TẬP
SÁCH CÁI CƯỜI & SỰ LÃNG QUÊN (6)
Milan Kundera
Trịnh Y Thư dịch
PHẦN III.
Thiên sứ
KỲ 2
6.
Có thời tôi cũng nhảy múa trong cái vòng tròn đó. Đó là năm 1948. Cộng sản lên nắm quyền lực trên đất nước tôi, những ông bà đảng Xã hội và đảng Thiên Chúa Dân chủ bỏ xứ ra nước ngoài tị nạn hết, và tôi nắm tay hoặc ôm vai những anh chị em sinh viên Cộng sản khác, chân nhịp nhàng hai bước tại chỗ, một bước tiến lên, đá chân trái về một phía, đoạn chân phải phía bên kia, cứ thế đều đặn gần như mỗi tháng một lần, bởi chúng tôi luôn luôn có lễ lạt ăn mừng, kỷ niệm chu niên, hay một biến cố nào khác. Họ sửa đổi, cải cách công lý cũ, ban hành công lý mới, quốc hữu hóa nhà máy, hàng nghìn người vào tù, y tế miễn phí, cửa hàng bán thuốc lá bị tịch biên, công nhân cao tuổi lần đầu tiên đi nghỉ hè được ở trong những biệt thự bị truất hữu, và trên mặt chúng tôi ai nấy nở nụ cười sung sướng. Thế rồi một hôm tôi buột miệng nói điều lẽ ra không nên nói, tôi bị đuổi khỏi đảng và phải từ bỏ cái vòng tròn.
Đó là lúc tôi hiểu ra
ý nghĩa màu nhiệm của vòng tròn. Nếu bạn bỏ đi từ một hàng ngang, bạn vẫn có
thể trở lại. Hàng ngang là đội hình mở. Nhưng vòng tròn là đội hình đóng, và
một khi đã bỏ đi, bạn chẳng có cách nào trở lại. Không phải ngẫu nhiên mà các
hành tinh đều chuyển dịch theo đường tròn, một khối đá văng khỏi hành tinh sẽ
bị lực ly tâm tống đi mãi vào không gian huyền tẫn. Tôi bỏ cái vòng tròn và cho
đến bây giờ vẫn không ngừng rơi. Những kẻ trong lúc rơi lộn cổ như thế, có kẻ
được cấp cho cái chết, có kẻ nát bấy lúc chạm đáy. Và có những kẻ khác (trong
số có tôi) luôn luôn mơ tưởng nhớ nhung, dù chỉ thấp thoáng, những bước nhảy
vòng tròn, bởi tất cả chúng ta là cư dân một vũ trụ trong đó vạn vật xoay
chuyển theo đường tròn.
Đó là một buổi lễ kỷ
niệm chu niên chỉ có Trời biết là lễ gì, đường phố Praha lại đông nghẹt người,
toàn người trẻ tuổi đang nhảy múa thành vòng tròn. Tôi đi lang thang giữa bọn
họ, đến gần lắm, nhưng tôi bị cấm, không được nhập vào bất cứ vòng tròn nào. Đó
là một ngày tháng Sáu, năm 1950, Milada Horakova vừa bị treo cổ ngày hôm trước.
Bà là ủy viên đảng Xã hội, bị tòa án Cộng sản tuyên án âm mưu chống phá nhà
nước. Zavis Kalandra, một thi sĩ Siêu thực, bạn của André Breton và Paul
Éluard, cũng bị treo cổ cùng ngày. Những người trẻ tuổi đang nhảy múa trên
đường phố Praha, họ biết mới ngày hôm qua, ngay tại thành phố này, một người
đàn bà và một nhà thơ Siêu thực bị treo cổ, thân xác họ lủng lẳng đong đưa dưới
sợi dây thòng lọng. Những người trẻ tuổi nhảy múa say sưa cuồng loạn hơn, bởi
họ muốn chứng tỏ cho mọi người thấy sự ngây thơ của họ, sự ngây thơ trong sáng
tương phản với bóng tối tội lỗi của hai kẻ bị treo cổ, những kẻ phản bội nhân
dân, phản bội hy vọng của nhân dân.
André Breton không tin
Kalandra là kẻ phản bội nhân dân, hay phản bội hy vọng của nhân dân mình. Từ
Paris, ông kêu gọi Éluard (trong một bức thư ngỏ đề ngày 13 tháng Sáu, 1950)
lên tiếng phản đối bản án khùng điên nọ để cứu người bạn khỏi cái chết. Nhưng
Éluard lúc đó còn đang túi bụi bận nhảy múa trong một vòng tròn khổng lồ nối
liền Paris, Moskva, Praha, Warszawa, Sofia, Athens, giữa những quốc gia Xã hội
chủ nghĩa và tất cả đảng Cộng sản trên thế giới, ông còn đang túi bụi bận đọc
những bài thơ tuyệt hay của ông về nỗi vui sướng một vận hội mới trong tình
thương yêu huynh đệ đại đồng. Sau khi đọc thư của André Breton, ông nhảy hai
bước tại chỗ, một bước tiến lên, lắc đầu không chịu bênh vực kẻ phản bội nhân
dân (tuần báo Hành Động số ra ngày 19 tháng Sáu, 1950). Ông
cất cao giọng đanh thép đọc bài thơ:
“Chúng ta sẽ lấp
đầy lòng thơ ngây
Với sức mạnh chúng ta
thiếu quá lâu
Chúng ta sẽ không còn
cô độc”.
Tôi lang thang trên
đường phố Praha, những vòng tròn thanh thiếu niên nam nữ Tiệp nói cười, nhảy
múa cuồng nhiệt xung quanh tôi. Tôi biết rằng tôi không thuộc về họ, tôi thuộc
về Kalandra, kẻ cũng như tôi, bị tống ra khỏi quỹ đạo và ngã, ngã, ngã đến khi
rơi tọt vào quan tài của kẻ bị kết tội. Mặc dù không thuộc về họ nữa, nhưng
nhìn họ say sưa nhảy múa, trong lòng tôi vẫn thấy ganh tị, vẫn khao khát, và
mắt tôi không rời họ được. Đó chính là lúc tôi nhìn thấy ông, ngay trước mắt
tôi.
Hai tay ông ôm vai hai
người khác, với câu hát hai ba nốt nhạc đơn sơ, chân trái đá một bên đoạn chân
phải đá bên kia. Vâng, đúng rồi, chính là ông, Éluard thương quý của thành phố
Praha! Đột nhiên mọi người im bặt tiếng hát nhưng đôi chân vẫn không ngừng đưa
đẩy. Thì ra ai nấy im tiếng để nghe ông đọc thơ, giọng ông hùng hồn theo nhịp giậm
chân:
“Chúng ta sẽ thôi
nghỉ ngơi, sẽ thôi mê ngủ,
Chúng ta sẽ vượt qua
bình minh, bỏ rơi mùa xuân
Và chúng ta sẽ nắn lại
ngày tháng và mùa màng
Đúng như trong giấc mơ
chúng ta hằng ấp ủ”.
Và rồi mọi người lại
tiếp tục câu hát đơn sơ, nhịp điệu nhảy múa càng lúc càng nhanh. Họ đang vươn
lên từ cơn mê ngủ, từ cõi ngu ngơ, họ đang vượt thời gian để lấp đầy cái ngây
thơ của họ. Nụ cười rạng rỡ nở bung trên các khuôn mặt tươi trẻ và Éluard cúi
xuống một cô gái ông đang ôm trong tay, nói:
“Kẻ được hòa bình
chiếm hữu là kẻ luôn luôn tươi cười”.
Nghe thế cô gái cười
và bắt đầu giậm chân mạnh hơn, thân hình cô bỗng từ từ nhấc lên khỏi vệ đường
vài xăng-ti mét, kéo những người khác lên theo, và một lát sau không ai chân
còn chấm mặt đất nữa, tất cả đang nhịp nhàng hai bước tại chỗ, một bước tiến
lên, trên không trung, vâng, họ đang bay lên cao, bên trên quảng trường
Wenceslaus, cái vòng tròn họ nắm tay nhau nhảy múa trông giống một vòng hoa
khổng lồ đang bay trên không, dưới đất tôi chạy theo nhìn lên họ trong lúc họ
bay càng lúc càng xa, chân trái đá bên này chân phải đá bên kia vẫn nhịp nhàng
đều bước, và dưới này là Praha với những quán cà phê đông nghẹt thi sĩ, những
nhà tù đông nghẹt người phản bội nhân dân, và từ lò hỏa thiêu nơi người ta
thiêu xác một đảng viên Xã hội và một thi sĩ Siêu thực, khói bốc lên thiên đàng
như một điềm lành, và tôi nghe giọng Éluard vẫn hùng hồn sắc bén:
“Tình thương yêu
cho nhau chẳng bao giờ mệt mỏi”.
Tôi chạy theo giọng
đọc đó khắp phố phường để mắt không rời cái vòng hoa xán lạn đang bay trên
thành phố, tôi bỗng nhận ra một điều khiến tim tôi thắt lại vì buồn bã, đó là,
họ thì bay như chim còn tôi thì như tảng đá rơi xuống vực thẳm, họ có cánh bay
còn tôi chẳng bao giờ có.
7.
Mười tám năm sau khi
bị xử tử, tên tuổi Kalandra được phục hồi, nhưng chỉ ít tháng sau xe tăng Nga
tràn vào Bohemia và chẳng bao lâu hàng nghìn người bị kết tội là những kẻ phản
bội nhân dân, phản bội hy vọng của nhân dân, có người bị ném vào nhà tù, nhưng
hầu hết bị mất việc, và hai năm sau (tức là hai mươi năm sau khi Éluard từ
quảng trường Wenceslaus bay bổng lên không trung), một trong những người bị kết
tội này (chính là tôi) viết báo phụ trách mục chiêm tinh cho một tờ tạp chí
dành cho giới trẻ.
Được một năm, một hôm
lúc tôi đang viết bài về sao Nhân Mã, một anh thanh niên tôi chưa thấy mặt bao
giờ đến gặp tôi. Không nói không rằng, anh trao cho tôi một cái phong bì, tôi
xé ra đọc nhưng mất một lúc khá lâu tôi mới nhận ra đó là thư của R. Nét chữ
trong thư tôi không nhận ra là của R. Chắc cô đã vô cùng bối rối lúc viết, và
có lẽ cô cố tình viết với giọng văn cho mình tôi hiểu, ngay cả thế tôi chỉ hiểu
một nửa. Điều duy nhất tôi hiểu rõ là, sau một năm trời, tung tích nhà văn của
tôi đã bị phát hiện.
Vào thời điểm đó tôi
thuê một căn hộ nhỏ nằm trên đường Bartolomejska ở Praha. Đó là một con đường
ngắn nhưng ai cũng biết bởi tất cả các khu nhà ở đấy là của công an, ngoại trừ
hai chung cư (căn hộ tôi ở thuộc một trong hai chung cư). Từ cửa sổ lớn phòng
tôi trên lầu năm nhìn lên là tháp tòa lâu đài Hradcany, và nhìn xuống là sân
trụ sở nha công an. Bên trên là chỗ các nhà vua Bohemia từng ngự trị một lịch
sử huy hoàng, bên dưới là nơi phơi phóng một lịch sử những tù nhân tăm tiếng.
Tất cả tù nhân đều phải lê bước qua khoảng sân đó, Kalandra và Horakova,
Slansky và Clementis, rồi các bạn tôi Sabata và Hubl.
Anh thanh niên (mọi
điều về anh cho thấy anh phải là hôn phu của R.) đảo mắt nhìn quanh quất, khi
biết chắc không ai theo dõi mới dám vào phòng. Anh sợ công an đặt máy vi âm
nghe lén bên trong căn hộ, và chúng tôi ngầm ra hiệu cho nhau bước ra ngoài nói
chuyện. Thoạt đầu chúng tôi yên lặng đi cạnh nhau, mãi khi đến đường Narodni
đầy tiếng động ồn ào anh mới bảo tôi R. muốn gặp riêng tôi, và một người bạn
anh mà tôi không biết là ai, đã đồng ý cho chúng tôi mượn căn hộ ở ngoại ô làm
điểm hẹn cho buổi gặp bí mật này.
Ngày hôm sau tôi đáp
xe điện ra ngoại thành Praha, hai tay tôi tê cóng vì cái lạnh tháng Chạp. Ngoài
này toàn chung cư, chín mười giờ sáng phố xá vắng vẻ không một bóng người. Nhờ
anh thanh niên dặn dò chỉ đường kỹ, tôi tìm ra khu nhà, lấy thang máy lên lầu
tư, dò tên họ ghi trên cánh cửa và tìm ra đúng căn hộ. Tôi bấm chuông. Không
nghe tiếng động nào bên trong. Đợi một lát vẫn không ai ra mở cửa, tôi bấm lần
nữa nhưng vẫn không một bóng người xuất hiện. Chờ mãi không thấy ai tôi bỏ
xuống đường đi loanh quanh cả nửa tiếng đồng hồ trong cái lạnh mùa đông. Tôi đồ
R. trễ giờ hẹn và không chừng tôi sẽ gặp cô đi từ trạm xe điện đến đây. Nhưng
chờ mãi vẫn không thấy R., tôi lại lấy thang máy lên lầu tư. Tôi bấm chuông lần
nữa. Vài giây sau tôi nghe tiếng nước dội cầu. Ngay giây phút đó tôi có cảm
tưởng như có ai vừa đổ thùng đá lạnh lên người tôi. Cơ thể tôi cảm nhận được
tình trạng của cô gái trẻ, cô không mở cửa được vì quá khiếp sợ và cứ phải đi
tiểu luôn.
Lúc ra mở cửa, da mặt
cô xanh tái nhưng vẫn nở nụ cười chào tôi, gắng gượng vui vẻ như những lần gặp
khác. Cô đùa bảo tôi cuối cùng anh em mình cũng có một không gian riêng như thế
này. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện và cô bảo cô vừa bị công an mời lên làm
việc. Họ thẩm vấn cô cả ngày trời. Hai giờ đầu họ hỏi cô toàn những chuyện vu
vơ, khiến cô cảm thấy thoải mái đến nỗi cô đùa bảo chẳng lẽ họ bắt cô nhịn ăn
trưa chỉ để nói những chuyện vớ vẩn ấy sao. Ngay lúc đó họ hỏi cô: Vậy thì, hỡi
cô R. quý mến, ai là người viết mục chiêm tinh cho tờ tạp chí của cô? Cô lúng
túng trả lời bảo đấy là một nhà vật lý học danh tiếng mà danh tính ông cô không
thể tiết lộ. Họ hỏi cô: Cô biết ông Kundera không? Có, cô trả lời cô biết tôi.
Biết ông ấy thì có gì sai trái không? Họ đáp: Chẳng có gì sai trái cả, nhưng cô
có biết ông Kundera thích nghiên cứu chiêm tinh không? Cô bảo cô chẳng biết tí
gì chuyện đó. Cô không biết thật ư? Họ cười hỏi lại cô. Cả Praha này ai cũng
biết chuyện đó mà cô bảo cô không biết tí gì, là thế nào? Cô lại kể lể về nhà
vật lý học, đang nói nửa chừng thì một trong mấy gã công an thẩm vấn bỗng quát
lên: Cô không được nói dối quanh nữa!
Thế là cô đành khai sự
thật. Cô nói bộ biên tập tờ tạp chí muốn có một cột báo chiêm tinh thú vị nhưng
không biết tìm ai phụ trách, tình cờ R. quen tôi và nhờ tôi giúp. Cô biết chắc
cô không vi phạm luật pháp khi làm thế. Họ bảo cô đúng, cô không vi phạm luật
pháp nào cả, cô chỉ vi phạm điều lệ nội trị cấm, không được làm việc với kẻ có
tội, kẻ đã lạm dụng lòng tin của đảng và nhà nước. Cô cố biện minh không có gì
nghiêm trọng xảy ra: ông Kundera viết bài dưới một cái tên giả và như thế không
ai bị xúc phạm. Còn về tiền thù lao cho ông Kundera thì chẳng đáng nhắc ra ở
đây. Một lần nữa, họ bảo cô đúng: không có gì nghiêm trọng cả và họ sẽ chỉ thảo
một biên bản về chuyện này rồi xin cô ký tên vào. Chỉ thế thôi và sau đó cô
không cần bận tâm gì nữa.
Cô ký tên vào tờ biên
bản, hai hôm sau ông tổng biên tập gọi cô vào tuyên bố cô bị đuổi việc, ngay
tức khắc. Ngay hôm bị đuổi việc, cô đến đài phát thanh, nơi cô có vài người bạn
quen xưa nay vẫn gọi cô sang cộng tác. Họ niềm nở tiếp cô nhưng ngày hôm sau
trở lại điền giấy tờ thì giám đốc phòng nhân viên, người vẫn quý mến cô bấy
lâu, ra bảo cô với giọng tuyệt vọng: “Cô bé, thật là một việc làm hết sức ngu
xuẩn cô đã làm, cô biết không? Chính cô đã làm hại cuộc đời cô. Tôi không làm
gì được cho cô đâu”.
Thoạt đầu cô chưa muốn
nói chuyện với tôi bởi vì cô hứa với công an là cô sẽ không nói với bất cứ ai
nửa lời về vụ thẩm vấn. Nhưng khi bị gọi lên làm việc lần nữa (mai cô đi gặp
họ), cô quyết định lén gặp tôi để hội ý với nhau cho câu chuyện ăn khớp trường
hợp tôi cũng bị gọi.
Xin hiểu R. là người
can đảm, nhưng cô còn trẻ và thiếu kinh nghiệm sống. Cô vừa bị cú đánh đầu tiên
trong đời, một cú đánh phủ đầu bất ngờ và cô không hiểu tại sao mình bị, suốt
đời cô sẽ không bao giờ quên. Tôi bỗng nhận ra tôi bị chọn làm kẻ đưa tin dữ
cho mọi người, và tôi bắt đầu sợ hãi chính tôi.
Cô hỏi tôi, cổ họng
như tắc nghẹn: “Anh có nghĩ là họ biết về một nghìn đồng tiền thù lao lá số tử
vi anh nhận của lão tổng biên tập không?”.
“Em đừng lo. Một kẻ
từng ở Moskva cả ba năm trời nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ không đời nào
dám thú nhận mình đi xin lá số tử vi”.
Cô gái cười, và mặc dù
tiếng cười của cô kéo dài không quá nửa giây, nó vang trong tai tôi như một hứa
hẹn tạm thời cho một cứu rỗi. Bởi đây chính là tiếng cười tôi muốn nghe lúc tôi
viết những bài ngăn ngắn vớ vẩn về Song Ngư, Xử Nữ, Dương Cưu… Nó chính là
tiếng cười mà lúc cầm bút viết tôi tưởng tượng sẽ là phần thưởng cho tôi, nhưng
nó đã không bao giờ đến, không thấy nó nơi đâu, bởi khắp thế gian lúc đó thiên
sứ đang chiếm cứ tất cả các địa vị quyền lực, tất cả các văn phòng lãnh tụ,
cánh hữu cánh tả thiên sứ đều ngự trị, Ả Rập lẫn Do Thái, những lãnh tụ Nga Xô,
những ông bà bất đồng chính kiến với chế độ Xô-viết. Từ bốn phía họ nhìn chúng
tôi với cặp mắt lạnh lùng băng giá. Cái nhìn lột trần chúng tôi ra khỏi bộ áo
diễn trò vui nhộn dễ thương, nó lột mặt nạ chúng tôi và gán lên chúng tôi nhãn hiệu
những kẻ giả mạo thảm thương, những kẻ làm việc cho một tờ tạp chí dành cho
giới trẻ trong một quốc gia Xã hội chủ nghĩa mà không hề tin tưởng chút gì về
giới trẻ hay Xã hội chủ nghĩa, những kẻ cả gan lấy lá số tử vi cho ông tổng
biên tập rồi đem cả ông tổng biên tập lẫn lá số ra làm trò cười với nhau, những
kẻ chỉ biết lo cắm đầu cắm cổ vào những chuyện vớ vẩn tạp nham trong khi cả thế
giới xung quanh (tả và hữu, Ả Rập và Do Thái, lãnh tụ và ly khai) đang miệt mài
tranh đấu cho tương lai nhân quần. Chúng tôi có cảm tưởng sức nặng của cái nhìn
từ họ đang biến chúng tôi thành côn trùng và sẽ bị gót giày đè bẹp dí.
Trấn át nỗi lo sợ, tôi
cố bày những câu trả lời hợp tình hợp lý nhất cho R. để mai cô đi gặp công an.
Trong lúc nghe tôi nói, mấy lần cô đứng dậy vào toa-lét. Lần nào quay trở ra
sau tiếng nước dội cầu, gương mặt cô cũng hiện nét ngượng ngùng hốt hoảng. Cô
gái can đảm đó, nỗi lo sợ khiến cô thấy xấu hổ. Một phụ nữ phẩm giá thấy xấu hổ
vì cứ phải đi tiểu luôn trước mặt một người lạ.
8.
Trên dưới hai mươi cô
cậu sinh viên thuộc nhiều quốc tịch khác nhau ngồi trong lớp học chăm chú nhìn
lên Michelle và Gabrielle. Hai cô đang đứng trước bục giảng chỗ Madame Raphael
ngồi sau bàn giấy. Trên tay mỗi cô cầm một xấp giấy bài thuyết trình ngày hôm
nay và một món vật hình thù kỳ dị làm bằng các-tông và sợi dây cao su.
“Chúng tôi sẽ thuyết
trình trước lớp về vở kịch Rhinoceros của Ionesco”. Michelle
nói xong, hơi cúi đầu đoạn đưa món vật hình thù như cái sừng làm bằng những
mảnh các-tông nhiều màu dán keo vào nhau lên mũi mình rồi buộc sợi dây cao su
sau gáy. Gabrielle cũng làm như bạn mình. Xong, hai cô quay mặt lại nhìn nhau
không ai bảo ai cùng ré lên một tràng thanh âm chói lói.
Cả lớp hiểu ra ngay
hai cô gái đang cho mọi người thấy, thứ nhất, tê giác có sừng chứ không phải
mũi và, thứ hai, vở kịch của Ionesco có tính hài. Hai cô quyết định biểu hiện
hai ý tưởng này chẳng những bằng bài thuyết trình mà trên hết còn qua hành động
của chính thân thể mình.
Cái sừng bằng các-tông
nhiều màu trên mặt Michelle và Gabrielle không ngớt lắc lư khiến lớp học thấy
vừa thương hại vừa ngượng cho hai cô gái, như thể đấy là người đứng trước lớp
học giơ cánh tay cụt của mình lên khoe.
Chỉ có Madame Raphael
là thấy cảm phục cảm hứng sáng tạo của hai cô học trò yêu, bà biểu lộ sự đồng
tình bằng cách cũng ré lên tràng âm thanh chói lói của riêng bà.
Cảm thấy hài lòng, hai
cô gật gật cái mũi dài ngoằng, đoạn Michelle bắt đầu đọc phần thuyết trình của
cô.
Trong lớp có một cô
gái người Do Thái tên Sarah. Trước đó vài hôm, cô này hỏi mượn hai cô gái Mỹ
những ghi chép (trong lớp ai cũng biết hai cô ghi chép không thiếu một lời
giảng của Madame Raphael), nhưng hai cô không chịu cho mượn: “Ai bảo chị trốn
học ra biển chơi!”. Từ hôm đó, Sarah thù ghét hai cô lắm và đây là cơ hội tốt nhất
cho cô hạ nhục hai cô gái Mỹ.
Michelle và Gabrielle
thay phiên nhau thuyết trình bài phân tích vở kịch Rhinoceros. Cái
sừng dài bằng các-tông cụp lên cụp xuống trên mặt hai cô như thể nó đang van
nài ai điều gì. Sarah thấy bỏ qua dịp này rất uổng bèn lợi dụng lúc Michelle
ngưng nói để ra hiệu cho Gabrielle thay phiên tiếp tục bài thuyết trình, cô
đứng dậy tiến về trước lớp. Thay vì nói tiếp phần của mình, Gabrielle lại chĩa
cái mũi giả về hướng Sarah và đứng đó há hốc miệng. Đến gần, Sarah đi vòng ra sau
lưng hai cô gái Mỹ (như thể cái mũi trì đầu mình xuống quá nặng đến nỗi hai cô
không thể ngoái lại xem cô kia đang định giở trò gì), từ đằng sau cô lui lại
vài bước lấy thế rồi phóng chân đạp thật mạnh vào mông Michelle một cú, đoạn cô
làm y như thế nhắm trúng mông Gabrielle mà đạp. Xong, cô yên lặng, đường bệ bỏ
về lại chỗ ngồi.
Choáng váng, cả lớp
đột nhiên im phăng phắc.
Rồi nước mắt chảy dài
trên mặt Michelle và Gabrielle.
Rồi cả lớp phá lên
cười, cười như chợ vỡ, cười như chưa bao giờ được cười.
Rồi Sarah ngồi xuống
ghế.
Rồi đến phiên Madame
Raphael. Thoạt tiên vì quá bất ngờ, bà sững sờ đến đờ đẫn cả người trong giây
lát, nhưng rồi bà nhận ra hành động can thiệp của Sarah là một phân cảnh, mặc
dù có tính cách nghịch ngợm của học trò, nhưng được chuẩn bị chu đáo với chủ ý
rọi sáng lên chủ thể bài phân tích (diễn giải một tác phẩm nghệ thuật không
ngưng lại ở phương cách tiếp cận lý thuyết truyền thống, mà cần một đường lối
tiếp cận cách tân, đọc bằng phương tiện của tri hành, của hành động, của cái đang
xảy ra). Nghĩ như thế và bởi không thấy nước mắt trên gương mặt hai cô học trò
yêu đang chảy dài (đứng nhìn xuống lớp, hai cô day lưng lại bà), bà ngửa đầu ra
sau phá lên tràng cười sảng khoái tán thành diễn trình độc đáo có một không hai
đó.
Nghe bà giáo mình hằng
yêu kính cười phía sau lưng, Michelle và Gabrielle cảm thấy như bị phản bội.
Nước mắt hai cô càng tuôn ra dữ dội như vòi nước. Sự ô nhục ê chề đến nỗi hai
cô vặn vẹo thân hình như thể ruột gan quặn thắt.
Madame Raphael thấy
hai người học trò yêu vặn vẹo thân hình lại tưởng đang nhảy múa, thế là ngay
tức thì bà phóng ra khỏi ghế ngồi, như thể có sức mạnh nào đó mãnh liệt hơn cái
trọng lực nghề giáo đẩy bật bà lên. Bà cười như điên dại, cười đến chảy nước
mắt, hai cánh tay bà dang rộng, thân hình ngả nghiêng, đầu lắc lư trên cần cổ
như cái chuông nhà thờ lộn ngược đổ liên hồi do người kéo chuông kéo quá mạnh.
Tiến lại gần hai cô gái đang vặn vẹo, bà nắm lấy tay Michelle. Lúc này ba người
hướng xuống lớp học, và cả ba đều vặn vẹo, nước mắt giàn giụa. Madame Raphael
đi hai bước tại chỗ, đá chân trái về một phía, đoạn chân phải phía bên kia, và
hai cô gái gượng gạo bắt chước làm theo. Nước mắt làm ướt nhẹp cái mũi
các-tông, hai cô vừa vặn vẹo vừa giậm chân tại chỗ. Rồi Madame le
professeur nắm lấy tay Gabrielle, họ làm thành vòng tròn và cả ba, tay
trong tay, chân bước tại chỗ, đoạn sang bên trái, sang bên phải, gương mặt nhăn
nhó của hai cô gái Michelle và Gabrielle đang từ khóc biến thành cười.
Ba người đàn bà cứ thế
vừa nhảy vừa cười, hai cái mũi các-tông lắc lư, lớp học há hốc miệng nhìn, họ
không tin vào đôi mắt mình. Nhưng lúc này ba người đàn bà đâu còn biết đến ai
khác nữa, họ tập trung cả vào chính họ và cảm giác kỳ diệu họ đang trải nghiệm.
Đột nhiên Madame Raphael giậm chân mạnh hơn và thân hình bà từ từ nhấc vài
xăng-ti mét lên khỏi sàn lớp học, kéo theo hai cô gái. Giây lát sau cả ba đã
cách xa mặt đất và quay cuồng trên cao. Lúc mái tóc họ chạm trần nhà, bỗng
nhiên một lỗ hổng từ từ mở ra, và qua cái lỗ hổng đó, ba thân hình càng lúc
càng bay cao lên không trung, không thấy hai cái mũi các-tông đâu nữa mà chỉ
thấy ba đôi giày đá tới đá lui luồn qua lỗ hổng. Sau cùng thì chẳng thấy gì
nữa, đám sinh viên ngồi đờ đẫn bên dưới chỉ còn nghe thấy tiếng cười càng lúc
càng xa, văng vẳng vọng xuống từ cõi cao của ba tổng lãnh thiên sứ.
9.
Cuộc gặp gỡ giữa tôi
và R. tại căn hộ nọ đã cho tôi một quyết định dứt khoát. Chỉ từ lúc đó tôi mới
nhận ra sự thật: tôi là đầu mối tai họa cho những người tôi yêu quý, tôi không
nên sống trong cùng một môi trường với họ nếu tôi không muốn họ bị hãm hại, và
giải pháp duy nhất tôi có thể thực hiện được là bỏ xứ ra đi.
Nhưng tôi cũng có một
lý do khác để nhớ lại lần gặp cuối cùng với R. Trước đó tôi luôn luôn có tình
cảm tốt đẹp với người phụ nữ trẻ tuổi này, một tình cảm trong sáng, không hề
bợn chút tà tâm. Như thể thân thể cô luôn luôn được che đậy bởi một trí tuệ
sáng láng, một nhân cách khiêm cung, và một phong cách ăn mặc có phẩm vị. Chẳng
bao giờ cô để lộ kẽ hở nhỏ xíu nào cho tôi thấy cái trần truồng bên trong. Nhưng
bây giờ, đột nhiên, sự sợ hãi như con dao sắc của gã bán thịt tàn nhẫn rọc banh
cô ra. Nhìn cô ngồi trước mắt, tôi có cảm tưởng như nhìn một tảng thịt bò treo
trên móc hàng bán thịt. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trên chiếc đi-văng trong căn
hộ mượn tạm làm chỗ gặp, nghe tiếng nước dội cầu trong toa-lét, lòng tôi bỗng
nổi cơn thèm khát rồ dại muốn làm tình với cô. Chính xác hơn: cơn thèm khát rồ
dại muốn hãm hiếp cô. Tôi muốn nhảy chồm lên cô, chiếm đoạt cô, bằng một động
tác ôm ấp với tất cả những mâu thuẫn kích thích không kham nổi nơi con người
cô, mâu thuẫn giữa bộ y phục tuyệt hảo cô mặc trên người và hệ bài tiết rối
loạn bên trong, mâu thuẫn giữa lý trí và khiếp sợ, mâu thuẫn giữa tự hào và
nhục nhã. Đối với tôi, hình như ẩn nấp bên dưới những mâu thuẫn này là bản chất
thật con người cô, kho tàng đó, cục vàng ròng đó, hạt kim cương đó, nằm sâu
giấu kín trong cô. Tôi muốn phá vỡ và lôi toạc nó ra. Tôi muốn chiếm ngự cô
toàn vẹn, với tất cả cứt đái và một tâm hồn không biết nói sao cho vừa của cô.
Nhưng tôi chỉ thấy đôi
mắt lo lắng đang nhìn tôi chằm chặp (đôi mắt lo lắng trên một khuôn mặt thông
minh), đôi mắt ấy càng lo lắng bao nhiêu, tôi càng muốn hiếp cô bấy nhiêu –
càng thấy mọi sự sao phi lý, khùng điên, ô nhục, không thể hiểu nổi, không làm
gì nổi.
Hôm đó, sau khi rời
căn hộ bước xuống đường và một lần nữa đi giữa những khu chung cư (R. ở lại mãi
một lúc lâu sau mới dám ra khỏi cửa vì sợ có người thấy đi với tôi), đầu óc tôi
không suy nghĩ được điều gì ngoài cái ý tưởng mông muội muốn hiếp cô gái đáng
yêu ấy. Ý nghĩ đó vẫn còn ở lại trong tôi, như con chim bị nhốt kín trong cái
bao thi thoảng thức dậy, vỗ cánh.
Cũng có thể cái ham
muốn ngông cuồng điên loạn muốn hiếp cô gái chỉ đơn thuần là cố gắng tuyệt vọng
cần bám víu vào bất cứ vật gì trong lúc đang rơi xuống vực thẳm. Bởi vì từ khi
họ tống cổ tôi ra khỏi cái vòng tròn, tôi vẫn rơi, vẫn đang rơi, và họ vẫn tiếp
tục xô đẩy, nhận chìm cho tôi rơi sâu hơn nữa, xa hơn nữa, càng lúc càng xa đất
nước tôi, đuổi tôi về chốn hoang vu của một thế giới nơi tiếng cười khiếp hãi
của những thiên sứ vang vọng, thô bạo át mọi lời tôi muốn nói.
Tôi biết có Sarah ở
đâu đó, Sarah cô gái Do Thái, Sarah cô em tôi, những tôi biết tìm cô nơi đâu?
………………………………………..
*Chú thích của người
viết:
Các trích đoạn là từ
những tác phẩm sau: Annie Leclerc, Parole de femme, 1976; Paul
Éluard, Le visage de la paix, 1951; Eugène Ionesco, Rhinocéros,
1959.
*Chú thích của người
dịch:
[1] jouissance: Khoái cảm.
[2] Jaroslav Hašek [1883-1923]: Nhà văn Tiệp, nổi
tiếng với những tác phẩm văn chương trào phúng, châm biếm.
[3] Giáo hội Giám Lý (Methodist Church): Một giáo
phái Tin Lành có xuất xứ từ Anh quốc, thế kỷ XVIII.
*Trịnh Y Thư dịch
từ The Book of Laughter and Forgetting, Milan Kundera, ấn bản Anh
ngữ của Aaron Asher.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét