khăn hơn. Thành là một họa sĩ tài năng, đó là ưu thế trước
hết để anh chinh phục học trò. Thứ nữa, anh là một con người trung thực và đủ sức
mạnh chống trả với những gì gọi là hèn kém, ti tiện, tàn bạo trong cuộc sống
gây nên bởi thói vị kỷ, và tính cơ hội của con người. Một vài lần anh đã đấu
tranh dữ dội với cấp trên để cứu gỡ cho những sinh viên bị kỷ luật oan. Một vài
lần khác anh vạch mặt kẻ cơ hội bôi nhọ đồng nghiệp để tiến thân. Lần khác nữa
từ chối một chuyến tham quan ở nước ngoài để phản đối những quyết định sai trái
với một họa sĩ có tài nhưng thiếu may mắn… Có nhiều người tốt nhưng họ bị trói
buộc bởi miếng cơm manh áo của vợ con, bởi nỗi sợ hãi cho tương lai, bởi sự khiếp
nhược thường lưu cữu trong huyết quản cùng những thói quen êm ấm… Vì những sợi
dây đó kìm giữ, họ đứng im trong xó tổ riêng biệt của mình, né tránh những cơn
giông. Thành hiểu và tha thứ cho họ. Anh không có nhiều xiềng xích như thế, anh
là một trong số ít ỏi những giảng viên trong trường được gọi trìu mến là: hiệp
sĩ của thời đại. Lòng tín ngưỡng đủ để cho đồng nghiệp và học sinh bỏ qua những
khuyết tật của Thành. Anh hút thuốc như một con trâu nhai lại cỏ phun khói mù mịt
bất cứ nơi nào. Anh khó tính như một bà già cô độc, thường hét lên mỗi khi nhìn
một bức họa cẩu thả hay một bảng phối màu kém thẩm mĩ. Anh thù ghét phụ nữ tới
mức gần như quái gở:
- Đàn bà ấy à?… một cái giá
treo quần áo của đàn ông!
- Anh chú ý tới họ nhiều quá
đấy. Những người phụ nữ chỉ đáng coi là một phương tiện trong đời sống: một chiếc
xe máy, một chiếc quần Jean tiện lợi, một căn phòng trú mưa nắng… Có khi, họ
còn thua kém chúng.
- Đừng nói với tôi về cô ta
nữa. Đối với tôi, chẳng có người con gái nào đáng để ta phải lưu tâm quá hai
phút. Bởi vì, loài hoa thơm nhất anh cũng nên hít thở một phút thôi, nếu anh muốn
giữ gìn sức khỏe của bản thân…
Anh thường nhả ra những lời
nói cay độc ấy, và ánh mắt anh theo dõi gương mặt bất kỳ người đàn bà nào ngồi
trước mình. Nếu họ tái nhợt hoặc đỏ bừng lên vì căm tức, hoặc lắp bắp tìm lời
chống trả một cách tuyệt vọng, lúc đó anh hả hê làm sao. Đám bạn gái đồng nghiệp
lúc đầu coi Thành như một quái vật, sau họ được nghe kể lại cuộc đời quá vãng của
anh, được chứng kiến những hành vi của anh, và họ bỏ qua sự thù ghét. Nhưng
không ai muốn tiếp xúc với anh nhiều, bởi vì luôn luôn, anh có thể quất cho họ
những ngọn roi bỏng rát một cách bất công và vô lý. Tuy nhiên, con người anh, vẻ
mặt anh, dáng dấp anh vẫn lôi cuốn bất kỳ thiếu nữ hoặc thiếu phụ nào. Cho dù
anh khinh mạn và buông lời cay độc, sức mạnh chinh phục toát ra từ mỗi cử chỉ,
mỗi nụ cười vẫn khiến đám người khác giới phải ném đến những ánh mắt si mê,
Thành đã quen thế. Giờ đây, lần đầu anh gặp phải một đôi mắt thờ ơ. Giống như
người đang ung dung đi trên mặt đất bằng, nghếch nhìn trời và sa xuống hố, bị
bong gân vừa bực dọc vừa kinh ngạc. Thành bỗng dưng tức tối người thếu phụ, anh
muốn phỉ báng chị. Vừa rít thuốc lá, họa sĩ vừa nghĩ cách. Cậu sinh viên tin cậy
im lặng hút từng hơi khói nhỏ bên anh. Một khoảng thời gian êm ả trôi qua,
trong tiếng mưa và tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường từ gian tiền sảnh
vọng ra. Thành đưa mắt liếc qua hành lang quen thuộc, và chợt thấy bức tranh tố
nữ treo trên tường.
- Quỳnh này. Họa sĩ gọi cậu
học trò.
- Dạ. Chàng trai ngước mắt
lên.
- Cậu có chú ý tới bức tranh
kia không?
- Có ạ.
- Cậu nghĩ gì?
- Dạ… Họ in không đúng màu
nguyên bản, và có lẽ… Cậu sinh viên rụt rè đáp.
- Tôi không muốn nói tới kỹ
thuật sao chép phiên bản. Tôi muốn hỏi điều khác.
- Dạ… dạ…
Chàng trai cố gắng nghĩ xem
thầy giáo muốn tìm kiếm điều gì trên bức tranh tố nữ, nhưng bất lực. Thành liếc
nhìn gương mặt đỏ lên của Quỳnh, khẽ hắng giọng và nói:
- Tôi muốn nói tới cái vẻ
nhu mì của cô gái xòe quạt làm duyên kia. Vẻ nhu mì đó có thể là một liều thuốc
độc cho những kẻ mày râu. Các ác phụ thường giấu dao giết chồng dưới vạt áo
thêu hoa thêu lá. Và những con vật giống cái thường tiết ra mùi thơm trong bộ
lông, hoặc phát ra những âm thanh quyến rũ trong tiếng kêu của chúng để mời gọi.
Nhưng khi những con đực ngu ngốc vừa làm xong nhiệm vụ, chúng liền biến thành mồi
cho những con cái mãn nguyện kia. Đó, tôi muốn nói với cậu rằng người họa sĩ cần
phải biết phát hiện những nội dung xấu xa phía sau vẻ đẹp mà ta bắt gặp.
- Vâng ạ.
Quỳnh đáp lời. Chàng trai đã
thuộc tính thầy nên đưa mắt nhìn người thiếu phụ không quen biết một cách ái ngại.
Quỳnh vẫn biết Thành thích mạt sát phụ nữ, nhưng dẫu sao đây là một người hoàn
toàn xa lạ, và gương mặt chị thật khả ái, dịu dàng. Thành thầm đưa mắt theo dõi
người đàn bà. Chị vẫn mài miệt đọc sách. Nỗi thất bại như mũi kim chích vào
lòng tự ái của ngời đàn ông, đồng thời lòng tò mò cũng thúc đẩy anh dấn sâu vào
hành động. Làm bộ tự nhiên, Thành hừm một tiếng khinh miệt trong họng, giơ tay
chỉ nàng tố nữ, nói tiếp:
- Cậu hãy xem đôi mắt lá răm
và cặp mày trăng khuyết của cô ta. Có cái giống như sự vô sỉ ở trong đó. Mềm mại
và tình tứ, vẻ đẹp của người đàn bà này quyến rũ đàn ông bởi nó gợi cho họ ý niệm
về sự dịu dàng. Mà sự dịu dàng thuần khiết bản dĩ nó đã là một nửa đức thủy
chung. Nhầm, nhầm không thể cứu gỡ…
- Vâng.
Quỳnh đưa mắt như van vỉ thầy
học. Thành đã nói khá to và điều ấy khiến họ trở thành lố bịch. Nhưng họa sĩ
không nhận biết điều đó. Anh đang bị cay cú bởi sự thất bại và với bản tính hiếu
thắng, anh không muốn chấp nhận nó:
- Đàn bà…
Anh cao giọng, nói nhấn từng
ngữ, với thái độ không thể che giấu là có dụng ý.
- Đàn bà, theo định nghĩa của
Sê- nê- ka, đó là một loại vật vô sỉ…
Thiếu phụ ngẩng lên vì Thành
nói quá to, giây phút đầu chị hơi ngơ ngác, sau đó khi đã hiểu, chị chiếu đôi mắt
nâu sáng chói thẳng vao mắt họa sĩ: Đấy là cái nhìn của người trên đối với kẻ dưới,
bao hàm sự giễu cợt và lòng thương hại. Môi chị hơi máy động, dường như che giấu
nụ cười, và gương mặt chị thản nhiên không xao xuyến. Làn da mịn không ửng lên
cũng không nhợt nhạt đi… Thành choáng váng. Anh không còn biết mình nhục vì bại
trận hay ngây dại vì một thế giới mới lạ vừa khơi mở trong phút chốc trước
mình. Nhưng anh đã thấu nhận ngay tức khắc vào trí não đôi mắt người đàn bà đó.
Một đôi mắt vừa lạnh lùng vừa ấm áp,… với những tia sáng mãnh liệt, ngay thẳng
và bỏng rát, giống như những tia mặt trời mùa hạ.
Chính vào khoảnh khắc đó, tiếng
bước chân dồn dập trên cầu thang vọng tới. Rồi một đoàn học sinh đông đúc, đứa
nào đứa nấy thở hổn hển vì vừa du đẩy nhau xuống cầu thang, chạy tới quanh thiếu
phụ.
- Thưa cô, xong rồi cô ạ.
Ra đây là một giáo viên, cô
ta đưa học sinh đi tham quan bảo tàng. Một cô giáo chủ nhiệm, chắc vậy… Thành
nghĩ thầm. Người đàn bà gấp cuốn sách bỏ vào túi, đứng dậy:
- Chúng ta về đi các em.
Giọng nói của chị điềm tĩnh,
cử chỉ của chị khoan thai. Họa sĩ hiểu rằng chị đã quên ngay vẻ hằn học với những
lời châm chích của anh ngay khi lũ trẻ tới. Cũng giống như chị bỏ lại trên chiếc
ghế gỗ bụi bặm trong hành lang viện bảo tàng. Thành nhìn chiếc ghế người đàn bà
vừa rời bỏ với ý nghĩ chua chát ấy. Bên ngoài, mưa đã tạnh, đám học sinh ùa ra
các lối đi rải sỏi của khuôn viên, ồn ào huyên náo. Người đàn bà đứng đợi chúng
ngay trước cổng nhà bảo tàng, với nụ cười hiền và độ lượng.
- Chớ có ngắt hoa đấy nhé.
Chị nhắc lũ học trò. Thành bỗng
muốn làm quen với chị, nhưng thói quen ngạo mạn giữ chân anh lại. Anh châm tiếp
điếu thuốc nữa. Đám sinh viên đã trả bàn cờ cho ông già gác nhà bảo tàng, đi tới
chỗ Thành:
- Thưa thầy, tiếp tục làm
hay nghỉ ạ?
Khuôn viên ngập nắng, thứ nắng
óng ánh như nước nhũ thường có sau cơn mưa. Thiếu phụ đã dẫn lũ học trò đi khỏi
cổng nhà bảo tàng, các lối đi chỉ còn đám sỏi ướt. Anh bỗng thấy mệt mỏi:
- Thôi, mai làm tiếp.
Thành bảo học trò rồi đứng lên, chậm rãi trở về nhà.
Hai ngày sau, anh đã hoàn
thành toàn bộ công việc cùng đám sinh viên. Trở lại buồng vẽ, họa sĩ bị đôi mắt
người đàn bà trong bảo tàng ám ảnh. Rõ ràng, chi đã nhìn anh như người tỉnh táo
nhìn một thằng khùng, như kẻ từng trải nhìn một thiếu niên ngốc nghếch rồ dại.
Dưới những tia nhìn trong suốt của chị, anh chỉ là một gã đàn ông ngốc nghếch,
thảm hại. Và anh, anh không thể bị chi phối bởi mãnh lực của một người đàn bà đến
như vậy:
- Có đến hàng tá cô gái mẫu
trẻ trung xinh đẹp đã múa may, làm điệu bộ trong phòng vẽ này. Và ta đã coi họ
như những con búp bê hám danh lợi. Người đàn bà đó là gì đâu?… Mặc dù bụng đã bảo
dạ như thế, họa sĩ vẫn trở lại nhà bảo tàng vờ vĩnh chuyện trò với người thường
trực để lật xem cuốn sổ ghi chép: Ngày 28 tháng 9… Trung tâm khoa học nghiệp vụ
N. Trường đại học thủy lợi. Đoàn đại biểu hội nghị văn hóa mới miền núi. Đoàn
cán bộ học viện quân sự… Giữa những dòng chữ, anh ghi nhận ngay một địa chỉ:
Trường phổ thông cấp II, III, quận X. Thành trở về nhà, chui vào phòng vẽ, cố đắm
mình vào sắc màu và ánh sáng mộng tưởng. Nhưng cái địa chỉ của người đàn bà
không quen biết ấy đã đóng chặt vào trí não anh như một chiếc đinh găm vào thỏi
gỗ mềm.
- Mình điên rồi… Lại muốn
rơi xuống vực sâu tai họa hay sao?…
Họa sĩ kêu lên giữa bốn bức
tường treo đầy phác thảo, tự cảnh cáo. Sáng hôm sau, anh vào trường:
- Cho tôi giấy công lệnh.
Tôi sẽ đi miền Trung vài tháng nữa.
Cô văn phòng tròn mắt nhìn
anh:
- Anh vừa mới về được hai
tháng cơ mà? Đi đường bây giờ tốn kém lắm đấy.
Thành không trả lời. Anh vẫn
quen có thái độ bất nhã với phụ nữ. Cô văn thư chuẩn bị giấy tờ cho anh với vẻ
cam chịu thường lệ. Sau đó hai mươi sáu giờ đồng hồ, chuyến tàu tốc hành đưa
anh tới một ga miền Trung. Từ ga, anh đi hai giờ xe ngựa nữa để tới một làng
ven biển mà anh đã tới vẽ mùa thu năm trước. Ở đấy, có một ông già sống bằng
nghề câu mực câu tôm và nấu rượu. Ông không vợ không con, tính hào phóng, liều
lĩnh như tính người miệt đồng Nam Bộ. Thành yêu ông. Anh đã vẽ cho ông những bức
chân dung rất đẹp. Ông già không bao giờ ngợi khen anh một câu vì những bức
chân dung ấy:
- Dẹp chuyện vẽ vời lại chú.
Ta ngồi uống rượu nói chuyện đời.
Ông già thường bảo họa sĩ
như thế. Thoạt đầu, Thành tự ái. Nhưng lần đầu anh quen đi. Và anh biết ông già
cũng yêu anh.
II
Một ngôi nhà chênh vênh bên
bờ biển là hình ảnh tiêu biểu cho tính phiêu lưu của đời sống. Bởi vì, có thể
trong khoảnh khắc, vào giữa giấc mơ ngắn ngủi của con người, một lượn sóng thần
sẽ ào tới và cuốn tất cả xuống đáy bùn sâu. Thành đã nghe nhiều ông bà già
trong làng kể lại những năm sóng thần xuất hiện, và những năm ấy từ những ngôi
đền to lớn tới mái lều cỏ rưởi đã biến đi như phép màu dưới làn nước tàn nhẫn.
Không ai chống đỡ được sức mạnh khủng khiếp của tạo hóa. Tất cả những gì người
ta gom góp vun vén tạo dựng trong bao nhiêu tháng năm đằng đẵng phút chốc trở
thành cát bụi. Cả làng chỉ còn sống sót mươi lăm người, nhờ lúc tai biến đang ở
một nơi nào đó. Những kẻ bất hạnh về làng, nhìn cái hố cát trơn trọi trước đó
là tất cả đời sống, tất cả hạnh phúc và đớn đau của họ. Họ khóc chừng vài tiếng,
thắp vài tuần hương và lại bắt đầu dựng nên những mái cỏ rưởi trên chính cái nền
cát tai ương…
- Đời sống thật kì vĩ và phi
lý. Tại sao người ta không làm nhà sâu trong đất liền?… Dân chài phải sống nhờ
chài lưới. Họ không thể ở quá xa mép nước, nơi những con thuyền trút xuống tôm
cá và họ có nhiệm vụ chuyển chúng tới xưởng chế biến nước mắm hoặc thị trường
tiêu thụ. Bởi thế, họ phải chấp thuận hiểm nguy. Và giá trị của đời sống được
đo bằng chính những hiểm nguy nó phải trả…
Họa sĩ nghĩ. Anh hít một hơi
dài làn không khí nồng nặc mùi biển, thấy dễ chịu. Cách nơi anh ngồi chừng dăm
bước chân những lưới sóng trắng rập rờn liếm vào bờ cát, khẽ và êm. Chỉ có tiếng
sóng dạt dào của thủy triều từ những hõm đá phía xa vẳng lại. Thành ngước nhìn
lên vách đá cuối bãi cát, anh thấy sợi dây treo lơ lửng giữa mỏm núi và mặt biển
đã nở từng chùm hoa màu nghệ. Dưới nắng chiều, chúng giống như những đốm lửa rực
rỡ thắp trên nền lam thẫm ẩm ướt và tối tăm của vách đá, chúng gợi cho ta cảm
giác tưng bừng của những hội hè lướt qua như tia chớp trong đời.
- Chú Thành, vào uống rượu
thôi.
Ông giá Ớt cất tiếng gọi.
- Vâng.
Thành đáp, nhưng anh còn tiếc
cảnh hoàng hôn lộng lẫy bên ngoài. Ông già bước khỏi lên, nhìn họa sĩ:
- Thôi được, để tôi đem đồ
ăn ra ngoài này cho chú coi đất coi trời.
Rồi ông quay vào, xách mấy
con hùm nướng, chai rượu với hai chiếc ly thủy tinh ra. Họ ngồi lặng lẽ bóc tôm
ăn, chốc lát lại nhấp một ngụm rượu. Lúc này, mặt trời xuống thấp hơn, thổi là
là trên đại dương làn hơi óng ánh bụi vàng. Từ con thuyền tới những hòn đảo nơi
chân mây đều bị vây bọc bởi đám bụi ấy. Bãi cát nghiêng ửng lên như ngàn ngàn vụn
thủy tinh bị phản chiếu, những tia vàng nhảy nhót không ngừng. Cả lớp bọt sóng
cũng ướt đẫm một sắc vàng tươi thắm và mong manh. Thành bỗng có cảm giác rằng nếu
có một kẻ thô lỗ nào đó, cất tiếng nói to là cảnh đẹp tức khắc sẽ tan biến như ảo
giác, anh sẽ không còn tìm được nó trong những buổi chiều mai sau. Họa sĩ bỏ ly
rượu xuống, đăm đăm nhìn ra khơi. Lúc đó, một con thuyền cập bến. Đám dân chờ đợi
ập tới bắc ván, buộc thừng vào cọc và giúp những người trên thuyền chuyển cá xuống
bãi. Một thiếu nữ da ngăm ngăm tách khỏi đám đông, xách con cá song đi về phía
lều:
- Ai kia nhỉ:
Ông già Ớt cất tiếng hỏi, mắt
nheo lại dướn nhìn. Rồi ông à lên một tiếng và tự trả lời:
- Con Huyến.
Họa sĩ quay lại. Đó là một
thiếu nữ chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Cô ta không phải dân ở đây. Con gái
làng chài thường có vóc dáng thấp đậm. Cô gái này mảnh khảnh và mềm mại hơn nhiều.
Vả chăng dáng đi của cô từ tốn, uyển chuyển như dáng đi của các cô gái thành phố.
Ở đây, quen sục chân vào cát nên ai cũng có dáng đi băm bổ, đầu chúi về phía
trước như con thuyền rẽ nước, chống chọi lại sức cản lì lợm của thiên nhiên.
- Cô gái ngày không phải người
làng, đúng không bác?
Thành hỏi ông già
- Phải – Ông Ớt gật đầu –
Chú giỏi đấy. Nó là cháu ngoại ông Phồn bạn nối khố của tôi. Con bé ở ngoài phố
về. Lần nào nó cũng tơi thăm tôi.
Thiếu nữ đã tới chân dốc
cát, cô ngước mắt lên nhoẻn miệng cười, Thành thấy tim mình nhói lên vì nụ cười
ấy. Nó giống nụ cười người đàn bà trong quá vãng của đời anh đến sửng sốt.
- Ông ơi i i…
Thiếu nữ cất tiếng gọi.
Ông đây.
Ông già đáp lời, giơ tay vẫy
cô bé. Chừng dăm phút sau, cô đã tới đứng trước mặt họ, hai má đỏ ửng, mũi lấm
tấm mồ hôi:
- Ôi, lâu ngày cháu không
leo dốc, mệt ghê.
Thiếu nữ hổn hển nói và nhoẻn
miệng cười với Thành thay cho một lời chào:
- Đấy là chú Thành, làm nghề
vẽ ngoài Hà Nội.
Ông Ớt giới thiệu. Cô bé
đáp:
- Dạ.
Rồi ngồi xuống bên ông già,
nói:
- Thuyền cậu Lập vừa về,
cháu thấy con song này ngon quá đem lên cho ông. Bây giờ nướng hay là nấu cháo ạ?…
- Nấu cháo con à – Ông già
trả lời – không có lá thơm nhưng còn khối ớt và tiêu.
Cô bé chui vào lều, ra phía
sau. Thành nghe tiếng lách cách đụng chạm của dao, thớt, xoong nồi. Chỉ mươi
phút sau, mùi cá luộc thơm khói cỏ đã bay tới nơi anh ngồi, rồi cô bé bước ra:
- Cháo sôi rồi ông ạ, cháu ủ
than cỏ cho chín.
- Ờ, ngồi xuống ăn tôm đi.
Ông vừa nướng còn ấm đấy. Chờ cháo chín rồi ta cùng ăn.
Ông cụ nói.
- Không đâu…
Cô bé lắc đầu: Cháu ngồi
chơi với ông tẹo nữa thôi. Mợ Lập cháu bảo phải về ăn cơm nhà. Hôm nay có kị
mà…
Thành nhìn gương mặt thiếu nữ,
anh thấy một đôi mắt đen với những sợi mi thưa, chiếc mũi nhỏ lấm tấm tàn
hương, khuôn miệng tròn, môi hơi dày và mọng hệt khuôn mặt người đàn bà đã đi
qua đời anh như một kẻ lãng du lang thang bước qua những căn phòng của một lâu
đài rồi nhảy vọt qua cửa sổ mà biến mất.
Thiếu nữ thấy anh im lặng
nhìn mình thì mỉm cười và nói:
- Chú về quê cháu vẽ biển à?
- Vâng.
Họa sĩ đáp lại. Ông già
thoáng đưa mắt nhìn anh.
- Biển quê cháu đẹp không
chú?
Cô gái hỏi.
- Đẹp chứ.
Họa sĩ trả lời.
- Thế chú có vẽ người không ạ?
Cô bé hồn nhiên hỏi tiếp.
- Có chứ… Cũng đôi khi…
- Vậy ngày mai chú vẽ cho
cháu một bức nhé – Cô bé reo lên. Cô chưa đủ sức phán đoán và suy xét sự đời –
Cái Mai bạn cháu cũng được một chú họa sĩ quân đội vẽ cho một bức đẹp ơi là đẹp.
Chả là chú ấy về trường cháu chơi.
- Vâng… Nếu sáng mai…
Thành nhếch môi gượng gạo
đáp. Cô bé nhanh nhảu đứng lên, phủi những hạt cát bám ở quần và nghiêng đầu cười:
- Sáng mai cháu tới đây. Chú
đừng đi đâu đấy nhé…
Cặp mắt đen sáng ngời lên,
cô cất tiếng chào ông già, lanh lảnh như tiếng chim lúc rạng đông rồi chạy xuống
dốc.
Chờ cho cô bé đi thật xa,
ông Ớt bảo Thành:
- Chú có chuyện gì với đám
đàn bà, con gái phải không?
Họa sĩ im lặng. Anh ngạc
nhiên vì sự tinh nhạy trong tâm hồn người dân chài từ lúc chào đời tới sáu mươi
bảy năm sau cũng không rời khỏi cuộc sống của muối, cát và sóng. Ông Ớt uống một
ngụm rượu nữa rồi nói:
- Hồi tôi còn trẻ ấy mà…
cũng có một đứa con gái thọc dao ngoáy vào ruột tôi. Tôi thù cô ả tới dăm năm
sau cũng chưa nguôi… Nhưng đừng giận cá mà chém thớt…
Ông đứng lên, vào trong lều
lục đục lúc lâu rồi bưng nồi cháo ra:
- Định chiều nay thổi cơm nếp
ăn với tôm khô kho, may lại có nồi cháo. Chú có chịu được qua đêm không?
- Được chứ. Ở nhà, cũng có bữa
cháu chỉ ăn một bát phở mà nhịn tới trưa ngày hôm sau.
Họ ăn cháo nóng, với hạt
tiêu và ớt hăng xè. Thành lau nước mắt liên tục, nhưng anh cũng đã cảm thấy thứ
cháo cá nguyên khúc nấu với gạo hạt có vị ngon riêng biệt mà loại cháo bột cầu
kỳ ở thành phố không sánh được. Lúc họ ăn xong, mặt trời đã lặn, gió mạnh và ẩm
ướt hơn. Bầu trời tím như cánh bèo trên mặt ao cuối thu và mấy vì sao lấm tấm bạc
nổi lên phía trên mép nước đen nhòa nhợt của chân trời. Ông già Ớt mang thứ trà
đen địa phương ra đãi Thành. Sau đó, ông vào lều ngủ. Vừa đặt lưng, ông đã ngáy
như sấm. Thành nằm sát cửa lều, kéo tấm chăn dù dã chiến che tận cằm tránh
sương. Những ngôi sao lần lượt hiện lên trước mắt anh. Trên nền trời đen nhung.
Biển đang lên tiếng ầm ì bí ẩn. Côn trùng rỉ ran trong cát, trong các đám cỏ
trinh nữ và rau muống biển, Thành chợt thấy trong anh một khoảng trống trơ trụi
như hoang mạc, một hố sâu không đáy và cảm giác ấy khiến anh não lòng:
- Mình đã trở thành một kẻ bệnh
hoạn. Ngay cả một ông lão chất phác như ông già Ớt cũng nhận thấy sự bệnh hoạn
của mình. Phải chăng người đàn bà ấy đã đẩy anh chàng Thành ngày xưa tới gã họa
sĩ nằm đây?
III
Một buổi sáng, hai chàng
sinh viên Mỹ thuật được coi là xuất sắc nhất lớp rủ nhau vào tiệm uống cà phê.
Đây là lần đầu tiên trong năm học thứ ba họ dám tiêu xài xa xỉ. Thành và Quán
đã kết bạn với nhau ngay từ buổi đầu vì thống nhất điều này:
- Không tìm người yêu, không
ăn diện, không uống cà phê và hút thuốc lá khi chưa thành tài.
Tuy nhiên, từ năm học thứ
hai trở đi, vào những dịp hội hè hoặc khi kiếm được một món tiền kha khá họ đã
tự cho phép mình thưởng thức một chén cà phê đen với một chiếc bánh ngọt. Thuốc
lá, tuyệt đối không. Tiền để dành dụm mua màu, mua vải vẽ và thuê mẫu. Hai
chàng trai dự tính tương lai một cách sát sao và họ sống khắc nghiệt với chính
mình đến nỗi các giảng viên cũng phải thán phục. Mặc dù đang tuổi hai mươi, cả
hai chàng chuyên mặc quần áo bảo hộ lao động, lem nhem màu vẽ và vá chằng vá đụp.
Tóc họ lật về phía sau, giống tóc các triết gia cổ, tự cắt bởi những nhát kéo vụng
về. Nhưng họ đẹp trai và nổi tiếng khắp trường vì khả năng sáng tạo cũng như ý
chí nên họ có cái vẻ tự tin riêng biệt mà tất cả các công tử sẵn tiền và diện
ngất trời cũng phải thèm muốn…
Sáng hôm đó, trong tiệm cà
phê, Quán bảo Thành:
- Mình thật hổ thẹn vì phải
thông báo cho cậu điều này: Mình đã vi phạm điều luật chúng ta cam kết.
- Gì thế?
Thành không ngửng lên, hỏi.
- Mình đã có người yêu.
Quán đáp với tiếng thở dài:
Thật là tai ương. Nhưng không tránh được.
Thành ngồi lặng đi lúc lâu,
rồi lẩm bẩm:
- Cũng gay thật đấy…
Chàng trai biết tất cả những
gì phải trả cho một tình yêu: trước tiên là thời gian, rồi sự tập trung của trí
não và tâm lực, rồi là những món chi tiêu không thể tránh mà mọi người thường gọi
là: ái tình phí… Mà họ, họ đang muốn dồn hết năng lượng vào nghệ thuật.
- Cậu không tránh được à?
Thành hỏi bạn.
Quán lắc đầu:
- Đã cố tránh mà không nổi,
thế mới khổ chứ.
- Sức chinh phục ghê thế cơ
à?… Có hơn mấy cô mẫu nhiều không?
- Hơn đứt đuôi – Quán đáp với
tiếng thở dài – Mà kỳ lạ, cô nàng lại học nghề cơ điện?… Cậu ngồi mười lăm phút
nữa. Đúng chín giờ cô nàng sẽ tới đây.
Họ buộc lòng phải gọi thêm
hai cốc bột đậu để chờ người đẹp tới. Chín giờ mười lăm, cô nàng mới bước vào.
Thành phải công nhận rằng Quán có lý. Cô gái hấp dẫn thật. Có những người con
gái thân thể đẹp nhưng nét mặt tầm thường, ngược lại có cô được gương mặt khả
ái thân hình lại thiếu quyến rũ. Vượng, người yêu Quán được trời phú cho cả hai
ơn huệ cùng một lúc. Cô cao dỏng, nở nang đúng như một người mẫu mà các họa sĩ
mơ tưởng. Cặp đùi dài, làn da nâu hồng mịn màng. Đôi mắt mơ mộng. Nhất là cặp
môi tròn, hơi dày, bóng và nặng như trái mận chín. Khi cô cười, hai hàng mi
khép lại chứa đựng một thứ ánh sáng ẩm ướt bên trong.
Từ hôm đó trở đi, buộc lòng Thành
phải giãn ra để cho bạn được tự do với người tình. Càng ngày, Quáng càng trượt
xuống con dốc của niềm si mê, như tất cả những chàng trai yêu thực sự lần thứ
nhất. Cố nhiên, những bức tranh của anh sụt xuống so với bạn. Thành ái ngại,
tìm cách nhắc nhở Quán, nhưng anh chàng nhăn nhở cười:
- Đương nhiên mình phải lùi
lại sau cậu. Lẽ thường vốn thế, đỏ bạc đen tình, đã đỏ tình phải thua bạc. Trời
đất công bằng lắm.
Thành nhìn bạn, sững sờ.
Quán vốn coi sự nghiệp thiêng liêng, không ngờ anh chấp nhận sự sa sút thản
nhiên như vậy. Quán thôi cười, nghiêm mặt lại nói tiếp:
- Nhưng tớ chỉ lùi sau cậu
thôi. Không thể và không bao giờ được đứng ở vị trí số 3. Tất cả mọi việc đều
phải có giới hạn…
Quả nhiên, Quán chỉ đứng sau
Thành chứ không chịu đứng sau một người nào khác nữa. Anh luôn luôn là con số
hai trong đội ngũ. Thời gian trôi. Thấm thoắt đã bước sang năm học thứ tư. Vừa
vào đợt thể nghiệm đầu tiên, Thành đã được tuyên dương. Tranh của anh lọt vào
vòng chung khảo gửi ra dự cuộc thi tranh của thanh niên Á – Phi và được giải
thưởng lớn nhất. Một chủ nhật Quán rủ anh về quê Vượng chơi. Thành đang làm dở
ma- két (bản kiểu) cho một cuộc trưng bày chuyên ngành nên từ chối. Quán bảo:
- Cậu phải đi. Không thể
không ham mê nghề nghiệp. Nhưng vì nó mà từ bỏ cả bạn bè là què quặt trong tâm
hồn. Xếp bút lại và bôi dầu mỡ vào xích xe đi…
Nói chung, trong quan hệ giữa
hai người, bao giờ Quán cũng đóng vai trò áp đảo. Thế là sáng tinh mơ ngày chủ
nhật, cả ba người đạp xe về quê Vượng, một làng cách Hà Nội hai mươi ba cây số
rưỡi theo cô nói.
Họ đạp nhanh vì đang sức trẻ
và đang hưng phấn. Vượng nói chuyện khá vui, mặc dù câu chuyện của cô góp nhặt
đủ loại kiến thức. Gió se lạnh khiến hai má cô đỏ ửng như uống rượu say. Đôi mắt
cô vốn lúc nào cũng như say nghiêng ngả, phiêu diêu và đắm đuối. Thành nhìn Vượng,
cảm phục bạn. Có lẽ, anh cũng không dám ước ao một thiếu nữ nào hơn người con
gái mà Quán đã chọn. Dọc đường, họ gặp một bãi cỏ sạch sẽ, trông ngon lành như
có thể ăn được. Quán bảo mọi người dừng chân. Họ dắt xe xuống ven đường ngồi
nghỉ. Phía trước, đồng ruộng làng xóm xô đuổi nhau cho tới chân trời, nơi những
rặng núi lam kẻ vệt màu hư ảo lên lớp mây bạc. Thỉnh thoảng, vài con chim từ
khoẳnh ruộng nào đó bay vút lên, lướt qua những bờ phi lao, những dòng kênh nhỏ,
những nghĩa trang thôn dã… Và giữa khoảng đồng mênh mông, đôi lúc nhô lên một
gò đất xanh thẫm với một cây gạo hoặc cây ngô đồng già, cành mốc thếch xù xì,
còn những chòm lá, trái lại, xanh nõn nà như được cắt ra từ tấm sa- tanh.
- Bữa tiệc thiên nhiên tràn
đầy… - Quán nói – Ai đã tạo ra hình ảnh ấy nhỉ… Đúng là một bữa tiệc cho dân học
vẽ. Cậu đã thấy ngồi nhà làm ma- két là dại chưa?
- Dại
Thành gật đầu hiền lành. Anh
hỏi;
- Còn mấy cây số nữa thì đến
nơi hả Vượng?
- Năm cây nữa thôi.
Cô gái đáp.
- Các cụ còn khỏe cả chứ?
Thành hỏi.
- Các cụ nhà em ấy ạ?… Vâng,
cảm ơn anh, cũng còn khá. Bố em mới về hưu năm ngoái, còn mẹ em ở nhà coi vườn
mấy chục năm nay rồi. Mẹ em ấy à, rồi các anh sẽ buồn cười lắm đấy. Ở nông thôn
nhưng bà còn sang gấp mấy các bà ở thủ đô. Toàn mặc quần trắng, chớ hề xỏ chân
vào ống quần đen. Chẳng là vì trước đây ông ngoại em là đốc học. Hồi trẻ bà già
còn chải tóc lưỡi trai, đi hài gấm nữa cơ đấy…
Cô gái nói một mạch, má ửng
lên, mắt long lanh. Thành cười trìu mến. Quán im lặng – nhìn cánh đồng, gương mặt
anh xa vắng. Rồi họ tiếp tục đi. Tới cây số hai mươi ba, có một con đường nhỏ
chạy qua đồng. Vượng kêu:
- Đây rồi.
Cô nhảy xuống xe trước tiên.
Sau đó hai chàng trai lần lượt theo cô dắt bộ qua đồng. Phần vì lối đi hẹp. Phần
vì cảnh trí quyến rũ tới mức hai chàng sinh viên hội họa muốn kéo dài những
phút giây chiên ngưỡng nó. Chừng mười phút sau họ tới một cây đa ở đầu làng,
đúng như cây đa trong các chuyện đời xửa đời xưa. Dưới gốc đa cũng có một quán
nước, một bà lão ngồi bán hàng sau chiếc tủ kính nhỏ chớ không phải chiếc chõng
tre. Bà lão bán hàng cất tiếng:
- Chào các cậu, chào cô, vào
hàng uống cho tôi chén nước.
Vượng đáp:
- Chào bà ạ. Xin phép bà,
chúng cháu sắp về tới nhà rồi. La cà dọc đường bố mẹ cháu mắng chết.
Rồi cô giục hai chàng trai.
- Đi đi, các cụ đang mong.
Họ chào bà già bán hàng rồi
tiến sâu vào thon, dưới bóng hai hàng tre đan thành một bức màn diệp lục. Tới
ngã ba, Thành thấy một ông già đánh trâu đi ngược lại phía họ: chiếc cày lúc lắc
trên cái hàm lực lưỡng… trông ông hệt như một hình mẫu anh đã gặp trong các
chuyến đi năm trước:
- Đẹp tuyệt.
Chàng trai bất thần thốt
lên. Đúng lúc ấy, ông già nhìn thấy họ, thực ra ông nhìn Vượng, cô đi phía đường
bên trái. Ông đứng sững, mắt ánh lên một tia sáng lạ lùng.
- Rẽ sang bên này… rẽ sang…
Vượng hấp tấp bảo họ rồi vọt
lên phía trước. Cô đi nhanh như ma đuổi và chỉ trong giây lát khuất lấp sau rặng
dâm bụt đơn. Thành thấy ông già đánh trâu còn đứng lại vài giây nữa, nhìn theo.
Thành hối hả dấn bước vì hai người đã tụt lại phía sau Vượng khá xa. Nhưng được
một đoạn ngắn, anh thấy Quán quay lại. Bất giác, anh cũng quay lại theo bạn.
Ông già đã đánh trâu tới đúng ngã ba, và mặc dầu khuôn mặt ông bị khuất lấp dưới
vành nón vừa đội lên. Thành vẫn nận được ánh mắt ông đuổi theo mình. Điều đó có
gì khó hiểu… Anh nghĩ. Vượng gọi:
- Nhanh lên nào, các công tử
bột ơi… Giờ phải rẽ sang tay phải. Chỉ còn hai vườn cau nữa là tới nhà thôi.
Nhà Vượng ở tít cuối làng. Một
ngôi nhà sang trọng vào loại nhất nhì của vùng đó. Năm gian nhà ngói, cao và
thoáng, trần còn trắng lốp nước vôi. Ba gian bếp nhỏ gọn gàng. Hai bể nước, bể
lớn chứa nước ăn, bể nhỏ chuyên dựng nước mưa pha trà ướp hoa nhài tự sản xuất.
Vườn trước đứng tăm tắp hai hàng cau tươi tốt, vườn quả lớn phía sau um xùm nào
cam, nào bưởi, nào hồng xiêm. Các góc tường nhót đâm cành trắng phếch như tráng
thiếc. Trên tường hoa móng rồng, hoa thiên lý quấn quýt leo. Mẹ Vượng, một bà
già trạc sáu mươi ăn bận tinh tươm đúng như cô đã tả. Trong nhà, treo hàng loạt
ảnh bà thời trẻ, chải tóc bồng, đeo kiềng vàng hoặc ngọc trai, mặc áo dài trắng
nền nã. Bố Vượng, cán bộ quản lý ngân hàng tỉnh vừa về hưu năm ngoái, tinh anh
và thông hiểu tình hình thời cuộc còn hơn cả hai chàng sinh viên. Thật là một
gia đình lý tưởng, một nơi trú náu mát mẻ của mùa hè, ấp áp của mùa đông.
- Các cháu ngồi chơi. Ở Hà Nội
dạo này tình hình có gì mới lạ?
Ông già mời họ ngồi xuống
tràng kỷ nói chuyện. Trong lúc đó, Vượng tung tăng chạy lên chạy xuống pha trà,
gọt đu đủ chín gì đó, nép bên mẹ với dáng điệu sung sướng, ngọt ngào.
- Có con gà vẫn nhốt trong lồng
phần con đấy. Nghỉ ngơi rồi đi làm cơm mời khách.
Bà mẹ bảo cô con gái.
- Gà trống hay gà mái hả mẹ?
Vượng hỏi.
- Gà trống. Lớp này nhà chỉ
còn toàn mái già đang đẻ với đang ấp.
Con này tuy gà trống nhưng
cũng còn non, không lo dai thịt đâu.
Bà mẹ đáp.
- Ứ ừ, gà trống thì chán chết…
Cô gái nũng nịu.
Khi mọi người đã uống hết
hai ấm trà vá ăn đu đủ xong, Vượng thu dọn đĩa chén đem rửa rồi cùng mẹ xuống bếp
làm cơm. Ông bố dẫn hai chàng trai đi thăm vườn. Lâu ngày mới có khách, ông vui
lắm. Ít nhất họ cũng khiến ngôi nhà khang trang nhưng quạnh quẽ của ông rộn
ràng lên, và ít nhất họ cũng làm nguôi nỗi nhớ những phố phường – cái khung cảnh
trước đây ông đã từng quen thuộc. Thành cùng Quán đi sau ông nghe ông giải
thích lịch sử của từng thứ cây trong vườn, gốc gác của chúng, lợi ích của chúng
và những kỷ niệm ông đã có trong mối gắn bó với chúng. Sau đó, họ trở về nhà
theo lệnh của ông bố để tiếp tục uống tuần trà khác chờ cơm chín.
- Bác sẽ bảo mẹ con nó nướng
bánh đa ngọt đãi các cháu… Vùng này nổi tiếng vì bánh đa đường, vừng, dừa nạo. Ở
Hà Nội mọi thứ quà đều ngon, nhưng không thể có thứ bánh đa này…
Khi qua nhà ngang ông hạ một
cái lệnh êm ái:
- Hãy nướng cho bố vài cái
bánh đa ngọt trước đã nhé.
Rồi ông bước lên thềm. Hai
chàng trai còn đứng lại tìm hái những bông hoa móng rồng chín nẫu. Chúng bốc
lên mùi hương ngây ngất, giống như một tình yêu u mê và cuồng dại. Lúc họ đi
qua gian nhà ngang, chợt nghe bà mẹ bảo Vượng:
- Con đã thăm thầy u con
chưa?
- Dạ, rồi ạ… Dạ, tí nữa con
sẽ đến… Vì còn khách nữa mà…
Giọng cô gái đáp lại, bối rối
và trí trá.
Bà mẹ nghiêm giọng, khẽ
nhưng cứng rắn hơn:
- Con phải nhớ về thăm và biếu
quà thầy u con… Bố mẹ đầy đủ hơn nhiều…
- Vâng, vâng… con biết rồi…
Thành quay sang nhìn Quán, vẻ
ngạc nhiên. Quán không trả lời, anh điềm tĩnh bước lên những bậc thềm nhẵn
bóng. Khi họ uống hết tuần trà nữa, chờ ông bố Vượng xuống nhà ngang kiểm soát
xem cơm nước đã đạt tiêu chuẩn chưa. Quán mới bảo Thành.
- Nói chung là cậu nên im lặng,
vì nếu có hỏi mình cũng chưa thể trả lời được.
Vẻ mặt chàng trai hiện lên một
sắc thái kỳ lạ, mãi sau này Thành mới hiểu.
Ăn cơm xong trời đã đứng
bóng. Khoảng hai giờ chiều, Quán xin phép bố mẹ Vượng ra về.
- Sao em Vượng nói rằng các
cháu được nghỉ tới trưa mai?
Ông già tiếc rẻ, hỏi lại.
- Thưa bác, Vượng không biết
sáng mai chúng cháu phải nghe chuyên gia giảng lý thuyết.
Quán tươi cười đáp.
- Thế hả, thế hả… Thế thì
bác không dám giữ. Khi nào rảnh rỗi các cháu nhớ về chơi.
Ông già đáp.
Thành im lặng giữ vai trò
người tháp tùng. Anh kính cẩn chào ông bà già. Vượng đi cuối cùng, cô hơi ngạc
nhiên vì kế hoạch thay đổi đột ngột, nhưng cô không tranh luận, im lặng chấp
thuận. Họ đạp xe khỏi làng thong thả, nhênh nhang như bất cứ ngươi khách du lịch
nào về chốn này vãn cảnh. Được sáu bảy cây số, tới ngã ba đường, Quán bỗng nhảy
xuống xe:
- Bây giờ, tô phải xin lỗi
hai bạn. Có một người em con chú thúc bá mới giải ngũ về hai tháng ở cách đây
vài cây…
Anh chỉ con đường cát từ ngả
rẽ phía trái băng xuống đồng, không cách con đường dẫn tới làng cô gái bao xa:
Tôi phải tới thăm cậu ta, không còn dịp nào thuận tiện hơn nữa. Thành đưa Vượng
về Hà Nội giúp mình.
Quán quay sang cô gái, hạ giọng:
- Vượng bằng lòng vậy nhé.
Không lẽ chủ nhật sau, anh lại lóc cóc đạp xe lên đây?…
- Tất nhiên, anh luôn luôn
có kế hoạch đột xuất…
Cô gái nói dằn dỗi.
- Đây là lần đầu tiên – Quán
đáp, giọng lạnh lùng hơn – Em hãy nhớ lại.
Vượng không trả lời. Cô nhảy
phóc lên xe, và Thành giống như kẻ mất hồn đứng ngẩn ra nhìn.
- Cậu hãy lên xe, đưa cô ấy
về Hà Nội giúp mình.
Quán bảo Thành rồi rẽ xuống
con đường cát. Thành chưa kịp hiểu tường tận vì sao nhưng đành nhảy lên xe đưa
cô gái về thành phố. Nửa đoạn đường trước, cô đạp xe vùn vụt không thèm đếm xỉa
tới Thành. Tới nửa đoạn đường sau, Vượng đạp chậm lại, đi song song với Thành
và buông những lời buồn bã:
- Anh Quán ấy mà… anh có biết
không?… một thanh niên không chút tình cảm. Anh ấy không có tim mà chỉ có một
cái máy bơm máu trong lồng ngực. Ôi, không biết sự run rủi nào đã khiến em gặp
anh ấy? Thật là tai ương…
- Thôi, cứ bình tĩnh Vượng
a… cứ bình tĩnh…
Thành nhắc đi nhắc lại câu
hói vô duyên đó và đưa Vượng tới tận cư xá trường đại học của cô, mua bánh mì
và hoa quả cho cô ăn bữa chiều vì cô đã trót cắt cơm cả ngày chủ nhật. Sau mọi
việc, anh trở về nhà.
Sáng hôm sau, Quán không lên
lớp. Anh gửi giấy xin phép nghỉ một tuần để về quê. Thành chưa đến quê bạn lần
nào, nhưng anh biết rằng Quán ở một làng nhỏ vùng Ninh Bình, một con sông dịu
dàng trải giữa hai bờ cây, một mái nhà nặng trĩu đầy bìm bìm hoa tím, một bà mẹ
già hiền hậu, một cô em gái mười sáu mặt tròn như vành trăng. Thành mồ côi từ
nhỏ. Ông bà nội đã nuôi anh cho tới năm anh tròn mừoi sáu tuổi. Năm ấy, lần lượt
cả hai người đều ra đi. Nhiều bà cô bà dì trong họ tới giúp chàng trai chôn cất
các cụ, bán những thứ đồ khả dĩ có thể đem lại cho anh một số vốn nho nhỏ rồi gửi
những người tin cẩn làm nghề buôn bán để lấy lời. Thành yêu ông bà, nhưng trong
trí nhớ của anh các cụ chỉ là những hình ảnh trang nghiêm, xa vắng và êm dịu,
khác với những hình ảnh nồng đượm, thắm thiết về tình mẫu tử, tình anh em như
Quán thường kể cho anh nghe.
Người ta có thể tưởng tượng
ra một loài vật, như con Sphanh chẳng hạn. Người ta cũng có thể tưởng tượng ra
những loài cây như xương rồng đen hoặc những thứ rêu quái dị… Nhưng người ta
không thể tưởng tượng ra một tình yêu. Nếu anh không có mẹ, anh sẽ mãi mãi
không hiểu được tình mẫu tử. Nếu anh không có em, anh sẽ không thể biết được
tình anh em.
Thành nghĩ thế. Anh đoán rằng
giờ này Quán đang ngồi trên tàu mơ tưởng tới sân ga nhỏ quê hương… tới bà lão
thấp thỏm đợi anh sau hàng rào cúc tần, tới cô em xinh xắn, má đỏ bừng sung sướng
khi chạy ra đầu ngõ đón anh trai… Tất cả những điều ấy Quán đã kể đi kể lại
không biết bao nhiêu lần, Thành luôn hình dung ra chúng, nhưng anh vẫn thấy
chúng như màn sương lảng bảng ở bên ngoài cuộc sống tâm linh của mình.
- Mình sẽ không bao giờ có
những thứ mà Quán đã có…
Anh tủi thân và thoáng chút
ghen tỵ. Rồi chàng trai chúi đầu vào công việc. Khoảng năm giờ chiều, bản ma-
két đã xong. Anh thu dọn bút giấy, định ra phố ăn bánh cuốn thay cho bữa cơm
chiều. Lúc ấy, có tiếng gõ cửa:
- Anh Thành…
Tiếng Vượng kêu bên ngoài
nôn nóng, ngay lúc Thành chưa kịp bước ra.
- Anh Thành…
Cô gọi lần thứ hai, khiến
chàng trai không kịp mặc áo ngoài, xô ra mở cửa. Cánh cửa vừa bật khỏi khuôn,
cô đã lao vào như cơn lốc và ngay tức khắc khóc òa lên:
- Anh Thành… anh Thành… anh
Thành…
Cô nhắc đi nhắc lại tên anh
giữa những cơn nức nở, giống như chuyện kể hồn ma của những kẻ chết trôi gọi
tên người lái thuyền. Mái tóc Vượng tung trên vai, trên ngực cô. Đôi má hồng mịn
màng đầm đìa nước mắt. Thành đi lại trong phòng, chân tay thừa thãi không biết
để đâu. Anh chỉ lặp lại mãi một câu buồn tẻ:
- Đừng khóc, đừng khóc… bình
tĩnh Vượng ơi…
Chưa bao giờ, Thành rơi vào
cảnh ngộ ấy. Lần đầu tiên có một cô gái đẹp khóc với anh, bày tỏ nỗi đau khổ
trước mặt anh và gọi tên anh, bày tỏ nỗi đau khổ trước mặt anh và gọi tên anh
như tên một vị thánh cứu nạn. Lần đầu tiên, chàng trai được đu đẩy vào khoảnh đất
vinh hiển của bậc mày râu. Thành cảm động và bối rối tới mức anh không đủ sáng
suốt để tìm một câu nói khôn ngoan hay một cử chỉ thích hợp trong tình thế đó.
- Hãy nói cho tôi biết, chuyện
gì đã xảy ra?… Nào, nào…
Một lúc lâu sau. Vượng ngẩng
lên. Mắt cô sưng mọng. Và cô nói:
- Anh ấy đã rủ bỏ em như rũ
bỏ một manh áo cũ. Chỉ vẻn vẹn mấy dòng chữ thế này…
Cô rút trong sắc chiếc phong
bì, đưa cho Thành. Anh nhận ra ngay nét chữ của Quán:
Thân gửi Vũ Kim Vượng.
(Thư này nhờ cháu Hương chuyển
hộ)
Bên trong, tờ giấy trắng khổ
rộng gấp nỏ, miết kỹ nếp như là. Chàng trai mở tờ giấy, và anh đọc:
Xin lỗi Vượng. Cuộc hôn nhân
của chúng ta coi như bỏ từ nay. Nhờ Vượng thông báo giúp với gia đình là ngày rằm
tháng chín này mẹ tôi sẽ không dẫn lễ ăn hỏi lên nhà như đã báo. Tôi biết Vượng
thừa thông minh để hiểu chuyện này.
Chào vĩnh biệt.
- Anh xem đấy…
Cô gái nói: Ngay trong giấc
mơ em cũng không ngờ được việc này.
- Nhưng tại sao… tại sao chứ?
Thành ấp úng hỏi.
- Chắc phải có một lý do nào
đó..
Anh nhắc lại.
- Lý do?…
Cô gái hơi bĩu môi:
- Anh lặng yên mà nghe em kể
nhé: Ngồi xuống đây…
Khi Thành đã ngồi xuống bên
Vượng, cô tự rót cho mình một chén nước, uống cạn rồi kể:
- Bố mẹ không có con đẻ, nên
đã xin thầy u em đem em về nuôi từ ngày em chưa đầy tháng. Các cụ nuôi em tốn
kém vất vả gấp mười lần những người xung quanh. Vả lại, chỉ có mình em nên bao
nhiêu tình thương yêu, bao nhiêu công chăm chút hai ông bà cũng không tiếc. Em
lớn lên trong ngôi nhà anh đã biết, vô tư, vui vẻ như bấy kỳ đứa bé may mắn nào
được đời ưu đãi. Em không hề biết rằng em còn có một mối liên quan khác… Mãi tới
năm em mười lăm tuổi, bố mẹ mới bảo em sang nhận thầy u và từ đó, ngày giỗ,
ngày Tết em có nhiệm vụ mang biếu khi gói bánh, khi hộp mứt. Mặc dù lý trí đã tự
bảo đó là những người chung máu huyết nhưng em không có chút cảm tình nào với
thầy u cũng như đám anh em trong nhà. Ông bà ấy có nuôi em đâu? Và trong trí nhớ
em cũng chẳng có kỷ niệm nào về họ. Mà con người có thương yêu gắn bó được với
nhau hay không chính là vì họ có những kỉ niệm tốt đẹp về nhau hay không. Thầy
u em không hiểu được điều đó. Hai năm sau các cụ cậy quyền mang nặng đẻ đau,
đòi em về nhà, gả cho một gia đình thân quen vừa có con trai đi bộ đội về. Anh
ta còn trẻ nhưng đã mang quân hàm thiếu úy và các ông bà già cứ mê mẩn vì một gạch
một sao của anh ta. Em cương quyết từ chối, thầy u đánh đập, quấn tóc em vào cọc
nhốt suốt đêm trước chuồng trâu. Bố mẹ em thoạt đầu giữ ý không can thiệp; sau
xót ruột quá yêu cầu chính quyền xã đưa em về nhà. Mặc dù thế, các cụ vẫn nhắc
nhở em sang thăm những người đẻ ra mình như xưa. Nhưng em, em không thể còn vui
vẻ nhìn lại mái nhà em đã từng bị đầy đọa, và những con người đã đầy đọa mình…
Đầu đuôi câu chuyện là như thế. Nhưng chưa kịp hiểu tường tận, anh Quán đã rũ bỏ
em. Chắc hẳn anh ấy kết tội em là đứa con bất hiếu…
Vượng ngừng lại một vài
giây. Rồi nói tiếp:
- Anh ấy bỏ em cũng được, vì
chẳng thể bắt người khác hiểu mình. Em không tiếc đâu, mà cũng chẳng oán trách
nữa. Nhưng chỉ khổ cho bố mẹ em, các cụ không tin rằng ở đời, người ta có thể
tráo trở trắng trợn và tàn nhẫn như vậy.
Giọng Vượng đã trở lại bình
tĩnh. Cô mím đôi môi mọng, quyến rũ đàn ông tới nhức nhối, và ngước mắt lên.
Gương mặt cô kiêu hãnh. Thành ngẩn ngơ nhìn người con gái, lòng xáo trộn bởi
trăm ngàn ý nghĩ và cản xúc, không có ý nghĩ nào rành rọt, cũng không có cảm
xúc nào rõ ràng. Anh chỉ thấy Vượng đẹp – đẹp hơn tất cả các cô gái anh đã từng
gặp trong đời, rằng cô là niềm ước ao thầm kín của anh, lâu nay bị chôn vùi dưới
tầng sâu dồn nén, giờ trồi lên như mầm cây gặp mưa phù tháng giêng…
- Anh Thành.
Vượng bất thần cất tiếng gọi,
mắt cô nhìn sâu vào đáy mắt chàng trai, hệt như mũi khoan thép xoáy giữa lớp đất
mềm, không một viên sỏi con kháng cự. Chàng trai run bắn lên, chụp tay cô gái,
lắp bắp:
- Tôi thương… tôi rất khổ
tâm vì Quán đã…
Vượng thở dài, không nhìn
Thành, cô cất giọng buồn bã:
- Ở nông thôn chúng em, lễ
ăn hỏi rất thiêng. Gặp trắc trở thiên hạ sẽ xì xào khinh rẻ người con gái. Em
chỉ tiếc mình quá vội vã tin yêu vào Quán. Anh biết đấy, em có đến nỗi nào
đâu?… Có lẽ trời phạt em vì đã quá thương người. Trong số những kẻ theo đuổi
em, Quán nghèo hơn cả…
Cô gái ngừng lại. Ngay tức
khắc, Thành hình dung ra tình thế thảm thương của cô gái khi ngày rằm tháng
chín ta sắp tới, không có ai bưng quả gỗ sơn son đựng lễ vật vào nhà. Chắc chắn
dân làng sẽ đi thành vòng tròn mà đàm tiếu.
Vượng nói đúng, với nhan sắc
lộng lẫy thế, cô ấy tìm đâu chẳng được người xứng đáng…
Anh nghĩ và thầm giận bạn.
Tuy nhiên, giữa cảm giác hờn giận đó, len lỏi vào một tia nhỏ mừng vui. Cũng giống
sợi rễ cỏ mỏng manh trong kẽ đất làm nảy lên mảnh lá mầm độc địa, Thành phấp phỏng
vì một hạnh phúc nào đó đang đợi chờ anh, rất mù mờ nhưng cảm nhận lại rõ rệt,
một nỗi đam mê cuồng nhiệt ẩn núp sau bức màn tăm tối.
- Vượng mệt không? Tôi pha
nước nhé?…
Chàng trai nói, giọng bắt đầu
lạc đi.
- Cảm ơn anh…
Cô gái trả lời, hai hàng mi
hạ thấp: Sao em cảm thấy chán chường mọi thứ. Đời thật buồn…
Cô tì cánh tay lên bàn, gục
đầu xuống lúc lâu. Thành đứng lên, lo âu nhìn mái tóc đen như lông quạ xõa trên
đôi vai tròn lẳn:
- Vượng sao thế? Nhức đầu phải
không?…
Cô gái không đáp. Một khoảng
khắc yên tĩnh lặng lờ trôi. Rồi, cô ngước mắt lên, cười yếu ớt:
- Bỗng dưng em cảm thấy lạnh,
và có những vòng tròn đủ màu loang loáng giữa không trung.
- Trời ơi, Vượng ốm rồi. Tôi
đi gọi y tá…
Mười hai hôm sau, khoảng ba
giờ chiều, Quán tới tìm bạn:
- Mở cửa đi Thành.
Thành đang chữa lại một phác
thảo chân dung. Anh khoác áo ra mở cửa cho bạn. Quán tự khép cửa, rồi bước tới
giường ngồi. Trên giường, bừa bộn chăn gối, tiểu thuyết cũ và vỏ lạc. Thành kéo
ghế ngồi trước mặt Quán, ở giữa họ là con chó sành sứt tai dùng làm ống đựng bã
chè ngồi chồm hỗm ngay trên nền đá lát. Cách đó vài gang, một con rùa lớn bằng
bàn tay ngọ nguậy sát chân bàn. Hai người cùng im lặng nhìn nhau, theo đuổi ý
nghĩ của mình. Có tới mười phút sau, Quán mới cất tiếng:
- Cậu hãy rứt khỏi cô gái ấy.
- …
- Nếu cậu không muốn tự đầy ải
vào một tương lai khủng khiếp.
- …
- Đừng cười nhạt, mình không
dọa cậu đâu. Chúng ta đã từng là bạn chí thiết và mình không thể ngồi yên nhìn
cậu lao xuống vực. Hãy trở lại những điều chúng ta đã cam kết buổi đầu.
- …
- Phải, chính mình đã xóa bỏ
cam kết ấy, chính mình đã phạm luật nhưng mình biết dừng ở giới hạn cần thiết.
Còn cậu, cậu đã lăn xuống như hòn bi. Đừng nhìn tớ với con mắt giễu cợt đó. Hãy
tỉnh lại đi..
- …
- Thành này, xưa cậu vốn hiền
lành, sao giờ đây vẻ mặt cậu lì lợm đáng sợ thế?… Cậu đã biến thành một anh
chàng si tình nhanh chóng quá, một con chiên tử vì đạo… Nhưng thật đáng tiếc, nữ
thánh của cậu là một kẻ đáng ghê tởm… Chớ có liều, mắt cậu long sòng sọc như mắt
chó sói, nhưng nếu cậu nhảy vào tớ, cậu sẽ đo ván ngay. Phải bình tĩnh bạn trai
yêu mến của tôi, nghe tớ kể đây này… Cậu biết đấy, tớ yêu Vượng. Một tình yêu mạnh
mẽ, tớ chấp nhận mọi thua thiệt khác để có những phút giây hạnh phúc với cô ta.
Dù không nói, nhưng mọi người đều thừa nhận Vượng đẹp, và với những kẻ dấn thân
vào hội họa, sắc đẹp là một trong những hấp lực ghê gớm nhất. Chúng tớ đã định
tiến hành lễ ăn hỏi vào ngày rằm tháng chín này… Nhưng đúng lúc tớ vừa bàn với
Vượng chuyện đó, một người bạn gái của cô ta vô tình kể về gia đình Vượng. Câu
chuyện hoàn toàn xa lạ với cái lịch sử Vượng đã tự thuật cho tớ nghe vài chục lần.
Cái lịch sử ấy cô ta cũng đã từng cho cậu biết: Nào con nuôi, nào bị cưỡng hôn
vá đánh đập… Nhưng may mắn sao, mẩu lý trí còn sót lại đã dạy tớ ngờ vực. Và tớ
đã rủ cậu cùng về nhà Vượng chơi… Hôm ấy, mới cách đây hai tuần, chắc cậu chưa
quên ông già đánh trâu đi ngược lại tụi mình. Khi ông cụ thấy Vượng, người ông
gần như bị điện giật. Vượng cũng thế, đi sát cô ấy mình thấy rõ ràng cô ấy đã sững
lại một giây, nửa giây thôi. Mặt tái mét, cô ấy vội vã rẽ sang lối khác, đi vùn
vụt như ma đuổi. Lúc cô ấy gọi chúng mình, cậu có nhớ không, giọng hốt hoảng
không ra hơi… Còn những tình tiết sau, hẳn tớ không cần nhắc lại. Bây giờ hãy lắng
nghe đoạn kết: Sau khi nhờ cậu đưa Vượng trở lại Hà Nội mình vờ rẽ xuống ruộng
chừng dăm chục thước. Thấy các cậu đã xa, mình lên đường, đạp trở lại làng. Tới
gốc đa, mình vào uống nước, chuyện trò thủ thỉ với bà cụ bán hàng cho tới xế
chiều, và nhờ thế, mình đã hiểu được toàn bộ sự thực về người con gái ấy. Vượng
là con thứ ba trong gia đình sáu anh em. Bố cô, chính là ông già đánh trâu
chúng ta đã gặp. Mẹ cô, một người đàn bà nông thôn hiền lành quanh quẩn với đồng
áng, rơm rạ, con cái. Chồng bà đã lên Hà Nội hai lần, còn bà, suốt đời, nơi xa
nhất chỉ là phố huyện. Tóm lại, đó là những nông dân thuần khiết. Ông cụ tên là
Trà nên ba cậu con trai được đặt theo vần Tr: Tràng, Trang, Trạng. Và vợ ông
tên là Vưng nên ba cô con gái được gọi tên la: Vững, Vựng, Vừng. Vượng chính là
cô Vựng: Vũ Thị Vựng, cô gái xinh xắn và nhanh nhảu nhất của gia đình. Cô đã lớn
lên như đám anh chị em của cô, như mọi đứa bé trong làng: Còn nhỏ đi trâu, cắt
cỏ cho hợp tác, cắp sách ê a học. Lớn chút nữa, cơm đùm gạo gói lên trọ học ở
phố huyện cho hết cấp hai. Mùa cấy theo mẹ ra đồng kiếm dăm ba điểm cấy, vụ gặt
quang gánh lên vai cắt rạ về lợp chuồng trâu hoặc làm đồ thổi nấu lúc hiếm củi
đun. Ở thôn quê, người ta ham việc. Thường thường, chỉ được học hết cấp hai lũ
con gái đã bị giữ ở nhà giúp cha mẹ lam làm, thu vén chút vốn còn chuẩn bị chờ
ai tới dạm hỏi thì lấy chồng cho yên chuyện. Đám anh chị em Vựng cũng chung số
phận đó. Riêng cô, vì may mắn và xinh xẻo được ưu tiên gửi lên tỉnh học cấp ba
cùng với người anh trai. Vựng học cũng khá nên khi thi hết cấp, cô đạt điểm cao
hơn người anh. Cũng nhận bằng tốt nghiệp một hôm, hôm sau cậu anh trai lên đường
nhập ngũ cô em gái xách chiếc hòm gỗ mộc vào trường đại học. Ngày một, ngày hai
xinh đẹp nõn nà ra, cô gái đâm xấu hổ vì phải sống trong một gia đình quê kệch,
buổi sáng hàng loạt trai gái chen chúc nhau quanh rá cơm với bát tép khô tổ bố,
buổi chiều cũng xúm xít ngồi ăn ngay giữa sân, vừa sụp soạp và cơm vừa xùy đuổi
đám gà… Chắc hẳn cô cảm thấy nhục nhã khi đám bạn gái ở thành phố có nhà cửa sạch
sẽ, cha mẹ họ thong dong nuột nà, và sớm tối họ ngồi ăn quanh bàn hoặc trên những
tấm phản sang trọng trải chiếu điều đỏ như son… Rồi, một ngày chủ nhật, gia
đình Vựng có khách. Một cặp vợ chồng xấy xỉ tuổi sáu mươi. Đấy chính là vợ chồng
ông Huy, phó giám đốc ngân hàng tỉnh. Ông Huy vẫng sống cùng vợ trên thị xã, vườn
đất và mấy gian nhà ngói cũ nhờ đứa cháu họ trông coi. Nay về hưu, ông đưa vợ về,
sửa sang nhà cửa, vườn tược để hưởng cảnh điền viên vui thú tuổi già. Trước
kia, khoảng năm 53, 55, ông đi chiến dịch bị thương, tạt về làng, vợ chồng ông
Trà nuôi ròng rã dưới hầm gần sáu tháng. Hồi còn ở trên tỉnh, thỉnh thoảng ông
vẫn gửi chè thuốc biếu cố nhân. Nay về hưu, ông đưa vợ sang thăm ân nhân cũ. Vợ
chồng ông Huy không có con, gặp Vựng hai ông bà mừng quýnh, rối rít đòi nhận
con nuôi, ông bà Trà chưa kịp đáp lời đã tay bắt, mặt mừng kéo cô gái lại vuốt
ve, săm sắn.
“Đấy thì cho hai bác”.
Ông Trà gật đầu. Ở nông
thôn, người ta cho con nhận bố mẹ, anh chị nuôi là chuyện thường. Đó là một sợi
dây đan nối tình xóm mạc. Đó cũng lại là một phương sách giúp họ gắn bó, tựa đỡ
vào nhau tự nhiên hơn trong những khi giông gió. Bố mẹ nuôi cũng như bố mẹ đẻ
cô gái đều hoan hỉ. Nhưng cô gái còn hoan hỉ hơn. Cô thích gọi một ông già đeo
kính gọng vàng tây và có bộ râu muối tiêu nho nhã là bố hơn bố cô. Cô cũng
thích gọi một người đàn bà có gương mặt tươi sáng, nền nã với những chiếc vòng
cẩm thạch nơi cổ tay là mẹ hơn mẹ đẻ cô: Mười ngón tay bà lúc nào cũng thâm sì
nhựa rau muống, nhựa chuối và móng méo vẹo vì dấu vết của những lần móc cua… Vũ
Thị Vựng đã trở thành Vũ Kim Vượng từ ngày xách cái hòm gỗ mộc vào khu cư xá đại
học, giờ lại có một ông bố quản lý ngân hàng tỉnh về hưu, một bà mẹ hiền hậu,
quý phái xuất thân từ gia đình đốc học… Sung sướng quá… Lẽ tự nhiên, từ đó về
sau, Vượng toàn đưa bạn bè về nhà bố mẹ nuôi. Ngôi nhà khang trang, cây cỏ tràn
ngập hương thơm và sắc màu tươi mát. Những chiếc tràng kỷ đen bóng như sừng, những
chiếc đĩa men trong suốt quý báu từ đời Thanh, đời Tống. Ấm trà ướp nhài ngát
thơm… Tất cả cái đó là khung cảnh thích hợp với vẻ đẹp lộng lẫy của cô, giống
như sắc trời làm nền cho một ngọn núi mà họa sỹ tài tình nào muốn diễn tả… Và
vì ảo giác về danh giá lôi cuốn, nhiều lần, gặp bố mẹ đẻ Vượng đã quay đi. Cô
không muốn thú nhận gốc tích của mình. Cô muốn tạo cho cô một lịch sử hài hòa,
tương xứng với niềm vinh quang theo khuôn mẫu mà cô đã tự tạo ra… Sau khi nghe
chuyện, cầm lòng không đậu, mình đã tới nhà bố mẹ đẻ của Vượng, người cô quen gọi
bằng thầy u. Lúc đó, trời đã sẩm tối, giờ cơm chiều của những nông dân thực thụ.
Một đứa bé dẫn mình tới trước vòm cổng tre uốn hình bán nguyệt nhưng cánh bằng
gỗ. Cửa mở. Và mình thấy cả bố mẹ lẫn anh chị em Vượng xúm quanh một chiếc mâm
gỗ cao chân ăn cơm. Người chia đũa, người xới cơm ra bát, người giục lấy thêm
tương… Mẹ Vượng bảo đứa con trai út bưng rổ khoai sọ mới luộc ra ăn với vừng
cho đậm miệng… Một cảnh sinh hoạt bình thường, đầm ấm. Mình nhìn họ, bỗng dưng
muốn trào nước mắt. Những con người chất phác và thuần hậu ấy đã từng nuôi dưỡng
Vượng, chăm chút và biệt đãi cô, nhường nhịn những thuận lợi cho cô và hy vọng ở
cô. Và cô, con cò nhỏ nhoi lớn lên trong cái tổ êm dịu ấy, giờ đã chối bỏ nó và
đuổi theo loài chim khác… Ngay tức khắc mình quyết định hủy bỏ cuộc hôn nhân. Sớm
hôm sau, mình về Ninh Bình báo cho mẹ và em gái đừng chuẩn bị lễ vật lên ăn hỏi
nữa. Cả hai người đều căn vặn mình… Nhưng làm sao nói được? Không ai muốn nói
lên cái sự thực ấy: Một con người chối bỏ gốc rễ. Một đứa con chối bỏ mẹ cha
mình… Có thể tìm kiếm một mảy bụi tin cậy nào ở nơi họ…?
- …
- Này Thành, tối mịt rồi. Cậu
hãy rửa mặt nước lạnh để tinh thần tỉnh táo. Rời cô ta ra: Không thể có một cuộc
đời tốt đẹp với người con gái ấy đâu…
Ngày rằm tháng chín âm lịch,
vẫn có một người đàn bà đội quả gỗ sơn tới nhà ông bà Huy. Ấy là bà dì ruột của
Thành lên hỏi Vượng cho anh. Sau lễ hỏi ba tuần tới một đám cưới vội vã chừng
hơn hai chục người vừa họ mạc vừa bè bạn tham gia. Tại sao nhỉ?… Cho tới giờ,
Thành cũng không hiểu nổi. Mọi chuyện xảy ra bập bênh như bước chân của kẻ mộng
du. Sau buổi chiều Quán tới nói chuyện Thành đã bỏ căn phòng của anh, tới ở nhờ
nhà một bà cô ở tít Ô Cầu Dền. Anh hiểu rằng nếu còn ở lại nhà mình, anh sẽ
không chống đỡ nổi sức cám dỗ của Vượng. Dù im lặng không đáp lời Quán, anh vẫn
biết Quán có lý và thương yêu mình. Một đứa con ngoảnh mặt đi không nhận cha mẹ,
cảnh tượng ấy có gì khủng khiếp đối với những trái tim bình thường. Tiếc Vượng,
nhưng chàng trai thầm mong mọi chuyện rồi sẽ qua và anh sẽ tránh được phiền nhiễu
để chuyên tâm vào học tập. Nhưng số phận không buông tha anh. Ba ngày tới nhà
không gặp Thành, Vượng đã đến thẳng trường. Hôm đó, tại giảng đường có buổi
thuyết trình của chuyên gia hội họa nước ngoài nên cô đoán chắc Thành không thể
nào không tới nghe giảng. Chàng trai vừa từ quán giải khát dành cho sinh viên
bước ra, cô đã đứng sừng sững trước mặt anh:
- Em tìm anh suốt ba ngày
qua.
Cô kêu to, khiến những người
xung quanh ngoái lại nhìn. Chàng trai hổ thẹn, vội vàng nói:
- Vượng đừng kêu to thế… Ra
ngoài này tiện hơn.
Nhưng cô không những đứng
nguyên tại chỗ, mà còn cao giọng:
- Anh dối em thế… Nói lời rồi
lại nuốt lời…
- Tôi xin Vượng…
Chàng trai van vỉ, mắt hốt
hoảng nhìn quanh. Xưa nay, anh chưa có điều tiếng gì. Không cẩn thận, người ta
sẽ nghĩ anh đã làm điều gì ám muội.
- Tôi xin Vượng… Trở về nhà
tôi rồi nói chuyện.
Thành van vỉ lần thứ hai,
anh hối hả rời quán nước. Cô gái bước theo anh, sải những bước chân điềm tĩnh
và kiêu hãnh. Biết bao chàng trai ngước cặp mắt ngỡ ngàng theo:
- Người đâu mà đẹp thế nhỉ?
Hết xảy…
Chừng hai mươi phút sau, họ
đã ngồi trong căn phòng xinh xắn của Thành. Lần này, Vượng không khóc nữa, hai
má đỏ ửng, mắt long lanh phẫn nộ, cô hoàn toàn điều khiển anh chàng khốn khổ
trước mặt mình:
- Anh đã hứa không bỏ em lúc
khó khăn, rồi anh lại chạy trốn hèn nhát như một tên lính đào ngũ. Anh có còn
là đàn ông hay đã biến thành một kẻ mặc quần lụa đen rồi?… Thế mà em đã khấp khởi
mừng thầm rằng trong lúc sa cơ lỡ bước gặp quý nhân. Chẳng thà anh đừng hứa hẹn
gì còn dễ chịu hơn… Mắt cô sáng lóa như làn nước, và giọng nói của cô cũng như
nước chảy. Thành ngồi rũ trước Vượng, cả đầu lẫn mặt nóng bừng lên. Phải, anh
đã hứa với cô sẽ gỡ giúp những khó khăn, anh cũng đã nói với cô rằng anh thương
cô như thương một người em gái. Sao không nói thế được, trước những dòng nước mắt
trong suốt như pha lê chảy từ đôi mắt đen của cô?… Và, vào thời khắùc cô gọi
tên anh thống thiết như những hồn ma kêu gọi kẻ lái thuyền.
- Anh Thành…
Vượng tới ngồi bên anh, thì
thầm:
- Đừng giận em nhé, đau khổ
làm cho con người thành ma quỷ, còn sung sướng sẽ biến họ thành Phật thành
Tiên. Đời em đã phải hứng chịu biết bao nhiêu nỗi đầy đọa, bây giờ tình yêu đầy
đọa em lần nữa. Anh Quán có một gia đình tử tế, và anh ấy đã tìm cách rũ bỏ em
để khỏi phải hứng chịu chung những gánh vác nặng nề…
Lời lẽ của cô khứa vào tim
chàng trai như những lưỡi dao lá mía. Thành chợt nhớ tới một chiều đông của năm
học đầu tiên bảy tám chàng sinh viên ngồi ăn lạc rang trong căn phòng này. Giữa
mọi chuyện trời biển của họ, ai đó liền nêu lên những tiêu chuẩn kén chọn người
yêu. Và Quán đã vui vẻ tán đồng quan điểm của Trường, một anh xấu trai nhưng tốt
phúc vớ được một cô gái khá giả:
- Con một nhà giàu, cậu Trường
giống chuột đói tháng ba bỗng sa chỉnh gạo…
Thành nghĩ:
“Chắc chắn Quán yêu Vượng
khi nghĩ cô là cái chĩnh gạo thơm tho kia. Tới lúc phát hiện cô còn những năm
anh chị em nữa cậu ta liền tìm cách tháo xích…
Ý nghĩ ấy vừa chợt tới, đã
đóng đinh vào óc não Thành. Không một lô- gích nào thuyết phục anh được nữa.
Chàng trai thấy sứ mạng thiêng liêng của mình là phải cứu vớt cuộc đời người
con gái tội nghiệp. Anh bảo:
- Vượng đừng lo. Rằm tháng
chín này sẽ có người mang lễ ăn hỏi tới ngõ nhà em.
Lời nói mạnh như lệnh của một
quân vương. Vào khoảnh khắc ấy, nó vừa bộc lộ bản lĩnh kiêu hãnh chưa từng có dịp
bột phát của chàng trai, vừa đẩy anh vào một tình thế không thể còn cứu gỡ…
Vượng ngước nhìn anh, tin cậy.
Cô giống một con thỏ ngoan với bộ lông nhung. Trong cô, có tiếng chuông lanh lảnh
đang reo: Thắng!… Cô không còn nhục nhã ê chề với xóm giềng bè bạn nữa. Con cá
sổng lại còn nhỏ hơn con cá cắn câu. Ông thầy tử vi nói đúng thật: Đời cô luôn
luôn có quý nhân phù trợ…
Hai hôm sau, Thành gặp Quán
trên lớp.
- Thành, lại chìm tàu rồi
hay sao?
Quán cất tiếng hỏi, ánh mắt
lướt trên gương mặt bạn sục sạo, tìm kiếm. Và khi Thành còn đang im lặng, Quán
đã lắc đầu:
- Tồi tệ thật.
Chàng trai buong tiếng thở
dài, nhìn bạn thương hại. Không một ai muốn giữ liêm sỉ lại cam chịu người khác
nhìn mình bằng con mắt thương hại. Cái nhìn ấy chỉ dành riêng cho người trưởng
thành nhìn lũ trẻ vị thành niên, cho những ai lành lặn nhìn kẻ tàn tật, những
người đàn bà nhìn con mèo, con chó yêu của họ bị kẻ ác đánh đập… Thành hiểu điều
ấy. Lòng tự trọng bị chà sát, đột ngột, anh gầm lên:
- Tớ yêu cầu cậu im đi i i…
Vừa lúc, giáo viên chủ nhiệm
bước vào. Ông lần lượt nhìn hai chàng trai:
- Tôn-stôi và Đốt-tôi-ep-ski
thù ghét nhau trên phương diện nghệ thuật nhưng luôn luôn quý trọng nhau về
phía con người. Các cậu vừa làm cái trò bỉ ổi gì thế?… Tranh nhau miếng cơm hay
tranh nhau một cô gái? Tôi không nghĩ rằng người ta có thể trở thành nghệ sĩ lớn
với một nhân cách nhỏ…
Hai người cúi mặt lỉnh ra
ngoài lớp. Một người đi về phía cửa trước, người đi về phía cửa sau.
Tối hôm đó, Thành buồn đến mức
phải mua rượu về uống. Xưa nay, anh chưa bao giờ dám nghĩ tới chuyện mua rượu mạnh.
Ngay cả khi người khác nài ép một vài giọt, chàng trai cũng đã tránh xa. Rượu
vào, Thành rơi xuống một khoảng không bập bênh, u mê. Rồi lênh đênh trong cảm
giác lạ lùng ấy, anh chợt thấy rằng tất cả những giờ phút bên Vượng, anh đều bồng
bềnh giữa ngọn triều u mê khắc khoải như thế, và bầu trời xung quanh tắt đi mọi
ánh sao, mọi ánh đèn…
- Có cái gì bất ổn trong con
người ta…
Chàng trai nghĩ. Nhưng cái
gì đó bất ổn, anh không gọi tên, không cắt nghĩa được. Anh nằm vật ra giường, dần
dần thiếp đi cho tới chín giờ sáng hôm sau. Thức dậy, Thành ra ngoài phố lang
thang. Anh muốn rời căn phòng của mình để khỏi nghĩ ngợi. Cái không gian lúc
này đầy ứ hình ảnh người con gái đã nhảy bổ vào đời anh như một toán lính dù đột
ngột xâm chiếm vùng đất lạ. Sắp tới rằm tháng chín. Chỉ còn năm sáu hôm nữa
thôi…
- Rằm tháng chín này, mình sẽ
đem lễ lên cầu hôn với Vượng và cô sẽ trở thành vợ mình. Quán đã đi gần hết đoạn
đượng để rồi phần chung cực mình gánh vác. Giống như vai kịch tới màn chót phải
thay kép hát. Không biết đây là may mắn hay rủi ro?…
Chàng trai bước thất thểu
trên hè phố. Anh tự cay đắng vì mình. Quán đã yêu Vượng hơn một năm trời nhưng
rũ bỏ cô chóng vánh như người ta rũ những hạt mưa bóng mây đọng trên tấm vải
mưa. Còn anh, mới chỉ vài tuần lễ lâm cụoc đã sa vào bst quái trận đồ không lối
thoát.
- Quán mạnh hơn mình và sáng
suốt hơn mình. Phải thừa nhận là như thế…
Đi mãi, Thành thấy phố Bà
Triệu hiện lên trước ngã ba. Ở đó, có một danh họa đã ngoài năm mươi tuổi sống
độc thân. Ông lập dị nhưng tốt bụng, đám sinh viên hội họa vừa yêu ông vừa thèm
muốn những thành công của ông. Buổi sáng chưa ăn gì, chàng trai đói. Anh biết
nhà danh họa có một chiếc bếp dầu nhỏ và một thùng gạo thường trực dành cho những
kẻ độc thân làm nghệ thuật vào lúc không còn vét nổi một đồng xu nhỏ trong túi
quần. Thành gõ cửa. Có tiếng quát vọng ra:
- Cậu nào đấy? Cứ đẩy cửa mà
vào.
Chàng trai mở cửa, vào nhà.
Họa sĩ lớn đang vẽ. Một cô gái chạc hai mươi, đẹp man rợ ngồi trước mặt ông.
Khi cô ta quay mặt lại, Thành nhận ra Hồng tác- ta, người đà bà trẻ nổi tiếng
trác táng trong thành phố. Cô ta tầm thước nhưng nảy mở, đôi mắt rất to, rất
sâu, kiểu mắt gái nhảy, vừa ướt vừa mờ như nó đã được tạo ra từ trong bóng tối
của các bar. Cặp môi mỏng tô son bóng nhảy. Vầng trái dô bướng bỉnh và giàu ham
muốn. Những lọn tóc buông trên đôi vai tròn. Người đàn bà trẻ nhìn chàng trai
như nhìn vào chỗ không người. Anh cũng nhìn cô với đôi mắt như thế. Nhà danh họa
ngẩng đầu lên:
- Uống một chén con chứ?
Thành đáp.
- Cảm ơn, nhưng em đang đói,
xoong cơm Thạch Sanh của anh đâu?
- Tưởng có sự gì lạ?…
Họa sĩ cười lớn khà khà: Bao
tử biểu tình với nghệ thuật hội họa là chuyện thường. Hôm nay tớ có bánh mì kẹp
thịt để sẵn trong tủ kia kìa, lấy ra mà chén.
Miệng nói, tay ông không rời
cây bút vẽ. Vào nhà ông, ai cũng thấy mình là chủ nhân. Thành mở tủ, lấy bánh
mì ăn, rồi châm bếp đun nước pha trà. Rót cho nhà danh họa một chén, rót cho
mình chén thứ hai, chàng trai vừa nhâm nhi uống vừa ngắm nét bút vờn trên mặt vải.
Thoạt đầu, để chờ đợi. Rồi sau, anh bị lôi cuốn bởi sự say mê nghề nghiệp đến mức
quên cả tình cảm sầu muộn của mình. Tới khi cô gái đứng lên, vặn lưng, uốn éo một
cách hoàn toàn bất nhã ngay trước mặt họ, anh mới sực tỉnh.
- Thôi, mỏi lắm rồi, em về
đã.
Cô nói, không chờ trả lời bước
khỏi phòng. Nhà danh họa vẫn ngồi nguyên trên ghế nên Thành phải bước ra đón cửa
cho cô ta. Quay vào, Thành nói:
- Người đàn bà có tên ở mọi
chuyện dơ dáng trong thành phố. Thiếu mẫu sao mà anh thuê cô ta?…
Họa sĩ lớn cười khà khà:
- Tớ biết, tớ biết… Nhưng
hãy tha thứ cho nàng, bởi vì nàng đẹp.
Thành không hỏi thêm câu nào
nữa. Anh nói chuyện nghề nghiệp với người nổi tiếng là Mạnh Thường Quân của giới
hội họa. Câu chuyện kéo dài tới tận chiều, qua một cuộc rượu không thịnh soạn
nhưng mặn mà. Tuy nhiên, câu nói của nhà danh họa cứ ngân lên trong óc não
chàng trai một âm vang dai dẳng:
- Hãy tha thứ cho nàng, vì
nàng đẹp quá…
Chín giờ kém mười lăm, Thành
loạng choạng trở về phòng. Anh thốt câu nói đó ra khỏi cửa miệng rồi lăn xuống
ngủ. Và sớm hôm sau, không còn đắn đo thêm phút nào nữa, Thành đạp xe tới nhà
bà dì ruột, nhờ bà sắm sanh lễ vật tới rằm hỏi vợ.
° °
°
Ông già Ớt bỗng nói mê lảm
nhảm. Thành mở mắt, khung trời tím với những gợn mây lăn tăn ngưung đọng trước
mái lều. Sắp sáng rồi vì biển lặng như không còn tồn tại trong vũ trụ xưa cũ mà
nó đã trị vì tới mỏi mòn và buồn chán. Nhưng ở phía đông, ánh lê minh xanh nhạt
rợn lên. Khắp xóm cát, tiếng gà gáy từng hồi nao nức vẳng tới. Tiếng gà quen
thuộc thức tỉnh trong anh niềm khát khao một ngọn lửa nhen nhúm, một âm thanh dịu
ấm đời thường, một sắc màu trìu mến, niềm yêu thương tồn ứ vĩnh cửu nơi sâu thẳm
của tâm hồn… Có lẽ rằng đời sống phải thế chăng? Phải xóa đi và phải gây dựng lại.
Lời một bài hát nào đó anh còn nhớ: “Và tren cát, sóng hững hờ xóa dấu chân…”
Những con sóng vô tri, người ta không có quyền dằn dỗi nó. Họa sĩ hiểu rằng cuộc
chạy trốn của anh vô nghĩa. Bởi vì, ngay trong lúc dĩ vãng đang vặn thắt trái
tim hối tiếc của anh, anh vẫn bị ám ảnh bởi ánh mắt của người xa lạ ấy. Một đôi
mắt vừa lạnh lùng vừa ấm áp, vừa đầy ải con người vừa thiết tha kêu gọi họ trở
về…
IV
Thành đã quay về Hà Nội sau
khi hoàn tất bức chân dung sơn dầu cho cô Huyến. Ông già Ớt đưa anh ra tận ga.
Họ không nói một lời suốt dọc đường, mặc con ngựa kéo xe gõ móng lộp cộp. Rồi,
tới trước những bậc tam cấp bằng đá hộc của nhà ga, ông già làng biển chìa tay
cho họa sĩ:
- Chú đi khỏe nhá. Về với
tôi nữa chớ?
- Nhất định cháu sẽ về.
Thành đáp, tay xách túi du lịch,
lưng đeo ba lô tiến vào phòng đợi. Anh nhìn thấy chiếc xe kéo ông già đi qua đoạn
đường vòng lẹ làng gần như lướt trên mặt nước, túm lông ngũ sắc cắm trên mũ ngựa
bắt nắng óng ánh. Thành còn đứng một lúc lâu, theo dõi đám bụi trắng di chuyển
trên quốc lộ, tiếng lục lạc mỗi lúc một xa dần và con ngựa chỉ còn nhỏ như con
sơn dương chạy giữa những dải đồi thoai thoải. Tàu đến chậm, anh phải chờ bốn
giờ rưỡi đồng hồ. Non hai ngày sau, Thành mới về tới Hà Nội. Việc đầu tiên anh
làm là tìm tới ngôi nhà có người đàn bà anh tưởng nhớ. Ngôi trường tầm thường
như mọi ngôi trường khác trong thành phố. Một tấm bảng thông báo tin tức, mấy
hàng quà rong, cây cột điện có treo hộp thư đã hai gỉ vì mưa gió. Họa sĩ chăm
chú nhìn những chi tiết cũ kỹ của một góc phố cũ được xây dựng từ thời trước
cách mạng. Anh đã qua lại đây hàng trăm lượt nhưng bây giờ nó mới trở thành cảnh
trí được ghi nhận trong ký ức. Người đàn ông chợt thấy tim đập dồn lên, thắc thỏm
khi hai cánh cửa ngôi trường hé mở và một tốp giáo viên đi ra. Hai chàng trai,
một phụ nữ tóc hoa râm, một cô gái má bánh đúc, tóc cắt ngắn. Không có người
đàn bà đó… Thành đi đi lại lại trước cánh cổng đã khép, chờ đợi. Thỉnh thoảng,
người thường trực lại mở cửa cho các giáo viên đã hết giờ giảng về nhà. Cứ như
thế, những tiết học lần lượt nối nhau qua. Mười hai giờ trưa, trống đánh dồn
rã, hai cánh cửa sắt mở toang, học sinh ùa ra nhốn nháo, ầm ĩ. Người đàn ông cố
sục tìm trong đám đông, nhưng anh đành thất vọng trở về. Hôm sau, Thành lại tới
trường lần nữa. Cũng không gặp người đàn bà đó. Họa sĩ nổi cáu, vừa đi vừa tự rủa
sả mình:
- Trò ngớ ngẩn. Tìm kiếm, chờ
đợi một người đàn bà, trong khi bất cứ lúc nào ta cũng vẫy dược một cô gái trẻ
măng xinh đẹp, ăn mặc như các diễn viên màn ảnh mô- đéc nhất…
Anh tìm một quán cơm bình
dân, ăn cho qua bữa và trở về phòng vẽ. Ngồi giữa đống phác thảo, giấy bút ngổn
ngang, Thành nhìn những hạt bụi ngũ sắc nhảy nhót trong làn nắng hiếu qua khe cửa.
Đã mấy lần anh cầm bút lên nhưng lại bỏ xuống vì biết trước dẫu có vẽ cũng chẳng
thành công. Người ta không thể cầm bút đứng trước giá vẽ đều đặn ngày nọ qua
ngày kia như anh thợ chữa đồng hồ cầm tuốc- nơ- vít, như cô thư ký gõ máy chữ.
Khi anh không có ngọn lửa say mê, đốt cháy mọi thú vui khác và áp đảo anh bằng
chính hơi nóng ngột ngạt chết người của nó, anh đừng hòng tìm được nguồn cảm hứng
siêu việt dẫn đến thành công… Người đàn ông thở dài, ném những phác thảo vào
góc tường rồi mặc áo, đi ra phố.
Giữa thu, vào lúc trời chiều,
hơi lạnh se se thấm vào da thịt. Những chiếc lá xanh thẫm, gần như đen lại,
chen trong bóng hoàng hôn. Một làn khói mỏng lơ lửng giữa khung trời thành phố.
Tiếng chim kêu trong các vòm cây trở nên vang động hơn. Khuấy đảo tâm hồn con
người nhiều hơn vào lúc trở mùa. Họa sĩ bước mải mốt, người qua đường có thể lầm
tưởng anh đi tới một cuộc hẹn hò vội vã hay một công việc cần thiết nào đó.
Thành không thích lối đi nhênh nhang, vừa đi vừa ngơ ngẩn ngắm nhìn phố xá của
lũ trai trẻ. Giữa cuộc sống hối hả này, nó dị hợm quá chừng. Lang thang lúc
lâu, anh chợt thấy mình đến trước ga Hàng Cỏ. Một đám đông đang nối đuôi nhau
qua cửa vào ga. Một đám đông khác, đứng túm tụm chờ giữa khoảng sân lấm bụi.
Thành loanh quanh vòng qua sân ga, bộ như người đón tàu. Anh thấy một người đàn
ông trạc tuổi mình, đứng cạnh chiếc xe Hon- đa 50 nữ. Anh này đưa mắt nhìn
Thành ba bốn lần, vẻ thăm dò. Sau một lúc lâu, người đàn ông kia cất tiếng:
- Xin lỗi anh…
Họa sĩ quay lại. Người đàn
ông nói e dè:
- Xin lỗi, tôi muốn phiền
anh tí chút.
Thành gật đầu:
- Được thôi.
- Chắc anh cũng đang đợi tàu
Thống Nhất như tôi – Người đàn ông nói và không đợi Thành trả lời, tiếp tục –
Phải nửa giờ nữa tàu mới vào ga, vậy mà tôi đã đứng chờ ở đây từ lúc hai giờ
chiều. Phiền gửi anh chiếc xe, tôi đi ăn bát phở. Xe khóa rồi nhưng vẫn phải có
người trông mới dám bỏ đi. Tụi ăn cắp liều lĩnh lắm.
Thành nhìn người đàn ông,
anh ta có vẻ hiền lành. Một gương mặt cân đối nhưng hơi khắc khổ, mái tóc đã có
sợi bạc nơi thái dương. Họa sĩ gật đầu:
- Tôi nhận lời, nhưng nhanh
nhanh lên nhé.
- Rất nhanh.
Người đàn ông đáp rồi vội vã
băng qua đường. Anh ta mất hút vào đám đông ngay tức khắc. Hai mươi lăm phút
sau, anh ta quay lại, hồ hởi cảm ơn họa sĩ. Rút trong túi ngực ra hai điếu thuốc
đầu lọc loại sang tự châm lửa mời Thành một điếu và hút điếu còn lại. Vẻ mặt
người đàn ông mãn nguyện. Thỉnh thoảng, anh ta đưa mắt liếc đồng hồ. Tự dưng,
Thành tò mò. Anh muốn biết người đàn ông ngày đón chờ ai mà kiên gan nhịn đói,
đứng giữa khoảng sân lầm bụi suốt buổi chiều. Anh làm bộ vô tình, hỏi:
- Anh đón chị nhà?
- Vâng.
Người đàn ông gật đầu tức khắc,
rồi sau đó ngượng nghịu nói thêm: À, cũng gần gần như thế…
Trên môi anh ta ngưng đọng một
nụ cười rụt rè và tràn trề hạnh phúc. Vừa lúc đó, loa phóng thanh cất tiếng
thông báo tàu vào ga. Gương mặt người đàn ông bừng lên. Niềm vui đó làm giãn những
nếp nhăn dưới đuôi mắt, phủ lên dàn da một màu sắc tươi tắn. Trông anh ta trẻ lại
đến dăm tuổi. Họa sĩ ngạc nhiên vì sự biến đổi ấy. Anh ngơ ngẩn nhìn.
- Còi rồi. Tàu đang vào ga…
Người đàn ông bảo Thành.
- Tàu vào ga…
Họa sĩ lặp lại như cái máy rồi
không chào người đàn ông, anh đi sang bên kia đường.
- Đấy là tình yêu… Một người
đàn bà có thể làm một người đàn ông xao xuyến đến như vậy. Đấy là phép màu nhiệm
mà những ai không còn tin ở tình yêu không bao giờ tìm thấy. Mình đã biến thành
một kẻ bệnh hoạn, một gã đàn ông cao ngạo và thù ghét đàn bà… Không bao giờ
mình còn có niềm vui như người đàn ông kia đã có…
Từ ngày Vượng phản bội
Thành, anh đã chung đụng với nhiều cô gái khác. Mỗi cuộc chung đụng ấy đem lại
cho Thành một chút ít thú vui, một vài khoản tốn kém và những hối tiếc, những
khinh ghét chất chồng. Anh đọc thấy những ham muốn trụi trần sau các gương mặt
son phấn mĩ miều kia:
- Em cần chiếc áo lông màu
gì?… Anh sẽ gửi cậu bạn mua cho em trước khi mùa rét tới.
- Anh sẽ vẽ cho em một bức
chân dung mà các bạn trai em phải yêu em thêm năm lần mỗi khi ngắm nhìn nó.
- Em cần một đôi giày da mới
phải không?… Chờ anh vài hôm nữa nhé…
Chỉ có những cô gái chịu đựng
được vẻ ngạo mạn của Thành, cái điệu cười mỉa mai và những cử chỉ tưởng chừng lịch
sự nhưng thực chất lại thô lỗ mới lai vãng tới căn phòng anh ở. Đôi khi chán
ngán, anh thẳng tay tống khứ các cô ra ngoài. Và rồi ngồi một mình trong căn
phòng tối om không buồn bật điện, anh hối tiếc tuổi trẻ của anh, hối tiếc tình
yêu chưa kịp đến đã tan biến như bọt xà- phòng. Anh thấy tâm hồn mình đang ngấm
dần chất độc dược mà không có cách nào tẩy uế…
- Tại sao chứ? Tại sao…
Con người có thể cắt nghĩa
được dễ dàng cỏ cây, sấm chớp nhưng lại vô cùng khó khăn khi muốn tự cắt nghĩa
mình.
- Tại sao?…
Họa sĩ trở lại căn phòng quạnh
quẽ của anh, nơi nhiều người đàn bà đi qua nhưng không một gương mặt nào gởi gắm
lại. Bốn bức tường trơ trọi. Cả những giá vẽ, những bức tranh anh hài lòng nhất
cũng tẻ nhạt vào lúc này. Có lẽ anh muốn một bức vẽ mới, một dòng sông, cánh buồm,
đàn chim nghiêng xuống bọt nước, rặng cây tươi thắm như những ngọn lửa xanh… một
bức vẽ với lòng trìu mến, giống như một gương mặt mà anh muốn được nâng niu…
Sáng hôm sau, Thành trở lại
ngôi trường. Anh gặp ông già gác trường, dò hỏi về người đàn bà mặc quần jean
nhung màu xám nhạt, áo sơ mi xanh da trời.
- Tôi biết, tôi biết… chị
Vân. Chắc anh ở trên Bộ xuống mời chị ấy dự hội nghị khoa học giáo dục phải
không? Anh ngồi đây chờ, tôi vào văn phòng gọi…
Ông già thường trực đáp lại
vồn vả. Thành ngỡ ngàng trước vẻ nồng nhiệt ấy, anh ngồi im chờ đợi. Khoảng mười
phút sau, ông ta quay lại với người đàn bà. Hôm nay, chị mặc quần lụa đen với
chiếc áo sơ- mi hoa rực rỡ. Trông chị trẻ trung và xa lạ hơn buổi chiều mưa tại
nhà bảo tàng. Vừa đi, chị vừa chuyện trò với người gác cổng, khẽ lắc mái đầu,
miệng cười tươi tắn:
- Nụ cười ấy là nụ cười của
một đứa trẻ…
Họa sĩ thầm nghĩ và anh bắt
đầu tháy bối rối, không biết nên ngồi im hay đứng lên. Sau cùng, chị đã tới,
đưa mắt nhìn anh ngạc nhiên nhưng không hề sửng sốt:
- Chào chị Vân…
Họa sĩ đứng lên. Người đàn
bà khẽ cúi đầu:
- Vâng, chào anh… Chắc anh
có việc cần gặp tôi?… Mời anh vào văn phòng…
Ngập ngừng một chút, chị nói
thêm: Ở đây, chúng tôi không có phòng khách riêng, nên…
Thành vội vã nói ngay, sợ bỏ
lỡ một cơ hội may mắn:
- Xin mời chị tới một quán
trà nào đó gần đây… Như thế tiện hơn.
Thiếu phụ suy nghĩ vài giây
rồi đáp: - Cũng được.
Thành chào ông già gác cổng,
với cái vẻ hấp tấp mà anh chưa từng có. Hai người đi dọc phố. Họ im lặng suốt
quãng đường đó, cho tới khi Thành tìm được một quán giải khát sạch sẽ và vắng
khách:
- Ta vào đây được không?
Anh hỏi.
- Tùy anh.
Người đàn bà trả lời.
- Chúng ta có thể nói được
nhiều chuyện ở nơi này.
Thành đáp lại. Anh chờ thiếu
phụ vào quán trước nhưng chị dường như không mảy may chú ý tới điều ấy. Chị chọn
chỗ ngồi, vén mái tóc bên tai một cách tự tin rồi hỏi anh:
- Xin lỗi, có lẽ anh là người
của Bộ? Chúng tôi chưa chuẩn bị xong bản báo cáo các anh yêu cầu.
Thành im lặng lắc đầu, thay
vì trả lời chị, anh gọi chủ quán lấy đồ giải khát rồi hạ giọng:
- Chẳng lẽ chị không nhận được
tôi sao?
Người đàn bà nhíu mày:
- Thôi, đừng chơi trò ú tim ấy
nữa. Anh cứ nói thẳng cho tôi biết xem sao. Chúng ta đâu còn ở cái tuổi đánh đố
nhau thua được.
Gương mặt chị bình thản
nhưng hơi nghiêm khắc. Và Thành thấy hai mang tai nóng lên vì chạm lòng tự ái.
Tuy vậy, anh hiểu rằng anh không có quyền bực chị. Anh gượng nhẹ:
- Chị có nhớ buổi chiều ở
Nhà bảo tàng không. Lúc cơn mưa đến bất chợt và chúng tôi phải tháo gỡ những tấm
bảng trang trí đưa vào trong hành lang. Lúc đó, chị ngồi chờ học sinh tham
quan…
- A… a… tôi nhớ rồi…
Người đàn bà trẻ kêu lên.
- Tôi còn nhớ chị đang đọc một
cuốn sách. Đó là cuốn Jađic của Von-te.
Người đàn bà nhìn anh, thay
cho một lời tra vấn. Thành nói tiếp.
- Lúc ấy, tôi đã buông những
lời rất bất nhã…
Người đàn bà gật đầu, ngắt lời
anh:
- Bây giờ tôi đã nhớ lại tất
cả. Đấy là những lời lẽ…
Thành tiếp:
- Những lời lẽ tầm bậy, lố bịch
nữa… Vì thế, tôi muốn tìm gặp lại chị để xin chị cảm thông.
Thiếu phụ lắc đầu:
- Không cần.
Ngừng lại ít giây, chị thêm:
Có lẽ điều đó cần cho anh hơn là cho tôi. Tôi đã quên hoàn toàn nếu như anh
không gợi lại.
- Tại sao chứ? Chẳng lẽ chị
không có một chút bất bình?
Thành gặng hỏi. Người đàn bà
ngước nhìn anh, và họa sĩ thấy rõ những rạch sáng lấp lánh trong mắt chị:
- Tôi bất bình làm gì? Chúng
ta không thể bất bình được với hàng vạn người buộc phải gặp gỡ, phải quan hệ
trong đời sống. Bởi có những người bình thường, và những người khác rơi vào
trong trạng thái bất thường nào đó.
Người đàn ông bật cười:
- Chị cho tôi là một thằng
khùng.
- Không hẳn thế – Thiếu phụ
trả lời – Nhưng có lẽ anh cũng không được quân bình lắm về mặt tâm lý. Chỉ vì
ân hận mà anh tìm gặp tôi thanh minh hay sao?…
Chị cười, hồn nhiên như một
cô bé cười trước những trò chơi ngộ nghĩnh, rồi nói tiếp: Vậy thì mọi chuyện đã
xong. Anh không cần áy náy nữa… Bây giờ, tôi phải trở lại trường. Chúng tôi
đang bận bịu đôi chút vì công việc, xin anh cảm thông…
Không chờ anh trả lời, chị đứng
lên, nghiêng đầu chào rồi bước ra. Thành ngồi sững trước hai cốc nước giải khát
còn nguyên vẹn, rồi anh hối hả chạy theo:
- Vân… chị Vân…
Người đàn bà dừng lại.
- Chị Vân… Họa sĩ tìm lời:
Ít nhất, chị cũng xem như là… chị cũng xem hành động của tôi là một thiện ý.
Chúng ta có thể trở thành những người bạn… như những người bạn bình thường
trong cuộc sống. Xin chị hãy cho tôi địa chỉ.
Người đàn bà nhìn Thành một
lượt như để thẩm định lại một cách chắc chắn những ý tưởng chị đã có. Rồi chị cất
tiếng cười:
- Nhưng anh là ai chứ?…
- Tôi… tôi…
Người đàn ông bỗng nhiên trở
nên luống cuống: Tôi là Thành, họa sĩ, giảng viên trường…
Anh hối hả lục trong túi áo
tấm danh thiếp in sẵn trao cho Vân. Và chị, liếc nhìn tấm danh thiếp mỉm cười:
Tôi không có danh thiếp để trao đổi với anh đâu…
Mặt Thành đỏ bừng, anh hối hả
nói:
- Xin chị thông cảm, nghề
chúng tôi cho phép in những thứ này một cách dễ dàng… Tôi chưa đến nỗi… là kẻ hợm
mình.
Vẻ thành thật của Thành khiến
người đàn bà dịu lại. Chị thôi cười, hạ giọng nói:
- Anh Thành ạ, chắc chắn tôi
không có thời giờ tới nhà anh chơi. Còn nếu anh muốn, xin mời tới chỗ chúng
tôi. Địa chỉ của tôi là…
Họa sĩ lấy bút, ghi vào lòng
bàn tay. Khi người đàn bà thoăn thoắt đi về phía cổng trường, anh còn đứng sững
sờ một lúc nữa. Bà chủ quán giải khát ló đầu ra. Thành trả tiền rồi đi như bay
tới góc đường lấy xe, phóng về nhà. Hăm hở như chàng thiếu niên lần đầu được
tham dự buổi dạ hội dành cho những kẻ trưởng thành.
V
Vân ở trong một gian phòng hẹp
chừng mười lăm thước vuông, chỉ bằng nửa phòng vẽ của Thành. Trong gian phòng
nhỏ bé ấy, vừa đủ kê hai chiếc giường gỗ cá nhân, một tủ đựng quần áo, một tấm
gương rời có giá đỡ gỗ cẩm lai vổi vân rát đẹp, một chiếc bàn thấp chắc xưa kia
là bàn trang điểm và bộ bàn ghế mộc, hẳn là bàn ghế nhà trường phát cho giáo
viên. Không thứ đồ vật nào khó coi, chúng tồn tại rất hợp lý trong cái khung cảnh
cần có, dù nhiều hay ít giá trị kinh tế. Vân thích cây cỏ. Trên bàn chị cắm vài
bông su si vàng trong đĩa sứ cao chân. Dọc tường, chị treo những bình đất nung
hình trái bầu trồng cỏ tóc tiên hoa tím. Ngoài hiên, và trên bậu cửa sổ, la liệt
các chậu cúc gấm, bạch lão mi, lan phi hồng diệp. Đứa con gái của Vân chừng sáu
tuổi, xinh xắn. Nó rót nước trong tích mời Thành:
- Mẹ Van còn bận tắm. Cháu mời
bác uống nước a.
Xong, con bé ngồi xuống ghế,
đối diện với anh, trả lời mọi câu hỏi của anh đúng như một vị chủ nhân lịch sự.
Khi nghe tiếng guốc của mẹ ngoài cửa, nó mới đứng lên:
- Mẹ Vân chút tắm xong rồi ạ.
Cháu chào bác đi chơi.
Thành bảo người đàn bà:
- Cháu bé của chị chắc chắn
sẽ trở thành nhà sư phạm mẫu mực. Nó trang nghiêm và rành rọt quá.
Vân cười:
- Bây giờ là như thế. Nhưng
tương lai, còn phải chờ xem.
Chị ngồi xuống trước anh, rũ
mái tóc ướt vừa gội. Hai cánh tay mịn và trắng phơi bên ngoài tấm áo xẻ vai, đường
chỉ rua li ti như những hạt vừng. Thành nhìn rõ một mụn ruồi hơi trái tai Vân,
những nếp nhăn mờ hằn dưới đuôi mắt chị và những sợi lông tơ phơn phớt trên hai
má. Đã lâu lắm, anh mới nhìn một gương mặt không tô điểm, nó gợi cho anh cảm
giác ngỡ ngàng nhưng tin cậy.
- Có lẽ điều người ta mong mỏi
trước tiên ở người đàn bà chung sống với mình phải là miềm tin cậy. Quán có lý…
Thành nghĩ, thoáng một chút cay
đắng thương thân, một chút ghen tị vớn người bạn có tâm hồn mạnh mẽ và khả năng
quyết đoán hơn mình. Anh nhìn Vân, nói một câu vô nghĩa, cũ rích:
- Tôi có làm phiền chị nhiều
không?
Thay vì trả lời, người đàn
bà đẩy chén nước tới trước mặt anh.
- Mời anh xơi nước cho nóng.
Mẹ con tôi thích uống nước vối ủ gừng. Đó là thói quen bà ngoại cháu còn để lại.
Ánh mắt chị gợn lên nét buồn.
Họa sĩ ngắm nhìn những lằn sáng phản chiếu qua ô cửa đuổi nhau trên đôi mắt người
đàn bà rồi anh chợt mong muốn mình cũng có phần chia sẻ niềm nhớ nhung trong
đôi mắt ấy. Anh muốn anh được là bà lão đã quá cố thích uống nụ vối ủ gừng,
thích được là đứa con gái bé bỏng của Vân, để rồi anh cũng sẽ được chia niềm
trìu mến ấp ủ của chị. “Mình là một đứa trẻ bơ vơ…” Thành ngậm ngùi nghĩ. Thấy
anh ngồi im lặng, người đàn bà nhắc anh lần thứ hai:
- Kìa, mời anh xơi nước.
Họa sĩ ngẩng lên. Anh định
nói điều gì đó, nhưng đã có tiếng lao xao của một đám trẻ ngoài cửa:
- Cô ạ, chúng em chào cô ạ.
Thầy hiệu trưởng mời cô lên văn phòng họp đột xuất. Ngày mai, có phái đoàn giáo
dục Lào tới thăm trường ta.
Vân nhìn anh, với nụ cười ái
ngại:
- Công việc của chúng tôi thất
thường như vậy, anh thông cảm cho.
Chị tiễn anh ra tận cửa, ngập
ngừng định nói thêm điều gì nứa nhưng lại thôi. Thành trở về nhà. Người ta đang
chờ anh để bàn việc đưa sinh viên xuống các cơ sở sản xuất thực tập. Họa sĩ bận
rộn mất hai tuần. Anh đi Hải Phòng, Hải Hưng, Vĩnh Phú làm việc rồi trở lại Hà
Nội với chiếc cặp đầy ắp những quần áo bẩn. Khi mở cửa, Thành không vào nhà
ngay mà đứng một lát, nhìn căn phòng của mình, những bức tranh những đồ đạc phủ
bụi, chiếc bếp điện và đôi đũa lăn lóc một bên… Anh ngạc nhiên bởi mình đã sống
nhiều tháng năm trong cái khung cản buồn tẻ ấy, cái cuộc đời tự do mà cánh mày
râu có gia đình thường ca tụng là tuyệt diệu nhưng anh đã sợ hãi, đã muốn khước
từ. Người đàn ông bước vào căn nhà của chính mình với cảm giác lạ lùng như vào
quán trọ. Anh nhìn thấy người đàn bà có làn da nâu hồng rực rỡ đang ngồi trên
giường, vừa ngáp vừa duỗi đôi chân dài như chân các vũ nữ da đen:
- Anh, anh đã về đấy a? Có
quà gì cho em không hả?..
Xưa kia lúc còn chung sống với
anh, Vượng luôn luôn hỏi anh câu hỏi ấy. Không có căn nhà nào bừa bộn hơn căn
nhà anh chung sống với cô. Tất cả những gì dính líu tới bản thân Vượng đều sạch
sẽ: Áo quần là lượt, lúc nào cũng phẳng nếp ly. Chiếc ví da luôn luôn chùi sạch
bóng. Những đôi giày đôi guốc cô đi được thay mốt thường xuyên… Nhưng mọi vật
không dính tới con người cô đều luộm thuộm, bừa bộn. Các bức tranh của chồng và
những thứ hàng tạp phẩm cô tha lôi về, những bát đũa chưa rửa và mấy chiếc chén
cáu bẩn nước chè, đôi giày rách gót của Thành và đám tài liệu làm việc của cô…
- Hãy tha thứ cho nàng, vì
nàng đẹp…
Thành đã lao vào kiếm tiền
như mắc chứng thần kinh hoang tưởng. So với bạn bè đồng nghiệp, mức chi tiêu của
vợ chồng anh khủng khiếp qua. Anh từ bỏ những tác phẩm mong ước, những thứ buộc
người ta phải bỏ vào đó một số vốn lớn về thời gian, sự tìm kiếm phương thức, vật
liệu, và độ chín của các rung cảm. Không, đời sống gọi anh bằng những tiếng gọi
gần gũi hơn, chói lói hơn: Chiếc xe mới cho Vượng, những chiếc áo cho mùa đông
sắp tới của cô và của anh, loại đồng hồ vỏ vàng Tây vừa xuất hiện trong thành
phố rất hợp với cổ tay tròn lẳn của người đàn bà đẹp… Vốn từ một cô bé quê sáng
dậy súc miệng qua loa rồi bưng bát cơm ăn với muối vừng, giờ Vượng thích đi ăn
hiệu, thích được ngồi chờ đợi ngươi phục vụ bưng tới những món ăn ngon lành,
nóng hổi, thích được khoác tay chồng bước vào những quán ăn sang trọng nhất thành
phố. Mỗi lần anh từ một cuộc triển lãm hay từ phòng trưng bày hội chợ nào đó trở
về, lem luốc màu vẽ, mắt mũi hốc hác vì gắng sức, Vượng lại mỉm cười:
- Anh đã về, quà em đâu?
Và cô há miệng ngáp một cách
khoan khoái, trong căm phòng bừa bộn những đồ dùng chờ thu dọn và lau rửa. Nhiều
lần, Thành bực muốn điên lên. Tuy nhiên, mỗi lần anh há miệng định rầy la cô, một
sức mạnh tăm tối lại kìm giữ. Mặc cảm về cuộc hôn nhân vội vã không thôi đầy ải
người đàn ông, mặc dù anh đã không ngừng chạy trốn nó.
- Hãy tha thứ cho nàng, vì
nhan sắc của nàng là của cải của anh.
Hãy tha thứ cho nàng, nàng đẹp
quá…
Lần nào đó, sau một đêm gần
gũi, cô nói với anh:
- Mọi sự ông Trời sắp đặt đều
có lý. Giá như em và anh Quán sống với nhau, chưa chắc đã tốt đẹp như em sống với
anh.
- Tại sao chứ?
Thành hỏi lai, cố ghìm giữ sự
khó chịu.
- Hoàn cảnh gia đình anh nhẹ
nhàng hơn. Và thể lực anh tốt hơn.
Vượng trả lời giản dị, rồi
cô nghĩ tới một hình ảnh mĩ miều:
- Động cơ nào cũng cần nhiên
liệu để vận hành. Anh là một thứ xăng tốt…
Chắc hẳn hài lòng vì tìm được
một hình ảnh xác đáng, cô cất tiếng cười giòn giã.
Một buổi chiều tháng mười,
Thành khoác ba lô từ bến ô tô về nhà. Anh gặp Vượng đang nằm cuốn tròn trong
chăn ấm với một người đàn ông khác:
- Con người là một thứ động
cơ. Bây giờ, em cần một loại xăng tốt hơn anh, phải không?…
Vượng không trả lời. Nhưng
hôm ấy, cô thu dọn toàn bộ tư trang vào chiếc va ly lớn, xách tới nhà “thứ xăng
hảo hạng”. Thành nằm vật ra giường, đau đớn tê liệt mọi cảm giác. Anh đã sống với
cô năm năm trời, đã hủy hoại tài năng, sức khỏe. Giống như kẻ khát bạc, anh đã
phung phí tiền của không thương tiếc, và giờ đây lảo đảo bước khỏi căn phòng của
cuộc chơi đen đỏ, anh biết mình thua. Ngay sau hôm Vượng bỏ đi, Quán đã tới với
ý định an ủi bạn. Nhưng mãi sau này, Quán sẽ còn ân hận vì điều đó. Thành khùng
lên vì tuyệt vọng, vì tủi nhục, quằn quại như kẻ trọng thương không được hưởng
viên đạn nhân đạo, đã đuổi Quán một cách lỗ mãng. Quán đành bỏ đi, nhưng anh bảo
Thu, vợ mình tới giúp đỡ Thành lúc hoảng loạn. Trong giới hội họa, người ta gọi
họ là Lưu Bình – Dương Lễ kể từ ngày ấy. Sự tận tâm của Quán hoàn toàn không thừa.
Vượng chưa rời bỏ Thành ngay. Sau khi xách va ly đi được năm hôm, cô lại xách
va ly trở về.
- Em chưa rời bỏ căn phòng này
được. Về mặt pháp lý, chúng ta vẫn còn là vợ chồng.
Cô nói, vừa đặt va ly lên
chiếc bàn thấy vừa cởi tấm áo khoác mỏng bằng len kẻ sọc ra. Thành đang sốt,
anh ngồi dậy, giương đôi mắt đỏ ngầu lên nhìn cô:
- Thế em muốn gì?
Vượng nhìn anh, và thấy anh
có vẻ ngạc nhiên, cô liền nói:
- Không phải em đòi làm vợ
anh như xưa.
- Chắc em cần một chữ ký vào
đơn ly hôn.
- Không chỉ một chữ ký, còn
những thứ khác nữa.
…
- Anh thiếu thực tiễn quá. Tất
cả những cặp vợ chồng ly hôn đều phải ra trước tòa án để phân xử về mọi mặt:
Con cái, tài sản, nhà cửa…
- A…
Thành thốt ra tiếng kêu, vỡ
lẽ rằng mình ngớ ngẩn quá, rằng mọi khổ đau hay hạnh phúc của con người đều
không tồn tại đơn phương mà nó còn kèm theo vô số những điều kiện cụ thể, trần
trụi đến xót xa, chi tiết đến tàn nhẫn và họ buộc phải chấp nhận. Anh nằm vật
ra giường, đầu óc nóng sực lên như lò than đang độ bốc. Người đàn bà có làn da
nâu đồng rực rỡ của anh tiếp tục nói:
- Theo quy định của pháp luật,
mọi thứ sẽ chia đôi. Ở đây chẳng có gì đáng giá, nhưng căn phòng này sẽ phải
ngăn ra, cả phòng phụ bên trong cũng thế. Tụi em chưa có phòng riêng. Gia đình
anh Thảo (chắc đó là xăng hảo hạng) những bảy anh em ruột lại thêm một cô con
nuôi, chật chội quá. Nếu anh không muốn vậy, anh hãy đưa cho em một khoản tiền
tương đương với giá trị mười tám mét vuông. Hai lạng rưỡi vàng ta.
- Anh làm sao có nổi một mảy
bụi vàng cho em bây giờ?
Thành nói lắp bắp. Tai anh ù
ù như có gió lùa. Quãng đời vừa qua hiện lên như cuốn phim trong trí não. Bỏ xó
mọi dự định lớn trong sáng tạo nghệ thuật, chúi đầu vào kiếm tiền và nướng tất
cả mớ giấy đã đổi bằng mồ hôi nước mắt ấy lấy những thứ đồ nữ trang óng ánh
trên tay, trên cổ Vượng, những tấm áo mĩ miều khoác trên vai cô, những trận cười
của cô và cái hạnh phúc phù du cô ban phát cho anh sau tất cả những thua thiệt ấy.
Lúc này, gương mặt cô vẫn tươi tắn, vẫn điềm tĩnh như xưa. Đôi mày đen, cặp mắt
như luôn luôn ngây ngất, mê mẩn, và làn da tràn trề sinh lực… Tại sao cái đẹp lại
khắc nghiệt đến như vậy?…
Vượng không chú ý tới Thành.
Cô cũng không thể đoán biết những ý nghĩ của anh và cô đang để tâm tới công việc
của mình:
- Anh Thành này, cô nói, nếu
anh không có tiền thì tụi em sẽ đưa anh bằng đúng số tiền hoặc số vàng như vậy,
với điều kiện tụi em sẽ sử dụng căn nhà này. Anh tìm nhà khác dễ hơn. Chúng ta
thỏa thuận trước để lúc ra tòa mọi sự sẽ chóng vánh…
Ngừng lại vài giây, cô nhấn
mạnh: Anh quyết định đi, chỉ được quyền lựa chọn một trong hai phương án đó
thôi. Dù đây là nhà thuê của nhà nước và do ông bà anh để lại, cũng sẽ không có
cách giải quyết nào khác đâu.
Cô nói rành mạch, chuẩn xác
từng ý một. Thành biết Vượng có lý. Cô là con người của thực tiễn, cô là đứa
con của đời sống trần trụi và bạo liệt, với sức mạnh trần trụi và bạo liệt mà một
kẻ yếu đuối như anh không thể chống đỡ. Anh nhắm mắt lại, bảo cô:
- Cũng được. Nhưng em thư
thư cho anh vài bữa, anh đang ốm. Lúc này, anh không đủ sức xách va ly bước khỏi
cửa đâu.
- Được rồi – Cô đáp – Chúng
mình cam kết với nhau thế là đủ. Một tuần nữa chắc anh sẽ khỏi ốm chứ? Lúc nào
anh sẽ làm bản cam kết, em giao tiền…
Cô bước tới giường, sờ lên
trán anh:
- A, anh sốt khá cao đấy.
Nhà còn gạo đấy chứ? Em sẽ nấu cháo cho anh…
Đầu tuần lễ sau, khi Thành
ngồi dậy và bắt đầu ăn cơm được, Thành viết giấy nhượng nhà. Chính lúc đó, Thu
can thiệp quyết liệt, huy động toàn bộ bè bạn và đồng nghiệp giúp đỡ anh. Nhờ
Thu anh thoát khỏi cảnh lang thang không nơi trú náu mà chút nữa số phận oan
nghiệt xô tới, tuy vậy, Thành cũng phải vay mượn, nợ nần vài năm để trả Vượng
đúng số tiền cô yêu cầu. Có vậy, cô mới để anh yên…
Người đàn ông vùng dậy vừa
lúc trời tối. Anh bật đèn nhìn căn phòng trống trải của mình. Chưa bao giờ, dấu
vết cuộc sống tạm bợ của anh với Vượng xưa kia rõ đến thế. Một bếp điện nhỏ bệ
đất vỡ long lở, chiếc thùng gỗ đựng đồ ăn, đám bát đũa cọc cạch từ thời sinh
viên cho tới hôm nay… Tất cả những gì cô để lại. Có người đàn bà đem tới cho
người đàn ông yêu họ ngọn lửa ấm áp của đời sống và có người đàn bà đem tới ngọn
cuồng phong của đam mê. Khi ngọn gió ấy đi qua, nó sẽ để lại phía sau cảnh
hoang tàn đổ nát, những cát bụi phù du, những bọt bèo rác rến. Sự rủi ro nào
trong số kiếp đã đẩy người đàn bà đó tới đời anh?…
Thành nhấc con chó đã sứt
tai lên xem: bụi bám đầy những chiếc tăm còn sót lại. Anh đặt con chó xuống sàn.
Từ góc bàn, chú rùa ngọ nguậy bò ra, có lẽ nó đã bị bỏ đói vài tháng nay. Chiều
mai, anh phải đi kiếm cho con vật tội nghiệp ít vỏ chuối và tép đồng.
- Giờ phải đun nước tắm giặt
đã. Cả một cặp áo quần đầy ghét và bụi chờ kia…
Họa sĩ nghĩ. Anh bỏ con rùa
xuống, cầm chiếc siêu vào phòng phụ lấy nước. Bất chợt, anh dừng lại trước khoảng
không tối om của căn phòng chưa kịp bật điện bên trong. Hơi gió lạnh mùa thu ập
tới, khiến người đàn ông rùng mình. Và rồi, anh thấy cồn lên một ước mong gặp gỡ.
Người đàn bà ấy, với đôi cánh tay trần mịn màng và mái tóc ròng ròng nước, những
chậu cỏ tóc tiên hoa tím treo trên tường và những đóa cúc bạch lão mi…
VI
Đám bạn Thành xôn xao khi
nghe tin anh định kết hôn với một thiếu phụ goá chồng. Người khuyên anh chớ nên
lấy vợ lần nữa vì cuộc sống sẽ tiêu diệt nguồn cảm hứng tự do vốn là nền cho mọi
sáng tạo. Người chê anh dại dột, ôm rơm rặm bụng vì tài ba như anh kiếm đâu
cũng được vài ba cô gái hai mươi, mười tám “xinh như mộng”, chẳng chút phiền
hà. Trước mọi lời phẩm bình, Thành im lặng mỉm cười. Đám bạn gái đồng nghiệp và
các nữ sinh trong trường chạy cuống cuồng tìm nhau, thông tin dò hỏi về con người
đã chinh phục được con người nổi tiếng kiêu sa, khinh ghét phụ nữ, quái tượng của
họ. Thành không chút nghi ngờ rằng một ngày không xa nữa, căn phòng của anh sẽ
có những cây cỏ tóc tiên hoa tím treo trên tường, có chậu cúc bạch lão mi treo
ngoài cửa sổ, bóng dáng ấm áp của một người đàn bà với tiếng cười của đứa bé chị
đem theo. Anh tin vào điều đó chắc chắn tới mức mua sắm những đồ vật cần thiết
cho cuộc sống gia đình công khai trước mắt mọi người, và báo cho bạn bè biết rằng
sẽ có một đám cưới trước giao thừa thật sang trọng, thật vui vẻ… Bạn bè anh
chưa một ai biết về Vân cả. Anh định giành cho họ mọi bất ngờ..
Nhưng sự bất ngờ đầu tiên lại
giành cho chính anh. Vào lúc Thành ngỏ lời với Vân, chị đã từ chối:
- Anh Thành, em cảm ơn anh rất
nhiều…
Vân nói nhẹ nhàng: Từ ngày
quen biết anh, cuộc sống của mẹ con em vui vẻ thêm. Cháu Hoa thích anh. Vả
chăng, anh là người tốt… theo cái nghĩa chung mà mọi người vẫn hiểu. Nhưng để sống
chung với nhau, người ta không thể chỉ tính tới một yếu tố: tốt hay xấu. Ngay
quan niệm về cái tốt và cái xấu ở người này cũng khác người kia. Em là một người
bình thường, sự bất hạnh của em cũng bình thường như nhiều phụ nữ khác trong
chiến tranh. Chúng em yêu thương nhau, nhưng anh ấy không trở về nữa. Bởi thế,
hình ảnh của anh ấy ở trong em luôn luôn đẹp đẽ, toàn vẹn. Và chính nỗi đau xót
lại gìn giữ những lưu niệm trong trẻo về hạnh phúc. Nhưng anh là một người đàn
ông không bình thường. Tình duyên của anh, là một cuộc kết hợp cắc cớ. Rồi sự
tan vỡ đã để lại trong anh những thu hận, tủi hờn. Hình ảnh người đàn bà trong
tâm hồn anh sa đọa và méo mó. Ngay từ lần đầu gặp anh trong nhà bảo tàng, em đã
đoán biết được điều đó.
- Nhưng tôi đã xin lỗi em.
Như vậy có nghĩa là tôi hiểu được mình…
Thành kêu lên, ngắt lời Vân.
Chị chờ anh im lặng rồi nói
tiếp.
- Tất nhiên là thế. Và bởi vậy,
chúng ta mới có được một mối quan hệ khá thân thiện sau này. Nhưng, tình bạn
khác tình yêu. Những điều kiện để một người đàn ông kết bạn với một người đàn
bà đơn giản hơn những điều kiện để họ chung sống rất nhiều.
- Tôi không xứng đáng với
Vân?
Thành hỏi, lòng tự ái đã
nhói lên.
- Em không định nói thế.
Vân đáp nhẹ nhàng.
- Em còn cần những điều kiện
gì nữa? Vị trí xã hội hay cơ sở…
- Không…
Người đàn bà ngắt lời với vẻ
bất bình: Xưa nay, mẹ con em vẫn sống đàng hoàng bằng những đồng tiền tự kiếm lấy.
Vả chăng, tấm danh thiếp không có giá trị gì đối với một tình yêu thực sự. Anh
làm nghệ thuật mà không hiểu điều đó hay sao?…
- Tôi… tôi…
Họa sĩ cố gắng thanh minh:
Tôi không có những ý nghĩ xấu. Nhưng tôi hỏi em cần gì ở tôi?…
Vân nhìn thẳng vào mắt anh,
khiến tim anh đập dồn lên. Rồi chị thong thả buông từng tiếng:
- Cái em cần ở anh, anh
không có. Anh đã mất niềm tin ở con người và cái gì đã mất đi, khó lấy lại được
toàn vẹn. Lòng thù hận đàn bà ở trong anh như một thứ bệnh mãn tính. Có thể,
lúc này nó tạm dứt cơn nhưng lúc khác sẽ trở lại ác liệt hơn.
- Nhưng riêng đối với em,
tôi quý trọng.
- Cảm ơn anh, nhưng em không
muốn sống với một người không lành mạnh về phương diện tinh thần. Tất cả những
người đàn bà bị anh chửi mắng vô cớ như em hôm ở nhà bảo tàng sẽ có chung một ý
nghĩ như thế, mặc dù họ không nói thành lời hoặc không tìm một phương cách nào
đó để chống lại anh.
- Nhưng đấy là quá khứ, Vân ạ.
- Không quá khứ nào hoàn
toàn biệt lập với hiện tại và tương lai con người. Em sợ, anh Thành ạ.
- Vân sợ gì?… Tôi nghĩ rằng,
tôi nói thật với em mọi chuyện để em hiểu và thông cảm với tôi hơn.
- Chắc chắn em đã thông cảm
với anh nhiều. Nhưng gắn bó với anh thật đáng sợ. Không một người đàn bà nào có
ý thức về hạnh phúc lại dám làm điều ấy.
- Tại sao?
- Vì họ sẽ phải sống như một
kẻ lái thuyền phiêu lưu trên các đại dương, lúc nào cũng nơm nớp lo bão tố. Đấy
là lẽ thứ nhất. Lẽ thứ hai, muốn lấp cái hố thù hận trong anh họ sẽ phải luôn
luôn chịu đựng, phải chấp nhận mọi thua thiệt. Thói quen là sức mạnh ghê gớm nhất
trong đời sống con người. Trong mọi thói quen, lòng thù hận lâu bền và ác liệt
hơn cả.
Thành ngồi im lặng hồi lâu.
Chưa bao giờ anh nghe những lời nói nặng nề như thế về mình. Anh biết điều Vân
nói là chuẩn xác và bởi vậy, anh ngoái lại nhìn bản thân với con mắt não nề.
Sau hồi lâu, anh gượng cất tiếng hỏi:
- Chẳng lẽ từ xưa tới nay,
Vân không có chút cảm tình nào với tôi?
- Có chứ.
Người đàn bà đáp, và dịu
dàng nắm lấy tay anh: Em quý anh như một người bạn. Nhưng đó chưa phải là tình
yêu…
Thành trở về, đầu óc trống rỗng.
“Vân là một thiếu phụ lỡ dở, chắc cô ấy sẽ rất dễ chịu khi gặp được mình…” Anh
đã nghĩ như vậy và tin chắc không có lý do nào ngăn trở cuộc kết hôn dự tính.
Nhưng ngay trong dự tính ấy, anh cũng ngạo mạn biết bao… Cái kết cục thật không
ngờ… Người đàn ông nện gót trên hè phố, hết phố này qua phố kia. Lúc, lòng tự
ái bốc lửa phừng phừng.
- Ngớ ngẩn. Nếu ta muốn có một
người đàn bà đẹp hay một cô gái, ta có thể tìm được trong tức khắc. Giản đơn,
không chút phiền hà, không cần giãi bày, không cần băn khoăn, đau khổ… Xét cho
cùng, còn gì hơn nữa đối với một người đàn ông… Lúc khác, một tiếng nói não nề
cất lên:
- Hỏng rồi. Cuộc sống của ta
đã hỏng và chẳng thể cứu gỡ. Không bao giờ một người đàn bà tử tế còn có thể
yêu thương, gắn bó được với ta: Thói quen khinh bạc và phỉ báng phụ nữ, thói
quen sống tạm bợ buông tuồng, thói quen ngạo mạn. Tất cả bắt nguồn từ một tâm hồn
yếu đuối và những đam mê mù quáng.
Thành trở về phòng vẽ, vùi đầu
vào sáng tác. Những tấm phác thảo biển được anh rút trong tấm kẹp ba dây bằng
cái bờ cát nghiêng nghiêng thấm đẫm nắng chiều. Anh cố hồi âm lại tiếng sóng
lao xao, tiếng những con chim buông trong vách đá, chùm hoa leo màu nghệ chói
như lửa vào lúc hoàng hôn… Bảng pha màu nhớp nhúa những lớp sơn dầu, lớp này chồng
lên lớp kia. Kỳ cạch mãi Thành vẫn không tìm ra cái màu anh đã ghi nhận trong
trí tưởng. Anh quăng bút xuống, và tiếng thở dài lại vang lên trong óc não:
- Thế là hỏng… Vân có lý.
Người ta không thể thương yêu một kẻ bệnh hoạn về tâm hồn…
Rồi, thay vì cảnh biển, anh
lại hình dung ra những rạch sáng trong mắt chị, mụn ruồi bên trái tai chị, cái
cách nói nửa đằm thắm nửa xa cách lạnh lùng.
- Người đàn bà này như đốm lửa
trên núi. Tưởng với đến nơi hóa còn ở tít mãi cuối chân trời…
Anh bỗng lại muốn nhìn thấy
chị. Muốn nghe chị nói, muốn được gắn bó với người đàn bà mảnh mai bẻ nhỏ nhưng
đầy tự tin kia.
- Cô ta có yêu mình đâu?… Đó
là tình bạn, nhưng chưa phải là tình yêu… Vẽ chuyện. Giữa cái thời đàn bà thừa
hàng tấn như bây giờ. Thôi đi, chẳng phải một nữ hoàng hay một quận chúa nhan sắc
chim sa cá lặn mà hao tâm tổn lực…
Thành bỏ phòng vẽ, đi tới
nhà bạn chơi. Ai đó có hỏi về dự tính hôn nhân, anh đáp lập lờ:
- Còn phải tính lại đã. Có lẽ
sống tự do vẫn hơn…
Vài ông vỗ đùi:
- Biết ngay mà, tớ đã bảo với
mọi người cậu vốn bốc đồng. Nhưng lần này phải tỉnh hơn lần trước chứ? Không lẽ
hàng chục năm trời mà lại không khôn ra?…
- Đã có công lấy vợ lại, chọn
hẳn con bé mười tám tuổi cho bõ, dại gi?…
Thành ậm ừ, và lòng chua
chát nghĩ thầm: Họ tưởng mình bỏ cuộc. Biết đâu mình là kẻ bị gạt ra ngoài?…
Người đàn ông thuê mẫu vẽ,
tiếp tục vẽ những bức tranh bỏ dở. Những cô gái lại tìm đến anh. Những cô nàng
dễ dãi, hoặc láu cá hoặc nhu mì nhưng đều có những nhu cầu cần thỏa mãn. Thành
bỗng thấy tự gớm mình:
- Người đàn bà phải xa lìa
ta là đúng. Rồi, sau những tuần lễ sống trong tâm trạng đó, anh không còn buông
những lời bỉ báng phụ nữ được như xưa, anh cũng không vui vẻ tự tin như hồi anh
sắm đồ chuẩn bị cho một đám cưới, anh trở thành người trầm mặc, đôi lúc cáu bẳn
và đôi lúc mềm yếu tới mức những người xung quanh phải mủi lòng.
Tháng mười đã trôi qua mau lẹ.
Những cây hoa tím ven hồ Tây rũ cánh mềm sầu. Nước hồ dường như thẫm lại trong
những buổi mai lạnh và im gió. Phía chân trời, lác đác bầy le le trú rét bay
ngang. Vào một buổi mai như thế Thành mang giá vẽ tới rặng liễu ven hồ, chờ nắng.
Đột nhiên, anh lạnh và những lớp gai ốc nổi lên sau lưng:
- Nguy thật, mình ốm mất rồi.
Họa sĩ nghĩ, anh định buộc
giá vẽ lên xe trở về thì gió đã luồn vào sống lưng lạnh buốt, mặt đất chòng
chành như đưa võng dưới chân. Cố gắng lắm, anh mới gọi được một chiếc xích- lô.
Ông già đạp xích- lô dìu Thành lên xe, buộc xe đạp cho anh cẩn thận rồi chở anh
về nhà. Năm phút sau, Thành bắt đầu sốt. Nhưng lúc cơn sốt chập chờn tới, anh bỗng
nhớ Vân, thèm muốn gục đầu vào lòng chị, thèm muốn được nhìn chị bằng ánh mắt
lo âu như chị nhìn đứa con gái lên sáu tuổi, cảm thấy cuộc sống dường như không
thể nào chịu nổi nếu thiếu vắng người đàn bà ấy và cảm thấy có thể chết đi được
nếu cái khoảng trống hoang hoải trong đời anh không được chị lấp đầy
Ngay tối hôm ấy, một sinh
viên ghé qua báo tin Thành ốm cho vợ chồng Quán. Quán đèo Thu đến nhà bạn.
Trong lúc vợ đun nước tiêm cho Thành và thu dọn nhà cửa, anh đứng nhìn cảnh trí
căn phòng quen thuộc từ thời sinh viên gần như không thay đổi gì trong mười mấy
năm qua, nhìn chàng sinh viên Thành giờ tóc đã thưa đang nằm sốt lăn lóc trên
giường, và anh bỗng trào lên nỗi ân hận: Mọi việc có thể sẽ khác đi, nếu anh gạt
bỏ tính sĩ diện và mọi thành kiến, mọi việc có thể sẽ khác đi nếu anh hành động
quyết liệt hơn và bất chấp những mặc cảm thường có trong con người… Nhưng đấy
luôn luôn là giả tưởng… và người ta chỉ tìm được nó khi ngoái lại dĩ vãng…
Quán bảo vợ ở lại chăm sóc
Thành. Hôm sau Thành tỉnh sốt, anh xin Thu mảnh giấy, ghi vào đó một địa chỉ và
nói với cô:
- Em hãy tìm giúp anh người
này…
VII
Vân không nghĩ ngợi gì khi
quyết định đến thăm Thành. Chị cho đấy là một việc phải làm. Người đàn bà tới
báo tin anh ốm đã để lại địa chỉ cho chị. Vân cho con ăn xong gửi một cô bạn gái
gần nhà rồi đạp xe ra chợ. Chị tìm mua tất cả những thứ gì cần thiết cho một
người đàn ông sống độc thân đang ốm: Gạo ngon nấu cháo, bánh đa khô thái sợi, đỗ
xanh, đường cát, thịt nạc và sườn, gia vị cùng những lá thuốc giải cảm. Chị đã
từng thăm nuôi nhiều người sống trong cảnh ngộ tương tự như Thành. Hai ông cậu
vợ chết sớm, con cái đã thành thân ở xa. Một ông giáo viên cùng trường bỏ vợ,
tính gàn. Đứa em trai con bà cô chưa có người yêu, một mình trọ học ở ngoại ô
thành phố… Tất cả những người đàn ông thường tỏ ra yếu mềm lúc đau ốm. Họ không
bao giờ chuẩn bị sẵn các phương tiện phòng thân nên lúc trái gió trở trời họ
lúng túng, sợ hãi và phó mặc bệnh tình cho may rủi. Một củ gừng ư?… tìm đâu
ra?… Một hộp dầu có lẽ phải chạy sang nhà hàng xóm… Thành là họa sĩ, chắc chắn
anh sẽ còn kém chu đáo hơn tất cả những người đàn ông khác… Vân biết rằng chị
thương anh và quý trọng anh. Phía sau những tính cách bất thường, những cử chỉ
kiêu bạc phách lối, những lời lẽ sắc sói kia chị vẫn thấy một người đàn ông buồn
rầu, nhát nhúa.
- Tội nghiệp…
Vân thầm nghĩ. Mình sẽ chăm
sóc anh ấy cho tới lúc anh ấy hoàn toàn bình phục.
Từ lúc từ chối lời cầu hôn của
anh, Vân luôn luôn áy náy. Mặc dù, trong thâm thâm chị biết mình hành động
đúng. Anh là một thế giới khác, bên ngoài thế giới quen thuộc của chị. Một thứ
thuốc lạ, có thể gây dị ứng trong các cơ thể bình thường. Với bản năng tự vệ rất
đàn bà, chị muốn che chắn một bức thành vững chắc cho cuộc đời phía trước. Những
người đàn ông khác thương yêu chị giản dị hơn, khiêm tốn hơn, đáng tin cậy hơn
anh. Và trong mọi lẽ cần phải cân nhắc đối với hoàn cảnh riêng của mình, chị từ
chối anh là đúng. Tuy nhiên, Vân vẫn có cảm giác rõ rệt rằng chị đã tắt đi một
ngọn lửa vừa nhen nhúm. Rằng, ngọn lửa đó không phải chỉ chiếu sáng cho chị mà
chính để chiếu sáng cho một kẻ bộ hành lang thang mãi qua những nẻo đường cóng
rét và bụi bặm, đang khát khao hơi ấm của mái nhà trú náu. Trong tâm hồn người
đàn bà, nảy sinh một thứ tình cảm lờ mờ gần giống như lòng ân hận.
- Két ét ét…
Tiếng phanh ô tô rít lại
ngay trước mũi xe Vân. Chị hoảng hồn vì một người đàn ông trạc độ tứ tuần, ló bộ
mặt đỏ bừng ra quát:
- Con khỉ, mắt mũi để sau
gáy à?…
Vân lắp bắp:
- Xin lỗi, tôi xin lỗi i i…
Người lái xe lằm bằm quay
vào, nhưng anh chàng phụ xe ngồi ngay phía sau lại chìa bộ mặt cà lơ ra trêu cợt:
- Em ơi, trông xinh thế mà định
tự tử à?… Giận đời làm gì cho khổ thân ra?…
Chiếc xe lăn qua ngã tư, phả
ra làn khói hôi khét. Vân phải định thần vài giây nữa mới tiếp tục đi được. Hiểm
nguy vừa lướt qua khiến chị hồi hộp. Chị chợt nhận ra rằng, phía sau những suy
nghĩ đắn đo, phía sau những băn khoăn áy náy, niềm khao khát được yêu thương,
được che chở và dìu đỡ đã nảy sinh trong tâm hồn chị.
- Không thể được, không bao
giờ…
Người đàn bà buột miệng thốt
ra với chính mình. Ý tưởng chưa rõ rệt về sự gắn bó với người đàn ông ấy khiến
chị hốt hoảng. Xưa nay, Vân chưa bao giờ vi phạm những nguyên tắc đã vạch ra
trong đời sống. Yêu anh, tức là chấp nhận một cuộc phiêu lưu…
Không thể được…
Chị mơ ước được chung sống với
người nào đó có tâm hồn giản đơn và lành mạnh như người chồng đã quá cố. Chị muốn
nhìn cuộc đời người bạn đồng hành như nhìn vào một tấm kính, một con đường êm ả
chạy giữa bình nguyên, một mặt hồ trong phô từng cọng cỏ… một thế giới gần gũi,
đáng tin cậy. Thế giới ấy người ta có thể trao gởi tương lai chẳng đắn đo, có
thể nhắm mắt mà bước vào như ta bước vào căn phòng quen thuộc… Còn anh: anh là
khu rừng xa lạ, là hẻm núi chị chưa từng đặt chân tới?…
Khi người đàn bà gõ cửa, chị
nghe thấy tức khắc một tiếng nói tỉnh táo:
- Vân phải không?… Vân đẩy cửa
giùm.
Chị bước vào phòng sau khi
đã vội vã khép hai cánh cửa lại vì gió lạnh. Chị thấy Thành nằm trên giường, mặt
đỏ bừng. Anh nhìn chị với đôi mắt long lanh của người đang sốt nặng:
- Vân. Tôi chờ mãi.
Thành nói. Trong giọng nói ấy,
không có hờn dỗi chỉ thấm đượm nỗi mong mỏi, những khắc khoải hy vọng và mừng
vui. Vân biết Thành không còn chút nào lòng khinh bạc. Anh cũng không còn tự thị
theo thói quen thường nhật. Anh là đứa bé đau ốm, yếu đuối chờ một bàn tay chăm
chút. Mặt anh đỏ bừng, cả hai mắt cũng hằn những tia máu. Hẳn anh đang sốt rất
cao?
- Từ hôm qua tới giờ anh đã
cặp nhiệt độ chưa?
Vân hỏi. Chị bước tới, đặt
tay lên trán Thành. Chị thấy anh khẽ rùng mình, toàn thân rung động. Rồi anh nhắm
mắt lại và đưa tay lên nắm bàn tay chị. Lòng tay anh bỏng rẫy. Những đường gân
bên thái dương phập phồng. Gương mặt người đàn ông căng thẳng tới mức chỉ cần
thiếu cố gắng một chút thôi, anh sẽ òa lên khóc, anh sẽ nói với chị rằng anh
không thể sống trên cõi đời này nếu thiếu hình bóng chị, rằng chị là bến bờ cho
anh tựa đỡ sau mọi lênh đênh phiêu dạt của tuổi thanh xuân… Chỉ cần chút xíu
thôi, mọi sự sẽ xảy ra như thế. Nhưng Thành cố ghìm giữ, và mặt anh hiện lên vẻ
đớn đau dồn nén khiến Vân mủi lòng. Chị cúi xuống, lắng nghe nhịp đập dữ dội của
tim anh. Ngón tay trỏ của chị đặt lên thái dương, nơi mạch đập nhảy như con
chim sẻ bị nhốt. Chính trong giây phút ấy, chị thấy gương mặt anh trở nên thân
thiết. Chính trong giây phút ấy, chị thấy anh hòa nhập vào chị, mau lẹ và êm dịu.
Chị đã bước qua những nguyên tắc của chính mình: yêu cái người đàn ông xa lạ
kia với một quá khứ bọt bèo và rác rến. Chị kinh ngạc vì thấy mình có thể cảm
thông được với lỗi lầm, thói tật của anh dễ dàng đến như vậy, không còn lo âu
ngờ vực, không còn đắn đo.
- Vân
Thành cất tiếng. Môi anh khô
nóng. Anh nắm chặt tay Vân. Từ tay người đàn bà, một dòng điện lan truyền, rung
động khắp cơ thể anh. Tim anh đập như tiếng trống gõ trong lũng sâu, giữa các
vách núi, và nhịp đập của nó khiến từng tế bào co thắt lại. Chưa bao giờ anh
rơi vào trạng thái ngây ngất sâu đậm đến vậy. Hạnh phúc tới đường đột, không một
dấu hiệu báo trước. Tựa hồ ảo ảnh của cuộc đời. Anh gọi tên người đàn bà lần nữa,
và chị cúi xuống mặt anh. Anh thấy hơi thở của chị, làn da của chị kề sát bên
má mình. Chị là ai vậy, người đã dạy anh yêu và hy vọng. Một cái tên, một ánh mắt,
mái tóc buông trên vai… Không là gì cả và là tất cả đối với một con người. Một
hạt bụi trong vũ trụ và cả thế giới với người đàn ông, tái sinh cho họ trong
cơn tuyệt vọng, mở cánh cửa khát khao cho họ vào mỗi rạng đông, bát cơm nóng
ngày thường và ánh lửa le lói xa vời… Tại sao người ta lại nhận biết hạnh phúc
muộn mằn đến thế?…
- Vân…
- Gương mặt họ kề sát nhau,
trong mối giao cảm. Lúc ấy, những giọt nước mắt từ từ lăn xuống thái dương người
đàn ông, thấm vào đám chân tóc đã điểm bạc. Anh vẫn không mở mắt, toàn thân anh
chòng chành tựa con tàu bị sóng lắc vì cơn sốt dữ dội. Nhưng trong cái thân xác
đang đau ốm, đang bị giày vò ấy, tâm hồn anh dịu lại. Như con hồ qua cơn giông
lắng xuống. Như khu vườn qua một mùa khô cằn cát bụi được tắm gội trong mưa. Lần
đầu tiên, Thành cảm nhận được hạnh phúc, lần đầu tiên anh nhìn rõ gương mặt dịu
hiền và tin cậy của nó qua mênh mông xáo trộn cuộc đời. Người đàn bà ấy đã dẫn
anh trở về vùng đất ấm. Và anh, kẻ bị đày ải trong thù hận đã quay lại với
thương yêu. Giống con cá nhỏ bị mắc kẹt giữa vũng nước tù, bốn bề là đá cứng,
anh chết dần vì chất muối oán hờn, giờ lượn sóng thần kì đã cuốn anh trở lại với
đại dương, giữa nước cả, giữa khoảng xanh ngàn trùng, cánh buồm và hải đảo… Những
giọt nước mắt đã nguội lạnh, bò trong chân tóc anh buồn buồn. Thành ghì chặt
gương mặt yêu dấu kia vào mặt anh. Và phía sau gương mặt đó, cánh đồng hoa tầm
xuân trải tới chân trời, cánh đồng như tách khỏi mặt đất, bay phiêu diêu, cánh
đồng anh mơ tưởng từ lâu. Anh đã đi tìm. Rồi anh đã lãng quên. Bây giờ, nó trở
về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét