Chiến xa khối Vacxava tại thủ đô Praha, Tiệp Khắc, tháng 08-1968 |
TẬP SÁCH CÁI CƯỜI & SỰ LÃNG QUÊN (13)
PHẦN VI
Thiên thần
KỲ I
1.
Tháng Hai năm 1948,
lãnh tụ cộng sản Klement Gottwald bước ra bao lơn tòa dinh thự xây từ thời
Baroque thủ đô Praha để hiệu triệu hàng trăm nghìn công dân đứng chật ních dưới
quảng trường Phố Cổ. Đó là khúc quành trọng đại của lịch sử xứ Bohemia. Tuyết
rơi tầm tã, trời se sắt lạnh, và Gottwald để đầu trần. Cảm thấy trống trải,
Clementis ân cần lấy mũ mình đội lên đầu Gottwald.
Cả Gottwald lẫn Clementis đều không biết trong suốt tám năm trời Franz Kafka mỗi ngày trèo lên chính những bậc cấp họ vừa lên để bước ra cái bao lơn lịch sử, bởi dưới thời đế quốc Áo-Hung tòa dinh thự là một trường học Đức. Họ cũng không biết ở ngay tầng dưới chính tòa nhà ấy, cha của Franz, Hermann Kafka, có mở một cái tiệm và trên bảng hiệu vẽ hình con quạ bên cạnh tên ông, kafka tiếng Tiệp có nghĩa là quạ.
Gottwald, Clementis,
và tất cả những kẻ khác chẳng ai biết Kafka từng hiện hữu, nhưng Kafka biết rõ
sự ngu dốt của họ. Trong tiểu thuyết của ông, Praha là một thành phố không có
ký ức, thậm chí không ai nhớ tên nó là gì. Không ai nhớ bất cứ điều gì và
Joseph K. hình như còn không nhớ nổi quãng đời trước kia của hắn. Không ai nghe
bài hát nào gợi nhớ thời điểm nó ra đời và liên kết hiện tại với quá khứ.
Thời của tiểu thuyết
Kafka là thời con người đánh mất sự liên tục với con người. Con người sống
không biết gì, không nhớ gì, bên trong những thành phố không tên, đường phố
không tên, hoặc những cái tên khác với ngày hôm qua, bởi tên gọi là sự liên tục
với quá khứ, kẻ không có quá khứ không có tên.
Max Brod gọi Praha là
thành phố của tàn ác. Sau khi Phong trào Cải cách Tiệp thất bại năm 1621, những
người Dòng Tên cải tạo dân với đức tin Công giáo, họ cho mọc lên khắp Praha
những thánh đường xây theo phong cách Baroque. Hàng ngàn ông thánh hóa đá, đứng
tứ phía xung quanh bạn, đe dọa, dò xét, thôi miên bạn; các ông thánh là đội quân
xâm lăng vào chiếm đóng xứ Bohemia từ ba trăm năm mươi năm trước với chủ đích
tước bỏ đức tin và ngôn ngữ người dân Tiệp ra khỏi linh hồn họ.
Tên con đường nơi
Tamina sinh ra là Schwerinova. Lúc đó đang còn chiến tranh, và Praha bị Đức
chiếm đóng. Tên đường nơi cha cô sinh ra là Cernokostelecka, dưới thời đế quốc
Áo-Hung. Khi cha mẹ cô lấy nhau, bà dọn vào đó, tên đường là Thống chế Foch. Đó
là thời gian sau cuộc chiến 1914-1918. Từ tuổi ấu thơ lớn lên, Tamina sống tại
đường mang tên Stalin, và hôm chồng cô đến đón cô về căn nhà mới của hai người
thì đó là đường Vinohady. Tất cả chừng ấy tên cho cùng một con đường, họ thay
tên đường không biết chán, họ nhồi sọ cho nó biến thành cái gì thực dở hơi, ngớ
ngẩn.
Lang thang giữa những
con đường không biết tên gì là bóng ma những bức tượng bị kéo sập. Kéo sập bởi
cuộc Cải cách Tiệp, bởi cuộc Phản-Cải cách Áo, bởi Cộng hòa Tiệp Khắc, bởi Cộng
sản; thậm chí tượng Stalin cũng bị kéo sập. Thế chỗ những bức tượng bị kéo sập
ấy, cả ngàn tượng Lenin ngày nay mọc lên khắp Bohemia, như cỏ dại mọc giữa phế
tích, như những bông hoa buồn rầu hôn ám của sự lãng quên.
2.
Nếu Franz Kafka tiên
tri một thế giới không có ký ức, thì Gustav Husak là người xây dựng thế giới
ấy. Sau T.G. Masaryk, người được mệnh danh là Tổng thống Người Giải Phóng
(tượng ông bị phá hủy đến cái cuối cùng), sau Benes, Gottwald, Zapotocky,
Novotny, và Svoboda, ông là Tổng thống thứ bẩy của xứ tôi, và người ta gọi ông
là Tổng thống của Lãng quên.
Năm 1969 người Nga
giao quyền lực vào tay ông. Từ năm 1621, dân Czech chưa bao giờ kinh qua cuộc
tàn phá văn hóa và tri thức nào tai hại đến thế. Khắp nơi ai cũng nghĩ Husak
chỉ thanh trừng các đối thủ chính trị. Nhưng người Nga đã lợi dụng cơ hội tuyệt
hảo ấy, sử dụng tay sai, để thực hiện những mưu đồ cơ bản hơn.
Từ điểm nhìn này tôi
xem việc Husak tống xuất một trăm bốn mươi lăm sử gia Czech ra khỏi các đại học
và học viện là vô cùng quan hệ. (Người ta bảo nhau cứ mỗi sử gia bị loại thì có
một bức tượng Lenin được dựng lên ở nơi nào đó trong xứ, nghe kỳ bí như chuyện
thần tiên). Năm 1971, một hôm Milan Hübl, một trong những sử gia ấy, với cặp
kính dầy cộm, đến thăm tôi tại căn hộ tôi đang sinh sống trên đường
Bartolomejska. Chúng tôi cùng nhìn ra cửa sổ trông lên những ngọn tháp lâu đài
Hradcany, lòng buồn rười rượi.
Hübl bảo tôi: “Anh
triệt tiêu một giống người bằng cách lấy đi ký ức của họ. Anh tiêu hủy sách vở,
văn hóa, lịch sử của họ. Rồi những kẻ khác viết sách khác thế chỗ, dựng nên một
văn hóa khác, phát minh một lịch sử khác. Dần dà người ta sẽ quên cái đang là
và cái đã là. Thế giới bên ngoài còn quên mau chóng hơn”.
“Còn ngôn ngữ thì
sao?”.
“Cần gì phải lấy đi
ngôn ngữ? Nó sẽ trở thành một truyền thuyết dân gian, sớm muộn nó cũng chết cái
chết tự nhiên”.
Phải chăng đó chỉ là
suy tưởng cực kỳ yếm thế bên trong một cảm xúc buồn đau vô vọng?
Hay con người thực sự
không có khả năng vượt qua hoang mạc của sự lãng quên?
Chúng tôi không ai
biết chuyện gì sẽ xảy ra. Duy có một điều chắc chắn. Ở vào những thời điểm sáng
tỏ nhất, người dân Czech thấy hình ảnh cái chết của chính mình đến gần. Không
phải một sự kiện hiển nhiên, cũng không phải một tương lai không lối thoát, mà
là một khả hữu cụ thể. Cái chết ở ngay đó với họ.
3.
Sáu tháng sau, Hübl bị
bắt và lãnh án nhiều năm tù. Lúc đó cha tôi đang chết dần mòn.
Suốt mười năm cuối
đời, ông dần dà mất khả năng nói. Thoạt đầu có một số từ, hoặc ông không thể
nhớ, hoặc ông thay thế bằng một từ khác có thanh âm tương tự nhưng ngay lập tức
ông nhận ra nó sai lạc một cách khôi hài và bật lên cười. Về sau ông chỉ nói
được một số rất ít từ, mỗi khi muốn diễn tả điều gì ông nói không ra lời và
luôn luôn chấm dứt bằng hai tiếng “Lạ thực!”. Mười lần như một.
Miệng ông thốt “Lạ
thực!” và đôi mắt ông tỏ vẻ kinh ngạc cực độ, sao cái gì cũng biết mà chẳng nói
được. Sự vật mất hết tên gọi và nhập lại thành một hữu thể duy nhất, bất khả
phân biệt. Tôi là người duy nhất còn cố gắng chuyện trò với ông để hy vọng vớt
vát được chút nào hay chút nấy thế giới những thực thể với tên gọi từ quãng
không mịt mù không chữ, không tên.
Đôi mắt to xanh biếc
trên khuôn mặt còn đẹp của ông vẫn ngời lên ánh tinh anh, thông tuệ như xưa.
Tôi hay đưa ông ra ngoài đi dạo. Chúng tôi đi quanh một vòng giáp khu phố, bởi
ông chỉ đi được bấy nhiêu. Ông đi khó khăn lắm, chậm chạp kéo lê từng bước một,
khi thấm mệt thân hình ông ngả về phía trước và ông mất thăng bằng. Đi một chốc
tôi lại phải cho ông nghỉ để lấy lại hơi thở điều hòa, ông đứng gục trán vào
tường, hai bàn tay giơ lên áp lên tường như quy hàng.
Trong lúc đi như vậy
chúng tôi nói chuyện về âm nhạc. Thuở trước lúc Papa còn nói chuyện bình
thường, tôi hỏi chuyện ông rất ít. Giờ đây tôi hỏi bù. Chúng tôi nói chuyện về
âm nhạc, nhưng đó là cuộc đối thoại lạ lùng giữa người không biết gì nhưng có
rất nhiều chữ và người cái gì cũng biết nhưng không có chữ nào.
Suốt mười năm trời dỗ
bệnh, Papa miệt mài viết một cuốn sách to tướng luận về những tấu khúc Sonata
của Beethoven. Có lẽ ông viết dễ dàng hơn là nói, nhưng rồi càng ngày ông càng
quên chữ, và không ai hiểu văn bản cuốn sách, nó gồm những từ không hiện hữu.
Một hôm ông gọi tôi
vào phòng. Trên piano ông mở hành âm những biến tấu trong khúc Sonata Opus 111.
“Nhìn”, ông bảo tôi, tay chỉ lên nhạc (ông không chơi piano được nữa), ông lại
bảo tôi “Nhìn”, và sau một lúc khá lâu cố gắng, ông thốt một câu ngắn, “Bây giờ
thì tôi biết rồi!”, và ông giải thích điều gì đó rất quan trọng cho tôi nghe,
nhưng thốt ra từ miệng ông toàn là những từ vô nghĩa, và thấy tôi có vẻ ngơ
ngác chẳng hiểu gì, ông bèn nói một câu: “Lạ thực”.
Dĩ nhiên tôi biết ông
muốn nói gì, bởi đó chính là câu hỏi ông tự hỏi từ lâu lắm. Cuối đời Beethoven
rất chuộng nhạc thức biến tấu. Thoạt nhìn vào, có vẻ nó là loại nhạc thức hời
hợt, nông cạn nhất, một pha phô diễn kỹ thuật ngón đàn tuyệt kỹ, thích hợp cho
người dệt ren hơn là Beethoven. Nhưng Beethoven đã biến nó thành một nhạc thức
cao diệu (lần đầu tiên trong lịch sử âm nhạc); những quán niệm cao đẹp nhất của
ông được chạm khắc vào đấy.
Vâng, ai cũng biết
thế. Nhưng Papa muốn biết phải hiểu nó như thế nào. Chính xác tại sao lại chọn
nhạc thức biến tấu? Ý nghĩa gì nằm đằng sau nó?
Đó là lý do vì sao ông
gọi tôi vào phòng, bảo: “Bây giờ thì tôi biết rồi!”.
4.
Sự im lặng của cha
tôi, tất cả chữ trôi tuột đi đâu mất; sự im lặng của một trăm bốn mươi lăm sử
gia bị cấm nhớ; sự im lặng phủ trùm Bohemia, tất cả làm thành hậu cảnh cho bức
tranh tôi vẽ nên hình ảnh Tamina.
Cô tiếp tục bưng cà
phê cho khách tại cái quán tỉnh lẻ miền tây châu Ấu ấy. Nhưng khác với dạo
trước, cô bây giờ mất hẳn nhiệt tình hỏi han, trò chuyện với khách. Cô không
thiết tha lắng nghe ai tâm sự, kể lể khúc nôi những chuyện riêng tư của họ nữa.
Một hôm Bibi, như mọi
lần khác, ngồi trên chiếc ghế cao trước quầy nước và đứa bé gái bò lổm ngổm
dưới đất, miệng quác lên đòi mẹ. Tamina bảo Bibi dỗ con nhưng cô cứ phớt tỉnh
để mặc cho đứa bé la hét. Cơn giận bốc lên và cô bảo thẳng vào mặt Bibi: “Cô
không bắt con tườu đó câm họng lại được à?”.
Bực tức không kém,
Bibi trả đũa: “Tại sao chị ghét trẻ con vậy?”.
Chẳng có bằng cớ nào
cho thấy Tamina ghét trẻ con. Nhưng cái âm giọng đượm vẻ khó chịu đó khiến cô
có cảm tưởng Bibi muốn gây hấn. Và kể từ lúc đó trở đi, không hiểu sao, tình
bạn giữa hai người đàn bà chấm dứt.
Rồi đến một hôm Tamina
không đi làm. Điều này chưa từng xảy ra bao giờ. Bà chủ quán đến nhà tìm cô. Bà
bấm chuông nhưng không ai ra mở cửa. Hôm sau bà đến lần nữa, vẫn không thấy cô
đâu. Bà gọi cảnh sát. Họ phá cửa vào nhà, nhưng chỉ thấy căn hộ y nguyên như
cũ, sạch sẽ, đồ đạc ngăn nắp, không mất cái gì, không có gì khả nghi.
Mấy hôm sau vẫn không
thấy Tamina trở lại. Cảnh sát tiếp tục điều tra nhưng họ không tìm ra manh mối
nào, như thể cô đột ngột biến mất khỏi hành tinh này. Và họ cất hồ sơ của cô
vào những trường hợp không giải quyết.
5.
Vào cái ngày định mệnh
ấy, một chàng trai trẻ mặc quần jean vào quán ngồi xuống quầy
nước. Chỉ có mình Tamina trong quán. Chàng trai gọi một ly cô-ca rồi chậm rãi
uống từng ngụm nhỏ. Anh nhìn Tamina, và cô nhìn vào khoảng không.
Sau một lúc khá lâu,
anh gọi: “Tamina”.
Nếu muốn Tamina chú ý
thì anh đã thất bại. Chẳng có gì khó khăn hỏi tên cô, khách trong vùng xung
quanh gần như ai cũng biết.
“Tôi biết cô đang
buồn”, Chàng trai nói tiếp.
Câu nói của chàng trai
chẳng mảy may khiến Tamina xúc động. Cô biết có nhiều cách đàn ông chinh phục
phụ nữ, và một trong những con đường chắc ăn nhất để tiến tới thân xác người
đàn bà là con đường đi xuyên qua nỗi buồn của chị. Tuy biết thế nhưng cô vẫn
quay lại nhìn chàng thanh niên với ánh mắt thiện cảm hơn.
Hai người bắt đầu nói
chuyện. Cái làm cô ngạc nhiên là những câu hỏi từ anh chàng. Không phải nội
dung câu hỏi, mà chỉ giản dị đó là câu hỏi. Chúa ơi! Đã bao lâu rồi có ai hỏi
han cô về bất cứ điều gì không? Dài lâu như một miên viễn! Chỉ có chồng cô hỏi
han cô, bởi yêu là hỏi han liên tục. Tôi không biết một định nghĩa nào hay hơn
về tình yêu.
(Trong trường hợp đó,
ông bạn Hübl của tôi chắc sẽ vạch ra cho tôi thấy rằng không ai yêu chúng ta
hơn công an. Đúng. Như chiều cao đối xứng với chiều
sâu, âm bản của hoan lạc trong tình yêu là sự tò mò của công an. Đôi khi ta
lẫn lộn chiều sâu với chiều cao, và tôi có thể dễ dàng tưởng tượng những kẻ cô
đơn hy vọng lâu lâu được điệu đến ty cảnh sát hay phòng thẩm vấn công an cho họ
được nói về chính họ).
6.
Chàng trai trẻ nhìn
vào mắt Tamina, anh lắng nghe cô nói, đoạn bảo cô rằng những gì cô gọi là ký ức
thật ra là cái gì hoàn toàn khác: Như bị mê hoặc, nó là cái lãng quên cô đang
nhìn, chứ không phải ký ức.
Tamina gật đầu đồng ý.
Chàng trai nói tiếp:
Cô buồn bã nhìn lại quá khứ không phải để biểu hiện lòng chung thủy với người
chồng quá cố. Người chồng không còn tại thế và cũng không hiện hữu trong tầm
nhìn của cô. Cô chỉ ngoái lại đằng sau và nhìn vào không gian.
Nhìn vào không gian?
Nếu thế cái gì đã khiến cái nhìn của cô trở nên quá nặng nề?
Nó nặng nề không phải
vì ký ức, chàng trai giải thích tiếp, mà vì ân hận. Tamina sẽ không bao giờ tự
tha thứ vì cô đã lãng quên.
“Vậy, anh bảo tôi phải
làm cái gì?”. Tamina hỏi.
“Cô hãy quên sự lãng
quên của cô đi”.
Tamina cười chua chát:
“Làm cách nào để tôi quên sự lãng quên của tôi?”.
“Cô có bao giờ nghĩ
đến chuyện bỏ nơi này để đi về một nơi nào khác?”.
“Có chứ”, Tamina thú
nhận. “Tôi thèm lắm. Nhưng đi đâu?”.
“Về một nơi mà sự vật
nhẹ như gió thoảng, nơi sự vật mất hết trọng lượng, nơi không có ân hận”.
“Vâng”, Tamina mơ
màng. “Nơi sự vật không có tí trọng lượng nào”.
Và y như trong truyện
thần tiên, y như một giấc mơ (dĩ nhiên nó là truyện thần tiên! Dĩ nhiên nó là
giấc mơ!), từ sau quầy nước với những món vật quen thuộc suốt mấy năm qua,
Tamina bước ra khỏi quán cà phê đi theo chàng trai trẻ. Một chiếc xe thể thao
sơn đỏ đậu sẵn bên vệ đường. Chàng trai ngồi vào tay lái và mời Tamina lên ngồi
ghế bên cạnh.
7.
Tôi hiểu lời tự trách
của Tamina. Khi Papa qua đời, tôi cũng tự trách mình như thế. Tôi không thể tự
tha thứ mình vì lúc ông còn khỏe mạnh tôi đã hỏi chuyện ông quá ít, biết về ông
quá ít, đã cho phép mình xa cách ông. Chính cảm giác ân hận đã khiến tôi đột
nhiên nhận ra điều ông muốn diễn tả lúc ông trỏ tay vào khúc Sonata Opus 111.
Tôi sẽ cố giải thích
bằng một đối sánh. Tấu khúc giao hưởng là một thiên hùng ca âm nhạc. Ta có thể
nói nó giống như chuyến du hành dẫn dắt ta từ cái này đến cái kia, càng lúc
càng xa, xuyên qua cõi vô tận của thế giới ngoại tại. Biến tấu cũng là một
chuyến du hành, nhưng khác ở chỗ nó không dẫn ta đi xuyên qua cõi vô tận của
thế giới ngoại tại. Trong một pensée, Pascal viết rằng con người
sống giữa vực thẳm của cái to lớn vô hạn và vực thẳm của cái nhỏ bé vô hạn.
Cuộc du hành nhạc thức biến tấu dẫn dắt ta đến cõi vô hạn khác, đi vào cái muôn
trùng của thế giới nội tại nằm ẩn giấu đằng sau tất cả sự vật.
Do đó, với thể biến
tấu, Beethoven đã khai phá một miền đất khác. Biến tấu của ông là “lời mời gọi
hãy dấn bước vào chuyến du hành”.
Biến tấu là nhạc thức
nơi sự đậm đặc lên đến đỉnh điểm; nó có khả năng khiến nhà soạn nhạc chỉ nói về
bản thể, đi thẳng vào cốt lõi của sự vật. Nhạc đề biến tấu thường dài không quá
mười sáu phách. Beethoven đi vào mười sáu phách nhạc đó như ôm cái cột trụ chui
sâu vào lòng quả đất.
Cuộc du hành đến cõi
vô hạn khác không kém mạo hiểm hơn cuộc du hành khúc hùng ca. Nó là cách thế
nhà vật lý học tìm cách đi sâu vào hạt nhân nguyên tử. Với mỗi biến tấu,
Beethoven càng lúc càng rời xa nhạc đề nguyên thủy, hai biến tấu liền kề giống
như nụ hoa trong nắng bên cạnh hình ảnh chính nó dưới ống kính hiển vi.
Con người biết mình
không thể quán triệt vũ trụ bằng cách tìm hiểu hằng hà sa số ngôi sao và thiên
thể trên vòm trời. Đối với hắn, thiếu cái vô hạn khác, một vô hạn trong tầm
tay, trong tầm với, còn khổ sở hơn gấp bội. Tamina thiếu cái vô hạn tình yêu.
Tôi thiếu Papa, và tất cả chúng ta thiếu nó trong việc làm, bởi trong lúc truy
tầm cái tuyệt hảo ta cố tiến đến cốt lõi của sự vật nhưng không bao giờ đạt
được nó.
Cái vô hạn của thế
giới ngoại tại vuột thoát ta, và ta chấp nhận nó như cái gì tự nhiên. Nhưng cho
đến cuối đời ta vẫn tự trách mình vì thiếu nó. Ta suy tưởng về ngôi sao, thiên
thể này nọ trên trời, nhưng chẳng hề quan tâm đến cái vô hạn bên trong người
cha đẻ ra ta.
Chẳng ngạc nhiên chút
nào lúc cuối đời Beethoven yêu chuộng nhạc thức biến tấu. Ông biết rất rõ (cũng
như tôi và Tamina biết) rằng không có gì khổ sở hơn nếu ta thiếu cái hữu thể ta
yêu thương, mười sáu phách nhạc và thế giới nội tại một cõi vô hạn những khả
thể.
8.
Sách này là cuốn tiểu
thuyết viết theo dạng thức biến tấu. Những phần của sách nối tiếp nhau như
những chặng đường chuyến du hành dẫn đến cái nội tại của chủ đề, nội tại một
suy tưởng, nội tại một tình huống duy nhất, giản dị, mà cái hiểu cứ dần dà trôi
mất vào cõi xa, ra khỏi tầm nhìn của tôi.
Nó là cuốn tiểu thuyết
viết về Tamina, và những chuyện diễn ra lúc Tamina bước ra khỏi sân khấu. Nó là
cuốn tiểu thuyết viết cho Tamina. Cô là nhân vật chính diện và cũng là khán giả
chính diện. Tất cả những chuyện khác là biến tấu dựa trên chuyện của chính cô,
gặp gỡ đời sống cô như gương soi mặt.
Nó là cuốn tiểu thuyết
về cái cười và sự lãng quên, về thành phố Praha, về Praha và những thiên sứ của
nó. Bởi thế không phải tình cờ mà chàng trai trẻ đang cầm lái chiếc xe thể thao
màu đỏ có tên là Raphael.
Cảnh tượng trên đường
đi càng lúc càng hoang vu, vắng vẻ. Mặt đất mất dần màu xanh mà đổi sang màu
thổ hoàng, cây cối thưa thớt dần, nhiều cát và đất sét. Đến một đoạn bỗng chiếc
xe rẽ vào con đường hẹp rồi đột ngột dừng lại trước một bờ vực sâu thẳng đứng.
Chàng trai tắt máy xe. Hai người bước ra. Họ lại đứng bên bờ vực; khoảng mười
mét dưới chân họ là cái bờ đất sét tiếp giáp một hồ nước đục, mầu nâu vàng nhờ
nhờ, mênh mông, ngút mắt, không thấy bờ bên kia đâu.
“Mình đang ở đâu?”.
Tamina hỏi, cổ họng cô như mắc nghẹn. Cô muốn bảo Raphael cô muốn quay về,
nhưng cô không dám nói; cô sợ anh từ chối, và nó sẽ làm tăng nỗi lo sợ của cô.
Họ đứng sát bờ vực,
xung quanh không một bóng cây hay bụi rậm, chỉ thấy hồ nước màu nâu vàng và đất
sét bê bết. Hình như đây là nơi vét đất sét, và quả nhiên, cách đó không xa lắm
có cái máy vét bùn người ta bỏ lại.
Nhìn quang cảnh,
Tamina chợt nhớ lại công trường nơi chồng cô lao động sau khi bị nhà nước cho
nghỉ việc. Công trường cách Praha chừng trăm cây số, anh được giao công tác lái
xe ủi đất. Trong tuần, anh ăn ở trong một chiếc nhà xe, chỉ về nhà thăm Tamina
vào ngày Chủ nhật. Có lần cô ra thăm anh, hai người đi dạo bên nhau, cảnh tượng
vùng đất đó rất giống nơi này: ướt, mặt đất không một bóng cây, không một bụi
rậm, không gian nằm ép giữa đất màu thổ hoàng và trời đầy mây xám xịt. Chân đi
ủng cao su, họ nghiêng ngả dẵm lên lớp bùn trơn trợt mà đi bên nhau. Họ là hai
kẻ cô độc trong thế giới này, lòng họ nặng trĩu nỗi buồn, họ lo lắng cho nhau,
nhưng họ chìm vào tâm trạng chán chường, tuyệt vọng vì chẳng biết làm gì. Họ
chẳng còn gì ngoài tình yêu cho nhau.
Nỗi tuyệt vọng tương
tự xâm chiếm tâm khảm cô lúc này. Đột nhiên cô thấy rúng động, cô kinh ngạc vì
vừa tìm thấy ngay nơi đây một mảnh đời quá khứ đã mất. Ký ức những tưởng đã
hoàn toàn tan biến, lần đầu tiên quay về. Lẽ ra cô phải viết xuống cuốn vở học
trò của cô! Thậm chí cô còn nhớ chính xác năm nào!
Cô muốn bảo anh chàng
trẻ tuổi cô muốn quay về. Không, anh chàng đã sai khi nói rằng nỗi buồn của cô
chỉ có vỏ ngoài mà không có nội dung! Không, không, chồng cô không chết bên dưới
nỗi buồn đó, anh chỉ thất lạc và cô phải đi tìm anh! Tìm khắp thế gian! Vâng,
vâng! Cuối cùng cô hiểu! Kẻ muốn tìm lại ký ức không được đứng yên một chỗ chờ
đợi nó quay lại mình! Ký ức phân tán khắp nơi trong cõi hiện bao la này, muốn
thấy nó ta phải đi tìm và lôi nó ra khỏi nơi chốn nó ẩn nấp!
Cô muốn nói như thế
với anh chàng trẻ tuổi và yêu cầu anh đưa cô về. Nhưng ngay lúc đó, từ bên dưới
chỗ giáp mặt nước, có kẻ huýt gió gọi hai người.
9.
Raphael nắm chặt cánh
tay Tamina. Anh nắm chặt lắm như ngầm bảo cô không có đường thoát thân đâu,
đừng vọng động, vô ích. Anh lôi cô bước xuống một lối đi nhỏ hẹp, trơn trợt.
Ven bờ hồ, mới giây
lát trước, không có bóng người nào, nay bỗng hiện ra một cậu trai chừng mười
hai tuổi đang đứng chờ. Tay cậu cầm sợi dây thừng giữ một chiếc thuyền chèo
đang lắc lư trên mặt nước. Cậu mỉm cười nhìn Tamina.
Cô quay sang nhìn
Raphael. Anh cũng mỉm cười nhìn cô. Cô nhìn cậu trai mới đến rồi quay sang
Raphael như dò hỏi, bỗng anh chàng và cậu trai cùng bật lên tràng cười. Tiếng
cười nghe rất lạ, bởi chẳng có gì đáng cười cả, nhưng nó vui vui và dễ lây: nó
bảo cô hãy quên đi nỗi lo sợ, buồn rầu, và hứa hẹn cái gì đó mơ hồ – có lẽ niềm
vui, có lẽ sự an bình – vì thế Tamina cũng hưởng ứng cười theo.
“Cô thấy không”,
Raphael bảo cô. “Chẳng có gì cô phải sợ hãi cả”.
Tamina đặt chân xuống
thuyền, nó chòng chành dưới sức nặng của cô. Cô ngồi xuống chỗ lái, tấm ván
nhem nhép nước và bởi cô đang mặc trên người chiếc áo mùa hè nên cô cảm thấy
đôi mông mình ươn ướt. Chạm làn da với cái gì dính nhớt khiến cô thấy lo âu trở
lại.
Cậu trai đẩy thuyền ra
hồ rồi vung mái chèo, con thuyền lừ lừ trôi đi, cô ngoái đầu nhìn vào bờ.
Raphael đứng trông theo, trên miệng vẫn giữ nguyên nụ cười mỉm. Tamina thấy nụ
cười ấy là lạ. Vâng! Anh vừa cười vừa lắc đầu! Vừa cười vừa lắc đầu nhè nhẹ,
rất nhẹ.
10.
Tại sao Tamina không
hỏi đi đâu?
Nếu bạn chẳng buồn
quan tâm nơi chốn bạn sẽ đến, bạn không cần hỏi.
Cô nhìn cậu trai ngồi
đối diện đang chèo thuyền. Trông cậu yếu ớt lắm, cô nghĩ cái mái chèo quá lớn
đối với cậu.
“Cậu muốn tôi giúp cậu
chèo thuyền không?”. Cô hỏi và cậu ta đồng ý ngay, cậu đưa mái chèo cho cô rồi
đổi chỗ ngồi. Cậu ngồi chỗ tay lái, liếc nhìn Tamina, đoạn lấy ra từ dưới chỗ
ngồi một cái máy hát chạy băng. Ngay tức khắc, tiếng nhạc kích động ghi-ta
điện, trống kèn và giọng hát vang lên ầm ỹ, cậu trai uốn éo thân người theo
tiếng nhạc. Tamina thấy khó chịu, cậu lắc hông theo động tác dâm dật của người
lớn, mà cô thấy khó coi hết sức.
Cô hạ mắt xuống để
không phải nhìn cậu trai. Cậu ta vặn nhạc cho lớn hơn và bắt đầu hát theo khe
khẽ. Một lúc sau Tamina ngước mắt lên, cậu trai hỏi cô: “Sao cô không hát?”.
“Tôi không biết bài
hát đó”.
“Cái gì? Cô không biết
bài hát này à? Ai cũng biết mà cô không biết, là thế nào”.
Cậu ta vẫn lắc lư theo
tiếng nhạc, Tamina bắt đầu cảm thấy thấm mệt: “Cậu chèo thuyền giùm tôi một lát
được không?”.
“Chèo tiếp đi!”. Cậu
trai trả lời kèm theo tiếng cười lớn.
Nhưng Tamina mệt thật.
Cô ngừng tay chèo, hỏi: “Mình sắp đến nơi chưa?”.
Cậu ta giơ tay chỉ
thẳng về phía trước. Tamina ngoái đầu nhìn thấy thuyền đã sắp vào bờ. Cảnh vật
ở đây khác chỗ hồi nãy: cây cối tươi tốt, xanh um.
Một lát sau chiếc
thuyền chạm bãi. Trên bờ có mấy đứa trẻ đang chơi banh, thấy cô và cậu trai cặp
bờ, chúng bỏ chơi chạy ra nhìn hai người với ánh mắt tò mò. Tamina theo cậu
trai bước ra khỏi thuyền. Cậu buộc dây vào một cái cọc. Con đường nhỏ hai bên
trồng ngô đồng từ bãi cát dẫn vào, cô theo cậu trai đi chừng mười phút thì đến
trước một ngôi nhà màu trắng, rộng bề ngang nhưng thấp. Trước nhà có vài món
vật lớn, nhiều màu, Tamina không biết dùng vào việc gì, và vài lưới bóng
chuyền. Tamina thấy mấy món vật đó trông hơi kỳ lạ. Vâng, chúng được treo là là
trên mặt đất.
Cậu trai cho hai ngón
tay vào miệng huýt gió một tiếng to.
11.
Một bé gái không quá chín
tuổi bước ra tiến đến gần. Con bé có khuôn mặt xinh xắn dễ ưa và cái bụng tròn
ủng trông như thiên thần hay thấy trong tranh Gô-tích cổ. Nó nhìn Tamina với
con mắt dửng dưng, cái nhìn của đứa gái biết mình đẹp và cố tình chẳng thèm để
ý chuyện gì khác ngoài mình ra.
Con bé mở cánh cửa
ngôi nhà trắng. Tamina theo nó đi thẳng vào (không có hành lang hay tiền sảnh)
một gian phòng lớn, chỉ thấy giường nằm kê san sát. Nó nhìn quanh phòng như
đang đếm xem có bao nhiêu giường, đoạn giơ tay chỉ một chiếc, bảo Tamina: “Cô
ngủ ở chỗ đó”.
Tamina phản đối: “Cái
gì? Tôi ngủ chung như thế này à?”.
“Một đứa trẻ không cần
có phòng riêng”.
“Em nói cái gì, một
đứa trẻ là sao? Tôi không phải một đứa trẻ”.
“Tất cả chúng ta ở đây
đều là trẻ con”.
“Nhưng phải có người
lớn ở đây chứ”.
“Không, không có người
lớn nào ở đây”.
“Vậy thì tôi làm gì ở
đây?”. Tamina kêu lên.
Con bé không thèm để ý
vẻ thảng thốt của Tamina. Nó bỏ ra cửa, nhưng trước khi ra nó quay lại bảo
Tamina: “Tôi sẽ cho cô gia nhập đội Sóc”.
Tamina chẳng hiểu nó nói
gì.
“Tôi sẽ cho cô gia
nhập đội Sóc”, nó lặp lại câu nói, xẳng giọng như một cô giáo không vừa ý với
học trò. “Tất cả mọi người ở đây, ai cũng phải vào đội, mỗi đội lấy tên một con
thú”.
Tamina chẳng muốn nghe
con bé nói về đội Sóc. Cô nói cô muốn về nhà. Cô hỏi cái cậu trai đưa cô đến
đây, cậu ấy đâu rồi.
Con bé làm như không
nghe Tamina nói gì, nó vẫn lải nhải giải thích về đội Sóc.
“Tôi không muốn nghe
nữa, cô hiểu chưa?”. Cô quát to. “Tôi muốn về nhà tôi! Cái cậu trai hồi nãy đâu
rồi?”.
“Cô đừng la hét như
thế”. Không một người lớn nào xấc xược như cái con bé có bộ mặt xinh đẹp đó.
“Tôi không hiểu nổi cô”, nó nói tiếp, lắc đầu ra vẻ ngạc nhiên. “Cô cứ nằng nặc
đòi về nhà, nếu vậy, tại sao cô đến đây?”.
“Tôi đâu có yêu cầu ai
đưa tôi đến đây”.
“Tamina, cô đừng dối
trá như thế. Người ta, không ai không hỏi đi đâu trước khi làm một chuyến du
hành dài. Cô hãy bỏ cái tính nói dối đó đi”.
Tamina bỏ mặc đứa gái,
cô chạy ngược trở lại con đường nhỏ hai bên trồng ngô đồng. Lúc ra tới bờ hồ,
cô đi tìm chiếc thuyền cậu trai neo nơi cái cọc trước đó chưa tới một giờ đồng
hồ. Nhưng tìm mãi cô vẫn không thấy chiếc thuyền, thậm chí cái cọc cũng không
thấy đâu.
Cô bắt đầu chạy men
theo bờ hồ. Chạy một đoạn thì bãi cát đụng cái đầm lầy, cô phải đi vòng mất một
lúc khá lâu mới trở ra hồ nước. Bãi cát luôn xoay về một hướng nhất định, và
(tuyệt nhiên không thấy dấu vết thuyền bè hay bến neo nào) sau chừng một giờ
đồng hồ, cô thấy mình trở lại chỗ con đường nhỏ với hai hàng ngô đồng đâm ra
bãi. Cô nhận ra cô đang ở trên một hòn cù lao.
Cô đi chầm chậm trở
lại con đường dẫn đến ngôi nhà. Trước nhà có khoảng mười đứa trẻ, tuổi từ sáu
đến mười hai, đang nắm tay nhau thành vòng tròn chơi trò gì đó. Thấy cô, chúng
kêu lên:
“Tamina, lại đây chơi
với chúng tôi!”.
Chúng mở vòng tròn ra
cho Tamina nhập bọn.
Ngay lúc đó cô chợt
nhớ nụ cười của Raphael và cái lắc đầu nhè nhẹ của anh chàng.
Rúng động vì khiếp sợ,
cô lạnh lùng bỏ mặc lũ trẻ, bước vào nhà và lên giường nằm co ro.
12.
Chồng cô chết trong
bệnh viện. Ban ngày cô túc trực bên anh, nhưng anh nhắm mắt lìa đời một mình
giữa đêm khuya. Hôm sau, lúc trở lại bệnh viện, cô thấy chiếc giường trống
trơn, ông lão nằm cùng phòng bảo cô: “Cô phải làm đơn kiện! Cách họ đối xử với
người chết là một tội phạm!”. Nét sợ hãi hiện lên trong tia mắt ông lão cho
thấy ông biết chẳng bao lâu nữa sẽ tới phiên ông. “Họ nắm chân chồng cô rồi cứ
thế lôi đi xềnh xệch dưới sàn nhà. Họ tưởng tôi ngủ không biết gì. Hừ! Tôi thấy
hết. Tôi thấy đầu người chết va mạnh vào ngạch cửa”.
Cái chết có hai mặt
song trùng: Phi hữu thể, nhưng nó cũng là một hữu thể, một hữu thể duy vật
khiếp hãi của cái thây ma.
Khi còn rất trẻ, cái
chết hiện đến với Tamina ở thể dạng thứ nhất, dưới bình diện cái không, và sợ
chết (rất mơ hồ) có nghĩa là sợ không còn hiện hữu nữa. Tháng năm trôi qua, nỗi
sợ ấy tan biến dần (ý nghĩ một ngày nào đó không nhìn thấy bầu trời, cây cối,
không làm cô sợ hãi), nhưng mặt khác, suy tưởng của cô càng lúc càng thiên về
mặt vật thể: cô thấy khiếp hãi vô cùng mỗi khi nghĩ có ngày mình biến thành cái
thây ma.
Biến thành cái thây ma
là một khổ nhục khôn kham. Đang là con người được bảo vệ bởi phẩm tiết, bởi cái
thiêng liêng của sự trần truồng, riêng tư, nhưng bỗng nhiên chết, và ngay tức
khắc thân xác mình nằm trong tay kẻ khác – họ có thể lột quần áo mình, mổ banh
mình ra, dí mắt vào xem xét nội tạng ruột gan mình, họ bịt mũi vì mùi hôi thối
kinh khiếp bốc lên, rồi nhét mình vào ngăn tủ lạnh đông đá hay lò thiêu. Bởi
không muốn mang nặng cảm giác đớn đau dằn vặt suốt đời gây nên bởi ý nghĩ thân
xác người mình thương yêu bị đối xử khiếp đảm như thế, nên cô cho hỏa thiêu xác
chồng mình và đem tro đi rải.
Thế rồi vài tháng sau,
lúc nghĩ đến chuyện quyên sinh, cô quyết định chết ngoài biển khơi để chỉ loài
cá, những con cá câm khờ khạo, mới biết cái thân xác ô trọc của cô thôi.
Tôi có nhắc đến thiên
truyện ngắn của Thomas Mann: một chàng trai mang bệnh trầm kha, ngày nọ chàng
đáp chuyến tàu hỏa và bước xuống tại một thị trấn chàng không biết tên là gì.
Trong căn phòng chàng ở trọ có chiếc tủ áo, và mỗi đêm có người đàn bà đẹp não
nùng, trần truồng từ tủ áo bước ra kể chàng nghe một câu chuyện thần tiên buồn
bã ngọt ngào, người đàn bà và câu chuyện thần tiên ấy là cái chết.
Nó là cái chết ngọt
ngào màu xanh biếc, như cái phi hữu thể. Bởi phi hữu thể là khoảng không vô hạn
và màu xanh là màu của không gian trống rỗng. Không gì đẹp hơn, êm dịu hơn màu
xanh. Không phải tình cờ mà Novalis, thi sĩ của cái chết, yêu thích màu xanh,
và không tìm kiếm bất cứ cái gì ngoài màu xanh trong những chuyến lãng du của
ông. Sự ngọt ngào của cái chết có màu xanh.
Nhưng nếu cái phi hữu
thể của chàng trai trong thiên truyện của Thomas Mann đẹp đẽ như thế, điều gì
xảy ra cho thân xác chàng? Họ có nắm chân chàng lôi đi xềnh xệch qua ngạch cửa
không? Họ có mổ banh xác chàng ra không? Họ có ném chàng xuống lỗ huyệt hay vào
lửa thiêu không?
Mann viết thiên truyện
năm ông hai mươi bốn tuổi, còn Novalis thì sống không quá ba mươi. Không may,
tôi già hơn thế, và tôi không thể không nghĩ đến thân xác sau khi chết. Bởi màu
của cái chết không phải màu xanh, Tamina biết thế, tôi cũng biết thế. Chết cực
nhọc khiếp hãi lắm. Cha tôi nằm nhiều ngày chờ chết với cơn sốt hành hạ trong
người, và tôi có cảm tưởng ông cực nhọc với nó lắm. Toàn thân ông mồ hôi vã ra
như tắm, ông tập trung tất cả năng lực còn sót lại trong cơ thể để chống chỏi
cơn đau quặn thắt do cái chết đang đến dần, như thể cái chết vượt quá sức lực
ông. Thậm chí ông không nhận ra tôi đang ngồi bên cạnh. Cái chết khiến ông mệt
nhoài, ông cố thu gom tất cả sức tàn như người kỵ mã kiệt sức nhưng vẫn cố giục
ngựa về nơi chốn thật xa xôi.
Vâng, ông đang cưỡi
ngựa.
Nhưng ông cưỡi ngựa đi
đâu?
Một nơi chốn xa xôi
lắm, để vùi lấp thân xác ông.
Không, không phải tình
cờ mà tất cả những bài thơ miêu tả cái chết đều nằm dưới siêu chuyển dụ một
chuyến du hành. Chàng trai của Thomas Mann bước lên tàu hỏa, Tamina ngồi vào
chiếc xe thể thao màu đỏ. Ai nấy khao khát đi về nơi nào đó để che giấu thân
xác mình. Nhưng vô vọng. Cưỡi ngựa ra đi nhưng rồi lại quay về giường, và đầu
va mạnh vào ngạch cửa.
—————————————————–
*Trịnh Y Thư dịch
từ The Book of Laughter and Forgetting, Milan Kundera, ấn bản Anh
ngữ của Aaron Asher.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét