Thứ Hai, 3 tháng 5, 2021

Người tình sông Trà Bồng

 Những thứ họ mang

Người tình sông Trà Bồng

Tim O'Brien

Việt Nam lắm chuyện lạ, một số chuyện khó là thật được, số khác còn khó thật hơn nhiều, song chỉ những chuyện nào đảo lui đảo tới giữa tầm phào và hỗn loạn, giữa cái điên rồ và cái hằng ngày thì mới còn mãi. Có câu chuyện này cứ trở đi trở lại với tôi. Tôi nghe Chuột Kiley kể lại, hắn thề sống thề chết đấy là chuyện thật, tuy xét cho cùng tôi phải thừa nhận dù có vậy đi chăng nữa thì cũng chả có gì bảo đảm. Trong toàn Đại đội Alpha, Chuột vốn có tiếng hay phóng đại và cường điệu, ưa thêm thắt cho sự việc nghe sinh động hơn, và với hầu hết chúng tôi hắn có kể gì đi nữa ta cũng trừ bớt đi sáu bảy chục phần trăm là chuyện thường. Chẳng hạn, nếu Chuột kể với ta rằng hắn từng ngủ với bốn cô trong một đêm, ta có thể hình dung là chừng một cô rưỡi. Chả phải hắn muốn lừa ai. Ngược lại: hắn muốn đun sự thực cho nóng lên, muốn làm cho sự thực cháy lên đến nỗi ta cảm thấy y như hắn thấy. Với Chuột Kiley, tôi nghĩ, các sự kiện được hình thành bởi cảm giác chứ không phải ngược lại, và mỗi khi nghe một trong mấy chuyện của hắn, ta lại thấy mình đang làm tính nhẩm trong đầu, trừ đi những cấp so sánh nhất, luận ra căn bậc hai cho một trị tuyệt đối rồi nhân lên bằng “có thể”.

Thế nhưng, riêng với chuyện này. Chuột không chịu nhượng bộ. Hắn tuyên bố đã tận mắt chứng kiến vụ này, và tôi nhớ hắn đã bực mình ra sao khi một sáng nọ Mitchell Sanders tỏ ra ngờ vực cái tiền đề căn bản của câu chuyện.

“Làm gì có chuyện ấy được,” Sanders nói, “Chả ai đưa ghệ của mình sang Việt Nam bao giờ. Nghe chả thật tí nào. Làm sao mày nhập cảng con bồ ruột của mày sang đây được chớ.”

Chuột lắc đầu. “Chính mắt tao thấy, bạn à. Tao ở ngay đó. Thằng đó nó làm vậy mà.”

“Bạn gái nó hả?”

“Chính vậy. Thiệt hẳn hoi.” Giọng Chuột rít lên một chút. Hắn ngừng nói, nhìn hai tay mình. “Nghe nè, thằng đó gửi tiền cho cổ. Để cổ bay qua. Con nhỏ tóc vàng xinh xinh – chỉ là một con nhóc, mới học xong trung học –, nó ló mặt tới xách theo va li và một túi nhựa đựng phấn son các thứ. Tới thẳng giữa chốn đồng không mông quạnh. Thề có Chúa, bạn à. Quần váy trắng với áo thun hồng khêu gợi. Kìa con nhỏ tới.”

Tôi nhớ Mitchell Sanders khoanh tay lại. Hắn nhìn sang tôi một thoáng, không hẳn cười toe toét, không nói một câu, nhưng tôi đọc được sự khoái trá trong mắt hắn.

Chuột cũng nhìn thấy.

“Hổng xạo đâu,” hắn lẩm bẩm. “Quần váy.”

 

Hồi Chuột mới sang Việt Nam, trước khi gia nhập Đại đội Alpha hắn từng được phiên chế vào một trung đội quân y nhỏ trên vùng núi phía Tây Chu Lai, gần làng Trà Bồng, ở đó, cùng với tám người nữa hắn điều hành một trung tâm cứu thương chuyên cấp cứu và điều trị chấn thương. Các ca bị thương được trực thăng chở tới, được sơ cứu, sau đó đưa đến bệnh viện ở Chu Lai hay Đà Nẵng. Công việc thật ghê sợ, Chuột nói, nhưng thì thế, có gì lạ đâu. Chủ yếu là cưa, cưa tay cưa chân. Vùng đó đầy mìn, dày đặc bom nhảy và bẫy tự tạo. Tuy nhiên, với lính quân y thì đây là nhiệm vụ lý tưởng, và Chuột tự cho mình may mắn. Có nhiều bia lạnh, ba bữa nóng hổi mỗi ngày, mái nhà tôn trên đầu. Chả phải tập tành gì ráo. Sĩ quan cũng chẳng có ma nào. Mình có thể để tóc dài, hắn nói, cũng chả phải đánh giày hay đứng nghiêm chào hay chịu đựng mấy chuyện ba láp hậu với chả cứ. Người có cấp bậc cao nhất là một hạ sĩ quan tên Eddie Diamond, thú vui của hắn gồm từ cần sa cho tới Darvon10, và ngoại trừ một chuyến điều nghiên địa hình hiếm hoi thì chả hề có cái gì giống như kỷ luật nhà binh.

Theo như Chuột mô tả thì cơ sở đó nằm trên đỉnh một ngọn đồi phẳng dọc theo ngoại vi phía Bắc Trà Bồng. Một đầu là bãi đất nhỏ đáp trực thăng; đầu kia là nhà ăn và các lán cứu thương quay đại khái thành hình bán nguyệt nhìn xuống một con sông gọi là sông Trà Bồng. Bao quanh chỗ đó là những vòng dây kẽm gai xoắn ốc nhằng nhịt, với những boong ke và ụ bắn xây bê tông cách quãng không đều, và an ninh cơ bản được bảo đảm nhờ một đơn vị hỗn hợp gồm dân quân, địa phương quân và bộ binh Việt Nam Cộng hòa. Nghĩa là hầu như chẳng có an ninh gì hết. Nếu bảo là lính thì lính Việt Nam Cộng hòa toàn một lũ vô dụng; còn đám quân dân với địa phương quân thì cực kỳ nguy hiểm. Thế nhưng dẫu có quân có lính đâu ra đó song điều hiển nhiên là nơi này không thể phòng thủ được. Về phía Bắc và phía Tây đồng không mông quạnh dựng lên dày đặc như hằng hà sa số bức tường, rừng sâu ba lớp tán, núi non vươn ra thành núi cao hơn, hẻm núi với vực sâu rồi lại sông chảy xiết rồi lại thác ghềnh rồi lại những con bướm lạ rồi lại vách đá dựng đứng những làng xóm nhỏ tỏa khói rồi lại những lũng tre rộng mênh mông rồi lại cỏ voi. Hồi trước, đầu thập niên 1960, người ta bố trí chỗ này làm tiền đồn cho Lực lượng Đặc biệt, và khi Chuột Kiley đến gần một thập kỷ sau, một đội gồm sáu lính Mũ Nồi Xanh vẫn còn dùng tổ hợp này làm căn cứ hoạt động. Bọn Mũ Nồi Xanh không phải là hạng thích giao du với người khác. Chúng như lũ thú, Chuột nói. Chúng có lán riêng nơi mép vòng rào ngoài, được gia cố bằng bao cát với hàng rào kim loại, và trừ phi vì những nhu cầu thiết yếu, còn thì chúng tránh tiếp xúc với đơn vị quân y. Lẩn lút và đáng ngờ, là những kẻ cô độc từ bản chất, sáu Mũ Nồi Xanh này thỉnh thoảng biến mất mỗi lần mấy ngày, thậm chí mấy tuần, thế rồi đêm hôm khuya khoắt chúng lại tái xuất hiện như có phép thần, di chuyển như những cái bóng dưới ánh trăng, lặng lẽ nhô ra từ trong rừng nhiệt đới rậm rạp mà tiến về phía Tây. Đám lính quân y hay đùa về vụ đó, nhưng hỏi thì không ai hỏi.

Tuy tiền đồn này khá cô lập và dễ bị tấn công nhưng Chuột nói khi ở đó hắn cảm thấy an toàn một cách kỳ quặc. Chẳng nhiều chuyện xảy ra lắm. Nơi đó chả bao giờ bị dập súng cối, chả bao giờ bị nã đạn, và cuộc chiến tuồng như đang ở đâu đó xa lắm. Thi thoảng, khi có người bị thương tới thì cũng bận bịu lăng xăng một hồi, nhưng nếu không thì ngày này sang ngày khác diễn ra chẳng có sự cố gì, một quãng thời gian phẳng lặng êm ru. Gần như sáng nào họ cũng chơi bóng chuyền ngoài sân. Giữa trưa nóng bức đám đàn ông thường tìm mấy chỗ bóng râm nằm khàn cho qua những buổi chiều dài, rồi tối đến có chiếu phim có chơi bài và thỉnh thoảng có những buổi nhậu nhẹt chè chén thâu đêm.

Đúng vào giữa một trong những đêm thâu đó Eddie Diamond nêu ra cái khả năng đầy cám dỗ kia. Ấy chỉ là một nhận xét ngẫu nhiên. Thực ra là một câu đùa, Eddie nói, đáng lẽ tụi nó nên bỏ ra dăm đồng đưa vài mama-san11 từ Sài Gòn tới cho cả nhà vui vẻ tí, thế là thoáng sau một người trong đám lính cười rộ nói, “Câu lạc bộ nhà binh nho nhỏ của riêng tụi mình,” rồi một người khác nói, “Ê bây, tụi mình trả lệ phí chớ hả, đụ bà nó?” Chả có gì nghiêm túc hết. Chỉ để giết thì giờ, tán cho vui về các khả năng, thế nên họ nói tới nói lui quanh ý ấy một hồi, nếu mình muốn làm thế thật thì liệu có được không, đâu có sĩ quan sĩ kiết gì đâu, làm gì có ai kềm kẹp mình, thế rồi họ bỏ qua đề tài ấy mà chuyển sang chuyện xe hơi và bóng chày.

Tuy nhiên, khuya hôm đó một lính quân y trẻ tên Mark Fossie cứ nhắc lại đề tài đó.

“Nè,” hắn nói, “nếu nghĩ kỹ thì chuyện ấy chả điên rồ lắm đâu. Mình làm được mà.”

“Làm gì?” Chuột hỏi.

“Thì đưa một cô nàng tới đây chớ còn gì nữa. Khó gì đâu?”

Chuột nhún vai. “Chả gì hết. Chiến tranh.”

“Chà, thấy không, vấn đề là ở đó,” Mark Fossie nói. “Ở đây thì chả chiến tranh gì ráo. Mình làm được thiệt mà. Chỉ cần gan mình to một chút là làm được.”

Có vài người cười rộ, và Eddie Diamond bảo tốt hơn là hắn nên buộc cây hàng của hắn cho chắc vào, nhưng Fossie chỉ cau mày nhìn lên trần một lát rồi bỏ đi viết thư.

Sáu tuần sau bồ hắn xuất hiện.

Theo như Chuột kể thì cô ả tới bằng trực thăng trên chuyến hàng tiếp tế hằng ngày bay từ Chu Lai. Một ả tóc vàng cao, to xương. Chuột nói cô ả cùng lắm chỉ mười bảy tuổi, mới tốt nghiệp trung học trường Cleveland Heights. Ả có cặp giò dài, cặp mắt xanh dương, nước da giống màu kem dâu. Và rất vui vẻ thân thiện nữa.

Nơi bãi đáp trực thăng sáng đó, Mark Fossie cười toe toét quàng tay qua người ả nói, “Nè tụi bây, đây là Mary Anne.”

Cô gái có vẻ mệt và hơi lúng túng, nhưng ả mỉm cười.

Im lặng nặng nề, Eddie Diamond, tay hạ sĩ quan, khẽ cử động bàn tay, và một vài người khác lẩm bẩm một hai từ, rồi họ nhìn Mark Fossie nhặt va li của ả lên và tắt tay ả dẫn vào dãy lán. Mãi một hồi lâu cả lũ lặng thinh.

“Đồ ngựa,” cuối cùng ai đó nói.

Đến bữa ăn chiều Mark Fossie giải thích hắn đã thu xếp vụ này ra sao. Tốn tiền lắm, hắn thừa nhận, lộ trình và phương tiện cũng phức tạp, nhưng chả đến nỗi như lên mặt trăng. Từ Cleveland đến Los Angeles, Los Angeles đến Bangkok, Bangkok đến Sài Gòn. Cô ả nhảy lên một chiếc C-13 – bay tới Chu Lai rồi ngủ lại một đêm ở USO, sáng hôm sau thì xin quá giang trực thăng tiếp tế bay về hướng Tây.

“Đâu vào đó ngon lành,” Fossie nói, đoạn nhìn xuống cô bồ xinh tươi của hắn. “Vấn đề là tụi bây phải muốn cho đủ bộ.”

Mary Anne Bell và Mark Fossie cặp với nhau từ hồi trung học. Từ hồi lớp sáu tụi nó đã biết một điều là một ngày tụi nó sẽ cưới nhau, sống trong một ngôi nhà đẹp đẽ bảnh chọe gần hồ Erie, có ba đứa con tóc vàng khỏe mạnh, cùng già đi bên nhau và nhất định là sẽ chết trong vòng tay nhau rồi được chôn trong cùng một cỗ quan tài bằng gỗ óc chó. Kế hoạch là vậy. Tụi nó yêu nhau lắm lắm, đầy mộng mơ, và giá như trong dòng chảy thường tình của cuộc đời thì toàn bộ cái kịch bản kia có thể thành sự thực lắm.

Đêm đầu tụi nó dựng nhà ở một trong mấy boong ke dọc vòng rào ngoài, gần lán của Lực lượng Đặc biệt, và suốt hai tuần sau đó chúng dính nhau như một cặp tình nhân tuổi học trò. Thiệt tởm, cái kiểu tụi nó quấn nhau ấy, Chuột nói. Lúc nào cũng nắm tay nhau, lúc nào cũng cười ngặt cười nghẽo vì một câu đùa riêng tư nào đấy. Tụi nó chả cần gì hết ngoài vài cái áo thun cùng tông. Nhưng đám lính quân y không khỏi có chút ghen tị. Nói gì thì nói, đây là Việt Nam cơ mà, trong khi Mary Anne Bell là một cô nàng hấp dẫn. Có thể vai hơi quá rộng, nhưng cô ả có cặp giò tuyệt trần, tính cách sôi nổi, nụ cười vui vẻ. Đám đàn ông chân thành thích ả. Ngoài sân bóng chuyền ả mặc quần gin xanh cắt ngắn và nửa trên bộ bikini đen, làm đám đàn ông khoái tỉ, còn buổi tối ả thích nhảy theo nhạc phát từ cái máy hát xách tay của Chuột. Chuyện này có gì đấy mới mẻ; nhờ có ả mà cả đám lên tinh thần. Thỉnh thoảng ả tỏa ra một thứ năng lượng đầy mời mọc đến-chiếm-em-đi, vừa e thẹn vừa lả lơi, song hình như chuyện đó chả bao giờ làm Mark Fossi bận tâm. Thực ra hắn dường như còn thích là khác, hắn chỉ cười toe với ả, bởi vì hắn quá yêu, và bởi đó là cái kiểu trình diễn mà đôi khi một cô gái trưng ra để làm vui anh bồ mình mà cũng để răn dạy hắn.

Chuột nói, tuy còn trẻ nhưng Mary Anne Bell không phải đứa con nít rụt rè nhút nhát. Cô ả gì cũng tò mò muốn biết. Trong mấy ngày đầu đến Việt Nam ả thích đi vòng vòng khắp khu căn cứ hỏi hết câu này tới câu nọ: Chính ra thì “triple flate” nghĩa là gì? Mìn Claymore hoạt động ra sao? Đằng sau mấy ngọn núi xanh nhìn phát sợ ở phía Tây kia có cái gì? Sau đó ả nheo mắt im lặng nghe trong khi ai đó nói cho ả biết. Ả thông minh, ghi nhớ nhanh. Ả chú tâm. Thường thì, nhất là trong những buổi chiều nóng nực, ả dành thì giờ với đám lính Việt Nam Cộng hòa ở dọc vòng rào ngoài, hóng hớt dăm câu tiếng Việt, học xem nấu cơm bằng lon Sterno thì nấu thế nào, ăn bốc thì ăn ra sao. Đám lính thỉnh thoảng khoái trêu ả về chuyện đó – cô nàng bản xứ xinh xinh của tụi mình đây, họ nói – nhưng Mary Anne chỉ cười, thè lưỡi. “Tui đã tới đây thì cũng có thể học được cái gì đó chớ.”

Cuộc chiến làm ả hứng thú. Cả vùng đất này, cả sự bí ẩn nữa. Vào đầu tuần thứ hai ở lại căn cứ, ả bắt đầu nằng nặc đòi Mark Fossie đưa ả xuống ngôi làng nơi chân đồi. Bằng giọng khẽ khàng, thật kiên nhẫn, hắn cố bảo ả rằng ý đó không hay đâu, nguy hiểm ghê lắm, nhưng Mary Anne cứ nhèo nhẽo mãi. Ả muốn cảm nhận được người dân sống ra sao, những mùi những phong tục tập quán ở đây thế nào. Chuyện Việt Cộng đang làm chủ nơi đó chẳng làm ả bận tâm.

“Nghe nè, đâu thể nào tệ đến cỡ đó,” ả nói. “Họ cũng là người mà, đúng không? Như bất cứ ai thôi?”

Fossie gật. Hắn yêu ả.

Thế là sáng ra Chuột Kiley cùng hai lính quân y khác rảo quanh để cảnh giới trong khi Mark và Mary Anne tản bộ qua ngôi làng như một cặp khách du lịch. Nếu cô gái có hồi hộp, ả cũng không để lộ ra. Ả có vẻ thoải mái tự nhiên như ở nhà; bầu không khí thù địch chẳng có vẻ gì tác động tới ả. Suốt buổi sáng Mary Anne liến thoắng về chuyện nơi này trông kỳ quặc tới thế nào, ả yêu những mái tranh và đám trẻ con trần truồng ra sao, yêu sự đơn giản tuyệt vời của đời sống thôn quê. Nhìn thật lạ, Chuột nói. Con búp bê mười bảy tuổi mặc cái quần váy chết bầm này, mặt mày hồ hởi tươi rói, giống như một trưởng nhóm cổ động sang thăm phòng thay đồ của đội đối phương. Cặp mắt đẹp xanh lơ của ả dường như ngời sáng. Ả đi mãi xem hoài không chán. Trên đường về lại căn cứ ả dừng lại tắm trên sông Trà Bồng, cởi quần áo chỉ còn lại đồ lót, phô cặp đùi trong khi Fossie gắng giải thích với ả về những thứ như là ổ phục kích, như là bắn tỉa và khả năng chặn đứng của một khẩu AK-47.

Tuy nhiên, đám rai thì lấy làm ấn tượng lắm.

“Cọp cái thứ thiệt,” Eddie Diamond nói. “Ruột khủng long, óc chuột nhắt.”

“Nó sẽ học được thôi,” ai đó bảo.

Eddie Diamond gật đầu trang trọng. “Đó mới là phần đáng sợ nhất. Tao hứa với tụi mày, con nhỏ này sẽ học ra trò.”

 


Ít nhất thì ở một vài phần đó là một chuyện vui, thế nhưng, nghe Chuột Kiley kể, ta hầu như nghĩ hắn có ý cho rằng đấy là bi kịch. Hắn chả khi nào cười. Ngay cả khi kể tới phần điên nhất. Luôn luôn có vẻ u tối xa xăm trong mắt hắn, một thứ nỗi buồn, làm như hắn bứt rứt vì cái gì đó trượt dưới bề mặt chuyện. Tôi nhớ là bất cứ khi nào chúng tôi cười rộ, hắn liền thở dài chờ cho tiếng cười qua đi, nhưng điều duy nhất hắn không thể dung thứ là sự hoài nghi. Nếu ai đó chất vấn một trong các chi tiết là hắn sẽ sửng cồ lên. “Cô ả không ngủ,” hắn sẽ vặc lại. “Tao chả bao giờ nói vậy. Trẻ, tao nói có vậy thôi. Như tụi bây với tao. Con gái, đó là khác biệt duy nhất, và tao nói cho tụi bây cáu này: chuyện đó đéo có ý nghĩa gì hết trọi. Tao muốn nói là khi tụi mình mới tới đây – tất cả tụi mình – tụi mình còn trẻ còn ngây thơ, đầy những lãng mạn vớ vẩn, nhưng rồi tụi mình sẽ học rất nhanh. Mary Anne cũng vậy.”

Chuột sẽ nhìn xuống hai tay mình, lặng lẽ ưu tư. Một lát sau giọng hắn sẽ trở nên đều đều.

“Tụi bây không tin hả?” hắn sẽ nói. “Tốt thôi. Nhưng tụi bây không biết bản tính con người. Tụi bây không biết Việt Nam.”

Rồi hắn sẽ bảo chúng tôi nghe cho hết.

 

Một đầu óc thông minh sắc sảo, Chuột nói. Đúng, thỉnh thoảng ả có thể ngủ, nhưng ả mau nắm bắt chuyện này chuyện khác. Đến cuối tuần thứ hai, khi có bốn ca trúng thương đến, Mary Anne không sợ để tay mình vấy máu. Thực ra, đôi khi ả dường như còn lấy đó làm hứng thú. Không phải hứng thú vì chuyện máu me, mà vì cái chộn rộn đầy adrenalin đi cùng với công việc đó, cái dòng chảy nóng tuôn nhanh trong mạch máu mình khi mấy chiếc trực thăng đáp xuống và mình phải làm mọi việc vừa chuẩn vừa nhanh. Chả có thì giờ cân nhắc xem nên làm gì không nên làm gì, chả nghĩ gì; ta cứ thế chọc tay vào mà bịt mấy cái lỗ lại. Ả lặng lẽ, vững vàng. Ả không chùn lại, trước những ca tởm nhất. Một hai ngày sau, khi có thêm nhiều ca thương vong đến, ả học được cách kẹp động mạch, bơm xi lanh nhựa, tiêm moóc phin. Những lúc hành động, khuôn mặt ả bất ngờ mang vẻ điềm tĩnh, hầu như nghiêm trang, cặp mắt xanh lơ thường ngày lờ đờ lúc này nheo lại thành một nét tập trung căng thẳng, thông minh. Mark Fossie thấy thế cười nhăn nhở. Hắn tự hào, đúng, nhưng còn kinh ngạc nữa. Dường như là một con người khác, và hắn chả biết hiểu làm sao cho phải.

Rồi còn những chuyện khác nữa. Cái kiểu ả nhanh chóng nhiễm các thói quen của đời sống chốn khỉ ho cò gáy. Không trang điểm, không giũa móng tay. Ả thôi không đeo nữ trang nữa, cắt tóc ngắn và vấn tóc bằng một cái băng đô màu xanh lục sẫm. Vệ sinh sạch sẽ trở thành vấn đề thứ yếu. Đến tuần thứ hai ả lưu lại đó Eddie Diamond dạy cho ả cách tháo rời một khẩu M-16, chỉ cho ả từng bộ phận vận hành ra sao, và khởi đi từ đó thì học cách bắn súng âu cũng là chuyện tự nhiên. Mỗi lần suốt vài giờ ả nghịch gõ mấy lon đồ hộp, hơi vụng về lúng túng, nhưng rồi hóa ra ả thực sự có khả năng về chuyện đó. Có một niềm tự tin mới trong giọng ả, một uy thế mới trong cung cách xử sự của ả. Theo nhiều cách ả vẫn cứ ngây thơ non nớt, vẫn còn là đứa trẻ, nhưng Cleveland Heights giờ có vẻ xa lắc xa lơ rồi.

Một đôi lần, nhẹ nhàng, Mark Fossie gợi ý rằng có lẽ đã đến lúc nghĩ tới chuyện về nhà, nhưng Mary Anne phá lên cười đoạn bảo hắn quên vụ đó đi. “Mọi thứ em cần ở đây cả rồi,” ả nói.

Ả vuốt ve cánh tay hắn rồi hôn hắn.

Ở mức độ nào đó thì mọi chuyện giữa hai đứa vẫn như cũ. Tụi nó vẫn ngủ với nhau. Tụi nó nắm tay nhau và lập kế hoạch cho sau này khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng giờ đây trong cái lối Mary Anne diễn đạt ý mình về một số vấn đề đã có một sự mập mờ bất xác vốn dĩ trước kia không có. Không nhất thiết ba đứa con, ả nói. Không nhất thiết trên Hồ Erie. “Lẽ đương nhiên chúng mình sẽ lấy nhau,” ả nói với hắn, “nhưng không nhất thiết lấy ngay. Có lẽ trước hết cứ đi du lịch đã. Có thể cứ sống với nhau. Thử xem đã, anh hiểu không?”

Mark Fossie nghe thế thì gật đầu, thậm chí mỉm cười đồng ý, nhưng nó khiến hắn không thoải mái. Hắn không hiểu được ngọn ngành. Thân thể ả dường như xa lạ sao đó – có những chỗ hồi trước thì mềm mà bây giờ quá cứng nhắc, quá rắn. Sự vui vẻ xởi lởi đã biến mất. Tiếng cười như nắc nẻ cũng vậy. Nay thì khi ả cười, hiếm khi thôi, đấy chỉ là khi có gì đó ả thấy thực sự buồn cười. Chiều chiều, khi đám lính chơi bài, đôi khi ả rơi vào những khoảng lặng dài co giãn, mắt ả dán vào bóng tối, hai tay khoanh, chân nhịp nhịp lên sàn nhà theo một thông điệp mã hóa nào đó. Khi một chiều nọ Fossie hỏi ả về chuyện ấy, Mary Anne nhìn hắn hồi lâu rồi nhún vai. “Chả có gì,” ả nói. “Thật tình chả có gì mà. Nói thật, cả đời em chưa bao giờ hạnh phúc như thế này. Chưa bao giờ.”

Tuy nhiên, có hai lần ả đi đâu về khuya. Rất khuya. Và cuối cùng ả hoàn toàn không về nữa.

Chuột Kiley nghe được về chuyện đó từ chính Fossie. Một sáng nọ mặt trời chưa mọc, thằng nhóc lay Chuột Kiley dậy. Hắn trông thật thảm hại. Giọng hắn nghe vừa rỗng hoác vừa nghẹt cứng, phát từ mũi ra, làm như hắn đang cảm nặng. Hắn một tay cầm đèn pin, hết bật lại tắt.

“Mary Anne,” hắn thì thầm. “Tao không tìm ra nàng.”

Chuột ngồi dậy lấy tay xát mặt. Ngay cả trong ánh nhá nhem hắn cũng thấy rõ là thằng nhóc đang gặp rắc rối. Có những quầng thâm dưới mắt hắn, những gờ mép xài xạc mỏi mòn của một kẻ đã khá lâu không ngủ.

“Đi rồi,” Fossie nói. “Chuột, nghe này, nàng đang ngủ với ai đó. Đêm qua, thậm chí nàng không… Tao chả biết làm gì nữa.”

Đến đó, bất thần Fossie như thể gục ngã. Hắn ngồi thụp xuống, đu đưa người trên hai gót chân, vẫn nắm chặt cây đèn pin. Chỉ là một thằng nhóc mười tám tuổi. Cao lớn tóc vàng. Một vận động viên điền kinh bẩm sinh. Lại còn tử tế nữa, lịch lãm và tốt bụng, mặc dù trong lúc này tất cả những điều đó chẳng giúp gì được cho hắn.

Hắn vẫn luôn tay bật tắt bật tắt cây đèn pin.

“Được rồi, bắt đầu từ đầu nào,” Chuột nói. “Chậm và rõ. Ngủ với ai?”

“Tao không biết ai. Eddie Diamond.”

“Eddie hả?”

“Chắc thế. Thằng ấy luôn luôn có đó, luôn luôn bám lấy nàng.”

Chuột lắc đầu. “Ôi dào, tao không biết. Coi bộ không đúng đâu, ai chớ Eddie thì không.”

“Ừ, nhưng mà nó…”

“Dễ thôi mà,” Chuột nói. Hắn chìa tay vỗ vai thằng nhóc. “Sao không đi kiểm tra coi sao? Mình có chín thằng. Mày với tao là hai, vậy còn lại bảy khả năng. Đếm đầu nhanh một cái là xong.”

Fossie ngần ngừ. “Nhưng tao không thể… Nếu nàng đang ở đó. Ý tao là nếu nàng đang cùng với ai…”

“Ôi Chúa ơi.”

Chuột chống tay ngồi dậy. Hắn cầm lấy đèn pin, lẩm bẩm gì đó, rồi đi xuống phía đầu kia lán. Để có chút riêng tư, đám lính đã quây rèm làm vách quanh giường của mình, những căn buồng ngủ tạm bợ, và trong bóng tối Chuột nhanh chóng đi từ buồng này sang buồng khác, dùng đèn pin soi các khuôn mặt. Eddie Diamond đang ngủ say như chết, những người khác cũng thế. Tuy nhiên, để cho chắc, Chuột kiểm lại lần nữa, rất cẩn thận, rồi về báo cáo với Fossie.

“Tất cả có mặt. Không thừa ai.”

“Còn Eddie?”

“Say như chết.” Chuột tắt đèn pin rồi cỗ nghĩ cho ra. “Có lẽ con nhỏ – tao không biết – có lẽ hồi đêm nó cắm trại ngoài trời. Dưới trời sao hay gì đó. Mày đã tìm khắp căn cứ chưa?”

“Rồi mà.”

“Được,” Chuột nói. “Tìm lần nữa.”

Bên ngoài, một ánh sáng tím mềm mại đang lan dần trên những sườn đồi phía Đông. Hai ba lính Việt Nam Cộng hòa đã nhóm lửa làm bữa sáng, nhưng hầu hết nơi này yên tĩnh và bất động. Họ tìm thử ở bãi đáp trực thăng trước, sau đó ở nhà ăn và các lán tiếp tế, rồi họ đi rào khắp sáu trăm mét chu vi.

“OK,” cuối cùng Chuột nói. “Gay đây.”

 

Khi mới kể lần đầu, Chuột dừng lại ở đây và nhìn Mitchell Sanders một lát.

“Mày thử đoán coi con nhỏ đi đâu?”

“Mũ Nồi Xanh,” Sanders nói.

“Sao hả?”

Sanders cười. “Không có khả năng khác. Ba cái chuyện về Lực lượng Đặc nhiệm – nào là tụi nó dùng chỗ ấy làm căn cứ hoạt động, nào là tụi nó cứ đi đi về về – mấy vụ đó có đấy là có lý do hết. Người ta xây dựng các câu chuyện theo cách đó mà bạn.”

Chuột nghĩ một hồi, rồi nhún vai.

“Đúng thôi, tụi Mũ Nồi Xanh. Nhưng Fossie không nghĩ thế. Con nhỏ không ngủ với bất cứ ai trong tụi đó. Ít nhất là không ngủ theo đúng nghĩa. Ý tao là theo cách nào đấy thì con nhỏ ngủ với tất cả tụi đó, hoặc nhiều hoặc ít, chỉ có điều không phải là sex hay gì. Tụi nó chỉ nằm với nhau, có thể nói vậy. Mary Anne và sáu thằng Mũ Nồi Xanh dơ dáy chẳng giống ai đó.”

“Nằm xuống?” Sanders nói.

“Mày hiểu rồi đó.”

“Nằm xuống ra làm sao?”

Chuột mỉm cười. “Phục kích. Suốt đêm, bạn à. Mary Anne đi ra ngoài phục kích.”

 

Ngay sau khi mặt trời mọc, Chuột nói, ả đi theo nhịp hành quân băng qua hàng rào kẽm gai, trông mệt mỏi nhưng vui vẻ, buông đồ lề xuống đất rồi ôm Mark Fossie một cái đầy sôi nổi. Sáu Mũ Nồi Xanh không nói gì. Một tên gật đầu với ả, mấy tên còn lại nhìn Fossie chằm chằm, đoạn chúng kéo về lán của chúng ở rìa khu căn cứ.

“Làm ơn đừng nói gì,” ả nói.

Fossie tiến về phía trước nửa bước rồi ngập ngừng. Như thể hắn thấy khó mà nhận ra ả. Ả đội mũ đi rừng và mặc đồ nhà binh màu xanh lá cây đầy bùn đất, ả đeo khẩu trang súng máy M-16 dùng để tấn công đúng chuẩn; mặt ả đen nhẻm muội than.

Mary Anne đưa súng cho hắn. “Em mệt quá,” ả nói. “Mình sẽ nói chuyện sau.”

Ả liếc về phía khu của Lực lượng Đặc biệt, rồi xoay người đi quanh khu liên hợp về phía boong ke của ả. Fossie đứng im vài giây. Dường như hơi choáng váng. Tuy nhiên, sau một chốc hắn cử động hàm và thì thầm gì đó rồi đi theo ả bằng những bước xoãi nhanh, cứng cỏi.

“Không sau siếc gì hết,” hắn hét. “Ngay bây giờ.”

Chuyện gì diễn ra giữa hai người, không ai biết chắc được. Chuột nói. Nhưng trong nhà ăn chiều hôm đó thì thấy rõ là họ đã đạt được một thỏa thuận. Hay có lẽ đúng hơn là họ đã đặt ra một số quy tắc mới nào đó. Tóc Mary Anne vừa được gội bằng dầu gội. Ả mặc áo cánh trắng, váy xanh lính thủy, mang đôi dép đế bằng giản dị màu đen. Suốt bữa tối ả cứ cụp mắt xuống, chọc chọc đồ ăn, nhu mì đến độ im lìm. Eddie Diamond và vài người khác cố dụ ả nói về cuộc phục kích – Cảm giác khi ra ngoài đó thế nào? Chính xác ra thì ả nhìn thấy nghe thấy gì? – nhưng mấy câu hỏi đó tuồng như làm ả khó xử. Luống cuống, ả nhìn Fossie  phía bên kia bàn. Ả chờ một chút, như để nhận một sự chuẩn y nào đó, rồi cúi đầu lí nhí một hai chữ. Chẳng có câu trả lời thực sự nào.

Cả Mark Fossie cũng chả có gì nhiều để nói.

“Không liên quan tới ai hết,” đêm đó hắn bảo Chuột. Rồi hắn trưng ra một nụ cười ngắn ngủi.

“Nhưng có một điều chắc là sẽ không có thêm phục kích gì nữa hết. Không về khuya gì nữa hết.”

“Mày đặt ra luật hả?”

“Nhân nhượng nhau,” Fossie nói. “Tao nói thế này vậy: tụi tao chính thức đính hôn rồi.”

Chuột gật đầu thận trọng.

“Nè, nàng sẽ là một cô dâu tuyệt hảo,” hắn nói.

“Sẵn sàng chiến đấu.”


Suốt mấy ngày sau đó có một sự căng cứng, trói buộc nào đó trong cái lối họ cư xử với nhau, một sự đúng mực cứng ngắc được áp đặt bởi những hành vi lặp đi lặp lại của sức mạnh ý chí. Nhìn từ xa, Chuột nói, ta sẽ nghĩ họ là hai người hạnh phúc nhất hành tinh này. Họ cùng nhau tắm nắng suốt những buổi chiều dài, nằm duỗi dài bên nhau trong bóng râm cây cọ khổng lồ, hay chỉ ngồi lặng im. Một hình mẫu của sự khăng khít không rời, tuồng như thế. Vậy nhưng nhìn gần sẽ thấy mặt họ để lộ sự căng thẳng. Quá lịch thiệp, quá ưu tư. Mark Fossie cố hết sức hòng giữ tư thế ung dung, như thể chả có gì xảy ra giữa hai người, thậm chí không gì có thể xảy ra, thế nhưng có một cái gì mong manh ở đó, một cái gì bấp bênh và giả tạo. Nếu Mary Anne tình cờ tách ra khỏi hắn vài bước, dù chỉ một lát, hắn lại căng người ra và tự buộc mình không quan sát ả. Nhưng chỉ thoáng sau là hắn đã quan sát ả rồi.

Ít nhất là khi có mặt những người khác họ đeo nguyên mặt nạ. Ở các bữa ăn họ nói về kế hoạch tổ chức đám cưới to đùng ở Cleveland Heights – tiệc tùng hai ngày liền, thật nhiều hoa. Thế nhưng ngay cả nụ cười của họ cũng có vẻ quá đà. Họ nói đùa quá nhanh; họ nắm tay nhau như thể sợ buông ra.

Chuyện này phải chấm dứt, và cuối cùng nó chấm dứt thật.

Khoảng gần cuối tuần thứ ba Fossie bắt đầu thu xếp để cho ả về nhà. Ban đầu Mary Anne có vẻ chấp nhận chuyện đó, Chuột nói, nhưng rồi sau một hai ngày ả rơi vào một cơn u ám bồn chồn, ngồi một mình nơi mép vòng rào ngoài. Ả không nói năng. Vai rụt, cặp mắt xanh lơ trống rỗng, ả tuồng như biến mất bên trong chính mình. Một hai lần Fossie lại gần ả cố nói chuyện cho ra lẽ, nhưng Mary Anne chỉ nhìn chăm chăm về phía những ngọn núi xanh thẫm ở phía Tây. Cảnh hoang vu dường như lôi cuốn ả. Một cái nhìn bị ám, Chuột nói – một phần kinh hoảng, một phần mê mẩn. Dường như ả đã đi đến mép một cái gì đó, dường như ả đã lâm vào vùng đất cấm nằm giữa Cleveland Heights và rừng sâu nhiệt đới. Mười bảy tuổi. Chỉ là một đứa trẻ, tóc vàng ngây thơ, nhưng chẳng lẽ tất cả bọn họ không như vậy sao?

Sáng hôm sau ả đi mất. Sáu Mũ Nồi Xanh cũng đi luôn.

Theo một cách nào đấy, Chuột nói, Fossie tội nghiệp đã chờ đợi điều này, hoặc cái gì giống thế, nhưng điều đó chẳng giúp làm nguôi nỗi đau bao nhiêu. Thằng bé chẳng làm gì được. Nỗi buồn làm nghẹn cổ hắn, siết cổ hắn và không chịu buông ra.

“Mất rồi,” hắn cứ lẩm bẩm.

Gần ba tuần sau ả mới trở lại. Nhưng theo nghĩa nào đó ả không bao giờ trở lại. Không trở lại hoàn toàn, không phải toàn bộ ả.

Tình cờ khi ấy hắn đang thức nên nhìn thấy, Chuột nói thế. Một đêm sương mù ẩm ướt, hắn không ngủ được bèn ra ngoài hút nhanh điếu thuốc. Hắn đang đứng đó vậy thôi, hắn bảo, ngắm trăng, thế rồi từ phía Tây một đám những bóng người hiện ra nơi mé rừng rậm cứ như có phép màu. Thoạt đầu hắn không nhận ra ả – một hình dáng nhỏ nhắn, mềm mại giữa sáu hình dáng khác. Không có âm thanh nào. Vật chất có thật cũng không. Bảy bóng người dường như trôi bồng bềnh trên mặt đất, như những hồn ma, nhẹ như sương khói và phi thực. Chuột kể rằng, trong khi quan sát, cảnh đó khiến hắn nghĩ tới một giấc mơ kỳ dị nào đó vì thuốc phiện. Những hình bóng đó di chuyển mà không di chuyển. Im lìm, lần lượt từng cái một, chúng leo lên đồi, băng qua rào kẽm gai, và dàn thành một hàng lỏng lẻo dạt ngang qua khu căn cứ. Chính khi đó, Chuột nói, hắn mới nhận ra mặt Mary Anne. Mắt ả dường như lóe sáng trong bóng tối – tuy nhiên không phải xanh lơ, mà là một màu xanh rừng già chói rực. Ả không dừng lại nơi boong ke của Fossie. Ả đung đưa vũ khí và đi nhanh đến dãy lán của Lực lượng Đặc biệt rồi theo những người khác vào trong.

Thoáng sau, một ngọn đèn bật sáng, ai đó cười vang, rồi chỗ đó lại sụp tối.

Bất cứ lúc nào kể chuyện này, Chuột cũng có xu hướng thỉnh thoảng ngừng lại đây đó, ngắt ngang dòng chảy, chêm vào đôi lời làm rõ thêm hay là đôi chút phân tích và ý kiến cá nhân. Đó là một thói quen dở, Mitchell Sanders nói, bởi vì cái quan trọng là chất liệu thô sống, bản thân sự việc, ta không nên chất thêm vào đó những nhận xét chẳng ra ngô chẳng ra khoai của ta. Thế chỉ tổ làm hỏng bùa chú. Nó hủy diệt phép màu. Điều ta phải làm, Sanders nói, là tin vào câu chuyện của chính mình. Rút ra cho xa khỏi nó và để cho nó tự kể mình.

Nhưng Chuột Kileỵ không đừng được. Hắn muốn chêm vào toàn bộ ý nghĩa của chuyện, không thiếu một chút gì.

“Tao biết nghe thì khó tin lắm,” hắn bảo chúng tôi, “nhưng không phải là không thể nào có thật hay gì đâu. Cả lũ tụi mình từng nghe cả đống chuyện còn quái gở hơn. Có thằng chui ở trong rừng ra, kể cho mình nghe là hắn gặp Đức Mẹ Đồng trinh ở đó, bả cưỡi một con ngỗng trời ơi đất hỡi gì đấy. Ai cũng tin sái cổ. Ai cũng cười mà hỏi cặp người ngỗng đó đi nhanh cỡ nào, bả có đinh thúc ngỗng không. Ờ thì chuyện này không giống vậy. Con Mary Anne này chả phải gái trinh nhưng ít nhất thì nó có thật. Tao thấy mà. Khi ả băng qua hàng rào kẽm gai đêm đó, tao ở ngay đấy, tao thấy hai con mắt nó, tao thấy nó không còn là cùng một người như trước nữa. Cứ cho là vậy, đã có gì khó tin lắm đâu nào? Tại vì nó là con gái, thế thôi. Ý tao là, giá nó là con trai, mọi người sẽ nói: Ê, thì có gì ghê gớm đâu, nó bị cuốn vào cuộc chiến Việt Nam thổ tả, nó bị đám Mũ Nồi Xanh quyến rũ. Hiểu ý tao chớ? Tụi mày toàn bị người ta che mắt về chuyện đàn bà. Nào là đàn bà dịu dàng, đàn bà chỉ thích hòa bình. Cái chuyện ba xu rằng giá như xứ ta có một mụ nái sề làm tổng thống thì đã chẳng có thêm cuộc chiến nào. Toàn rác rưởi. Tụi mày phải loại bỏ cái kiểu nghĩ phân biệt giới tính đó đi.”

Chuột thường sẽ cứ thế cho đến khi Mitchell Sanders không chịu nổi nữa. Nó phạm tới tai trong của hắn.

“Câu chuyện,” hắn sẽ nói. “Toàn bộ tông nền, bạn à, mày làm nó hỏng bét rồi.”

“Tông nền?”

“Là giọng điệu ấy. Mày cần phải có một giọng điệu nhất quán, kiểu như chậm hay nhanh, vui hay buồn. Tất cả những bình tán ngoại đề ấy, nó chỉ làm hư hết thanh điệu của câu chuyện mày kể. Bám lấy sự kiện đi.”

Cau mày, Chuột nhắm mắt.

“Giọng điệu?” hắn nói. “Tao không biết nó lại phức tạp cỡ đó. Con nhỏ nhập vào vườn thú. Thêm một con thú nữa – hết chuyện.”

“Ờ, đúng đó. Nhưng cứ kể ngay như thế.”

Đến bình minh sáng hôm sau, khi Mark Fossie nghe nói ả đã về, hắn bám trụ bên ngoài khu bị ngăn bằng hàng rào của Lực lượng Đặc biệt. Suốt buổi sáng hắn chờ ả, rồi cả buổi chiều. Khoảng gần chiều tối Chuột đem ra cho hắn vài thứ để ăn.

“Nàng phải ra ngoài,” Fossie nói. “Sớm hay muộn nàng phải ra.”

“Nếu không thì sao?” Chuột nói.

“Tao vào bt nàng. Tao đưa nàng ra.”

Chuột lắc đầu. “Tùy mày. Nhưng là tao thì chả đời nào tao dính vô mấy cái tụi như tụi Xanh, giá nào cũng không.”

“Mary Anne trong đó cơ mà.”

“Thì tao biết thế, Cũng vậy thôi, có chăng mày phải gõ cửa thiệt là lễ phép, lễ phép vô cùng tận thì may ra…”

Thậm chí dù có bầu không khí mất rượi ban đêm mặt Fossie vẫn nhớp nháp mồ hôi. Hắn trông bệnh hoạn. Mắt hắn ngầu máu; da hắn nhuốm sắc trăng trắng, gần như không màu. Suốt mấy phút Chuột chờ hắn, lặng lẽ quan sát cái lán, rồi hắn vỗ vai thằng nhóc và để nó lại đó.

Mãi quá nửa đêm Chuột và Eddie Diamond mới ra ngoài để xem thằng nhóc ra sao. Đêm đã chuyển lạnh và ẩm ướt, một làn sương thấp trườn từ trên núi xuống, và đâu đó trong bóng tối họ nghe tiếng nhạc. Không to nhưng cũng không nhỏ. Nó có một thứ âm thanh hỗn độn, gần như phi âm nhạc, tiết tấu không, hình thức không, diễn tiến không, như là tiếng ồn của tự nhiên. Tuồng như là âm thanh tổng hợp, hoặc có thể là đàn organ điện tử. Trên nền âm thanh đó, chỉ vừa đủ nghe, một giọng nữ nửa hát, nửa ngân nga, nhưng lời hát hình như bằng tiếng nước ngoài.

Họ thấy Fossie đang ngồi bệt gần cổng trước khu vực của Lực lượng Đặc biệt. Đầu cúi, hắn đang đu đưa người theo tiếng nhạc, mặt hắn ướt và sáng. Khi Eddie cúi xuống cạnh hắn, thằng nhóc nhìn lên bằng cặp mắt đờ đẫn, xám như tro, đục ngầu, gần như không thể nhận ra.

“Nghe không?” hắn thì thầm. “Tụi bây nghe không? Mary Anne đó.”      

Eddie Diamond nắm tay hắn. “Vào trong thôi. Chỉ là ra-đi-ô của ai đó. Đi nào.”

“Mary Anne đó. Nghe đi.”

“Hắn rồi, nhưng…”

“Nghe!”

Fossie đột ngột giằng ra, quay ngoắt sang bên, rồi ngã người vào cánh cổng. Hắn nằm đó mắt nhắm. Tiếng nhạc – tiếng ồn, gì cũng được – vang lên từ cái lán phía bên kia rào. Nơi đó tối om ngoại trừ một ô cửa sổ nhỏ sáng đèn, mở một nửa, các khung cửa nhảy múa trong ánh đỏ và vàng sáng rực như thể kính cửa đang bốc cháy. Tiếng ngân nga bây giờ như to hơn. Cũng dữ tợn hơn, và âm sắc cao hơn.      

Fossie nhổm dậy. Hắn do dự một thoáng rồi mở toang cổng ra.

“Cái giọng đó,” hắn nói. “Mary Anne.”

Chuột bước tới một bước, với tay ra định nắm vào Fossie, nhưng hắn đã lao nhanh về phía căn lán. Hắn vấp một lần, gượng dậy, rồi đấm mạnh cánh cửa bằng cả hai tay. Có một tiếng ồn – một tiếng the thé ngắn, nghe như tiếng mèo – rồi cánh cửa bật mở vào trong và Fossie đứng đó nơi khung cửa trong khoảnh khắc, hai tay giơ ra, rồi hắn lách vào. Thoáng sau Chuột và Eddie lặng lẽ vào theo. Ngay sau cánh cửa họ thấy Fossie quỳ trên một gối. Hắn không nhúc nhích.

Phía bên kia căn phòng nửa chục ngọn nến đang cháy trên sàn gần ô cửa sổ mở. Nơi này dường như vang vang một thứ âm thanh kỳ dị của chốn rừng sâu núi thẳm – nhạc bộ lạc – tiếng sáo tre tiếng trống tiếng chiêng. Nhưng đập vào mình trước tiên, Chuột nói, là cái mùi. Hai loại mùi. Trên hết là mùi nhang, như là khói trong một căn nhà khói lạ lẫm nào đó, nhưng dưới mùi khói là một mùi hôi nồng sâu hơn và mạnh hơn nhiều. Không tả được, Chuột nói. Nó làm phổi mình tê liệt. Nặng trịch và bóp nghẹt giác quan, giống như hang của một con thú, pha trộn giữa mùi máu, mùi tóc cháy, mùi cứt và mùi ngọt ngọt chua chua của thịt lên mốc – mùi thối hoăng của sự giết chóc. Nhưng chưa hết. Trên một cây cọc ở phía trong xa căn lán là cái đầu thối rữa của một con báo đen to; những dải lông vàng nâu từ mấy cái xà nhà phía trên thòng xuống toòng teng. Rồi xương. Hàng đống xương – đủ thứ. Về một phía, dựa vào tường, là một bức áp phích viết bằng chữ đen nắn nót: RÁP CÁI THẰNG VÀNG CỦA BẠN ĐI COI!! DỤNG CỤ MIỄN PHÍ ĐÂY!! Các hình ảnh cứ quay mòng mòng, Chuột nói, không cách nào thu nhận tất cả. Trong cảnh tranh tối tranh sáng vài hình thù mờ tỏ nằm trên võng, hay trên chõng, nhưng không ai trong số đó nhúc nhích hay nói năng. Nhạc nền phát ra từ máy quay đĩa đặt gần vòng nến, nhưng giọng cao thì là của Mary Anne.

Sau một giây Mark Fossie phát ra một tiếng rên khẽ. Hắn dợm đứng lên nhưng rồi cứng đờ ra.

“Mary Anne?” hắn nói.

Chừng đó, lặng lẽ, ả từ trong bóng tối bước ra. Ít nhất thì trong một thoáng ả có vẻ cũng chính là cô gái xinh xắn đã tới đây vài tuần trước. Ả để chân đất. Ả mặc áo len chui đầu màu hồng, áo cánh trắng và váy vải bông giản dị.

Hồi lâu ả nhìn chằm chằm xuống Fossie, hầu như trống rỗng, và trong ánh nến mặt ả có cái vẻ điềm nhiên tự tại của một người hoàn toàn bình an với chính mình. Phải mất mấy giây, Chuột nói, mới nhận ra sự thay đổi hoàn toàn. Một phần là cặp mắt ả: hoàn toàn vô cảm và thờ ơ. Không có tình cảm nào trong cái nhìn của ả, không cho thấy một cái gì của con người ở đằng sau nó. Nhưng phần quái gở nhất, hắn nói, là trang sức của ả. Ngang họng ả là một vòng đeo cổ bằng lưỡi người. Dài và hẹp, như những mẩu da thuộc bị nhuộm đen, những cái lưỡi đó được xâu dọc theo một đoạn dây đồng, cái này úp lên cái nọ, các đầu lưỡi cong lên trên như đang phát âm giữa chừng một phụ âm rít cuối từ.

Thoáng chốc, hình như thế, cô gái mỉm cười với Mark Fossie.

“Nói chuyện chả ích gì,” ả nói. “Em biết anh nghĩ gì, nhưng mà không… không tệ đâu.”

“Tệ?” Fossie lẩm bẩm.

“Không tệ.”

Trong bóng tối có tiếng cười rộ.

Một trong các Mũ Nồi Xanh ngồi dậy châm thuốc. Những người khác nằm lặng thinh.

“Anh đang ở một chỗ vốn không phải chỗ cho anh,” Mary Anne nhẹ nhàng nói.

Ả di động bàn tay, làm một cử chỉ bao quát không chỉ căn lán mà tất cả những gì quanh nó, toàn bộ cuộc chiến, những ngọn núi, những ngôi làng nhỏ thảm hại, những lối mòn những cây cối những sông ngòi những thung sâu dày đặc sương mù.

“Chỉ là anh không biết,” ả nói. “Anh trốn trong cái pháo đài nhỏ này, đằng sau dây kẽm gai và bao cát, anh hoàn toàn không biết nó như thế nào cả. Đôi khi em muốn ăn trọn cái nó và có nó ở bên trong em. Em cảm thấy như vậy đó. Như là… ăn ngon miệng vậy. Đôi khi – nhiều khi – em cũng sợ, nhưng mà tệ thì không. Anh biết không? Em thấy gần gũi với chính mình. Mỗi khi ra ngoài đó ban đêm, em thấy mình gần với cơ thể chính mình, em cảm thấy được máu của mình chuyển động, da em và các móng tay em, mọi thứ, cứ như người em đầy điện và em đang cháy sáng trong bóng tối – hầu như em bốc lửa – em đang cháy rụi chẳng còn lại gì – nhưng có vậy cũng chả sao vì em biết chính xác em là ai. Anh không thể cảm thấy như thế ở bất cứ đâu khác.”

Ả nói ngần ấy một cách nhẹ nhàng, như với chính mình, giọng ả nhỏ và vô cảm. Ả không cố thuyết phục. Trong một chốc ả nhìn Mark Fossie, hắn dường như đang co rút lại, thế rồi ả xoay người bước trở lại vào chỗ tranh tối tranh sáng.

Chẳng còn gì làm nữa.

Chuột nắm tay Fossie, giúp hắn đứng lên, rồi dẫn hắn ra ngoài. Trong bóng tối vẫn nghe cái âm nhạc bộ lạc kỳ dị đó, dường như phát ra từ ngay dưới đất, từ trong rừng sâu nhiệt đới, và một giọng nữ cất cao lên trong một thứ ngôn ngữ không dịch được.

Mark Fossie đứng đờ ra.

“Làm gì đi,” hắn thì thầm. “Tao không thể để mất nàng như thế.”

Chuột lắng nghe một hồi, rồi lắc đầu.

“Bạn à, mày điếc rồi chắc. Nó đi hẳn rồi.”

Chuột Kiley ngừng kể ở đây, hầu như nửa chừng câu, làm Mitchell Sanders phát khùng.

“Rồi sao nữa?”

“Rồi sao là sao?”

“Con nhỏ. Chuyện gì xảy ra với nó?”

Chuột làm một cử chỉ nhỏ, mệt mỏi bằng đôi vai. “Khó nói chắc được. Có lẽ là ba bốn hôm sau tao được lệnh tới trình diện ở Đại đội Alpha này. Gặp chiếc trực thăng đầu tiên là nhảy lên luôn, đó là lần cuối cùng tao thấy cái nơi đó. Cả Mary Anne nữa.”

Mitchell Sanders nhìn hắn chòng chọc.

“Mày không làm vậy được.”

“Làm gì?”

“Lạy Chúa Giê-su, thế là trái luật,” Sanders nói. “Trái với bản tính con người. Cái câu chuyện rối rắm này, mày không thể nói là, Ơ nè, quên chưa nói, tao không biết đoạn kết đâu. Tao muốn nói là mày có một số bổn phận.”

Chuột thoáng cười. “Kiên nhẫn bồ ơi. Cho tới giờ, bất cứ cái gì tao kể cho tụi bây đều là từ kinh nghiệm cá nhân, sự thực chính cống, nhưng có vài chuyện khác tao nghe người khác kể. Người khác cũng lại nghe người khác kể, thật sự là vậy. Do đó mà khó tránh được là… tao không biết dùng từ gì.”

“Suy đoán.”

“Ờ, đúng.” Chuột nhìn về phía Tây, đưa mắt dọc các ngọn núi, như thể chờ cho cái gì đó xuất hiện trên một trong các gờ núi cao kia. Một giây sau hắn nhún vai. “Ờ thì khoảng hai tháng sau hay gì đó tao tình cờ gặp Eddie Diamond ở Bangkok – tao đang được xả trại nghỉ ngơi vui vẻ tí – và hắn kể tao nghe vài chuyện mà tao không thể thề là tận mắt thấy. Cả Eddie cũng chả tận mắt thấy. Hắn nghe một trong mấy Mũ Ni Xanh kể, thành thử khi nghe chuyện này tụi bây phải chấp nhận là nó đã được thêm nhiều muối lắm rồi.”

Một lần nữa, Chuột nhìn khắp những ngọn núi, đoạn hắn ngả lưng vào tường và nhắm mắt.

“Tụi bây biết không,” hắn đột ngột nói. “Tao yêu con nhỏ.”

“Nói lại coi?”

“Yêu nhiều lắm. Tụi tao thằng nào cũng yêu, chắc vậy. Cái vẻ người Mary Anne như thế, nó làm tụi bây nghĩ về mấy đứa con gái ở quê nhà, tụi nó sạch sẽ ngây thơ trong trắng ra sao, tụi nó sẽ chả bao giờ hiểu nổi mấy chuyện này, tỷ năm nữa cũng không hiểu nổi. Cứ thử kể cho tụi nó nghe mà coi, tụi nó sẽ nhìn chòng chọc tụi bây bằng cặp mắt to ngọt như kẹo ấy. Tụi nó sẽ cóc hiểu gì. Như là kể cho ai đó nghe sô cô la có vị gì vậy.”

Mitchell Sanders gật. “Hay là cứt.”

“Vậy đó, tụi bây phải nếm, chuyện Mary Anne thì cũng vậy. Con nhỏ có mặt ở đó. Nó ngụp sâu tới tận nhãn cầu mắt nó ở đó. Sau cuộc chiến này, tao hứa chắc với tụi bây, tụi bây sẽ không tìm ra ai khác như nó đâu.”

Đột ngột, Chuột đứng bật dậy, bước vài bước tách xa khỏi chúng tôi, rồi dừng, đứng xoay lưng lại – Hắn là một tên đa cảm.

“Chắc là tao bị bỏ bùa,” hắn nói. “Tao yêu con nhỏ. Thành thử khi tao nghe Eddie kể chuyện gì đã xảy ra, nó hầu như làm tao… Như mày nói ấy, là thuần túy suy đoán.”

“Kể đi,” Mitchell Sanders nói. “Kết thúc đi.”

Những gì xảy ra với ả, Chuột nói, cũng là những gì xảy ra với hết thảy bọn họ. Khi đến đây ta trong trắng, thế rồi ta vấy bẩn và sau đó thì chẳng bao giờ như trước nữa. Vấn đề là mức độ. Vài người không hề hấn gì, vài người không sao cưỡng được. Với Mary Anne Bell, Việt Nam hình như có tác dụng của một thứ ma túy mạnh: cái hỗn hợp giữa khiếp đảm không tên và khoái lạc không tên xuất hiện như cây kim luồn vào trong ta và ta biết mình đang liều mạng làm gì đó. Endorphin bắt đầu tuôn, rồi thì adrenalin, và ta nín thở lặng lẽ bò trong cảnh quan sáng trăng; ta trở nên thân thiết với nỗi hiểm nguy; ta tiếp xúc gần gũi với vùng xa của bản ngã ta, như thể đó là một bán cầu khác, và ta muốn kéo căng nó ra và đi bất cứ đâu cuộc hành trình này dẫn ta đi, sẵn sàng mang chứa tất cả các khả năng tiềm tàng ở trong mình. Không tệ, ả nói. Việt Nam làm cho ả ngời sáng trong bóng tối. Ả muốn hơn nữa, ả muốn thâm nhập sâu hơn vào bí ẩn của chính mình, và sau một thời gian mong muốn trở thành cần không thiếu được, rồi thì chuyển sang đói khát.

Theo Eddie Diamond, thằng này lại nghe một trong các Mũ Nồi Xanh, ả khoái trá đến tham lam trong những cuộc tuần đêm. Ả cừ về chuyện đó; ả có khiếu. Ngụy trang toàn thân, khuôn mặt phẳng lì và hoang vắng, ả tựa hồ trôi như nước trong bóng tối, như dầu, không tiếng động hay trọng tâm cơ thể. Ả đi chân trần. Ả thôi mang vũ khí. Hình như có những lần ả nắm lấy những cơ hội điên rồ, liều chết – những chuyện mà ngay cả đám Mũ Nồi Xanh cũng co vòi. Như thể ả đang chế nhạo một sinh vật hoang dã nào đó trong rừng rậm, hay trong đầu ả, mời gọi nó xuất đầu lộ diện, một trò chơi trốn tìm kỳ thú diễn ra trên địa thế dày đặc của một cơn ác mộng. Ả mất hút trong chính mình. Có một lần, khi họ gặp hỏa lực của địch, Mary Anne đứng lặng nhìn những quả đạn cối vèo ngang, một nụ cười nhẹ trên môi ả, tập trung vào một giao kèo riêng tư nào đó với cuộc chiến tranh. Những lần khác thì ả biến mất hoàn toàn – nhiều giờ, nhiều ngày.

Thế rồi một sáng nọ, độc một mình, Mary Anne đi vào trong rặng núi và không quay lại.

Không tìm ra cái xác nào. Không vật dụng, không quần áo. Chuột chỉ biết rằng cô gái vẫn còn sống. Có thể ở một trong các buôn làng trên núi cao, có thể sống cùng những bộ lạc miền núi. Nhưng đó ch là đoán.

Dĩ nhiên là người ta có điều tra, và một cuộc truy tìm bằng máy bay suốt một tuần liền, và trong một thời gian khu căn cứ Trà Bồng đông nghẹt những tay MP và CID12. Tuy nhiên, rốt cuộc là công cốc. Đây là chiến tranh và chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Mark Fossie được lên binh nhất, được đưa về một bệnh viện ở Mỹ, rồi hai tháng sau thì được cho xuất ngũ vì lý do sức khe. Mary Anne Bell nhập vào đám mất tích.

Nhưng chuyện không chấm dứt ở đó. Nếu tụi bây tin được mấy thằng Mũ Nồi Xanh, Chuột nói, thì Mary Anne vẫn đang ở đâu đó trong bóng tối. Những chuyển động dị kỳ, những hình dáng dị kỳ. Đêm khuya, khi đám Mũ Nồi Xanh ra ngoài phục kích, toàn bộ rừng mưa nhiệt đới dường như nhìn chằm chằm vào họ – một cảm giác mình bị quan sát – và đôi lần họ hầu như thấy ả lướt ngang qua các bóng đen. Không thấy hắn, song hầu như thấy. Ả đã băng qua phía bên kia. Ả là một phần của vùng đất này. Ả mặc cái quần váy, áo pun hồng, đeo vòng cổ bằng lưỡi người. Ả là thứ nguy hiểm. Ả sẵn sàng giết chóc.

-----------------

[10] Một loại thuốc giảm đau với hàm lượng thuốc phiện cao, hiện tại đã bị cấm sử dụng.

[11] Mama-san: tiếng lóng của lính Mỹ dùng để gọi một người đàn bà Việt.

[12] MP, CID: tên viết tắt của lực lượng Quân cảnh Mỹ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét