Đặng Thân
Một luồng gió lạ mang tên Đặng Thân vừa cho ra mắt tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] tại Trung tâm Văn hóa Pháp (l’Espace) ở Hà Nội ngày 7/1 năm 2012 này. Tha hương, xa ánh sáng kinh kỳ của Thủ Đô ngàn năm, hẳn tôi mù tịt, chưa được nhìn tận mặt, chưa được ngửi tận mũi mùi mực của một tác phẫm được coi là mốc mới cho một thời văn chương hậu-Đổi Mới, một thời hậu hiện đại, bớt tính nông dân, bù trừ bằng tính văn chương đô thị (?). Chúng ta thấy khá đông những nhân vật nổi tiếng. Trích: “Chủ trì buổi Tọa đàm là nhà đạo diễn, nhà văn Đỗ Minh Tuấn. Bài tham luận của ông có tên gọi “Cuộc tỉ thí giữa Hitle và Giun đất”... ví cuộc “tỉ thí” đó như một cuộc song thoại, một cuộc “so găng” văn hóa Đông - Tây với những mô tả khá li kì. Kết thúc bài viết khá dài, Đỗ Minh Tuấn kết luận về trường hợp Đặng Thân bằng những lời có cánh: “3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là khu vườn lạ, một sắp đặt văn hóa tâm linh tạo nên một khu vườn văn chương lổn nhổn, rườm rà và rất nhiều cạm bẫy, nhưng khá thú vị. Một quyền lực nghệ thuật hậu hiện đại không biết từ đâu đã bỗng nhiên ngự trị trên mảnh đất còn hoang sơ, khiến cho khi lạc vào khu vườn đó, con chim nào cũng phải hót lên, dù đó là tiếng hót gọi đàn vì cảm thấy lạc lõng bơ vơ xa lạ, hay tiếng hót hân hoan của kẻ tìm thấy mảnh đất hoang để xây những tổ ấm văn chương mới cho bầy đàn mình.”
Dẫu chưa được tiếp cận cuốn tiểu thuyết nổi ba đào gây sóng gió này, tôi từng có dịp đọc truyện, thơ và phê bình - nhận định văn học của Đặng Thân trên vanchuongviet.org và damau.org. Xin nói ngay, văn cách của Đặng Thân rất ấn tượng. Dịp này, song song với giới thiệu truyện “Ma Net”, “Ma Nhòa”, tôi hân hạnh được trò chuyện đôi điều với nhà văn Đặng Thân. Nhưng trước khi "bật mí" về cuộc trò chuyện thú vị này, tôi xin giới thiệu "Manet" như món quà đầu Xuân Nhâm Thìn
ma net
- “Ma Ma Phật Phật Phật
Phật Ma Ma”
TRONG NHỮNG XUẤT XỨ
Có lần trong lúc
cao hứng sau khi nghe ý tưởng của tôi về cái truyện ngắn mới mấy tên thuộc dạng
mà bà con Hà Nội gọi là “Trâu Quỳ[1] giả
về” lên kế hoạch đi về cái trang trại để hoang của một tên dị hợm.
Kế hoạch như sau:
- Thuê 1 trang trại để
hoang cách xa thành phố của 1 chiến hữu nào đó có nhiều bất động sản mà không
có điều kiện trông sóc; điều kiện: phải thực sự là “trại hoang” thâm căn cố đế;
- Đốt 1 đống lửa giữa
trại;
- Mua 1 xe tải hương
Hàng Mã cắm đốt liên tục khắp trang trại, đảm bảo khói ngút lên 9 tầng trời;
- Cả bọn tắt hết điện
thoại di động ngồi quanh đống lửa uống rượu dân tộc, ăn thịt rừng nướng và nói
chuyện nhảm [tất lẽ dĩ ngẫu];
- 1 tên có giọng pê-đê
nhất ngồi đọc Liêu trai chí dị;
- Thuê 1 đội ca-ve
chuyên ngành múa cột lượn lờ quanh trại trong trang phục Eva hoặc Xuý Vân vừa
cầm hương, vừa đốt hương, vừa múa, vừa hú, vừa rên, vừa nhe răng, vừa trợn mắt,
vừa cười giọng yin-techno (xin bạn yên tâm, riêng ý kiến này
là của mẹ vợ tôi);
- Đặng Thân ngồi
viết ma net;
- Ngoài ra, còn có sự có
mặt của 2 đại biểu nhạc dân tộc: 1 kèn xôna, 1 nhị.
1
Xin nói ngay cái xuất xứ
đó chưa xảy ra vì tôi đang ngồi viết ma net trên màn hình
phẳng 17 inch trong phòng điều hoà hai chiều. Có lẽ vì mót quá nên không chờ
được đến ngày cùng các chiến hữu tụ bạ nơi hoang dã vì mình.
Vì thế mà ma net có
khác.
2
Trường Sơn.
Tôi sẽ không nói về
Trường Sơn nhiều gỗ quý và lâm tặc, hay nói về rừng như một ông lớn (hình như
tên là Tưởng Thủ Cửu) đã từng lè nhè: “Rừng ở nước ta về cơ bản là... đã phá
xong.” Tôi muốn các bạn gặp liệt sỹ Trường Sơn.
Vừa qua có câu chuyện kì
lạ xảy ra ở Kinh Bắc. Có hai gia đình nọ ở cùng xã có hai con là liệt sỹ từ hồi
72. Nhưng mãi không biết xác nằm ở đâu. Sau phải nhờ đến một nhà ngoại cảm nổi
tiếng thế giới về khả năng tìm hài cốt liệt sỹ. Ông phán hai người đó đang ở
cùng một nơi.
Đoàn người đến Khe Sanh,
tiếng Bắc tất phải gọi là Khe Sinh nhỉ. Nơi đây nghe nói có chừng nửa triệu tử
sỹ. Thật là cõi “sắc sắc không không”, phải chăng phải gọi là Khe Tử hay Hoàng
Tuyền (chắc người Nam sẽ gọi là Huỳnh Tuyền đấy).
Rừng xà nu! Cái bạt ngàn
của nó làm ta nhớ Nguyễn Trung Thành. Nhớ Nguyễn Trung Thành ta lại nhớ đến bài
văn được điểm 10 của một cô bé bán rau trong kỳ thi tuyển sinh đại học tại Đà
Nẵng:
...
Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.”
...
Còn tìm thấy một Rừng
xà nu khác của Nguyễn Trung Thành trong “phao” thi và bài thi văn vào
đại học của các học sinh khác ở khắp nơi trong cả nước:
''Khi Mai bị giặc giết thì cái ấy cũng bị đạn giặc cắt ngã. Như vậy cây xà nu đã đi vào hạnh phúc của lứa đôi, làm đẹp cho hạnh phúc ấy và cũng chụi chung một nỗi đau cùng con người''
“Nguyễn Trung Thành là nhà văn mặc áo giáp”
“Hiện nay, nạn chặt phá rừng tràn lan trên khắp mọi miền của đất nước. Trước tai nạn đó, Nguyễn Trung Thành viết Rừng xà nu để cảnh báo mọi người, kêu gọi đừng chặt phá rừng nữa. Tôi tin chắc rằng chính tác giả cũng không thể nghĩ ra tác phẩm của mình mang “tính thời sự” như thế”
Ôi rừng xà nu, ôi Nguyễn
Trung Thành, thật là những bức tranh cảm động quá.
Loanh quanh trong khu
rừng đầy sức sống, thân vươn cao vút trời vạm vỡ, nhà ngoại cảm hình như chẳng
chịu dò tìm dưới mặt đất. Không còn mẩu xương nào dưới đó chăng? Loanh quanh
mãi, ông chỉ lên một ngọn cây: “Mọi người có nhìn thấy gì không?”
Không ai nhìn thấy gì
cả. Lá xà nu quá rậm rạp, phải nói là phồn tạp. Trong ánh tà dương sót lại của
ngày, mọi người đốt đuốc, soi đèn mãi rồi cũng thấy có vật gì như tấm vải dù.
“Chắc họ ở trên ấy đấy!” nhà ngoại cảm cất giọng lạnh ngắt. Chẳng ai tin, dĩ
nhiên rồi.
Nhưng rồi những người
thạo trèo cây đã leo lên. Dễ phải leo đến hơn 20 mét. Họ đã thấy một cái tăng
treo vào hai ngọn cây xà nu khác nhau ở độ cao ấy. Thật là kì lạ! Phải chăng là
người ngoài hành tinh đến ngủ cheo leo chốn ấy? “Có xương người!” Một tiếng
thét thất thanh lạc lõng vọng vói giữa đại ngàn.
Mọi người tìm cách để hạ
cái bộ tăng võng ấy xuống.
Câu chuyện đã được kể
lại như sau:
Trong cái ngày khốc liệt
của chiến tranh ấy có một anh cán bộ chỉ huy uy mãnh có nhiều bằng Dũng sỹ diệt
Mỹ và Huân chương Chiến sỹ Giải phóng vừa bị thương vừa bị sốt rét cấp nên các
cấp chỉ huy đã quyết định phải đưa anh về một trạm quân y tiền phương để giữ
cán bộ nguồn cho chiến đấu trường kỳ. Người đưa anh đi là một nữ y tá đồng
hương; người duyên dáng, đằm thắm và tận tụy. Họ cứ đi mải miết giữa rừng xà nu
mong cho chóng đến nơi. Giữa đường anh bật lên cơn sốt nặng quá không đi được
nữa. Thế là chị y tá mắc võng và tăng lên hai ngọn cây xà nu còn nhỏ rồi dìu
anh nằm lên đó. Anh sốt mê man, cái võng rung lên bần bật. Chị thương anh chỉ
huy quá mà không biết làm gì. Chị cố gom một dúm củi để sưởi và nấu cháo trong
khi cái võng vẫn rung lên bần bật. Đang nhóm lửa thì chính chị cũng thấy mình
lên cơn sốt rét. Chị ôm ngực vật vã bên gốc cây trong khi cái võng càng lúc
càng giật lên đùng đùng. Một bản năng không cùng bật dậy đưa chị tới bên cánh
võng ôm lấy anh. Rồi chị cố trèo vào nằm đè lên, riết chặt lấy anh. Không biết
hai con người sốt rét cấp tính đã sưởi ấm cho nhau bằng hơi người của chính
mình được bao lâu? Chỉ biết là 35 năm sau, vâng “đúng số 35” (là số nhiễm sắc
thể của loài dê), người ta thấy hai bộ xương trắng nằm đè lên nhau, ôm chặt lấy
nhau, vẫn còn những mảnh quần áo, trên hai ngọn xà nu cổ thụ.
Họ đã được truy tặng
danh hiệu Liệt sỹ sau 35 năm. Cả xã quê hương đã làm một cái lễ thật to. Câu
chuyện về họ được khắp nơi nhắc tới.
Sau đó có bài báo bình
luận rằng hai liệt sỹ cho đến lúc chết vẫn giữ vững đạo đức bộ đội cụ Hồ, không
quan hệ bất chính. Có nhà sử học uy tín còn nhận định rằng những con người quý
như kim cương như thế nếu còn sống đến hôm nay thì có khi anh đã thành Thủ
tướng, còn chị thì đã làm đến Bộ trưởng Bộ Y tế cũng nên.
3
Gã năm nay 20 tuổi,
“sành điệu con hàng hiệu viêm tiết niệu”. Thú chơi chính là chat và
“cứu net”. Gã đi chat ở bất cứ nơi nào gã đến. Vậy “cứu net”
là gì? Có tờ báo mạng đã đưa ra khái niệm thế này: “người được cứu là gái lang
thang Internet. Trai “cứu net” là chatter có tiền. “Chàng” và
“nàng” vừa quen nhau trên mạng. Nàng hết tiền trả “net” nên nhờ chàng đến trả
để “cứu”. “Cứu” xong, chàng và nàng cùng lên nhà nghỉ. Xong!”
Nếu ai quan tâm đến hoạt
động này xin hãy vào hẳn một website có tên www.cuunet.com –
thưa, đủ tất cả mọi nhu cầu.
Trong một lần chít chát
nhìn qua webcam gã thấy một người lờ mờ trong bộ đồ trắng,
không biết là trai hay gái, nickname là Trang_Xuong.
Cái nick làm gã ngầm hiểu đó là “trăng suông”, “trăng xuống”
hay “Trang sướng” gì đó – nghe rất có vẻ con nhà quítxtộc, gợi cảm, lãng mạn,
hững hờ.
Trang_Xuong> Chắc là g.
Crazy_Vietkieu> Sao lại chắc? Xăng pha nhớt à?
Trang_Xuong> Thế thì g.
Crazy_Vietkieu> Kẹt lâu chưa? Kẹt bao nhiêu?
Trang_Xuong> Kẹt khoảng mấy triệu thui. Không phải ko có
tiền nhưng E ko có tiền polymer. Mà ở đây ko có chỗ đổi tiền.
Crazy_Vietkieu> Điên à? Điên hơn cả Crazy_Vietkieu rùi.
Trang_Xuong> Thiệt mờ.
Crazy_Vietkieu> A đến cứu E nha? Rùi mình đi chơi.
Trang_Xuong> Oki A. Nhưng A nhớ là E vẫn còn trinh đấy
nha.
Crazy_Vietkieu> ;-/
Trang_Xuong> .-)
Crazy_Vietkieu> Gái trinh mờ cũng làm bộ bị kẹt net cơ a?
Crazy_Vietkieu> E b/n tuổi rùi?
Trang_Xuong> E ko có tuổi. Hay nói như trên báo là bất
tử.
Crazy_Vietkieu> Phịa. Thế nhỡ là vị thành niên thì A ko dám
cứu đâu ;-))))))))
Trang_Xuong> Cứu người mà cũng phải chọn tuổi cơ à?
Crazy_Vietkieu> Vì chúng mình mà có đi nhà nghỉ thì A sẽ bị
công an bắt đấy.
Trang_Xuong> Đi với E thì ko ai dám bắt A đâu mờ.
Crazy_Vietkieu> ;-@
Trang_Xuong> Tin E đi.
Crazy_Vietkieu> Uh. Tin.
Gã nhẩy lên một
con Maybach 63 phóng vụt đi. Thật là hồi hộp.
Thấy xe hơi cực xịn đến
đón nàng nở nụ cười rạng rỡ, thanh cao quảng đại như “trăng suông”. Vừa lên xe
nàng đã dúi vào túi gã một tập dollar mới cứng. “Trả lại cho
anh đó, cả tiền lời”. Sửng sốt vô cùng nhưng gã vẫn gắng gượng cầm lái đưa nàng
đến một nhà hàng hết sức ấn tượng. Nàng ăn như ma đói. Nàng bảo chưa được ăn ở
đâu như thế bao giờ. Thật khó tin. Em sinh ra ở một vùng quê nghèo nhưng vui
lắm. Không tin được. Ở quê em con gái đứa nào cũng dịu dàng, hát hò suốt ngày.
Mà các em chiều chuộng đàn ông lắm. Đàn ông quê em chỉ vui chơi, uống rượu,
đánh bạc suốt ngày. Về nhà còn được vợ chiều chuộng như ông hoàng. Bọn con gái
lo toan mọi việc, từ việc nhà đến buôn bán tảo tần. Nhưng được cái uống rượu
cũng khá. Gã lại tiếp tục rót rượu cho nàng, đã gần hết chai Martell.
Cái loại rượu này ở quê em họ làm giả đầy ra. Đã có những tên tỷ tỷ phú nhờ làm
rượu Tây giả. Gần đây để che mắt thế gian một tên xây hẳn nhà máy rượu vodka chất
lượng cao có giấy phép và tên tuổi đàng hoàng, nhưng bán ra giá chỉ bằng hơn
một phần ba giá sản xuất để khuếch trương thương hiệu. Thật là tinh vi...
Ăn xong họ vào bar.
Bộ đồ trắng thanh thoát của nàng phát sáng tinh quái nhập nhoằng như lân tinh.
Đôi môi nàng đỏ au, mắt mơ huyền, mũi hơi hênh hếch như mời gọi. Gã ôm nhẹ lấy
nàng hôn nhẹ lên mái tóc. Một mùi thật lạ. Ngan ngát hương rừng. Nàng nói ở đây
tuy vui nhưng ồn quá, làm nàng nhức đầu vì những vết thương cũ trong đó. Gã
không hiểu làm sao nữa. Vô thức đẩy tay gã ôm lấy nàng rồi dìu nàng ra xe. Họ
đi về một villa lớn dựng bằng gỗ yên tĩnh bên bờ sông. Gã đỗ
kịch xe, lấy phòng rồi dìu nàng lên. Họ uống nước với nhau bên cửa sổ nhìn
xuống dòng sông. Những ngón tay nàng khuấy đá nghe lanh canh loong coong như
tiếng chuông chùa xa xứ Phật Tích vọng về từ muôn năm. Dòng nước đen quánh
trong đêm hắt lên những ngọn đèn chấp chới. Mắt nàng nhìn ra chơi vơi. Ánh mắt
nàng như hoà cùng với những ngọn đèn sông nước trông như thể nàng với những
bóng sáng chập chờn đó đã hoà vào một. Nàng vừa ở đây vừa như bay lượn khắp
dòng sông. Gã ôm chập lấy nàng. Như sợ cái luồng sáng ảo thực ấy sẽ lập tức
biến mất. Như thể một cơn cuồng hứng vừa bật lên không chịu nổi. Như một bản
năng tìm chỗ níu kéo khi bị rơi giữa không trung. Như một nhà bác học kiệt xuất
vừa mới gặp một cú hích gọi mời ông tìm ra một định luật khoa học mới. Họ trườn
lên giường ấm. Chăn đệm bật tung. Khung cảnh như một trình diễn performance
art. Bốn bàn chân đưa đẩy đan soi trần nhà và bốn tường gương nghiêng ngả những
chân. Những bàn chân như những mầm cây, những lá cây rừng già nhiệt đới quay
cuồng trong typhoon. [4] Cửa
sổ bật tung. Gối hạc, tay tiên, dương vật ngỏng, cửa mình mượt ướt. Những vầng
quang tràn khắp vũ trụ như những đỉnh tuyết Himalaya. Những giọt linh tình mưa
móc. Và tiếng khóc? Hay tiếng nấc? Hay tiếng tiêu Tiêu Sử? Hạc có bay về đầy
trời? Rồng có đến đưa ai về cõi tiên?
“Anh thấy không, em là
trinh nữ thật mà. Em đã chết cách đây 35 năm trên ngọn cây xà nu giữa rừng
Trường Sơn khi mới mười bẩy tuổi rưỡi. Chưa một lần cầm tay người yêu, nhưng đã
“cầm chân” nhiều người đàn ông đáng yêu đáng thương nhất quả đất. Chưa một
lần... Em mãi mãi là tuổi mười bẩy...”
Gã thét lên như bị ma
làm, ôm áo quần lao vọt ra cửa sổ. Đúng như chiêu “Tiêu Sử thừa long” hay là
“Chu Hợi đồ cẩu” trong võ thuật. Ra đến xe gã thò tay vào túi lấy chìa khoá thì
sờ phải tập tiền mà nàng đưa cho lúc trước. Đó là một tập dollar hàng
mã.
Từ đó gã trở thành người
mất tích. Có tin đồn vì gã phạm tội giao cấu với trẻ vị thành niên nên phải
chạy trốn pháp luật. Có kẻ bảo gã đã sang Tây du học theo nguyện vọng của người
cha quan lớn. Có nhiều bác ngờ rằng gã đã trở thành mafia. Có người
bảo gã đã xuất thế đi tu sau khi nếm đủ mọi mùi vị cao thâm nhăng nhố của cuộc
đời này. Có thể lắm.
4
Hắn ngồi im như tượng đá
trong văn phòng. Những công việc nặng nề trong trọng trách của hắn làm hắn muốn
sụp. Những bổng lộc béo bở, những “phong bì” và “hoa hồng” nặng trịch cũng chỉ
làm hắn vui lên được trong giây lát, sau đó lại là đau đáu những âm mưu. Mẹ
kiếp, hắn nghĩ thầm, đến cái thằng cha đại thi hào thi hài Bai-dần gì đấy ở bên
Ăng-nê mà còn nói dằng cả đời gã chỉ có nấy bẩy giờ xung xướng. Nhưng mà gã đẻ
da cái thằng Đông-gioăng thì quả thật nà chác tuyệt. Đời mà được như thế cũng
nà quá xung xướng. Tiền để nàm gì? Ta chưa chả nời được câu hỏi này bao giờ,
nhưng mà nó cho ta quyền nực, cho ta hưởng thụ, cho ta xự tự tin, bù nấp cho ta
những gì khiếm khuyết và nhều thứ nữa. Nhưng chưa bao giờ ta có được tình yêu
của một đứa con gái, một con đàn bà nào xất. Vây quanh ta toàn nà những con
khốn nịn, những con dạch dời dơi xuống, những con chó tha đi diều tha nại. Đến
vợ ta cũng nà cái con nó khinh ta nhất. Mẹ cái thằng Đông-gioăng xao mà nó xung
xướng thế. Nứt mắt da nà đã có cả đống đàn bà con gái nó vây quanh. Từ con
chồng chán, chồng bỏ, chồng chết đến con thiếu nữ chinh chắng hay quận chúa, nữ
hoàng. Bố tổ xư. Thế hệ của ta thì nại bị kìm chế kìm kẹp trong những giáo ní nuân
ní đạo ní hủ nậu. May mà hồi còn nàm chính ủy ở chong Chường Xơn ta còn địt bậy
địt quịt được mấy đứa. Nhè mấy em háo quân hàm ta chỉ việc nôi xồng xộc chúng
vào dừng xâu dồi hỏi “thế em thích nên chung xĩ hay thượng xĩ?” dồi tẩn nuôn.
Cái thời bây giờ bọn choai nại quá thoải con gà mái. Chúng tẩn nhau như điên.
Mà nghe nói chúng toàn quan hệ cưa cẩm với nhau chên anh-tờ-nét. Thích nhau nà
đi nhà nghỉ nuôn. Có nhều con bé dân chơi còn mời mọc miễn phí nữa chứ. Hay nà
ta cũng thử đi “cứu net” chơi? Ờ, tại xao không nhề. Hôm chước cái thằng chợ ní
nó vừa bầy cho ta cái cách vào chít chát. Thử cái cho biết nhể. Có nẽ ta phải
đóng giả một thằng choai choai hai mươi nào đấy. Phải nghĩ da một cái tên nào
đấy nghe cho nó phong độ chút. Nào, hay nà Dep_chai_nai_Phap? OK
con gà đen.
Trong cuộc lướt
net Dep_chai_nai_Phap gặp được khá nhiều kỳ duyên. Nào
là trinhnu_7tinh, em_dang_co_don, thienthanbongdem hay
là yeuanh_demnay. Đứa nào cũng máu. Hắn chợt thấy quan tâm đến một
em tên Trang_Xuong. Tên nghe như là “Trang sướng” hay “Trang xướng”
gì đó. Nghe có vẻ như một “người đẹp 100 đô” trong làng ca sỹ - người mẫu
chuyên đi khách gì đây. Thế mà nó bảo nó là gái trinh. Gái trinh hắn đâu có lạ
gì. Giá từ 2 đến 5 tấn thóc thôi mà. Hắn lại nhớ đến bài hát năm xưa: “5 tấn
thóc để góp phần đánh Mĩ...” Bây giờ chắc phải đổi thành: “5 tấn thóc để góp
phần đánh đĩ”. Hehe. Thỉnh thoảng hắn vẫn được đàn em mời cái món này. Khi cần
giải đen hay tăng cường phước lộc thọ khang ninh. Nhiều khi hắn cũng mời các
đàn anh xơi món này. Coi như quà cáp lúc cần thăng chức hay ký tá hợp đồng
nhớn. Nhưng cái em này không biết có phải trinh nữ thật không nhưng mà chắc là
hay. Để xoá bỏ những mặc cảm như là tuổi tác hay giọng điệu nhà quê vân vân hắn
ra đòn nguyên tử vẫn hay dùng: anh xẵn xàng chả em gấp ba nần cái giá em đòi.
Nhưng em này chỉ “hihi” mà không nói gì thêm. Lạ. Thế mới tò mò.
Hắn đến gặp thẳng em ở
một khách sạn kín đáo. Em xinh đẹp, trắng trong, long lanh hồ thu, âm u rừng
rậm. Hắn chưa bao giờ được gặp em nào chân tình đến thế. Ừ, thì anh cũng đến
với em bằng cái chân và cái tình. Em bảo em thấy yêu thương hắn thực lòng. Em
mê mái tóc muối tiêu. Ừ, giang hồ đã có câu về “tam ánh” nà “tóc ánh bạc, ví
ánh kim, chim ánh thép” mà nại. Em thương anh thật đấy. Anh làm việc hùng hục, ăn
chơi quần quật mà chưa có nổi một giờ hạnh phúc. Cái hạnh phúc được làm người.
Ừ, xao mà em hiểu anh đến vậy? Em nà người hay nà tiên? Nà Phật hay nà ma? Em
chỉ mong muốn anh có được hạnh phúc đích thực chứ em không cần tiền đâu...
Chỉ đến khi được rõ về thân
thế của nàng thì hắn chợt thôi thắc mắc. Hắn không nhẩy vọt ra cửa sổ mà như
thể hắn vừa bị bấm vào cái huyệt “nằm im”. Hắn nhìn trân trân lên trần nhà. Hắn
cảm thấy hắn nhìn thấu tận trời. Toàn thân hắn loã lồ trần trùng trục giữa vũ
trụ. Hắn thấy mình trôi vào một đường ống đầy ánh sáng. Từ nơi đó hắn nhìn thấy
chính thân xác hắn đang nằm một mình trên cái giường đệm trắng toát, mà không
thấy mỹ nhân đâu nữa cả, nàng đã biến đi đâu? Hắn trôi đi trôi mãi. Hắn gặp mọi
người thân đã khuất. Hắn gặp muôn vàn những đồng đội Trường Sơn đã hi sinh từ
lâu. Họ nhìn thấy hắn xong đều lặng lẽ bỏ đi. Hắn thấy bóng dáng Phật, Chúa,
Đức Chúa Trời. Họ đều đi về hướng ngược lại với hắn... Bất ngờ hắn nhìn
thấy Trang_Xuong. Nàng mỉm cười mà bóng hình thì cứ lúc gần lúc xa,
chập chờn lởn vởn. Bỗng thình lình nàng vụt đến bên.
“Anh ơi, anh có bít anh
đang ở đâu không? Anh đang ở cõi mà loài ngừi các anh gọi là chít lâm
sàng hay cận tử gì đấy đấy. Hìhì, anh vừa bị thượng
mã phong đấy. Nhưng anh chưa đến ngày tận số đâu, vì em đâu phải là Thị Lộ. Em
là Lý Thị Kín. Anh có bít vì seo em lại gặp anh không? Vì em muốn cứu anh đó.
Nói chính xác là vì em nợ anh. Kiếp trước khi còn ở Trường Sơn trong khi em
băng bó cho anh thì anh cứ sờ soạng em mờ. Nói thật lúc đầu em rất ghét và thấy
kinh tởm cái trò ấy vì đó cũng là cái ngày đầu tiên em phục vụ chiến trường.
Sau những năm tháng lớn lên ở quê không có một bóng trai trẻ nên vào đấy em
phát ngốt vì gặp toàn đàn ông con trai. Sau đó em thấy khác. Em thấy rạo rực.
Chính anh đã thức tỉnh ngừi đàn bà trong em. Anh làm em nhìn cuộc đời khác đi.
Anh đã đem đến cho em cảm giác hồi hộp khao khát thèm muốn. Có những khi chăm
sóc cho các thương binh đang mê man em cứ thẫn thờ ngồi cầm chim họ, thở dài.
Mờ lạ thật, ngừi thì cứ mê man không bít gì mà vuốt chim đến đâu nó cứ vươn
mình dựng dậy đến đấy. Làm em liên tưởng đến cái “đất nước đứng lên” của bác
Nguyên Ngọc em được học ở trường. Thương lắm, có anh tắt thở rùi mà cái chim
vẫn phừng phừng lên. Có những anh vừa chít xong mờ không hiểu sao tinh trùng cứ
phun ra như quân Nguyên. Các cụ bảo đó là những anh còn “nguyên dương”, chưa
bít đàn bà là gì nên trời vuốt chim cho sướng một lần trước khi người vuốt mắt.
Khổ. Chỉ có anh lưu manh hơn họ đâm ra lại hoá hay cho em, anh đã gợi mở được
em. Nhưng mờ rùi phận em cũng bạc... chưa bít mùi đời đã tan tác hồng nhan...”
Rồi đùng một cái hắn đã
rơi xuống địa ngục. Thật khủng khiếp! Chắc nà ở chong xà nim biệt giam Hoả Nò
hay chuồng cọp Côn Đảo vẫn còn xung xướng hơn dất dất nhều... Rồi hắn giật
mình, thân xác hắn rung lên bần bật một lúc lâu.
Sau đó báo chí loan tin
hắn thụ án tù giam. Tội danh là hãm hiếp gái vị thành niên. Có người bảo rằng
hắn đã bị một cô bé tội nghiệp tố cáo hành vi dã thú đồi bại. Lại có tin hắn tự
đến công an đầu thú tội tham nhũng nặng nề có thể lĩnh án chung thân nhưng lại
được cứu xét chuyển sang tội danh khác. Thế mới ác.
5
Cộng đồng các netizen [5] cứ
rỉ tai với nhau về những con ma nào đó đã đột nhập vào thế giới blog và chat,
gây nên bao nỗi hoang mang làm bấn loạn mạng trường. Nghe nói con ma gái này
chuyên gạ gẫm “dủ dê” những thằng “có vấn đề”. Tôi, người viết những dòng này,
tất nhiên cũng là một kẻ “có vấn đề”. Đa phần đồng bào yêu quý đều bảo “có vấn
đề” thì mới đâm đầu vào viết văn làm thơ chứ. Khổng Tử chả bảo “lập thân tối hạ
thị văn chương” từ lâu rồi cơ mà. Tôi xin nói thẳng: tôi muốn gặp con ma này.
Tôi quyết một phen đi “thục mạng” xem sao.
Được biết trong Hoa
Nghiêm Kinh có kể đến 50 thứ ma người và ma tâm được phân loại thành
“thập ma” rất kinh khiếp, do “ngũ uẩn” sinh ra. Trong đám đó, có ma “sở tri
chướng” được cho là hãi nhất. Nó cứ chấp nê vào cái gọi là kiến thức, niềm tin,
lý tưởng vô địch, vào chân lý bất di bất dịch để “tiến lên ta quyết tiến lên
hàng đầu” tranh giật thắng lợi bằng mọi giá. Nó sinh ra các thứ ma con cháu
chắt cuồng tín, sân hận, ác tâm. Các thứ ma khác thì chẳng có gì đáng sợ cho
lắm. Chuyện ma hại người thì lại chỉ nghe nói và xuất hiện nhiều trên Star
Movies hay HBO mà thôi chứ thực tế đã mấy ai bắt gặp.
Vậy thì sợ ma ắt là một thái độ hoang đường. Thật hoang đường!
Tôi phân vân không biết
con ma tôi đi tìm là loại nào. Tôi nghĩ đã là ma thì cách chít chét cũng phải
“quyền rủ mảnh lịt” một cách hoang mê mang mẩn lắm. Một hôm tôi bắt gặp một em
trong một box Văn Thơ. Nick khá dài
dòng: XuongTrang_NhoLe_TrenSaMac. Ăn nói sành sỏi lắm. Chuyện gì
cũng có thể nói thẳng băng trắng phớ ra được, điều mà mọi con người đều thấy
khó khăn trong diễn đạt, phải chăng là họ đã quen với dối trá quanh co quá rồi.
Phải chăng em...? Sau khi đọc những gì em thể hiện về văn chương, tôi ấn phím
khiêu khích:
rất khâm phục
một tâm hồn
lục cục
thật đáng tôn
thờ một đoá
hồng môn
Em bảo tôi đểu. Tôi cãi
không (không biết không hay có). Em hỏi tôi có phải nhà thơ không. Tôi bảo
không (nói dối), chỉ ngưỡng mộ thơ và “người thơ” thôi. Em hỏi tại sao. Tôi
đáp:
Bởi vì “người thơ” hay
la cà
“Dặt dẹo tiên sinh” là
tên mà
Óc đầu hồ mơ như là ma
Hồn vía cách mặt đất hơi
xa
Em cười trên phím rồi
bảo hoá ra nhà thơ, nàng thơ với ma đều như nhau sất cả. La cà, dặt dẹo, mơ hồ,
viển vông. Tôi cãi nhưng ma không làm thơ. Em trừng trộ thật không, nếu thi sỹ
làm thơ cho đời thì ma làm thơ phản đời. Ví dụ với bài trên thì ma sẽ đọc
thành:
Cà la hay thơ người vì
bởi
Mà tên là sinh tiên dẹo
dặt
Ma là như mơ hồ đầu óc
Xa hơi đất mặt cách vía
hồn
Em hỏi anh có thấy cách
đọc của ma hay hơn không. Em là
vì thế đấy! Anh làm thơ về nhà thơ, còn em lại thấy đó là bài thơ về ma! Đúng
không anh? “Tên là sinh tiên dẹo dặt”, “ma là như mơ hồ đầu óc”, “xa hơi đất
mặt”, “cách vía hồn”. Em ơi anh thấy lạnh sống lưng.
Tôi gắng gượng gõ nốt
bài thơ rồi bảo em đọc tiếp bài ngẫu hứng của tôi về “người thơ” xem thế nào:
Chăng may gặp phải khi
đói lả
Rặn cái tinh thần lên
hát ca
Ca lắm tất có khi tàn tạ
Không sao, tất cả đều ra
mả
Ra mả có khi mới gặp cạ
Thế là ma hát như gào la
Ma la vì ma được hể hả
Hả hể là ma được gặp cạ
Tôi vừa gõ phím xong bài
thơ thì bỗng thấy xây xẩm mặt mày, suýt ngất. Không tin thì các bạn cứ thử đọc
ngược mấy câu thơ trên sẽ biết. Khi tôi gõ xong mấy chữ “Sao? Thấy thế nào?”
thì chỉ thấy em reply “Thui, ẹm đi lấy chồng đây. BB anh” rồi
chẳng thấy em đâu nữa. Bấy giờ tôi mới nhận ra được em chính là ma. Chắc chắn
là ma rồi.
Từ ấy trong tôi đầy tự
kỷ ám thị, và thấy kinh thơ. Nhà thơ trong tôi thui chột mọi ý định viết nên
những vần “bất hủ gây mất ngủ” cho dân tộc, cho nhân loại và cho thời đại. Tuy
thế, cái nick quá ấn tượng của em đã hích tâm trí tôi viết nên
bài thơ cuối cùng, cẩn cáo. Tôi chẳng dám ghi ra đây mà xin để ra trong phần
Phụ Lục ở dưới cho những ai không cảm thấy mệt mỏi.
6
Y đi đi lại lại trong
ngôi chùa uy nghi. Đây là một trong những trung tâm Phật Giáo của cả nước. Y là
một nhà tu hành trong sạch, luôn tuân thủ “Ngũ Giới”, có chí tiến thủ và tinh
tiến. Nhà y có lẽ có một cái truyền thống vẻ vang là có nhiều người đi tu chùa.
Các anh và chị của y đều đang làm trụ trì ở đâu đó trên khắp xứ sở này. Nhưng
bóng những cây đại cổ thụ không làm mát được lòng y. Y là sư thầy rồi cơ mà vẫn
vô cùng sốt ruột vì mãi chưa được lên cái chức sư ông. Y mê cái chức ấy. Y còn
mê cái áo Hoà Thượng. Nhưng mà con đường thăng tiến cũng thật là gian nan. Phải
đi học rất nhiều trường, nhiều cấp. Phải thuộc lầu biết bao kinh kệ. Phải sử
dụng tốt ngoại ngữ, cái mà y rất ghét. Phải khép mình theo kỷ luật hà khắc.
Phải tuân thủ mọi yêu cầu và nhiệm vụ được giao. Phải biết cư xử tốt với đồng
môn. Phải khéo chiều lòng các bậc bề trên, tức là được cấp trên tín nhiệm. Phải
thi cử như ngoài đời người ta thi công chức và thi nâng bậc vậy. Phải được các
cấp cơ sở bầu chọn, giới thiệu. Phải được các cấp thông qua. Phải sinh hoạt
gương mẫu. Phải diệt dục. Phải... Bá ngọ cái thời cuộc! Làm cái gì cũng phải
“đấu thầu”.
Hôm trước có sư ông tuổi
đã ngoài bẩy mươi bỗng gắt lên với y: “Sao lâu lắm rồi chưa được miếng thịt gà
nào cả?” Y lấy làm ngạc nhiên lắm: “Ơ, cụ vừa xơi hôm kia rồi còn gì.” Thế là
lại phải ra mua thịt chó về cho cụ. Chắc tại cụ già rồi nên hay lẫn. Hay là cụ
muốn tỏ rõ cái “quyền hành” bằng cái trò vặn vẹo. Nhiều lúc y cũng thấy thèm
thịt nhưng vì những lời răn và nhất là vì đang trong thời gian “phấn đấu” để
“phát triển sự nghiệp” nên y cũng đành phải bỏ qua.
Một hôm có thí chủ trông
rất lạ đến vãn cảnh chùa. Thí chủ còn rất trẻ nhưng thần thái thì rõ ra là
người từng trải. Và đặc biệt là trông thí chủ rõ là cô gái xinh ngoan, hấp dẫn
đến độ chắc sư ông bẩy mươi cũng phải thấy thẫn thờ. Mọi người tu hành ở đây
đều đã phải bị cưỡng chế diệt dục. Hàng ngày các sư trẻ đều phải ăn nhiều rau
răm (tất nhiên là không đi kèm với gừng và trứng vịt lộn) và uống những thang
thuốc biệt dược giành riêng cho mình. Đã lâu rồi y không phải dùng thuốc nữa.
Tình dục trong y đã chẳng mấy khi vấy động. Thế nhưng...
Hôm sau nữ thí chủ lại
đến. Cô ta đến bên thầy bẽn lẽn có ý nhờ vả. Bạch thầy, con nhà ở Kinh Bắc, con
có việc muốn được nhờ thầy. Cứ nói, giúp được là ta sẽ giúp ngay. Dạ bạch thầy,
con muốn nhờ thầy đến nhà cúng cho con và... cả cho thầy. Thí chủ nói gì? Sao
mà phải cúng? Dạ, bạch thầy... Sau cái “bạch thầy” đó chẳng hiểu sao sư thầy đã
nhận lời. Ngay chiều tối hôm đó sư thầy cắp đồ ra đi.
Trên đường đến nhà nữ
thí chủ sư thầy thấy mình trở bụng. Chắc là tại vài hôm trở lại đây sư thầy xơi
nhiều món lạ. Y vào một cái nhà vệ sinh công cộng. Một cái nhà xí xổm. Đã lâu y
toàn dùng xí bệt của chùa nay mới được dùng lại cái xí xổm đầy dân tộc tính
này. Vả quả thật, y thấy thối quá, thối không thể tưởng được. Tại sao hồi bé y
toàn ỉa đồng hay ngồi hố xí hai ngăn mà không thấy thối? Hay vì khi đó khắp nơi
chỗ nào cũng thối? Khi ngồi xí bệt xịn lại còn có tia nước bắn lên để rửa đít
thì tất nhiên là không thấy thối rồi. Nhưng quả thật, nhờ cái bệ xí xổm này mà
lần đầu tiên y thấy lòng dạ mình cũng thối lắm thay. Mấy lâu những tưởng chỉ có
lòng dạ thiên hạ là thối tha thôi. Chẳng hoá ra bấy nhiêu năm chay tịnh, thanh
tao không làm lòng dạ y thay đổi hay thơm tho ra được tí gì sao? Thối quá,
không thể ngửi được!
Cái mùi lòng dạ chính
mình dường như có làm y hoát ngộ. Đến nhà nữ thí chủ khi cửa vừa mở ra thì cô
ta đã ôm lấy thầy (Tôi nghĩ là bạn đọc cũng đang chờ như vậy). Thật là “hổn hển
như lời của nước non”.[6] Đúng
là “không gì sướng bằng nhà sư lúc động phòng” như trong bài thơ chữ Hán xưa
của một thiền giả.
Sau đó y quyết dứt áo...
hoàn tục. Đồn rằng sau đó nữ thí chủ đã dạy cựu sư thầy đạo “tu tại chỗ” gì
đấy. Hàng ngày y thường đọc Huyền nữ Kinh, Tố nữ Kinh, Cửu Chân thi
nhân Kinh, Hoàng Đế ngoại Kinh, Phương pháp trồng hành của người Kinh và
một số kinh bổn khác dạy cách ngâm rượu với cặc chó và cà dê. Trong thăng hoa
với dê chó y nhớ cái nghề xưa chuyên nuôi chó, bán mèo mà dần trở nên phát đạt.
Y xây khách sạn chó. Y xây bệnh viện mèo. Hình như trong thăng hoa của thiền ý
y đã làm thơ về tình yêu muôn đời bất diệt:
Yêu sao giây phút dường
như
Cho nhau những cái còn
chưa của mình.
Buồn sao hình chạm vào
hình
Đôi bong bóng đụng hồn
mình chợt tan![7]
Có khi y phán như mê
sảng, nghe dường như luẩn quẩn với cái miếng gieo vần rất cò quay và lưu manh:
Khi mê tình chỉ là tình
Ngộ ra mới biết trong
tình có dâm.
Khi mê dâm chỉ là dâm
Ngộ ra mới biết trong
dâm có tình.[7]
Đôi khi nhớ thiền viện
cũ và những kinh kệ xưa y nẩy ra ý định xây một khuôn viên đầy ắp Phật tính
ngay tại nhà. Y cho đắp tượng Phật Bà lừng lững xiêm y. Rồi cửu trùng đài Vô
Vi. Rồi tượng thầy trò Đường Tam Toạng. Rồi y đắp tượng mình com-lê ca-vát đứng
sau Phật Bà, nhưng lại đứng hiên ngang trên một quả địa cầu nho nhỏ. Thế nên
dân quanh vùng có câu ca:
Thiền nhân đứng trên quả
địa cầu
Sủa gâu gâu
Núng nính tiền bạc y mua
một cái trang trại để hoang. Theo vận trình phong thủy của nó chắc chắn một
ngày kia Đặng Thân cùng thê đội sẽ đến đây tụ bạ. Để Đặng Thân lấy cảm hứng
viết ma net.
Ông Táo về Trời
PHỤ LỤC
Bài thơ “Nước Mắt Trên
Sa Mạc”
Tình cuối Đông man mác
Xuân nồng đã về chưa?
Bãi Cát Tình mộc mạc
Khô, mấy nước cho vừa?
Ôi cái sa mạc ấy
Dài rộng được bao nhiêu?
Lệ rơi hoài có đầy
Hay cả biển Đại Tây?
Nước mắt nào cho đủ
Khóc con tim ngục tù?
Tại xác phàm ô trọc
Làm tinh thần cực nhọc?
Sương mù giăng có đầy
Bãi Cát Tình bụi bặm?
Che được hoang vắng ấy
Cho môi hết cà lăm?
Quá mù sẽ ra mưa
Có phải giọt lệ trời?
Rửa được tim máu ứa
Cho khô cạn lả lơi?
Ai cần cả biển khơi
Để dập tắt lửa trời?
Ngùn ngụt trên hoang mạc
Bao giờ tắt Trời ơi?
Bao nhiêu sông nhiêu
biển
Làm mát được lòng tiên?
Nhiêu giọt tình thì đủ
Cho lòng người chân tu?
_________________________
Đọc thêm . . .
Ma nhòa - Đặng Thân
Tôi đặc biệt chú ý đến truyện “ma nhòa”, cách kể ở đây gần với cách kể thông thường, có thể gọi là cách kể “tuyến tính”. Đặc sắc của truyện này là ở giọng kể, một u-mặc (humour) hóm hỉnh hòa lẫn xót xa.
GS. HOÀNG NGỌC HIẾN – nhà lí luận/phê bình văn học
Ô hô! Quan tái đà xao xuyến
Giọt máu năm xưa bỗng tượng hình
NGUYỄN LƯƠNG VỊ, Chép trên nền nhạc Giao hưởng số 5 của Beethoven
1
Tại trang trại bỏ hoang của một thiền giả đêm đầu thu lịch sử gió se se, trời se sẽ có một bọn “nội công lông bông thâm hậu” đang tụ tập. Đây là một chuyến đi thực tế sáng tác đã được lên kế hoạch từ lâu. Kế hoạch như vầy:
- Thuê 1 trang trại để hoang cách xa thành phố của 1 chiến hữu nào đó có nhiều bất động sản mà không có điều kiện trông sóc; điều kiện: phải thực sự là “trại hoang” thâm căn cố đế;
- Đốt 1 đống lửa giữa trại;
- Mua 1 xe tải hương Hàng Mã cắm đốt liên tục khắp trang trại, đảm bảo khói ngút lên 9 tầng trời;
- Cả bọn tắt hết điện thoại di động ngồi quanh đống lửa uống rượu dân tộc, ăn thịt rừng nướng và nói chuyện nhảm [tất lẽ dĩ ngẫu];
- 1 tên có giọng pê-đê nhất ngồi đọc Liêu trai chí dị;
- Thuê 1 đội ca ve chuyên ngành múa cột lượn lờ quanh trại trong trang phục Eva hoặc Xúy Vân vừa cầm hương, vừa đốt hương, vừa múa, vừa hú, vừa rên, vừa nhe răng, vừa trợn mắt, vừa cười giọng yin-techno (riêng ý kiến này là của mẹ vợ Đặng Thân);
- Đặng Thân ngồi viết ma net;
- Ngoài ra, còn sự có mặt của 2 đại biểu nhạc dân tộc: 1 kèn xôna, 1 nhị.
Và Đặng Thân đã viết xong câu chuyện. Nghe xong cả trại như lắng xuống mặc dù đa phần đều đang túy lúy.
Hình như tôi đã bịa ra câu chuyện này thì phải.
Chờ tôi giải thích nhé. Các bác già trẻ đừng có nóng.
Tôi lớn lên ở vùng ngoại ô bên sông Cầu sông Đuống. “Sông Cầu[1] là đầu câu chuyện.” Sông Cầu nước chẩy lơ thơ / Có đôi trai gái ngồi hơ quần đùi…[2]
Tôi lớn lên đẹp giai. Bọn con gái bảo thế. Môi dày, miệng rộng, trán cao…[3]
Khi tôi lớn lên thế giới của tôi thưa thớt đàn ông.
Tôi sinh ra trong một gia đình bộ đội. Ông bà tôi có nhiều bằng đỏ “Bảng gia đình vẻ vang” và “Tổ quốc ghi công”. Bố tôi là thương binh. Mẹ tôi là một thôn nữ đẹp nhất thôn trong một gia đình có hàng tá dì. Con gái làng tôi ai cũng xinh / Dì tôi nhan sắc dưới trung bình…[4]
Mẹ tôi kể: Sinh ra ông bà đặt tên mẹ là Lai Huyền. Khi mẹ lớn lên í mà, khắp nơi ai cũng ghét bọn đàn ông đẹp giai lại còn học giỏi. Ai cũng yêu các anh bộ đội, thương binh và liệt sỹ vì nước quên thân. Bọn trẻ con hát: Cả đời em chẳng yêu ai / Yêu anh bộ đội có hai quả mìn. Hình ảnh các anh bộ đội thật là vĩ đại và là ước mơ, niềm tin và hy vọng của tất cả phụ nữ. Nhưng mà người ta chỉ có thể nhìn thấy dung nhan các anh trong ngày tòng quân. Sau đó người ta chỉ còn mắt thấy tai nghe tay sờ những người thương binh từ tiền tuyến trở về mà thôi. Hỡi ôi! Chả biết ai bảo ai mà khi ấy ai cũng mơ lấy chồng thương binh. Cứ cô nào xinh xinh mà chưa kiếm được một anh thương binh là ăn ngủ không yên. Mẹ cũng hoàn cảnh như vậy. Mà kiếm được anh thương binh về làng đâu có dễ… Rồi hồng phúc của mẹ cũng đến. Bố con khi đó từ chiến khu trở về mình đầy thương tích với hai vết thương rất nặng, một ở đầu một ở Xi Cà Mâu. Mất một chân, một tay, một mắt, một phổi, một hòn bi, sứt một bên mũi, liệt teo một bán cầu não. Tên ông ấy là Nguyễn Một, trưởng tộc, là anh họ xa con bác phía bà cô bên ngoại tướng Lê Hai nổi tiếng đấy. Ông ấy đầy chiến tích, có nhiều huân chương lắm nhé. Nhà ông ấy lại chỉ cách một ngõ. Hàng ngày mẹ cứ đi qua đi lại qua ngõ nhà người hùng của mẹ, lòng đầy hồi hộp thầm mong được nhìn thấy mặt anh hùng khi tắt nắng, nhiều lần dẫm cả vào bãi cứt trâu mà không hay. Hồi ấy mẹ vừa thon thả vừa gánh lúa dẻo nhất làng, các cụ bảo thế (sau này lấy chồng rồi mẹ lại càng dẻo hơn, phải xứng đáng với vợ thương binh chứ). Rồi cái lão một mắt ấy cũng nhìn thấy mẹ, trong một buổi nhá nhem… Hôm ấy mẹ mặc cái áo lụa đào đi gánh phân. Suốt buổi mẹ cứ phải nghe đủ điều ong tiếng ve nói cạnh nói khóe nhưng trong lòng mẹ thì rúc rích những cơn cười nén tinh quái. Lão đánh đàn bầu hay lắm. Từ hôm liếc trộm thấy mẹ nhà lão ngày nào cũng ngân nga tiếng đàn và ríu rít tiếng thanh thiếu nhi. Mà chẳng hiểu lão lấy đâu ra mà lúc nào cũng có kẹo để cho trẻ con. Người đâu gặp gỡ làm chi…[5] Thôi học bài đi con.
Bố tôi là người gia trưởng độc quyền. Ông quản lý chặt chẽ rên xiết mọi thứ trong nhà: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, truyền thông, đài phát thanh… Mẹ tôi có lần bán được con lợn sau khi bà nuôi mất bao nhiêu công phu (các bạn trẻ sẽ không bao giờ biết được nuôi lợn ngày đó nó vất vả như thế nào đâu. Có những khi cả nhà đi tìm rau cho lợn ăn suốt cả ngày mà không đủ cho chúng ăn [Người còn chẳng có rau mà ăn nữa là lợn. Có rất nhiều buổi sáng trước khi đi học nguồn năng lượng duy nhất tôi được nạp là một cốc nước nóng, không đường]. Mà đã bao giờ quý vị nghe tiếng lợn đói nó kêu chưa? Chưa hả? Vậy thì hãy đi tìm mấy ông hoạn lợn mà bảo các ông ấy cho nghe tạm vậy). Nhân dịp khai giảng năm học mới muốn giành để mua sắm quần áo, sách vở cho các con nên mẹ tôi đã giấu tiền bán lợn ở dưới gối (trời ạ, thực ra thì trong nhà cũng chẳng có chỗ nào để mà giấu tiền). Mọi hành vi mờ ám đều không thể qua được cái con mắt còn lại của người cựu chiến binh kiêm toàn quyền Nguyễn Một. Tối hôm đó tôi không biết tại sao mẹ tôi cứ nức nở tức tưởi suốt cả đêm, thỉnh thoảng lại nghẹn vút lên chua xót như xát muối vào xương tủy. Bạn đã bao giờ nghe một người mẹ khóc như vậy chưa? Đúng giờ Tí mặt trời chân lí bỗng xuất hiện. Nhà độc tài Nguyễn Một buông một câu ngắn gọn và đanh thép: “Ta phải nắm lấy chìa khóa kinh tế chứ.” Tất cả đi ngủ. Cái thằng nhóc là tôi khi đó hiểu rằng con lợn của anh em chúng tôi (tức là quần áo, sách vở, niềm vui, hạnh phúc của chúng tôi [Mấy đứa nhóc tì kia, có biết ngày xưa bọn học trò thèm khát một cái áo đẹp như thế nào không?]) đã được “chuyển dịch cơ cấu kinh tế” từ gối mẹ sang tay cha. Sau đó hễ có đứa nào hỏi bố tôi về chuyện quần áo, sách vở cho năm học mới là được tổng trưởng tài chính Nguyễn Một ban cho một trong những thứ sau: chửi, tát, đấm, vụt, phang, ném gạch. Có người trong chúng tôi đã hân hạnh được biết thế nào là gẫy ba cái thang giường một lúc. Có người được ân sủng biết thế nào là dép lốp đập vào mặt đến mức không nhận ra, vì trông giống con ba ba. Mà không hiểu sao cái thời ấy bị bố đánh đứa nào cũng đứng im chịu trận, như một sự tuân phục tuyệt đối với các bậc cha mẹ (Kiểu như “bố xử mày tử, mày bất tử bất hiếu. Trong nhà bất hiếu, ra ngoài bất trung.” Tối hung! Ơi hỡi hiếu trung). Những khi đủ mặt cả nhà, tổng tư lệnh Nguyễn Một hùng hồn: “Súng đẻ ra chính quyền, chúng mày hiểu chưa?”
Chúng tôi lớn lên mang trong mình dòng máu uất hận chế độ độc tài. Như thể được kế thừa một truyền thống thiêng liêng bọn tôi đều mang tên số một hay đứng đầu: Nguyễn Thị Cả, Nguyễn Văn Đầu, Nguyễn Thị Nhất, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Sơ, Nguyễn Thủ, Nguyễn Khôi, Nguyễn Cao, Nguyễn Mạnh. Một người anh của tôi sau khi bị đuổi khỏi cửa chỉ vì khi bố Nguyễn Một hỏi hai câu (quá tiêu chuẩn!) mà chỉ trả lời có một câu đã xung phong lên đường đi chiến trường B. Sau anh trở về với thương tật 55%, thương binh hạng gì đấy tôi quên mất rồi vì chế độ thương tật đã thay đổi thang bậc nhiều lần. Sự sống sót trở về của anh là một câu chuyện kì lạ khủng khiếp.
Rồi sau đó đến lượt tôi…
Phải chăng tôi đã bịa ra câu chuyện này?
Mạnh viết văn Nguyễn Du (VVND): (khịt mũi) Truyện anh viết đấy à? Sao không ngửi thấy giọng Đặng Thân nhỉ? Phí rượu!
Nguyên Sửu (Ca ve 1): Sao vậy nhỉ? Sao vậy anh yêu? Chưa đủ độ phê hả anh?
Minh địa lý (ĐL): (bức xúc) Tao là người đã bấm ra cái ngày mà chúng ta đang có mặt ở đây như thế này. Tao thấy thằng Mạnh nói đúng. Không thấy giọng Đặng Thân. Có cái gì đó vừa có giọng của Văn nghệ lẫn Văn nghệ Quân đội. Tao báo trước là tao đéo ngửi được mấy cái bọn đấy. Nghe đến tên chúng nó là tao đã buồn nôn.
Mỹ Mùi (Ca ve 2): Buồn nôn quá!
Thiện Tuất (Ca ve 3): Thử chưa? Mấy vạch?[6]
Mỹ Mùi: Vạch vạch cái nồn. Anh Minh bảo là anh Thân buồn nôn.
Thiện Tuất: Anh Thân buồn nôn hả? Thử chưa? Mấy vạch?
Nghệ sỹ kèn xôna: (thổi một hơi dài) Ừ, anh ấy sắp nôn vào tường đấy. Mấy cái con phò này, có im đi cho bố mày nghe chuyện không!
2
Thôi, tôi kể chuyện tình yêu nhé. Ôn chuyện cuộc sống ngày xưa lắm chỉ tổ vãi rắm/linh hồn.
Nhà tôi hồi đó cũng được ăn gạo sổ nhưng tôi vẫn thích đi làm đồng hay chăn trâu với bọn bạn nhà nông thuần túy chiếm phần lớn dân số trường tôi (hơn 80%). Vì tôi không thích ở nhà. Vì tôi thích có bạn. Vì tôi thích gì nữa nhỉ?... Hồi bé bọn tôi hay đánh trận giả (Trẻ con cả nước lúc đó đều thích đánh trận giả hay chơi cờ quân sự). Bọn tôi còn tự phong cho nhau hay tự nhận mình là Đại tá, Chuẩn tướng hay Nguyên soái. Đứa nào cũng đẽo một khẩu súng trường hay súng lục đeo cho oai, cho giống anh bộ đội. Về cái khoản súng thì bọn tôi thích nhất là những khẩu súng bắn diêm. Có lần tôi bắn thử vào gà nhà mình que diêm cắm phập vào nó, phải lấy kìm nhổ mãi mới ra. Thế là con gà nhà tôi cũng đã kế thừa truyền thống gia đình để trở thành một thương binh. Bọn nhỏ hơn thì thường chơi súng kiểu ống thổi ống thụt, bắn đạn giấy hoặc quả cây cơm nguội. Sao mà ở nước tôi đến cây cối cũng mang tên cơm nguội nhỉ? Tôi lớn lên với đủ thứ tên gọi dung tục quanh mình: làng tôi đầy cây cứt lợn, bố tôi mặc áo mầu cứt ngựa, mẹ tôi mặc áo mầu mắm tôm hoặc cứt chó, em tôi đầu đầy cứt trâu, có lần ra đảo chơi tôi đã được ăn con cặc ngựa (ngon lắm), hôm nào cải thiện mẹ tôi cho cả nhà ăn món cà dái dê hoặc rau bà đẻ, bố tôi thường uống rượu cặc chó với ngẩu pín (tức là cặc bò í mà)… Phải chăng dân tộc tôi dung tục nên dung tục hóa mọi vấn đề? Có loại bánh mà bọn tôi thích ra phố ăn là bánh sừng bò thì bố tôi bảo bên Tây người ta gọi nó một cách lãng mạn trân trọng là bánh trăng non hay vầng trăng khuyết. Tả con gái thì cũng dùng đến đủ loại cây cối, lục súc và cả nông cụ: trái xoan (mặt), lá liễu (mày), lá răm (mắt), lá mít (tai), hạt na (răng), hạt nhãn (mắt đen), hoa cau (mồm), gỗ mun (tóc), măng (lông), lợn cạo (da), trứng sáo (lòng mắt), trứng gà (da), dơi (mặt), chuột (mặt), lưỡi cầy (cũng mặt), bừa (răng), bàn cuốc (răng), bàn cào (lại răng), ống thổi lửa (mồm)… Mẹ tôi có câu này mới “dân tộc Kinh”: mặt đỏ như lồn phải phát.
Thảo nào đàn bà nước Nam khổ cực muôn đời, một đời kêu như vạc. Ừ, nhưng mà cũng có lúc sướng âm ỉ thì lại không thấy kêu.
Ôi thế vẫn chưa đến chuyện tình yêu à?
À, mà phải kể tiếp cái chuyện đánh trận giả đã. Chúng tôi đánh như sách giáo khoa (Không phải binh pháp mà là sách Lịch sử cấp I hay cấp II. Các sách ấy đều có dậy hẳn hoi: “Thuở ấy ông thường đánh trận giả với chúng bạn. Sau mỗi cuộc đánh trận giả cậu bé Đ.B.L. lại thường mổ trâu khao quân.” Có điều tôi vẫn thường thắc mắc là sao trâu ở đâu mà nhiều thế, vậy vấn đề là: trâu nhà ai? Nếu nhà ông Đ.B.L. mà giầu có thì ông ấy đã chẳng phải đi chăn trâu làm gì. Tôi chợt ngộ: ông đã ăn trộm trâu sau mỗi lần đánh trận. Sau này lớn lên tôi còn lờ mờ suy ra rằng bản năng kinh tởm của những chính trị gia tầm cỡ đế vương không bao giờ cho phép họ thịt trâu nhà mình cho thiên hạ xơi cả, họ lúc nào cũng muốn xơi của/cả thiên hạ. Tôi bảo chúng bạn hãy cố gắng hết mình để khỏi thua kém ông cha hào hùng, có điều thời buổi ấy trâu đã vào hợp tác xã nên không còn nhiều. Khó khăn lắm). Và cái gì phải đến đã đến, cái không ngờ đến cũng đến.
Tôi đã bị bắt ngay trong lần tác chiến đầu tiên vào dịp nghỉ hè. Tôi đã bị ông thương binh xã đội trưởng dân quân bắt được. Sau khi giã báng súng trường liên hồi vào tôi hắn trói tôi vào cột cờ ở ủy ban, đọc cáo trạng trước toàn thể bà con và thanh thiếu niên xã nhà. Tôi đã bị phạt tiền và phải đi lao động công ích: chăn trâu, chăn lợn và gánh phân (Chắc nhiều người sẽ bảo đây là chuyện nhỏ, vì đến Đặng Tiểu Bình vĩ đại cũng đã từng bị như thế cơ mà). Tôi đã bị ăn gậy lim của tổng trưởng an ninh Nguyễn Một. Trận đòn của ông làm tôi nằm sát ván suốt bẩy ngày, máu bết lên tấm phản như cơm dính. “Có gan ăn cắp có gan chịu đòn”, tôi cắn răng. Thế mà trưởng ban tuyên huấn Nguyễn Một vẫn còn mắng: “Không khóc hả? Gan lì này! Anh hùng này! Quân tử này! Rồi mày sẽ toi mạng vì cái khí khái anh hùng quân tử ấy thôi thằng chó ạ. Đồ ngu như lợn! Yêu mình thì sống, yêu hão huyền thì chết thôi con ơi. Rồi mày sẽ bị bọn tiểu nhân và đàn bà nó dụ mị cho đến mất mạng thôi con.” Rồi bỗng đâu người cha của tôi văng cái gậy lim lên suýt đổ tung cái bàn thờ, ôm mặt bịt mũi khóc hu hu hu. Tôi cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa. Người đánh thì khóc, người đau thì không. Đã đánh người lại còn khóc, ôi thật là nhức óc. Nhưng mà hình như…
Dứt cơn đau tôi phải lên ủy ban nhận việc. Người giao việc cho tôi là anh thương binh bí thư đoàn đội. Việc đầu tiên phải làm là ở trại lợn. Người dặn dò tôi cuối cùng là bác thương binh bí thư đảng ủy, với sự chứng kiến của bà chủ tịch và các bà các cô đại diện phụ nữ, giáo dục, an ninh. Tôi sẽ phải xách cám cho lợn ăn và tắm rửa cho chúng. Đúng là đời ăn cám. Tắm cho những con lợn lai trắng phốp pháp làm tôi nhớ đến bác Mao trong một bài hát xuyên tạc, hình như là bài Rừng bạch dương của Nga. Bài xuyên tạc kể chuyện bác Mao tuy đã già rồi nhưng vẫn vui tươi và vẫn cố đi bơi trên sông Dương Tử để chứng minh với dân tộc và thế giới là bác vẫn rất khỏe mạnh, đủ sức để lèo lái con tầu cách mạng Trung Quốc đến bến vinh quang. Thế nhưng người ta đã bí mật buộc một sợi dây vào bác rồi nối với một chiếc ca-nô chạy trước xa một đoạn. Bài hát có những câu hay và ám ảnh:“Tầu từ từ tăng hết số, phóng như điên Người vẫn dẫn đầu”, hay là“Người vẫy vẫy đôi cách tay nhìn đồng bào đang xúm đen trên bờ. Người từ từ nâng khăn tắm, trắng phau phau trừ mỗi cái nốt ruồi”, hoặc là “Bà Giang Thanh thường nói rằng chồng tôi mỗi tháng tắm một lần. Người có mấy khi tắm đâu vì người bận lo tắm cho dân lành.” Tôi thấy vui với công việc vì thấy mình giống Mao Chủ tịch, có điều ngày nào tôi cũng đi tắm sông chứ không kém tắm như ông ấy. Sau này trưởng thành rồi tôi mới biết nghĩ thế là phạm húy, phạm tội chính trị. Lầm lũi qua ngày lao động công ích đầu tiên tôi thấy một con bé da trắng phau môi đỏ au thập thò trong trại. Nó cứ hay nhìn trộm tôi.
Xong việc tôi ra bể nước rửa chân tay mặt mũi. Con bé ấy đi ngang qua, mỉm cười chào tôi. Tên nó là Quyên. Nó làm tôi thấy nao nao. Sau khi hỏi thăm thì hóa ra là con gái trưởng dân quân xã, người đã bắt tôi vào đây. Nó đến đây với mẹ làm lãnh đạo ở trại lợn này. Mặt tôi hóa đá không thèm trả lời nó thêm một câu nào nữa. Mặt con bé ngơ ngẩn.
Hôm sau nghĩ đến trại lợn là tôi đã phát ớn, nhưng không thể không đến. Cuộc sống ở đây không có hai con đường. Tôi để ý thấy đàn lợn cũng giống hệt dân làng tôi. Mặt mũi giống hệt nhau, ăn ở đều giống nhau, ỉa đái cùng một kiểu, sinh hoạt mọi việc cùng lúc theo kẻng. Chả thế mà mọi người có câu “Ăn cơm trước kẻng” để chỉ việc làm của những người đồi bại, trai gái ăn nằm với nhau trước khi cưới. Cả trại, cả làng đều nhất nhất một hiệu lệnh. Cả đàn lợn còn cùng chung một ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ chỉ có một từ duy nhất: “Ịt ịt”. Sau này lớn lên mỗi khi nhớ tới cái “luận điệu” của chúng tôi lại nhớ ra rằng phần lớn mọi chủ nghĩa trên đời đều có cái đuôi “ịt” để chỉ những người đi theo. Ví dụ như là Trốt-xkịt[7], Cu-bịt[8], Mao-ịt[9], Fô-vịt[10], Ca-pi-ta-lịt[11], Ich-zít-xten-sờ-lịt[12], Ria-lịt[13]… Hóa ra ngôn ngữ loài lợn lại là tổng hòa tất cả các chủ nghĩa. Mẹ chúng mày thế mà khôn, chỉ cần nói một từ cơ bản. “Chủ nghĩa ịt ịt muôn năm!” Mà giống này chim dài lắm nhé. Tôi đã thấy cảnh lợn tơ nhau, cái thằng lợn đực thò ra cái chim dài đến nửa mét xoắn vặn như dây thừng. Mỗi cuộc phải kéo dài cả buổi mấy tiếng đồng hồ. Tôi chợt cảm xấu hổ và bỗng thấy thương hại con người. Con bé nhà trưởng dân quân lại thấy có mặt, cứ lẽo đẽo theo tôi chăn lợn. Tôi càng lảng ra xa nó lại càng đi theo.
3
Câu chuyện tình yêu bắt đầu rồi đấy.
– Em hay đến đây giúp mẹ lúc rỗi. Sao anh cũng phải làm ở đây?
– …
– Em rất thích chơi với lợn nhé. Con người trông cứ ác ác gian gian thế nào ấy.
Tôi giật mình.
– Sao anh không nói gì? Hay anh chê em trẻ con không thèm nói chuyện cùng à?
– …
– À em nhớ rồi, có phải anh là người hôm nọ đứng ở cột cờ không? Anh hiên ngang thật. Bọn em ai cũng bảo trông anh giống anh hùng Nguyễn Văn Trỗi khi ra pháp trường. Trông anh như một anh hùng ấy. Bọn em đứa nào cũng mê các anh hùng anh ạ. Em cũng đọc hết các truyện về anh hùng trên thư viện xã rồi. Anh hùng Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam đủ cả. Em rất thích các anh hùng Lý Tử Trọng, Lê Văn Tám, nhất là anh Nguyễn Văn Trỗi.
– Tên em là Quyên thì là “quyên góp” hay “quyên sinh”?
– Anh hỏi gì em chả hiểu. Cái hôm ấy mà anh hô to lên “Hồ Chí Minh muôn năm” thì thể nào cũng có đứa xông vào giải cứu cho anh đấy.
– Anh ngu nhỉ. Lần sau anh sẽ hô.
– Anh phải hô. Không hô là chết đấy. Bố em bảo thế. Bố em bảo là gì nhỉ… là “đánh giặc mồm”. Bố em giỏi hô lắm.
– Thôi em về với bố em đi.
Từ bữa đó chẳng hiểu sao tôi thấy quyến luyến cái trại lợn. Tôi cảm ơn cái án của xã. Dường như tôi muốn được chăn lợn mãi mãi. Ngày nào con bé Quyên cũng đến. Chẳng hiểu sao lúc nào nó cũng bảo tôi giống Nguyễn Văn Trỗi, người đánh bom cầu Công Lý. Không biết cái sự ví von đó có ám gì đời tôi hay không. Chúng tôi dường trở nên thân thiết sau mỗi ngày vất vả của tôi qua đi. Tôi thấy lòng mình nao nao xúc động vô cớ. Tôi hay nghĩ vẩn vơ. Và tôi bỗng hóa nhà thơ. Tôi làm nên những câu thơ đầu tiên trong đời mình để tặng bé Quyên của tôi. Với vốn liếng ngôn ngữ của đời sống dung tục vì không còn biết gì khác tôi đã viết:
Môi em đỏ như vỏ khoai lang
Má em thơm như cơm mậu dịch
Mắt em sáng như đèn pha Tiệp Khắc
Thế giới tôi sống khi đó khi nghĩ về mầu đỏ thì chỉ có mầu cờ chứ còn cách nói về mầu đỏ của mẹ tôi thì làm sao mà đưa vào thơ được, mà chẳng nhẽ lại viết là “môi em đỏ như cờ tổ quốc” hay là “môi em đỏ như cờ cách mạng” thì nghe giống thơ Tố Hữu quá. Tôi quyết không thể viết thơ tình theo giọng Tố Hữu được (Ấy thế mà sau này có người phân tích cho tôi là bài thơ đầu đời của tôi sặc giọng thơ Tố Hữu mới cay chứ. Không lẽ hàng triệu người chúng tôi đã có ông ấy nằm lù lù trong vô thức hay sao?). Tôi chợt nhìn vào góc nhà thì thấy cái mầu đỏ duy nhất trong không gian tôi sống đang thăng hoa từ đống khoai lang, thế là câu thơ đầu tiên ra đời. Cơm mậu dịch thì đến với tôi từ kỉ niệm mãi không phai về một lần được đi lên phố chơi với bố. Ông ấy rất hay ăn uống ở các cửa hàng ăn uống hay giải khát, thảo nào mà bao nhiêu tiền cũng hết, vợ con nhà cửa nheo nhóc tiêu điều. Sau này lớn lên tôi cũng không biết là nên giận hay thương ông ấy nữa. Đèn pha Tiệp Khắc thì xuất phát từ cái xe đạp Favorite duy nhất chỉ có ông bí thư đảng ủy có. Quyên đọc bài thơ tôi tặng lấy làm thích lắm. Nó bảo chưa bao giờ thấy bài thơ nào vừa hay vừa độc đáo như thế. Tôi thì vô cùng sửng sốt vì không biết bài thơ của mình độc đáo ở chỗ nào. Con bé này nó lại đọc sách nhiều nên có hai khả năng xảy ra: hoặc nó bị ngộ chữ nên nghĩ ngợi nói năng như bọn chập cheng, hoặc là nó có phát hiện ra sự độc đáo thực sự.
Quyên giải thích cho tôi:
– Thứ nhất là bài thơ có nghệ thuật gieo vần khá đặc biệt, vì người ta chỉ thường gieo vần cuối câu chứ chưa có ai gieo “vần giữa lưng” như là “đỏ” với “vỏ” hay là “thơm” với “cơm” được như của anh đâu.
Tôi kinh ngạc, không ngờ mình tài.
– Bài thơ của anh còn có sự lặp lại phụ âm đầu “m” khi mở đầu cả ba câu thơ. Nghệ thuật này Việt Nam chưa có đâu anh. Em nghe nói là chỉ bên nước Anh xa xôi người ta mới có cách gieo vần kiểu này thôi đấy.
Chẳng nhẽ tôi ác liệt đến thế kia sao?
Quyên còn nói rằng là từ xưa đến nay ông cha ta khi tả phụ nữ thì chỉ ví von với các loại cây cối, lục súc hay nông cụ thôi chứ chưa có ai có thể sánh nhan sắc của người con gái với “cơm mậu dịch” và “đèn pha Tiệp” cả, đấy càng là cái độc đáo trong sáng tạo của bài thơ. Cái độc đáo mang tinh thần thời đại, mang hơi thở hiện thực xã hội chủ nghĩa, ấm áp tình giai cấp. Nó bảo với chừng ấy tư chất sáng tạo tôi dễ có khả năng thành một nhà thơ lớn, dễ sánh cùng Tố Hữu lắm (lại Tố Hữu). Nó ôm bài thơ nơi trái tim rất lâu mắt nhìn xa xăm. Chắc là nó đang dõi xem phía ngoài sông xa có “cánh buồm đỏ thắm”[14] nào không.
– Em ơi, rồi sẽ có ngày một hoàng tử đến đón em đi mà.
– Ghét anh! Em không thích hoàng tử. Em chỉ thích anh hùng. Anh sẽ là anh hùng nhé?
– Anh nhát lắm. Nhưng anh sẽ cố.
Ý muốn của em như một mệnh lệnh, như định mệnh. Và chúng tôi đã cùng nhau lớn lên trên mảnh đất quê hương thân yêu, da thịt nở bung dưới mặt trời. Và “mối tình chăn lợn” của tôi đã bắt đầu như thế, kéo dài cho đến ngày tạ thế.
Một lần khác tôi lại nghĩ ra một trò chơi nhỏ. Trò chơi được phát huy từ năng lực làm thơ của tôi.
Một hôm tôi thấy tay chơi Nguyễn Một kiếm đâu về một tút thuốc lá CAPSTAN dấm dúi cất rất kỹ trên bàn thờ. Nhìn loại thuốc lạ tôi cứ nghĩ vớ vẩn linh tinh, và một bài thơ đã thành hình. Tôi nghĩ ra một kế, kiểu “một tên hai đích” hay “một đá hai chim”. Tôi ăn trộm của bố một bao thuốc lá rồi đưa cho Quyên.
– Em à! Anh xin được tặng em một bài thơ.
– Thơ đâu? Đây là một bao thuốc lá thôi mà. Anh bị làm sao thế? Ấm đầu à?
– Ờ… Ý anh là anh muốn được tặng bố em bao thuốc lá này, nhờ em đưa hộ nhé. Anh muốn bố em quên đi hình ảnh một thằng bé tội lỗi ngày xưa để kết tình giao hảo. Anh muốn được cảm ơn người đã sinh thành nên một cô bé tuyệt vời tên là Quyên. Anh muốn…
– Có mỗi bao thuốc mà anh muốn nhiều thế? Tham ơi là tham!
– Tham cũng là phẩm chất cơ bản của những anh hùng đấy em ạ. Thực ra anh thấy ở nhà em người tuyệt vời nhất là mẹ em. Một con người sao mà xinh đẹp, hiền hòa, tế nhị, thông minh, phúc hậu… Và đặc biệt nhất là…
– Có nghĩa là em không ra gì đúng không? Anh mê mẹ em à?
– Và tài năng đặc biệt nhất của bà chính là… bà đã truyền hết những phẩm chất tuyệt vời ấy cho con gái của mình.
– Dở hơi!
– Và… với việc có hai người phụ nữa tuyệt vời ấy chứng tỏ… bố em thật là vĩ đại.
– Rồ ạ!
– Vì thế mà anh muốn tặng bố em bao thuốc nhỏ này để bầy tỏ lòng kính phục.
Tối hôm ấy tất cả anh em chúng tôi đều bị ăn đòn. Khi tôi về đến nhà thì thấy mọi người đang nằm trên nền nhà còn tư lệnh Nguyễn Một thì đang gầm lên, tay lăm lăm cây độc nạng, mặt mũi dị dạng.
– Chúng mày dám hút thuốc đã là một tội đua đòi không chấp nhận được. Nhưng cái tội ăn cắp mới là tội tử hình… Cái tội ăn cắp là nguyên nhân của mọi băng hoại, thoái hóa, suy đồi, vong bản, độc ác, phản động, mất tính người…
Tôi bước vào nhận lỗi ngay. Chỉ kịp cho tôi một nạng như trời đánh thánh vật là ông mất đà ngã lăn quay ra. Sau khi thốt lên một câu “Hỏng rồi” là ông không nói gì nữa. Thực ra là ông có nói thêm một câu gì đó nhưng nghe không rõ. Mẹ tôi lúc đó đứng cạnh can xin ông nên có nghe được lờ mờ và sau đó kể lại rằng: tao được làm thương binh đã là may, không khéo chúng mày liệt sỹ hết. Con mắt lành của ông nhòa lệ. Hốc mắt thương binh rỉ nước.
Lại mõm chó (MC): (chề môi) Thưa các bác em còn thấy cả giọng “Người tốt việc tốt” báo Nhân dân, rồi Mực tím, Hoa học trò, “Tác phẩm tuổi xanh”, Tuổi trẻ cười… Thế mới “hồi xuân”!
Chân Hợi (Ca ve 4): Ôki các anh, các anh vẫn còn đang xuân chứ đâu đã làm gì mà hồi.
Lại MC: Các em có biết là đời người ta bây giờ có khái niệm mới là quy về “tứ hồi” không?
Lộng Dậu (Ca ve 5): (đeo kính, vẻ sinh viên trí thức) Tức nà như cái nhà bốn hồi hay nà một vở kịch bốn hồi ạ?
Lại MC: Khi còn bé người ta gọi là “hồi trẻ”; lớn lên người ta mong muốn mọi thứ công danh, tiền bạc, vợ đẹp, chồng sang, con khôn mà càng mong muốn thì càng “hồi hộp”; đúng lúc về bên kia dốc cuộc đời thì người ta “hồi xuân”; rồi cuối cùng thì “hồi âm”. Hề hề…
Nghệ sỹ nhị: (đi một đường “ắc-xê” trên “vi-ô-lông bẹn” đầy ấn tượng) Và nếu có người chết sống lại thì người ta gọi là “hồi dương” (cười đắc chí). Thế mới ẩm ương! Như cái truyện này của anh Thân ấy, rõ ẩm ương các bác nhẩy. Nghe có vẻ thiếu tôn trọng người đọc.
Hôm sau gặp lại Quyên. Nàng ríu rít kể là bố nàng rất vui khi nhận bao thuốc và nghe nàng kể lại câu chuyện của tôi.
– Ôi nhưng mà anh bị làm sao mà phải băng cánh tay thế này? Đánh nhau hả?
– Bố đánh.
– Vì sao vậy?
– Đừng hỏi nữa. Anh quen rồi. Bố anh nghiện đánh lắm. Người anh đầy vết thương. Lòng anh còn nhiều hơn.
– Để em an ủi anh.
– Ừ, an ủi anh đi. Vết thương này có liên quan đến tình yêu của anh đấy.
– Anh còn yêu đương ai vậy?
– Không ai nữa cả. Thế em đã đọc được bài thơ anh tặng em trên bao thuốc hôm qua chưa?
– Trên bao thuốc có bài thơ ấy à? Em có thấy gì đâu. Để em về tìm đọc không bố em lại vứt đi mất.
– Em có thấy dòng chữ CAPSTAN chứ?
– Tất nhiên là có.
– Bài thơ nằm ở đấy đấy em ạ.
– Em chả hiểu.
– Em không hiểu bởi vì em… bí tiểu.
– Anh đểu! Ứ chơi vơi anh nữa.
– Có bài thơ anh tặng em thật mà. Anh đã làm bài thơ này trên “tinh thần Nguyễn Văn Trỗi” đấy. Anh đọc em nghe nhé. Đọc xuôi chữ CAPSTAN sẽ có câu “Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát”, rồi đọc ngược lại sẽ có câu thứ hai “Nhưng Anh Tin Số Phận Anh Còn”[15]. Hay không?
– Anh tài nhỉ. Em yêu anh.
– Anh đọc cả bài cho em nghe này…
Quyên dậy tôi thật nhiều điều. Trước khi gặp nàng tôi chưa biết gì về văn hóa hay thơ ca cả, tôi chỉ là thằng cục súc. Nàng đã khơi dậy trong tôi tất cả ý chí, hoài bão, lý tưởng, văn minh, văn hiến. Chỉ có điều tôi vẫn chưa hề dám cầm tay nàng. Tôi vẫn thấy phụ nữ thật đẹp, thật cao quý và thiêng liêng còn đàn ông sao mà xấu xa, thô bỉ, đáng kinh tởm quá chừng. Vì thế mà tôi ngưỡng vọng nàng, và chưa dám cầm tay. Tâm trạng tôi rất gay.
4
Một sự kiện kinh hoàng đã xảy ra.
Hồi đó chúng tôi đi học đều phải qua một đoạn sông nhỏ. Cây cầu gần nhất để sang sông là một cái cầu khỉ oặt ẹo. Những ai sợ không dám bước qua cầu này (nhất là đám con gái) thì phải đi bằng đò, mà bến đò thì lại ở khá xa. Đã thế ở bến đò ấy cũng đã từng có nhiều người chết đuối, thương tâm nhất là cái chết cùng một lúc của 13 nữ sinh tuổi 13 vào một mùa mưa lũ lắc lơ. Vì thế mà những đứa sợ ma lại chẳng dám đi bằng đò. Thật là tiến thoái lưỡng nan, làm thân đàn bà con gái ở nước tôi sao mà khổ cực đủ đường. Ừ, mà làm đàn ông như tôi cũng có sung sướng gì đâu.
Mà mọi người có biết cầu khỉ là cầu thế nào không? Quyên của tôi đã có lần lên tận thư viện xã tìm được quyển Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phế chủ biên có hẳn lời giới thiệu và ca ngợi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và nàng đã chép lại thế này:
cầu khỉ d. Cầu làm bằng một hoặc hai cây tre, gỗ, v.v., bắc qua suối, lạch, thường có tay vịn.
Tôi nhận thấy cái định nghĩa của thầy trò ông Hoàng Phế còn có vấn đề khiếm khuyết trầm trọng mà không biết nói cùng ai để cho người ta bổ sung thêm cho cái “cầu khỉ” nó được đầy đủ cho mọi người hiểu. Chắc là thầy trò nhà ông ấy chưa bao giờ nhìn thấy cái cầu khỉ mà chỉ rúc đầu trong phòng rồi bịa ra mọi thứ định nghĩa theo kiểu “quan liêu bao cấp”? Thế có một hai cái cây bắc ngang thôi à? Thế thì tay vịn gắn vào đâu? Thực ra cầu khỉ còn có nhiều “trụ cầu” làm bằng hai cây gỗ hoặc tre bắt chéo. Ở chỗ hai cái cây giao nhau ấy người ta đặt thanh ngang, và phía trên thanh ngang chừng một mét người ta mới gắn những thanh tay vịn. Giời ạ, nghe các bác tả em cứ tưởng là cái cầu treo. Mà làm được cầu treo khi đó trên thế giới còn là của hiếm. Còn cái cầu khỉ quê tôi thì nhiều đoạn còn mất cả tay vịn mà chẳng ai thèm sửa chữa cả. Đi qua được cái cầu này quả thực là vất vả.
Cái cơn bực mình ức chế vì sự cẩu thả khiếm khuyết của sách báo nước nhà làm tôi chợt nghĩ ra một ý để trêu nàng:
– Thế em có biết cái cầu mà bên trên có mái thì gọi là cầu gì không?
– Chắc gọi là cầu mái. Em thấy có sách gọi là “thượng gia hạ kiều” thì phải.
– Không phải. Gọi là “nhà cầu”.
– Ý anh bảo là ở giữa cầu người ta phải khoét một cái lỗ nữa chứ gì? Đầu óc anh toàn chuyện bậy bạ.
– Vâng. Tôi có thế thôi. Nhưng anh báo trước cho em biết rằng bọn đàn ông trong đầu óc toàn chuyện bậy bạ trở lên mà thôi. Đừng dây với chúng nó làm gì.
– Thế anh không biết đầu óc đàn bà còn tồi tệ hơn à? Chưa biết ai là người bị hại.
Nói rồi nàng vén môi nở nụ cười bí hiểm. Nụ cười Mona Lisa!
Mỗi buổi đi học về đoạn cầu này chí chóe lắm. Bọn con trai đuổi nhau rơi tùm tùm xuống sông là chuyện thường. Có đứa va vào cọc sứt đầu mẻ trán máu chẩy tràn trề, có đứa cắm đầu xuống bùn xuýt chết. Nhìn những cảnh ấy nhiều khi nghĩ lại vẫn thấy rùng mình, không nuốt nổi bát cơm.
Có một chiều hoàng hôn tôi và Quyên đã đến bên cây cầu ấy.
Chúng tôi vui chơi với nhau trên triền đê.
Triền đê quê tôi buổi chiều về thật đẹp. Tôi đã làm một bài thơ khá hay về con đê này, chép vào sổ tay hẳn hoi rồi mà không biết đứa nào (không biết vì thích hay ghét) đã xé mất. Còn tôi thì chịu không thể nhớ được bài thơ ấy mới tệ chứ. Khi nào nhớ ra tôi sẽ (nhờ Đặng Thân) gửi tới mọi người sau vậy nhé, được không? Nhưng có một bài thơ mà tôi làm để tặng Quyên thì may mắn là vẫn còn trong sổ tay của nàng. Bài thơ tôi viết về con đường dẫn từ làng tôi ra đến cây cầu khỉ. Con đường ấy là nơi tôi và Quyên và bao nhiêu thế hệ những người yêu nhau khác đã đi bên nhau, đã tì gốc cây tâm sự, đã đến bên cầu và… quay lại. Hai bên đường là hai hàng cây rợp bóng. Ngút ngát xanh mầu lá, rực rỡ mầu hoa khi hạ về và râm ran tiếng ve, tiếng dế, tiếng ễnh ương. Hễ nhớ về nó là tim tôi nhức nhối, óc tôi bàng hoàng. Bài thơ làm theo kiểu “độc vận” (tôi là con của Nguyễn Một độc tài mà), chỉ một vần “ây”:
VẾT HẰN CON ĐƯỜNG ẤY
Da diết nhớ buổi chiều vàng xưa ấy
Cuối con đường có một con diều giấy.
Tay đan tay ghì xiết những cành cây
Vết hằn nào in dưới gốc này đây??
Tay đan ấy là vì yêu nhớ ấy
Vết hằn nào ghi bao cuộc ngất ngây.
Ta đã biết được hương đời từ đấy
Bỗng một ngày ai đã đi về Tây??
Ai về Tây để bao kẻ dại ngây
Để rủ lá bên đường bao cành cây.
Nhưng gốc ấy vẫn vết hằn xưa ấy
Giờ hằn thêm bao vết vẫn chưa đầy!!
Con đường thẳng y như một đường cầy
Bao dìu dập đưa nhau qua vũng lầy.
Bao cát bụi chẳng xóa đi ngày ấy
Bao vết hằn bấy nhiêu cuộc mưa mây!!
Thực ra thì bài thơ này mãi sau này tôi mới làm, nhưng vì trót nhắc đến “bờ đê quê hương” và “con đường làng” nên tôi vội trưng ra để mọi người tăng cảm xúc mà đọc tiếp. Cụ thể là bài thơ được ra đời rất lâu sau khi sự cố sau đây xẩy ra. Một sự kiện kinh hoàng.
Hoàng Ngưu (Ca ve 6): Ông thì biết cái đéo gì mà cũng chõ mõm vào. Giữ sức để mai về còn ra Phùng Hưng[16] mà làm việc nuôi vợ nuôi con.
Tân dốc nhãn đê thùy (DNĐT): Tôi thấy truyện có cả Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Lưu Vũ… Thế mới tạp pí lù.
Thiện Tuất: Đúng là ù ù cạc cạc cái nhà anh Thân này. Tạp pí lù quá.
Mạnh VVND: Mọi người sai toét. Theo tôi đây là một thử nghiệm mới của anh Thân về văn phong.
Chân Hợi: Vậy hả anh? Anh Thân có kiểu “văn” mới à? Bảo cho em với đi để em còn đi “văn” bọn khách sộp. Em luôn tin những gì anh Mạnh nói.
Tân DNĐT: Ờ, tôi cũng thấy thế. Lần đầu tiên tôi thấy nhân vật của ông Thân không bắn ngoại ngữ.
Mạnh VVND: (cười nhếch môi) Một thanh niên nông thôn ngày xưa thì lấy đâu ra ngoại ngữ mà bắn. Chỉ thích bắn súng thôi.
Chân Hợi: (thớ lợ, vuốt háng Mạnh) Ôki anh, súng của anh đâu?
Tân DNĐT: Đúng đấy. Giọng rất đúng với giọng của thanh niên ngày xưa. Từ ngữ toàn của những năm 60-70 thế kỉ trước.
Nghệ sỹ nhị: (lắp bắp) Thế thì cổ hủ quá. Lạc hậu quá.
Ấy chính là cái buổi chiều mà tôi đã cùng Quyên đến bên cầu. Tôi lấy hết can đảm (trước khi đi chơi cùng nàng tôi đã dốc nửa can rượu làng Vân của tay chơi Nguyễn Một lên tu bằng hết để tăng cường dũng khí) cầm tay nàng. Lúc đó chắc trong tim tôi có một nửa máu tươi thôi, còn một nửa là cồn tươi. Nàng vùng tay ra, tần ngần, rồi bỏ chạy. Tôi phóng cước đuổi theo. Nàng chạy lúc nhanh, lúc chậm nhưng không hiểu sao tôi không thể đuổi kịp. Nàng chạy loanh quanh triền đê. Tôi vấp ngã, máu ựa ra đầy mồm. Tôi đứng dậy đuổi tiếp, mà sao lúc nào cũng thấy nàng đang ở phía trước. Rồi nàng phóng vọt lên cầu. Hỡi ôi, thật là rùng rợn! Đôi chân nàng dường thoăn thoắt, dường như lảo đảo, dường như chập chờn. Rồi nàng chới với. Nghiêng. Nghiêng. Ngang. Nàng sắp lộn xuống sông rồi! Nàng ngã thật. Lúc này tôi đã gần bắt kịp nàng, chỉ cách chừng ngót sải tay nữa thôi. Nàng đã lả người xuống. Tôi đang định lao người theo xuống nước để cứu nàng thì ôi thôi…
Nàng ngã nhào nhưng cái quần lại mắc vào cọc cầu. Cái quần bị kéo lại như bị người ta lột một phát ra vậy. Cái áo của nàng thì tụt rũ ngược hẳn xuống phủ kín đầu, chạm mặt nước. Toàn thân nàng hiện ra trong ánh tà dương còn sót lại. Ánh chớp huy hoàng. Đất trời loang lổ. Âm dương rùng mình. Tạo Hóa hổn hển. Tôi hụt hơi. Như bị điện giật tôi túm vội được bàn chân nàng. Tay tôi văng vào cọc cầu xóc đến tận xương, thịt xương trắng lóa, máu đỏ lòm. Một ống quần đã tuột hẳn khỏi chân nàng.
Nàng không mặc quần lót.
Một sự kiện kinh hoàng! Tôi đã nói rồi mà.
Cái thời của chúng tôi quần áo hiếm hoi lắm, được cái nọ thì mất cái kia. Chính bản thân tôi cũng nhiều khi không mặc quần đùi khi đang mặc quần dài. Bọn chúng tôi vẫn thường hát theo điệu chát xình xình: “Có hai cái quần. Giặt quần chùng anh mặc quần đùi. Giặt quần đùi anh mặc quần chùng…” Mà… có cái chuyện này nữa: hồi đó chúng tôi chưa hề biết rằng trên đời này có cái gọi là phim sex.
Tôi thăng hoa tột đỉnh trong đêm hoang tối hôm đó trên bờ đê quê hương. Tôi nằm vật ra thảm cỏ. Háng tôi nhức nhối. Cởi hết quần áo tôi khỏa thân giữa trời đất. Dương vật tôi như cao xạ pháo phòng không vươn thẳng lên trời cao. Tôi bắn tinh liên tục liên tục như pháo hoa, tinh dịch rơi xuống đầy trên những vết chân ngoại cỡ của tôi in hình nơi đất ướt. Sự kiện kinh hoàng đó xẩy ra làm tôi cấm khẩu mất ba ngày ba đêm. Tôi như thể đã nhìn thấy cửa thiên đàng. Sau đó tôi đã làm nên câu thơ bất hủ, sau này không ngờ được bình chọn vào danh sách “100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX”. Câu thơ thế này:
Đừng buông giọt ấy xuống sông
Thân anh dù một sợi lông cũng chìm
Má hồng ơi, sao mà yêu đến thế. Sau sự cố Quyên cũng như bỗng dưng thành con người khác hẳn. Nàng trở nên bẽn lẽn lạ lùng. Nàng như bị khuất phục hoàn toàn. Nàng như không còn nanh vuốt. Nàng như mất hết tinh thần. Tôi cầm tay nàng dễ như cầm tay tôi. Tôi hôn nàng cứ như không. Phải chăng nàng là hiện thân của công chúa Tiên Dung xưa? Một lần là mãi mãi! Ôi con gái thời tôi sống là như vậy đấy.
Chỉ có điều… không hiểu sao nàng càng bẽn lẽn thì tôi lại càng trở thành một nô lệ đích thực của nàng. Xưa kia nàng có nói gì thì tôi cũng chỉ nghe một nửa. Bây giờ nàng không nói gì thì tôi lại càng cố nghĩ xem nàng đang muốn gì để tìm cách chiều lòng nàng cho bằng được.
5
Nguồn: vanchuongviet.org
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét