Thứ Năm, 17 tháng 2, 2022

CÁC VĨ NHÂN TÌNH LẺ - Phần cuối

 


CÁC VĨ NHÂN TÌNH LẺ

Phần cuối

Dương Thu Hương

 

Tôi đã trốn tỉnh lỵ Q mong sao cái chết của thiếu phụ má hồng không còn ám ảnh. Anh bạn lớn tuổi đã đưa tôi tới Hàng Nón, để làm quen với cô bé vừa kháu vừa hiền như thỏ. Cô ta trẻ lắm, vừa tròn hai mươi. Gương mặt tươi mát với làn da trắng như mỡ đọng. Giọng nói ríu rít, lanh chanh. Điệu bộ nũng nịu, êm ái… Bất cứ chàng trai nào ở tuổi hai mươi bảy như tôi cũng dễ chịu khi gặp người con gái như thế. Nhưng tôi, tôi thích cô dìu dịu như ta thích một con mèo tam thể đang ngủ trên sập gụ. Tiếng cười vô tư lự của cô, dáng đi nhún nhảy của một thiếu nữ quen ngậm kẹo suốt ngày, vầng trán ngắn với những món tóc uốn móc câu cầu kỳ… tất cả xa lạ quá. Những cảm giác cô gợi nên trong tâm hồn tôi nhạt như khói cuối chiều. Trái tim trai trẻ của tôi đã xót xa, đã bị cào xé bởi những hình ảnh khác. Ngay buổi đầu đưa tôi tới gặp cô bé phố Hàng Nón, anh bạn đồng nghiệp cao tuổi đã hỏi:

- Thế nào, có trở lại đây lần thứ hai không?

Tôi không trả lời, im lặng đạp xe. Đi một đoạn phố nữa, anh nói:

- Có lẽ năm nay chú mày chưa lấy được vợ. Hoặc là mày còn ở giai đoạn ham chơi, hoặc là một thứ gì đó đã thu hút linh hồn của chú mày và biến chú mày thành gã trai ngẩn ngơ, lạnh lẽo.

Anh bỏ ý định kiếm vợ cho tôi, thay vào nhiệt tình ấy bằng chương trình bán chiếc Hon- đa 67 để mua một chiếc Ca- đi.

Tôi cứ đạp xe hoài quanh các khu phố, men theo hồ Tây lên Yên Phụ rồi lại vòng về chùa Quán Thánh. Hôm nào phấn chấn hơn tôi rủ mấy cậu bạn đem theo đồ ăn vào Hà Đông chơi. Nhưng buổi tối, lúc trở về thành phố, mọi cảnh trí trôi tuột khỏi óc não tôi như nhưng hạt mưa vuột qua tàu lá sen. Bên tai tôi lại vang lên tiếng sóng, những đám bọt xoay tròn trên dòng nước đục, con đò trôi và người đàn bà nằm trên đó đang máy máy khuôn miệng dường như chị sắp mỉm cười, lúm đồng tiền khoét sâu vào bên má…

- Em lạy các anh, các anh đi bây giờ thì em chết mất…

Tại sao chị lại mỉm cười trong lúc nói những lời thảm thiết ấy?… Làn môi mọng hé ra phô hai hàm răng trắng nõn. Những giọt lệ dâng đầy tròng mắt, sắp vỡ tan…

Giá như sự sai lệch của số kiếp đưa đẩy tôi gặp chị. Giá như sự xáo trộn của không gian và thời gian được tùy thuộc vào nhiệt tâm và khát vọng của con người. Giá như sự độc ác và ngu xuẩn không đày ải nhân loại vào địa vị kẻ sát nhân vô thức… Những tiếng nói thì thầm vang động trong óc não tôi, tựa tiếng thì thầm của thần linh ném giữa các vách đá. Hồi âm của chúng cuộn lên, như sóng biển dồn vào mõm vịnh hiểm trở, khiến tim tôi tan nát… Tôi cần gặp ai đó, mà sự hiện diện của họ san sẻ bớt cho tôi… Thanh Dương chắc chắn đang sa lầy giữa cạm bẫy của tình yêu và sự giằng trói của gia đình. Chỉ còn Vũ Sơn, có lẽ anh đã hoàn thành chuyến đi quan trọng ấy… Tôi đạp xe tới khu tập thể Một, theo địa chỉ đã ghi.

Người thường trực khu nhà Một là một ông lão quạu quọ, lắm lời. Tôi vừa cất tiếng hỏi Vũ Sơn, ông ta đã chăm chăm nhìn tôi qua hai tròng mắt kính tròn như hai viên trứng chim, vặn lại:

- Thế anh ở đâu?

Tôi đáp:

- Cháu ở Tràng Thi. Dân ven hồ Hoàn Kiếm.

Tưởng ông cụ mỉm cười, ai dè ông trợn mắt quát:

- Tôi không đùa. Anh đưa chứng minh thư tôi xem.

Tôi đành lấy vẻ nghiêm trang, móc tấm chứng minh thư trong túi, trịnh trọng đưa hai tay. Ông già xem hai ba lượt rồi trả lại tôi:

- Vào được.

Đã bước qua cổng, tôi lại quay đầu hỏi thêm:

Ông già, không chút mảy may vui vẻ, buông lời đáp:

- Phải, xa lắm. Hết một suất vé ô- tô- buýt là cùng.

Tôi khẽ lắc đầu, tự nhạo mình đã bỏ công một cách vô ích. Rồi rút trong túi tấm giấy ghi địa chỉ và sơ đồ nhà ở của Vũ Sơn, tôi vừa dò tìm, vừa đi. Chừng năm phút sau, tôi tới nơi. Phòng anh đang mở cửa, anh đang trùm chăn ngồi nhổ râu, mái đầu gật gù trên cần cổ ngẳng. Thấy tôi, anh dang cả hai tay:

- A, cậu bận lắm hay sao mà không đến?

Tôi đáp:

- Hôm nay vừa tròn một tháng. Tôi đúng hẹn đấy chứ?…

Chúng tôi đã hẹn nhau trên đường từ Q ra Hà Nội rằng sau bốn tuần lễ sẽ gặp nhau, khi Vũ Sơn đi công cán trở về. Nghe tôi nói, anh à lên một tiếng rồi gật đầu:

- Ờ ờ… Cậu là người chắc chắn đấy.

Tôi hỏi:

- Thuốc lá phần tôi đâu, hoặc rượu nho Bun cũng được?

Anh cười, tay vẫn trút nước sôi từ phích vào ấm mới bỏ trà:

- Lũ bạn trong cơ quan hút sạch thuốc, có hai chai rượu chúng nó cũng dốc cạn rồi. Tôi đoảng qua, đúng là tôi có lỗi với cậu…

Nói xong, anh rót nước mời tôi:

- Uống đi, trà Thái ướp ngâu cậu của ông lão trên làng đào Nhật Tân cho tôi. Cả khu tập thể này phải nắc nỏm khen ngon đấy.

Tôi uống nước. Quả thật, chè rất ngon. Hương thơm êm dịu, đằm và sau mỗi ngụm nước nóng, ta có cảm giác lâng lâng như đứng giữa vườn ngâu chín một ngày cuối hạ đầu thu. Vũ Sơn chợt vỗ đùi:

- Quên mất…

Anh đứng dậy, với trên xích đông gần trần nhà một gói giấy dầu nhỏ:

- Có quà thết cậu rồi đây - Anh nói - Tôi có cậu bạn vừa cưới vợ. Cô ả là con một bà góa chuyên làm bánh kẹo ở thị xã Hải Hưng. Cậu ta gửi cho tôi gói kẹo này.

Anh với cuốn sách đang đọc dở ở đầu giường, trút phắt cả mớ kẹo còn lại vào đấy. Xong, anh vo tờ giấy gói kẹo thành một cục ném vào gậm giường.

Tôi cười:

- Sao lại ẩu thế?

Anh tặc lưỡi:

- Ôi dà, sống được mấy ngày mà lo giữ vệ sinh… Ăn kẹo đi cậu. Cô ả này chắc xấu gái lắm nên ra sức nịnh chồng. Kẹo nó làm thật hết chê…

Chúng tôi ăn thứ kẹo hỗn hợp vừa lạc vừa vừng xay, nấu với đường trắng và mạch nha theo một công thức nào đấy mà kẹo cắn giòn tan, đường vỡ những mảnh óng ánh, trong như kính nhưng nhai lại thấy vị lúa non dẻo quẹo của mạch nha. Tôi khen:

- Kẹo đặc biệt thật, anh ạ.

Vũ Sơn tặc lưỡi:

- Ngon.

Rồi anh thêm một câu:

- Thằng nào tham ăn của ngọt thì cứ lấy quách một cô hàng kẹo. Tôi chưa kịp đáp lời anh đã vươn thẳng người lên, mặt tối sầm, anh nói:

- Cậu đã biết chuyện giữa Thanh Dương với cô Hạnh chưa? Hôm qua vợ cậu ấy lại tìm tôi, gầm gào như con sư tử cái. Cô ả cứ làm như chính tôi quyến rũ cậu ta vậy. Tôi tức mình, bảo: “Loại đàn bà như cô chồng nó chán cũng không oan”. Thế là cô ta chu chéo sỉ vả tôi, rồi đe dọa sẽ trả thù cô Hạnh. Chúng ta đều đã thành niên, người nào chịu trách nhiệm về hành động của người nấy, chẳng có lời khuyên can nào hữu hiệu trong đời, bởi lẽ chẳng ai có thể đổi được khát vọng và nhu cầu sống cho nhau. Cậu chưa có gia đình, chưa hiểu, nhưng tôi biết rằng trong một trăm cặp vợ chồng thì có tới năm mươi cặp chán lẫn nhau. Hoặc cô vợ chê anh chồng hiền lành, ngơ ngẩn, hoặc anh chồng chê chị vợ dốt nát, tham lam. Đời sống tăng trưởng và biến động, ngay cả những mặt hàng bày trên các quầy hàng ở chợ cũng nhiều gấp bội, đa dạng gấp bội so với những gánh hàng xen của ông bà, cha mẹ ta ngày xưa. Làm sao các nhu cầu tinh thần của con người lại không rối rắm và phức tạp hơn trước. Làm sao người ta có thể yêu mãi mãi một người đàn bà khi từ sáng tới chiều, từ ngày nọ qua ngày kia, từ tháng này sang tháng khác cô ta chỉ nhắc đi nhắc lại một điệp khúc buồn tẻ: Anh đã lo đủ tiền cho em mua áo rét chưa? Hoặc là “Nhà bà Đào vừa nâng một tầng gác nữa. Bao giờ nhà ta đủ tiền mà làm?”… Cái mặt người đàn bà dù đẹp đến mấy rồi cũng trở nên nhàm chán và theo quy luật thời gian no sẽ tàn tạ, héo úa đi… Nhưng đời sống tinh thần ngày càng nhàm chán thì không thể cứu gỡ. Nhất là khi sự thiếu hụt của vật chất lại ném những viên đá tàn bạo lên lớp men sứ mỏng manh của những ước vọng thuở đầu tiên… Tôi không bào chữa cho Dương, nhưng tôi muốn nói chuyện đời một cách công bằng. Việc Dương yêu cô Hạnh với tôi không có gì là khó hiểu. Nhưng điều đáng quan tâm là sự ứng xử của cậu ta trước mối tình này… Nam, tôi muốn hỏi ý kiến cậu một cách thẳng thắn: Cậu có tin rằng Thanh Dương đủ bản lĩnh đến tới cùng hay không?

Tôi đáp:

- Tôi không thể trả lời câu hỏi ấy. Anh hãy thông cảm cho tôi, chính anh cũng vậy thôi.

Vũ Sơn giương mắt nhìn tôi:

- Cậu muốn bảo cả tôi nữa phải không? Nhầm, tôi có thể nói huỵch toẹt cho cậu biết rằng… nhưng mà thôi, rồi cậu cũng sẽ được biết một cách nhanh chóng bởi các bi hài kịch thời nay diễn ra với tốc độ của tên lửa vượt đại châu. Duy có điều, cả tôi và cậu đều phải có nhiệm vụ bảo vệ cô Hạnh. Cho dù lúc này cô ấy có làm cách mạng kiểu tóc hoặc thay mốt quần áo nhưng thực chất đó vẫn chỉ là một cô bé tỉnh lẻ, con nhà lành. Cậu hãy tìm tới nơi cô ấy ở, và hỏi xem mọi chuyện ra sao?…

Tôi hứa với anh sẽ tới nhà Hạnh tuần sau. Vũ Sơn bảo:

- Địa chỉ cô ấy tôi ghi đây rồi.

Anh mở chiếc va ly lớn ở cuối giường, tìm cuốn sổ ghi địa chỉ Hạnh. Lúc anh cầm cuốn sổ lên, vô tình tôi liếc mắt vào va ly, và tôi thấy bộ com- plê cùng chiếc mũ lông của bố tôi nằm chồm hỗm trong đó, bên những thứ đồ vặt vãnh và quần áo lộn xộn khác.

- Té ra chúng đã thực hiện chuyến đi trọng đại trong chiếc va ly này…

Tôi thầm nghĩ và vội vã quay đi.

° ° °

Bất luận giàu nghèo, ở lứa tuổi mười tám, đôi mươi, cô gái nào cũng thích trưng diện. Các cô sẵn sàng nhịn ăn nửa ngày để bỏ mấy đồng bạc vào trong ống nứa, và cứ ngày nọ nối ngày kia cho tới khi ống nứa chật cứng những tờ bạc lẻ. Lúc ấy, các cô phăm phăm chẻ đôi cái gia tài quý báu đó ra để mua một tấm áo, một đôi giày sang trọng, hoặc có khi chỉ một chiếc mù soa… Các cô có thể tiếc đứt ruột khi bỏ ra mười đồng bạc mua ổ bánh mì nhưng lại sẵn sàng trả ba ngàn đồng cho một tấm áo khoác bằng thứ vải ny- lông ướt màu bạc đang được coi là thời thượng… Các kiểu sơ mi vì thế cứ đổi như chong chóng, từ cổ tròn ra cổ lá nhọn, từ cổ lá nhọn trở về không cổ khuy Tàu… Nhờ vậy, cửa hàng may của Thúy Hạnh luôn luôn đông khách. Chỉ riêng nữ sinh viên y I tới may và chữa áo sơ mi cô đã đủ nhược người. Huống hồ cả khối y2, y3 cũng đã nghe đồn đại về tài nghệ của cô, và điều quan trọng hơn cả là cô tính giá công rẻ nửa tiền so với các hiệu may bên ngoài. Khi tôi đến thăm Hạnh trong khu nội trú, có tới nửa tá các cô khách bao vây, người chờ lấy áo, người kèo nhèo vì sai hẹn, người thúc hối mong được mặc áo sớm hơn vài ba ngày…

Hạnh ngẩng lên, nói với tôi:

- Anh xem, chủ nhật hầu như em không còn được thở. Có khi từ bảy giờ sáng tới bảy giờ tối mới được ăn.

Dứt lời, cô cúi xuống đạp rào rào cho xong đường chỉ cuối. Rồi, đưa áo cho một cô gái béo tròn đứng cạnh, Hạnh nói:

- Xin lỗi các cậu, giờ tôi phải nghỉ thôi.

Cô tháo chỉ, lật đầu máy xuống hòm, phủ mảnh vải lên trên. Các cô khách ỉu xìu, lần lượt tản đi. Hạnh bảo:

- Anh đưa em ra quán cà phê đầu phố nhé. Ở đây, chẳng có chỗ nào ngồi nói chuyện.

Chúng tôi đến một quán cà phê mới khai trương ở vùng ngoại ô. Với những bộ bàn ghế còn nồng nặc mùi véc- ni, những bình hoa nhựa trơ trẽn, những bức tranh ấn tượng thô lậu và ngờ nghệch treo tường, nó làm tôi phát lợm giọng. Chủ quán là một gã đàn ông cao gầy, da tái nhợt, giọng nói eo éo như lại cái. Gã bưng cho chúng tôi hai tách cà phê nóng, chỉ mới khuấy thìa đã thấy mùi ngô rang và hạt cau trộn lẫn trong bột cà phê. Hạnh đang mệt, cô nhấp từng ngụm nước đen nhờ nhờ kinh tởm ấy một cách ngon lành. Tôi bảo:

- Em thấy cà phê ngon không?

Cô gái lắc đầu:

- Em chẳng biết mùi vị nó ra sao. Nhưng em khát, và mỏi muốn gãy xương lưng nên uống nước nóng vào dễ chịu.

Gương mặt cô vẫn tươi mát, nhưng hao gầy hơn xưa. Chỉ đôi mắt là khác biệt, với cái nhìn táo bạo, có đôi phần liều lĩnh. Tôi hỏi:

- Dương có tới thăm cô thường xuyên không?

Hạnh lắc đầu:

- Không. Chúng em hẹn hò nhau như những điệp viên hoạt động trong vùng địch. Thay đổi giờ, thay đổi nơi gặp gỡ, với trạng thái căng thẳng như luôn có một trạm ra- đa trong đầu.

Những lời lẽ ấy, cô nói với chút hài hước, nhưng không che giấu nổi vẻ chua chát. Tôi chợt thương cô. Hạnh nói tiếp:

- Vợ anh Dương đã biết chuyện. Chị ấy tới gây sự với anh Vũ Sơn và đe dọa em. Em không sợ nhưng em buồn. Số kiếp đã đưa đẩy chúng em gặp nhau. Những người con gái khác có thể tìm thấy hạnh phúc một cách dễ dàng, còn em, em tìm hạnh phúc như người thợ lặn tìm những viên ngọc trai dưới bể sâu. Có được ngọc trong tay, thân thể rách tướp vì lưỡi hàu hoặc răng cá dữ.

Trong mắt cô, ánh lên những tia sáng buồn rầu nhưng cả quyết, tựa ánh mắt của những kẻ hành dương đứng trước sa mạc trắng trợn xương khô và cát, còn bên kia chân trời là đất thánh hiển linh.

Tôi nói:

- Dương có biết chuyện vợ anh ấy đe dọa Hạnh không?

Cô gái gật đầu:

- Có, anh ấy nói với em rằng sẽ cố gắng ngăn cản những hành động điên rồ và tàn bạo ấy.

Tôi gặng:

- Nhưng nếu như lực cản của anh ấy vô hiệu?

Hạnh đáp:

- Lúc đó, em sẽ phải chống đỡ. Em sẵn lòng chịu đựng tất thảy mọi hy sinh. Anh Nam, bây giờ em tin rằng khi yêu, người ta biến hoàn toàn thành một con người khác, kẻ bần tiện biến thành người hào phóng, và kẻ yếu mềm trở nên dũng cảm, lì lợm trước cuộc đời.

Tôi xoay tách cà phê dởm đã nguội lạnh trong tay, thầm nghĩ rằng mọi lời nhắc nhở giờ đây đều vô nghĩa. Có lẽ, tôi sẽ bảo với Vũ Sơn rằng nỗi lo toan của anh cũng như của tôi không có giá trị, bởi chính Hạnh đã đo lường hết mọi thảm họa và chấp thuận nó. Rằng chính cô đã dấn thân với ý thức rõ ràng của một kẻ chịu trận và với lòng quả cảm của một người lính bẩm sinh.

Tôi đưa cô trở lại khu lưu trú. Cái quán cà phê kệch cỡm lùi lại phía sau với tiếng nhạc ABBA mở hết cỡ, nghe nhói tận đỉnh đầu.

Về nhà, tôi mỏi nhừ toàn thân, dường như không phải tôi chỉ đạp xe vài chục cây số mà là vượt qua một dãy núi hiểm trở. Nằm xoài trên giường, tôi ngủ thiếp đi. Lúc tôi thức giấc, trời đã sẩm tối. Vừa quơ được đôi dép, đã có tiếng chuông.

- Ai đến vào giờ này?

Tôi tự hỏi và ra mở cửa. Thanh Dương xuất hiện, trong bộ đồng phục tuyệt đẹp Hạnh đã gửi qua tôi. Đây là lần đầu tiên anh tới.

Tôi đùa:

- Rồng đến nhà tôm. Chắc ngày mai trời bão.

Dương cười:

- Tôi biết thế nào anh cũng có nhà. Tối nay tôi tới nói chuyện tại câu lạc bộ Thanh niên, anh tới dự nhé.

Tôi đáp:

- Sẵn sàng. Nhưng tôi phải kiếm bát phở đã.

Dương đưa cho tôi tấm vé:

- Anh có thể ăn ba bát phở rồi đến cũng kịp. Bảy giờ ba mươi phút mới bắt đầu. Giờ, tôi phải qua nhà một số bạn bè thân…

Anh chào tôi, đi.

Tôi lững thững ra phố, tìm quán phở quen. Vừa thấy tôi, bà chủ quán đã cười và giáo trước:

- Hôm nay bò tái lên năm mươi đồng một bát đấy nhé.

Tôi đáp:

- Tiền công tráng phim, in ảnh của cháu chưa lên được hào nào mà phở của bác đã tưng giá năm mươi đồng. Bất công thật.

Bà chủ lắc đầu:

- Tôi có muốn thế đâu chú? Nhưng giá thịt, giá bánh, tiền thuế cứ tăng như ngựa chạy, làm sao tôi không nâng giá hàng lên được?… Ngồi vào chỗ đi, lấy nhiều hay ít nước béo đây?

Tôi đùa:

Lấy một muôi nước béo vào, kẻo ngày mai ngày kia hết tiền không dám ăn nữa.

Bà chủ cười tít mắt, hai má đỏ hây hây. Bà bưng bát phở đặt tận bàn cho tôi, kèm theo một câu nửa nạc nửa mỡ:

- Chú mà ưng con Lan nhà tôi, tôi bỏ tiền cưới xong tôi nuôi hai anh chị ngày bốn bữa cơm gà cá gỏi, muốn chim câu hầm có chim câu, muốn cơm tây Hàng Buồm khắc có bánh mì bíp- tết.

Đám khách ăn quay lại nhìn tôi cười. Tôi cũng cười nhưng hai má nóng lên vì xấu hổ. Cô Lan con bà giống bà như hai giọt nước, từ vóc dáng tới sợi tóc, tràng mày. Như thế, có nghĩa là cô giống một cái chum trắng nhễ nhại, biết đi giày cao gót, mặc quần Jin, thay đổi các thứ áo Pun, áo thêu, áo đăng- ten như một thứ ma- nơ- canh sinh động. Mỡ núng nính từ hai má, lăm cổ cho đến từng ngón tay tựa khúc dồi bóng loáng của cô. Các thứ nhẫn mặt đá đỏ, đá tím, các thứ bông tai nụ hoặc đính ngọc làm cho tấm thân phì nhiêu của cô sáng chóe lên như tủ hiệu kim hoàn. Đầy kiêu mãn, cô đi ra đi vào, cười nói ngúng nguẩy trước đám khách ăn, phô phang một cặp vé cải lương giá chợ đen mua hết hai trăm hoặc một cặp vé phim tình Ấn Độ năm trăm rưởi… Mường tượng cảnh mình sánh đôi với cô ta, tôi đã đủ sạm mặt. Bất giác, đôi mắt đen huyền của thiếu phụ má hồng lại hiện ra trước mắt tôi, chị giơ một cánh tay lên, và cử chỉ im lặng ấy như tiếng gọi mời ở bên kia khoảng không gian xa xanh, diệu vợi…

- Kìa, ăn đi không phở chua hết bây giờ…

Bà chủ hiệu cất tiếng khiến tôi giật nảy. Tôi vội vã ăn, chẳng còn cảm nhận rõ mùi vị. Xong, tôi trả tiền bà rồi bước ra phố. Vào giờ này, đường phố đông. Từng tốp thanh niên và thiếu niên sắp tới tuổi cởi khăn quàng đỏ đi tràn lên vỉa hè. Lẫn trong đám người ít lo nghĩ ấy là những người đàn ông và đàn bà lủi thủi đi nép vào các hiên nhà, tay xách túi hoặc xách làn, vẻ tất tưởi, lam lũ. Thi thoảng, lại gặp một ông già bắc ghế ngồi trước cửa, nhìn ngắm cảnh chộn rộn phố xá.

Tôi đến câu lạc bộ Thanh niên lúc bảy giờ mười lăm. Người ta đã ngồi kín các dãy ghế phía trước. Mấy cô nàng xinh đẹp má hồng mắt xanh bưng cà phê tới bàn. Hai chiếc loa phóng âm cỡ lớn thả bản nhạc đương thời:

Ngôi nhà tình yêu của em trong trắng

Những giọt nước mắt rơi trên tuyết lại đen

Em đã đi qua trái tim anh,

Như giọt mưa qua khung trời thành phố

Ngôi sao sáng trong khung cửa mở

Hỡi người con gái có mái tóc vàng…

Ngoài hồ, ánh đèn rọi xuống mặt nước sâu, như những mảy thủy tinh, trong suốt, sắc lạnh. Rực rỡ một cách quái dị, làn nước phản chiếu, làm gãy khúc và tẩm nhiễm nỗi huyền hoặc vào các chùm tia sáng, khiến chúng tụ họp thành một thế giới xao xuyến mới lạ. Trong thế giới ấy, người ta đọc được chiều sâu u tối của những khát vọng và dục vọng, những gai góc châm đốt trái tim con người trong cuộc hành trình tìm miền đất của tâm linh… Nỗi uất nghẹn dâng đầy họng tôi. Tại sao những người đàn bà tốt đẹp lại bị đầy ải vào cõi bất hạnh? Những người đàn bà mà sinh lực, trí tuệ và đức tính cần cù của họ đã tạo dựng nên xóm làng, nhà cửa vườn tược ngọn lửa ấm và những bài ca… Con đò trôi bập bềnh theo hai bờ sông. Lưỡi cát vàng ánh lên dưới nắng chiều như lưỡi gươm kì bí, thiếu phụ mỉm cười, lũm đồng tiền xoáy sâu trên bầu má…

Giọng hát trầm đục của ca sĩ Mỹ vẫn vang bên tai tôi:

Ngôi nhà tình yêu em trong trắng

Những giọt nước mắt trên tuyết lại đen…

Hỡi người con gái có mái tóc vàng…

Thốt nhiên, một cảm giác cáu giận vô cớ xâm chiếm tôi. Nào những bông tuyết, những giọt nước mắt đen, mái tóc vàng… Những thứ đó đâu có ăn nhập gì với thế giới tinh thần của riêng tôi?… Chúng bập bềnh ở ngoài khung trời mà tôi hít thở, vui sướng và lo âu… Tôi không cần tới chúng… Tôi đứng dậy. Lúc ấy, tôi đã thấy người giới thiệu lên trước mi- crô. Nhà thơ Thanh Dương đã đứng bên cánh gà, với mấy cô diễn viên ngâm thơ minh họa, một người đàn bà ngoài bốn mươi cầm cây đàn thập lục đang ghé tai thì thào gì đó với một chàng nhạc công thổi sáo. Tôi đi ra ngoài. Tiếng Thanh Dương vang vang trong máy phóng âm, đuổi theo. Nhưng giờ đây, mọi âm thanh đều câm nín. Chỉ có tiếng sóng gào réo lên, lấn át mọi âm nhạc và thi ca, khoan xoáy vào não tủy.

° ° °

Tôi đã nói với Vũ Sơn rằng lòng tốt của chúng tôi vô dụng và thừa thãi trong chuyện tình giữa Thanh Dương với Hạnh. Nhưng anh vẫn bứt rứt không yên. Anh bảo tôi:

- Tôi cần phải nói huỵch toẹt ra với cậu rằng…

Lần này nữa, tới đó anh cũng im lặng. Nhưng anh buồn, đôi mắt vốn lộ của anh đỏ lên, những nếp nhăn hiện chi chít trên hai gò má. Những lúc ấy, trông anh già trước tuổi. Anh bảo tôi:

- Đi uống rượu.

Chúng tôi ra chợ Châu Long, gọi thịt chó và rượu trắng. Vũ Sơn im lặng uống rượu, ăn rau ngổ với giềng rau ráu, như muốn động tác ăn uống ồn ào khuấy lấp những suy nghĩ đang luẩn quẩn trong anh. Lúc về, chúng tôi gặp Thanh Dương phóng xe máy ngược chiều phố. Anh hớn hở chào và mời chúng tôi uống cà phê.

Vũ Sơn bảo:

- Nào thì uống.

Ba chúng tôi ghé vào quán cà phê Lâm. Thanh Dương đang phấn chấn, gương mặt anh hồng rực lên, đôi mắt ẩm ướt càng quyến rũ. Những người đàn bà trong quán đưa mắt nhìn anh vội vã rồi cụp ngay mắt xuống như sợ bị thu mất linh hồn. Dương hỏi:

- Các anh dùng thứ gì? Cà phê hay ca cao? Ở đây ca cao ngon lắm?

Không chờ chúng tôi trả lời, anh giơ tay ra hiệu cho chủ quán:

- Ba ca cao và một bao Cap- stan.

Vũ Sơn ngồi bắt chéo khoeo, tựa lưng trong góc tường.

Mắt anh giương lên nhìn thi sĩ:

- Làm gì mà cậu hung hăng thế?

Anh hỏi Thanh Dương với giọng khiêu khích. Dương cười nhũn nhặn. Anh ta có vẻ ôn hòa và nhẫn nhịn. Vũ Sơn nói tiếp:

- Tôi đánh cược và cậu rằng tiền khao chúng tôi là của cô thợ may Thúy Hạnh. Lương cậu, con vợ đành hanh đỏ mỏ kia đã thu tới đồng xu cuối. Còn nhuận bút thơ của cậu chắc chỉ đủ đãi nhau nước chè.

Thanh Dương đỏ mặt, cả cổ và hai tai anh cũng đỏ theo. Anh nhún vai, đáp.

- Sao anh lại quá quan tâm đến tôi như vậy?

Vũ Sơn đáp:

- Ý cậu muốn nói tôi đố kị phải không?… Tôi không phải trẻ ranh mà trạnh lòng vì những câu móc máy ấy. Nhưng tôi bảo cho cậu biết: chính tôi đã đưa cậu tới chơi với ông già Hưu. Và Hạnh là con gái nhà lành, tôi không muốn cô ấy phải chịu đau khổ.

Thanh Dương đáp:

- Không ai chịu đau khổ được thay cho kẻ khác. Cũng không ai hưởng được thứ hạnh phúc ở ngoài mình. Anh đừng lo… Lúc ấy, chủ quán bưng ca cao và đem thuốc lá r. Tôi bảo cả hai người hãy bớt lời, nhỏ tiếng. Họ nghe tôi, im lặng hút thuốc, uống nước. Nhưng chỉ một lát sau, Vũ Sơn đã nói lại:

- Tôi không có máu ganh ghét trong mình, dù ganh ghét là thói thường của người đời. Tôi cũng không cho là phi lý tình yêu của cậu với cô Hạnh. Nhưng tôi lo sợ cho cô ấy bởi trong tình cảnh này, công nhận một tình yêu mới có nghĩa là xóa bỏ quan hệ cũ. Trong việc lựa chọn ấy, liệu cậu đã suy tính chưa?

Thanh Dương kêu to:

- Tôi không suy tính, tôi không biết suy tính trong lãnh vực của trái tim.

Vũ Sơn cười nhạt:

- Đấy là lời lẽ cao thượng và hoa mĩ nhất để lảng tránh trách nhiệm.

Anh thưỡi môi ra, nhại: Tôi không phải kẻ tính toán. Tôi yêu và tôi hành động theo rung động của trái tim… Này thi sĩ, chỉ đàn bà mới mắc lừa thứ lý luận ấy thôi. Tôi đã có hai con, con trai hẳn hoi, tất nhiên tôi không phải kẻ mang hai bầu vú trước ngực và có chức năng cho con bú. Cậu đừng ỡm ờ. Tôi hỏi cậu, hãy trả lời cho rõ ràng. Cậu đã làm gì để bảo vệ tình yêu của cậu với cô ấy?

Thanh Dương ngắc ngứ. Rồi anh ta bật một tiếng kêu?

- Tôi yêu Hạnh, yêu chân thực, các anh hiểu cho tôi. Vũ Sơn nói:

- Không ai nghi ngờ rằng cậu yêu giả. Với một người con gái như Hạnh, có tới hàng ngàn người đàn ông muốn yêu chân thành, muốn xây dựng một hạnh phúc bền chặt… Nhưng tôi chỉ đặt một câu hỏi thôi: Liệu cậu có khả năng đưa dắt tình yêu tới cùng hay không?… Trong tình cảnh của cậu, việc tạo dựng song hành với phá hoại. Và người ta phải lãnh đủ đau đớn. Khi đã có gia đình, cậu không thể yêu vô tư như một chàng trai chưa vợ. Hạnh phúc ấy cheo leo và phải tính bằng giá đắt. Giống như muốn hái chùm vả chín trên cây bên bờ vực; người ta phải qua các mỏm đá, và nhìn thấy khe sâu ở sát cạnh mình. Cậu ý thức được điều đó chứ?… Thông minh như cậu, ắt hẳn…

Lúc ấy, một tốp thanh niên tiến vào. Trông thấy Vũ Sơn, họ mừng rỡ ồ lên và xô tới bắt tay anh, Vũ Sơn giới thiệu với Thanh Dương và tôi cho rằng đó là các sinh viên trường đại học báo chí. Họ quen anh trong kỳ anh tới thuyết giảng. Đám sinh viên ngồi quây quanh chúng tôi, ồn ào hỏi chuyện Vũ Sơn. Giữa đám đông hâm mộ mình, nhà báo có ngay dáng vẻ kiêu mãn mà tôi đã đọc được khi anh đi qua các phố của tỉnh lỵ Q với những bước chân sải dài và mái đầu ngật ngưỡng. Lúc này, gương mặt anh sáng lên, tươi vui, thơ trẻ.

° ° °

Khoảng một tuần sau, Vũ Sơn tới nhà tôi:

- Này cậu…

Anh nói ngay khi tôi vừa ló mặt khỏi cửa.

- Vợ cậu Dương đã đem người vào tận trong trường yêu đánh cô Hạnh, làm đơn kiện gửi lên khoa, chuyện lôi thôi lắm…

Tôi lẳng lặng dắt xe ra đường. Chúng tôi cùng đạp xe vào trường y. Chiếc bàn máy may của Hạnh trong khu nội trú phủ kín vải, trên đó đặt một chiếc hòm gỗ nhỏ và tất cả được chằng néo bằng những sợi dây thừng chắc chắn. Các cô bạn trong phòng bảo Hạnh vắng mặt đã ba hôm nay. Cô xin phép nhà trường về quê thăm bà mẹ ốm. Chúng tôi quay xe, lại đạp một mạch tới nhà Thanh Dương, suốc dọc đường chẳng ai nói với ai câu nào. Vợ Dương có nhà, chị ta đang nấu bún bung đãi bạn cùng cơ quan. Không đợi hỏi, chị ta té tát bảo chúng tôi:

- Thằng cha ấy biến rồi, biến rồi… Chẳng hiểu đi Sài Gòn hay Đà Nẵng.

Chúng tôi vừa định cất tiếng chào, người đàn bà đã xoay lưng vào. Vũ Sơn bật lời chửi tục:

- Cái con mẹ thần đanh đỏ mỏ. Ta đi đi thôi…

Dọc đường, anh hỏi:

- Cậu biết tại sao Thanh Dương đi miền Nam đột xuất thế không?… Cái thứ báo của cậu ta làm có yêu cầu khẩn thiết như vậy? Chẳng qua đây là mưu kế của anh chàng: Trong ba mươi sáu chước, chước chuồn là êm hơn cả… Thật khốn khổ: Người ta ý thức được sự hèn hạ nhưng vẫn cứ ứng xử một cách hèn hạ như thường. Tôi không biết sự việc tiến triển đến đâu, nhưng cậu sẽ thấy chẳng bao giờ cặp tình nhân này đi tới hôn nhân cả. Mơ ước và diễn đạt mơ ước là đặc tính chung của cả nhân loại, nhưng khả năng biến nó thành hiện thực thì chỉ có một số người. Dương không nằm trong con số đó. Bao giờ cậu ta cũng muốn có mọi thứ. Kẻ muốn có tất cả mà không chịu bị tước đoạt một điều gì thì suốt đời sẽ là kẻ trắng tay. Tôi xin lấy đầu tôi ra đánh cược…

Chúng tôi chia tay. Nhưng từ hôm ấy, tôi thắc thỏm về Hạnh. Hình ảnh cô buổi đầu tiên đã gieo cảm xúc dịu dàng, tươi mát và những cảm xúc ấy được vĩnh định trong tâm trí tôi. Tôi không thể, tôi không thể nào chịu được nếu như cô bất hạnh, lần thứ hai sự oan trái của số phận lặp lại với những người đàn bà đáng được hưởng niềm yêu mến trên cõi đời. Ý nghĩ về thiếu phụ má hồng trở lại ám ảnh, cùng với lo âu, và khát vọng.

Ngày lại ngày nối nhau qua. Thấm thoát đã nửa tháng tròn, một chiều thứ bảy, tôi tới rủ Vũ Sơn đi xem nhảy. Trong lúc trai thanh gái lịch thành phố đã đổi bao nhiêu đôi giày, tôi vẫn nguyên vẹn là một chàng quých. Không phải vì thân hình quá xấu xí, vụng về hoặc lỗ tai điếc nhạc, nhưng tôi luôn có mặc cảm về hình thức nghệ thuật mới du nhập này, nó xa lạ như cái nĩa, hoặc chiếc dao ăn đối với bữa cơm chan canh riêu cua, cà muối xổi của dân ta. Không tập nhảy, nhưng xem người khác nhảy tôi lại thích. Tối hôm đó tôi định bụng rủ Vũ Sơn tới một sàn nhảy ở phố H, nơi tụ tập của các tay chơi từ thời trước giải phóng Thủ đô. Họ đã ngoài năm mươi, nhưng ngọn lửa đam mê chưa tắt. Cả đàn ông lẫn đàn bà giàu ăn mặc cực kỳ lịch sự, khác hẳn lối trang phục thực dụng, ẩu tả của đám trai trẻ ngày nay. Các ông, đồng phục trắng, cra- vát đen. Các bà áo dài, quần trắng là khuôn hộp. Những đôi giày nhung cao gót cất kỹ bao năm trong rương giờ lại được đem ra, cả những chuỗi hạt trai hoặc những chiếc kiềng vàng chạm tinh xảo. Họ xuất hiện trên sàn nhảy, như một bó hoa lẫn mùi bụi thời gian. Đám trai trẻ đứng lặng đi mà ngắm họ dìu nhau trong các điệu van cổ, các điệu tăng- gô, Pa- đô- đốp và những bước nhảy tinh xảo khác. Vũ Sơn chưa bao giờ được chứng kiến cảnh ấy. Tôi bảo anh:

- Nhà báo mà thế thì lọ qua. Tôi sẽ đưa anh đi.

Anh đang trùm chăn đọc tiểu thuyết của Hen- rích Rơ- mác; lắc đầu chối đây đẩy:

- Thôi thôi, lọ cũng được. Ra ngoài bây giờ phải mặc quần áo, ngại lắm.

Tôi nhắc lại:

- Đi đi, buổi tối hôm nay sẽ có lợi cho nghề nghiệp của anh. Đêm về đọc Rơ mác càng thú.

Vũ Sơn ậm ừ một hồi rồi mới đứng dậy thay quần áo. Lúc anh choàng áo khoác và quấn phu- la xong, Hạnh xuất hiện. Cô khiến cả hai chúng tôi giật nảy lên:

- Các anh chuẩn bị đi đâu thế này?

Tiếng nói cô trầm, hơi khàn vì lạnh. Nó hoàn toàn khác biệt giọng nói trong veo của cô Thúy Hạnh giữa những chậu cảnh tỉnh lỵ Q. Mặt cô gầy hóp, gò má nhô lên, cặp mắt mênh mông, rực lửa như hai ngọn đèn.

Vũ Sơn đáp hối hả:

- Vào đây, vào đây đã…

Anh khép cửa lại cho đỡ lạnh rồi nói thêm: Cậu Nam rủ tôi đi xem thiên hạ nhảy. Chẳng là vô công rồi nghề thì đến đấy cho qua thì giờ. Nhưng cô đến, chúng tôi ở nhà thôi.

Nói rồi, anh kéo cô gái ngồi xuống ghế:

- Cô rửa mặt nhé, nước nóng trong phích đây.

Hạnh lắc đầu:

- Cảm ơn, em đã vào trường thay quần áo và tắm gội. Tàu đến ga từ lúc hai giờ chiều.

Im lặng vài giây, cô nói thêm:

- Các anh cũng đừng băn khoăn, trước khi tới đây em đã ăn no rồi.

Vũ Sơn pha ấm trà mới. Tôi ngồi xuống bên anh, chờ đợi. Cả ba chúng tôi cùng uống trà, không nói gì thêm nữa. Hết tuần trà này tới tuần trà kia, cho tới khi ấm nước khô kiệt. Lúc ây, cô gái bắt đầu nói:

- Anh ấy đã bỏ trốn sau khi gửi cho em mấy dòng chữ báo tin bị biệt phái vào phía Nam. Lúc ấy, đột nhiên em thức tỉnh. Trước kia, em tin anh ấy hơn tin sự thật. Giá anh ấy có bảo: tất cả đồ vật và nhân loại tồn tại trên trái đất này chỉ là những bóng ma, chỉ riêng anh ấy là người, là một sinh linh thật sự có vui buồn, sướng khổ, em cũng sẽ tin điều ấy là chân lý. Nhưng, chính vào lúc nhận được mấy dòng chữ xiên lệch, hốt hoảng ấy, em đã thức tỉnh. Em hiểu mình rơi vào tình thế nào. Suốt ba đêm liền, em đã khóc tới mức không còn mở nổi hai mắt. Có lúc em nghĩ: cứ cho mình mù quách đi lại hay… Nhưng sau đó, em thấy ý nghĩ ấy mù lòa. Em nổi lên ham muốn nhìn thật rõ rành, nhìn đến chân tơ kẽ tóc con người mình đã từng si mê, thờ phụng. Có lần, bố em bảo: Trời sinh cho ta hai con mắt để nhìn, nhưng không phải chỉ một lần là thấy rõ mọi sự… Em nhớ tới câu nói của ông cụ, nhớ tới quãng thời gian cụ đau khổ và hiểu rằng em cũng phải trả giá cho sự thức tỉnh của chính mình. Em xin phép nghỉ, lẳng lặng thu xếp tiền nong, quần áo mua một chiếc vé xe lửa vào Đà Nẵng. Người bạn cùng cơ quan với anh ấy cho em địa chỉ của ban tuyên giáo tỉnh. Anh ta còn vẽ cả sơ đồ phòng làm việc và khu nhà khách. Ở phòng trực, em nói với bà già gác phòng rằng em là em gái của Dương, vào tìm anh đột xuất vì cha ốm nặng khó bề qua khỏi. Từ nhỏ tới lớn, dù khá tinh nhanh và có giọng hát tạm được nhưng em chưa bao giờ đóng kịch vì ghét sân khấu. Nhưng lúc đó, chắc em đóng vai khá đạt nên bà già trực phòng xuýt xoa tỏ vẻ cảm thông rồi dẫn em tới gặp cô quản lý. Cô này khoảng ngoài ba mươi tuổi, nói năng nhẹ nhõm nhưng cứng rắn. Cô ấy chỉ cho em nơi tắm giặt rồi bảo ra phòng khách ngồi chờ. Phòng khách rộng như một hội trường, các dãy ban ghế thênh thang chạy từ đầu nọ tới đầu kia. Không có ai nhưng quạt trần xoay vù vù. Em ngồi ghế, ngủ thiếp đi lúc nào không rõ. Khoảng chừng nửa giờ hoặc một giờ sau, có người đập nhẹ vào vai:

- Nè, dậy đi em.

Cô quản lý phòng cúi nhìn ái ngại:

- Thôi, tôi sẽ phá bỏ nguyên tắc kỳ này. Em vào phòng của anh Dương mà nghỉ tạm. Lát sau, ảnh về tôi sẽ bố trí phòng khác.

Cô ấy giao cho em chiếc chìa khóa lớn bằng đồng, đưa em tới tận cửa phòng số 38. Em đóng chặt cánh cửa, sau khi cảm ơn người đàn bà có giọng nói nhẹ như lông chim. Không còn buồn ngủ chút nào, em tới bàn làm việc, lật giở những tờ báo và những trang bản thảo. Trong đám giấy tờ, em tìm được hai lá thư này…

Hạnh ngừng lời. Cô kéo chiếc túi da roẹt một tiếng từ đầu bàn phía kia lại, mở khóa, rút ra hai tờ giấy rộng khổ, trắng như giấy cuốn thuốc lá, mỗi tờ gập làm tư. Thi sĩ thích dùng loại giấy đó, tôi đã được anh đọc thơ cho nghe vài ba lần, tôi nhớ nét chữ đều đặn, cực kỳ bay bướm cậu anh trên nền giấy lụa vừa mềm vừa trắng. Vũ Sơn mở ra: Hai lá thư được viết cầu kỳ, trang trọng. Lá nào cũng đặc kín từ đầu tới cuối trang giấy. Và thư nào cũng mở đầu bằng dòng chữ Em muôn vàn yêu thương…

Bức thứ nhất như sau: Em muôn vàn yêu thương.

Hạnh của anh, khi em đọc những dòng chữ này chắc anh chỉ còn là bóng dáng vật vờ cậu sự sống. Nguồn sinh lực của đời anh khô cạn kể từ ngày anh đặt chân lên thang máy bay, bay vào vùng đất anh vốn ghét cay ghét đắng. Ở đây vừa nóng vừa hanh thời tiết lạ lùng, con người cằn cỗi. Bất cứ người đàn bà nào gặp trên đường phố cũng khiến anh phải quay mặt đi. Họ đen như những bắp ngô bị nướng sém, và họ khoác những tấm áo màu sặc sỡ như những mụ đàn bà xỏ lỗ mũi châu Phi. Càng nhìn họ, anh càng nhớ em, quý trọng và si mê em. Đời anh may mắn biết chừng nào, hạnh phúc biết chừng nào từ khi ta gặp nhau. Nếu tâm hồn anh, trái tim anh bị khô kiệt, bị cằn lụi đi trong quãng đời chung sống với người đàn bà cay độc và ích kỷ mà anh buộc phải gọi là vợ thì nó đã được tưới mát, hồi sinh lại trong tình yêu cao cả, của em. Những bài thơ anh như con suối đầy ắp. Những ý tưởng mới mẻ, táo bạo, tươi nhuần, dâng tràn như con lũ tràn qua bờ cát… Hạnh yêu thương, có lẽ chính em cũng không biết rằng em đã đem lại cho anh những gì?… Rằng trong anh, em cao lồng lộng như những đền đài linh hiển. Cả tâm hồn và thân xác anh tươi trẻ lại, biến đổi và trở nên thuần khiết trong mối tình ấp ủ của em. Em cho anh hạnh phúc, em còn gánh chịu khổ đau. Tại sao anh không thấu hiểu điều ấy? Anh chịu ơn em, đối với anh, trên cõi đời không có thánh thần tồn tại chỉ duy nhất một vị thần tình yêu đau khổ, đó chính là em. Anh hiểu rằng, dù em có oán trách, sỉ nhục anh vì những đau đớn oan nghiệt em phải chịu, anh vẫn chỉ có quyền yêu thương và thờ phụng em. Lòng khoan dung và vị tha của em còn lớn hơn thánh thần. Hoàn cảnh của chúng ta khắc nghiệt. Muốn tìm đến hạnh phúc, cả anh lẫn em còn phải trải qua một đoạn đường dài đầy thử thách. Đương nhiên, anh biết người chịu phần nặng nhọc hơn chính là em. Nhưng xin em kiên tâm, cho anh đủ thời gian để xóa bỏ cái quá khứ buồn bã và nhơ nhuốc của mình. Phải có thời gian, em thấu hiểu cho anh, vì còn quá nhiều mối dây ràng buộc phải tháo cởi, mà anh vốn là người nhân ái, không thể tàn nhẫn với bất kỳ ai…

Hạnh yêu thương của anh, từ ngày vào đây, hình ảnh em đêm ngày chế ngự anh. Anh đếm từng khắc trôi qua cùng với sự hao mòn thể lực của chính mình. Lúc này, nếu em ở đây chắc em se không nhận được người em yêu trong hình ảnh một bộ xương biết di động. Hãy viết thư cho anh Hạnh nhé, bởi vì chỉ một dòng chữ của em cũng sẽ đem cho anh bao nhiêu niềm vui sống.

Người yêu em hơn cả chính đời mình.

Thanh Dương

 

Bức thư thứ hai như sau: Em muôn vàn yêu thương.

Từ ngày rời xa em và các con, anh gầy rộc đi vì mất ăn mất ngủ. Tâm trí anh như con thuyền lênh đênh không chèo lái, quay cuồng giữa cơn gió dữ. Nguyệt Nga yêu thương, giờ này em còn giận anh không? Anh xin em, ngàn lần xin em thông cảm và tha thứ. Trong đời người đàn ông, có những khoảnh khắc yếu đuối, những khoảnh khắc ma ám - như các cụ nói từ xưa - và chính lúc ấy họ thường mắc phải những sai lầm. Giống một cơn sốt, một trận say rượu, những tình cảm phù phiếm ấy sẽ qua đi. Dòng đời sẽ cuốn trôi mọi rác rưởi và bèo bọt. Nếu em là đàn ông, em sẽ hiểu rằng đối với họ, vợ cái con cột là ngôi đền linh thiêng nhất mà họ phải thờ phụng, là lâu đài duy nhất mà họ phải tu sửa và xây đắp. Không có thứ nhan sắc nào, không có sự mầu nhiệm nào của đức hạnh lẫn tài trí cuốn hút được người đàn ông rời khỏi ngôi đền linh thiêng, tòa lâu đài bền chặt ấy. Cho dù trong cơn hoảng loạn, họ có ra đi thì sẽ tới giây phút họ quay trở lại, phủ phục trước những bậc thềm, cầu nguyện cho một hạnh phúc êm ấm và trường cửu. Nguyệt Nga ơi, sao em có thể tin rằng anh toan tính bỏ em. Tình chồng vợ của ta lâu dài, hai đứa con ta đẹp như ngà như ngọc, và những mối tương giao khác đã kết chặt cuộc đời của anh và em thành một khối. Không sức mạnh nào chia cắt được? Cho dù Hạnh trẻ tuổi và xinh đẹp hơn em, nhưng người vợ phải là người cầm cân nảy mực trong gia đình mà cô ta vốn tính hoang tàng, sống ngày nay không biết tới ngày mai. Nhiều lần, khi Hạnh thịt gà, anh thấy cô ấy chặt phắt cái đầu và đôi chân ném sọt rác. Người đàn bà như thế khiến anh rùng mình ghê sợ. Không bao giờ anh nghĩ tới chuyện liên kết đời sống với Hạnh bởi cô ấy không phải sinh ra để làm vợ, một người vợ cần cù, tần tảo như em. Anh đã có em rồi, sao anh lại bỏ em như một gã điên khùng bỏ mồi bắt bóng. Nguyệt Nga yêu thương, đừng giày vò anh nữa, hãy tha thứ cho anh. Em hãy là người vợ cao cả và khoan dung của anh, người đã vun đắp sự nghiệp cho anh và ban phát cho anh hai thiên thần xinh đẹp. Dù đi tới đâu, lang bạt tới phương trời nào, anh cũng sẽ trở về neo nghỉ nơi bờ bến của em. Hãy viết thư cho anh Nguyệt Nga nhé, và bảo các con viết thư cho bố chúng nữa. Ở xứ này, không có thư của em và con, anh khô héo từng ngày.

Người chồng mãi mãi của em.

Thanh Dương.

 

Chúng tôi đọc lần lượt từng lá một, rồi xếp lại như cũ. Vũ Sơn cúi xuống gầm bàn, rút chiếc điếu cày lên, nạp thuốc rít ro ro. Rồi hóp hai má lại, anh thở khói đầy phòng. Một con muỗi đến tới đậu trên tay Vũ Sơn anh ngồi im chờ đợi, khi chú muỗi đã cắm vòi vào chích anh mới giơ tay kia đập bét một tiếng:

- Tiên sư mày!

Chú muỗi đói chết bẹp gí. Vũ Sơn chùi vào quần, rồi ngẩng lên:

- Sau, cậu ta có phát hiện ra việc cô đọc hai lá thư ấy không?

Hạnh gật đầu:

- Có. Năm giờ chiều anh ấy trở về, mặt đỏ lựng và miệng nồng nặc hơi bia. Thấy em ngồi trong phòng, anh ấy giật bắn người như bị điện giật. Rồi anh ấy lấy lại vẻ vui sướng rất mau lẹ, mau lẹ hơn tia chớp rạch qua bầu trời. Lúc đó, người em nổi gai ốc, em muốn khóc, muốn xỉu xuống và chìm vào một giấc ngủ vĩnh viễn. Rồi câu nói của bố em lại vang lên: Sự đời không chỉ nhìn một lần mà thấy được… Tới đó, ý chí tồn tại, lòng ham muốn được nhận biết đời sống mạnh hơn. Em nhìn Dương, thấy anh ấy như một thứ đồ vật mà em có nghĩa vụ phải khám phá cho tường tận, tuồng như cái tủ cần được kiểm tra xem có bao nhiêu lỗ mọt, như căn nhà đã bị hư nát bao nhiêu rường cột, một trái ổi cuối hè bị sâu khoét tới đâu… Ngày trước, bố em vẫn bảo với mọi người: Con Hạnh trán dô, bướng lắm, bướng nhất trong đám con gái họ Lê. Lúc ấy, em hiểu rằng bản tính ương bướng đã giúp em nghị lực để vượt qua đắng cay và tuyệt vọng. Em ghìm giữ nước mắt, mỉm cười và bảo Dương: Em vừa được đọc hai lá thư của anh, hay lắm… Nghe tới đó, Dương xô lại như muốn chụp giữ hai tờ giấy phản phúc. Nhưng khi biết điều đó vô vọng, anh nhún vai nói:

- Em xem cái trò nhảm nhí ấy làm gì? Người ta có thể viết đến một ngàn lá thư như thế mà chẳng có một ý tưởng thật trong đầu. Xưa nay đã có câu: Lời nói gió bay… Ngôn từ cuối cùng vẫn chỉ là ngôn từ đơn thuần và vô giá trị. Điều em cần nghĩ tới là tình yêu của anh, là niềm si mê của anh với em có đích thực hay không?

Lúc đó, em đã nói:

- Cả hai lá đều đích thực: Tình yêu và sự phản bội. Dương bảo em cần phải tha thứ cho anh ấy, vì nếu không có những lời lẽ vuốt ve mơn trớn con quỷ cay độc kia (anh ấy thường gọi bà vợ như vậy) sẽ nổi cơn ghen tuông điên khùng, hành hạ em nhiều hơn nữa. Dương nói rằng chỉ vì em mà anh ấy viết những lời dối trá ghê tởm, người trọng danh dự phải hành động như thế là cực hình. Rằng kẻ đui mù cũng nhận thấy tình yêu và lòng ngưỡng mộ của anh ấy với em: Nào tuổi trẻ, nào nhan sắc, nào đức hạnh và kiến thức… tất cả những phẩm chất ấy không có người đàn bà thứ hai nào trong cõi đời sánh được…

Vũ Sơn bỗng nhiên bật cười khành khạch. Tôi bất giác cũng cười theo mặc dù đang nóng ruột muốn biết câu chuyện tới đâu. Hạnh chờ cho chúng tôi im lặng, kể tiếp:

- Cuối cùng, Dương tuyên bố rằng em đã cố tình không hiểu anh ấy, rằng em đã đẩy anh ấy tới một tình trạng tuyệt vọng không thể cứu gỡ: Thà cô cho tôi một liều thuốc ngủ vĩnh viễn còn hơn…

Vũ Sơn tủm tỉm cười:

- Lúc ấy, cô nói sao?

Hạnh đáp:

- Lúc đó, em điềm nhiên đáp: Em sẵn sàng giúp anh và móc trong túi gói thuốc độc bảng Anh đủ cho hai người chìm vào giấc ngủ ngàn năm. Kỳ thực, đã có lúc em định dùng tới nó, trong những đêm mất ngủ ở khu nội trú. Nhìn thấy gói thuốc, mặt Dương tái xanh. Anh ấy bảo: Tôi cần viết thư vĩnh biệt hai con trai tôi, chúng là những đứa trẻ vô tội. Em đáp: Hãy viết đi, em chờ anh. Và em ngồi chờ, gói thuốc trong tay…

- Khá thật…

Vũ Sơn bật kêu to và anh làm một cử chỉ đường đột mà tôi không ngờ: ôm đầu Hạnh, anh ghì vào ngực mình, kiểu như một người anh trai âu yếm cô em út.

- Cô khá hơn tôi tưởng. Anh nói thêm.

Tôi sốt ruột bảo Vũ Sơn:

- Lặng im đã. Rồi chuyện ra sao?

Hạnh kể tiếp:

- Viết thư xong, Dương đưa cho em đọc và anh ấy gục đầu xuống bàn, nức nở. Giá như trước đây, chắc chắn những giọt nước mắt ấy sẽ nhỏ vào tâm hồn em như những giọt cường toan. Nhưng lúc đó, trái tim em trơ lì, chai cứng tựa một mảnh da thuộc phơi khô. Những giọt nước mắt của Dương rơi xuống như những giọt mưa vuột qua lá khoai sọ, không mảy may dấu vết. Em đọc lá thư dài, sướt mướt, đau khổ. Những câu chữ đối với em vô giá trị vì chúng đã bị hủy hoại, chúng chỉ còn là một chút mực khô trên lớp giấy mỏng, vô hồn. Đọc xong, em trả cho Dương: Thư anh viết xúc động đấy, em sẽ đưa tận tay con trai lớn của anh. Và rồi, em tới bên bày tự tay rót đầy một cốc nước: Bây giờ, anh hãy uống đi…

Hạnh ngừng lại, cô chìa tay ra hiệu bảo tôi rót cho cô một chén nước. Sau khi uống cạn chén nước ấy, cô bật hỏi:

- Em đố các anh, Dương đã làm gì?

Tôi lắc đầu, còn Vũ Sơn lại cất tiếng cười khành khạch. Rồi anh nạp mồi thuốc lào, hút ro ro. Đám khói mù mịt mà anh phả ra khiến cả hai chúng tôi đều ngộp thở. Hạnh cất tiếng ho trước tôi sau. Dăm phút sau, làn khói tan loãng, không khí trong phòng trở lại bình thường, Hạnh kể tiếp:

- Dương òa khóc, vừa đấm ngực vừa nói: Đời sống đối với tôi chẳng có giá trị gì. Tất cả đã chấm hết. Nhưng còn thơ ca, sự nghiệp của tôi, tôi không thể từ bỏ nó. Ba nhà xuất bản đang in thơ tôi, giải thưởng thơ quốc gia năm nay sẽ không rơi vào tay ai khác ngoài thi sĩ Thanh Dương, lá cờ đầu của phong trào thơ trẻ sẽ không còn ai cầm giữ nếu tôi từ bỏ… Không, tôi không thể tìm cho một lối thoát nhẹ nhàng mà phải nghĩ tới sự nghiệp chung. Một nghệ sĩ đích thực không được quyền sống ích kỷ.

Vũ Sơn hỏi:

- Lúc ấy, cô nói sao?

Hạnh đáp:

- Em đã phá lên cười, cười sặc sụa như một con điên…

Nói tới đó, nước mắt cô bỗng tràn qua mi ròng ròng chảy. Gương mặt cô, luôn giữ vẻ rắn rỏi giờ đau đớn, nhợt nhạt xen lẫn nét ngơ ngác chỉ có được ở những con người chưa hết dò tìm đời sống. Những cơn nức nở ập tới, mỗi lúc mỗi dồn dập. Lời nói của người con gái bị ngắt ra từng đoạn ngắn, lộn xộn và rối loạn:

- Em không ngờ… Không ngờ được… Giá như anh ấy đủ can đảm uống thuốc, chắc chắn không ai nỡ để cho anh ấy chết. Em sẽ còn giữ lại được lòng tin và sự quý trọng… Nhưng anh ấy đã quá…

Vũ Sơn cất tiếng quát:

- Thôi đi, đừng khóc nữa. Nó đã đóng trò, thì nó phải biết hạ màn đúng chỗ. Dại gì đổi mạng sống để thêm vào một lớp tuồng hay. Hóa ra cô vẫn là đồ ngớ ngẩn… Nhưng này…

Anh vỗ vai Hạnh, nâng gương mặt đầm đìa nước mắt của cô lên:

- Đừng buồn. Cô phải cảm ơn Dương vì nhờ cậy ấy, cô có thêm một kinh nghiệm lý thú trong đời sống. Vì nhờ tình yêu của cậu ấy, cô đã từ bỏ tỉnh lỵ trở lại trường y theo học. Cần phải công bằng với mọi giá trị lịch sử. Hãy coi cậu ấy như một chất xúc tác để sự va đập giữa cô với đời sống xảy ra mau lẹ hơn, mạnh mẽ hơn. Không một cá nhân nào đủ cho ta thất vọng cả, cô bé ạ. Bởi vì đời sống là một toàn thể hùng vĩ, luôn chuyển động và tự hoàn thiện trong từng phút, từng giờ. Cần phải biết đêm đen tới đâu để hưởng thụ được mỗi tia mặt trời rọi trên mặt đất. Cần phải biết cái phần tăm tối của con người để xây dựng một nhân cách bền chặt trong cõi đời… Đừng có khóc, tôi muốn cô phải cười, cô bé tỉnh lỵ, cười lên…

° ° °

Mùa đông ấy có những trận rét ghê người, giá lạnh lùa vào tận ống xương. Ai cũng cố kiếm một tấm áo bông hóa học trần hoặc một chiếc áo bông Đức. Mốt quần ống loe, ống vẩy đã qua từ lâu và giờ đây trên phố phường người ta thấy đám trai gái mới lớn đi lại thoăn thoắt, quần bó chặt lấy bắp chân, giày lót bông hoặc mút sặc sỡ như quả còn của dân Tày ngày Tết. Sau những trận rét liên miên, chợt một ngày nắng hửng. Đất đai, cây cỏ và con đường như ngất ngây trong làn không khí êm dịu, hoe hoe ánh mặt trời.

Vào ngày ấy, Vũ Sơn đã đến tìm tôi:

- Có bận gì không?

Tôi đáp:

- Bận, nhưng vẫn đi chơi với anh được.

Vũ Sơn bảo:

- Ta đi.

Trong tiết trời hanh, da dẻ nhăn lại, trông anh già hơn ngày tôi gặp anh đến dăm tuổi. Chúng tôi đạp xe chầm chậm quanh hồ, rồi theo Hàng Đào, hàng Ngang thẳng lên cầu Long Biên. Anh bảo tôi:

- Lâu lắm chưa về Q.

Tôi đáp:

- Vâng, nghĩ tới đường sá cũng ngại.

Hai chúng tôi im lặng. Tôi đoán rằng hẳn cũng như tôi anh đang nghĩ tới dãy phố ven sông mưa sùi sụt, bến đò chìm dưới làn nước trắng không chút hy vọng, không bóng người. Lúc sau, Vũ Sơn thở dài:

- Dẫu sao cũng là quê hương. Tuần sau ta về chứ cậu?

Tôi đáp:

- Vâng.

Chúng tôi đạp xe qua cầu sang bờ sông bên kia, rồi dắt xe men theo đê ngược lên. Con sông trải trước mắt chúng tôi màu hồng xao xuyến. Những cánh buồm như tách ra khỏi chân trời, liệng từng cánh bướm huyền hoặc xuống làn nước phù sa. Các lưỡi cát, các bờ cây tươi thắm lại trong nắng. Búi cỏ giập nát bên đường vươn dậy những chiếc lá nhọn như kim. Giữa các bụi trứng ếch nửa nổi nửa chìm còn mắc lại từng đám xác vờ trắng - dấu vết sự hủy diệt, tái tạo và tăng trưởng của cõi đời. Dưới chân tôi, cát mịn và ấm. Bên tôi, Vũ Sơn lẳng lặng bước. Tới khúc sông vắng, anh dừng lại, bảo:

- Ta tắm đi.

Tôi còn ngại ngần chưa kịp đáp, anh đã xô chiếc xe đạp xuống cởi áo quần. Rồi, trần truồng như đứa bé sơ sinh, anh nhào xuống nước, vừa bời vừa hét lên. Tôi sửng sốt nhìn anh, con người tôi đã biết lâu nay dường như biến mất, thay vào đó là một đứa trẻ vô tư, nghịch ngợm, hòa nhập với ánh nắng, khí trời và dòng sông một cách mãn nguyện như chính cây cỏ, nước nôi.

- Kìa, xuống đi…

Anh giơ tay vẫy tôi rồi nhắm mắt nhào đầu xuống như một con nhái bén. Khi tôi bơi ra khỏi bờ chừng vài chục mét, anh đã nhoi từ giữa dòng lên, vừa thốt ra một tiếng kêu hoàn toàn vô nghĩa anh vừa vuốt nước trên mặt. Sau hồi lâu ngụp lặn, chúng tôi lên bờ phơi nắng.

- Chưa bao giờ tôi sung sướng như buổi sáng hôm nay…

Vũ Sơn bảo tôi, khi anh nằm úp xuống cát. Chưa bao giờ tôi thấy con người tự do và trong sạch như khi đằm mình vào dòng nước, không quần áo che đậy, không có gì ràng trói và ngụy trang. Đã từ lâu, tôi bị ám ảnh bởi một giấc mơ mà không nhớ rõ hình ảnh. Nhưng nó đi về trong tôi như một tiếng kêu, một lời nhắc nhở, một điệp khúc quen thuộc của bài hát… Hôm nay tôi đọc được rồi…

Anh ngừng lại. Tấm lưng anh phập phồng. Vì anh quay mặt đi nên tôi chỉ nhìn thấy đám tóc ướt sau gáy và những vết sẹo lấm tấm trên vai anh, vết nào cũng bóng loáng như bôi mỡ. Vô tình, tôi đưa tay sờ lên chúng. Vũ Sơn nói:

- Đó là những vết thương trong chiến dịch đường Nam Lào… Này Nam, cậu có biết khát vọng nào lớn nhất trong con người không?… Đó không phải giấc mơ về quyền lực, danh tiếng, tiền bạc hay tình ái… Đó là khát vọng được sống trong sạch và hồn nhiên, như đứa bé trần truồng giữa dòng nước, như cây cỏ đắm mình giữa ánh sáng, khí trời. Đó là giấc mơ bền chặt nhất, đó là khát vọng giàu nhân tính nhất của cõi đời…

Anh đưa tay bứt một lá cỏ non, nhấm nháp.

Tôi im lặng nhìn anh, tràn ngập niềm yêu mến. Cảm xúc ấy khiến trái tim tôi mềm dịu và bình ổn, tựa một thung lũng cô đơn tràn ngập nắng thu.

 

Hà Nội tháng 11 năm 1986

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét