Truyện 02 - Cao lương đỏ
Mạc Ngôn
Cao Lương Đỏ đã được đạo diễn tài ba
Trương Nghệ Mưu dựng thành phim mang cùng tên do ngôi sao Củng Lợi thủ vai
chính. Bộ phim đã được giải thưởng tại liên hoan phim Cannes.
° ° °
Theo lịch cũ, mồng chín tháng tám năm
1939, cha tôi, người mang dòng máu thổ phỉ vừa hơn mười bốn tuổi, ông gia nhập
vào đội quân của tư lệnh Dư Chiêm Ngao, mà sau này trở thành anh hùng truyền kỳ
danh tiếng khắp trong thiên hạ, đi phục kích đoàn xe ô tô Nhật Bản trên đoạn đường
Giao Bình. Bà nội tôi tiễn họ tới đầu thôn, bỗng Dư tư lệnh hô: “Nghiêm!”, nội
liền đứng nghiêm và dặn dò cha tôi: “Đậu Quan, hãy nghe lời cha nuôi nghe
con!”. Ông im lặng cúi đầu không một lời đáp lại.
Đoàn người đi trong đêm mù sương, bí mật hành quân trên những thửa ruộng cao lương đỏ của quê hương Cao Mật. Ôi Cao Mật, nơi tôi yêu nhất mà cũng là nơi tôi ghét nhất, mãi sau này lớn lên học hành giác ngộ, tôi mới hiểu ra, không nơi nào trên trái đất lại đẹp nhất và xấu nhất như Cao Mật, cực kỳ siêu thoát mà cũng cực kỳ thế tục, sạch sẽ nhất và bẩn thỉu nhất, anh hùng hảo hán nhất và đầu trộm đuôi cướp nhất, nơi biết uống rượu nhất và cũng là nơi biết yêu đương nhất. Cao Mật với bạt ngàn cao lương đỏ, huy hoàng, dào dạt, uyển chuyển và dậy sóng biết bao.
Năm nội tôi tròn 16 tuổi, cô thiếu nữ
vừa xuân thì, phát tiết dung nhan, thắm màu hoa nguyệt, buồn rười rượi bước lên
kiệu hoa, dập dềnh trên biển máu cao lương, đỏ như không thể nào đỏ hơn nữa. Cố
tôi gả nội cho chủ nợ họ Đơn, về làm vợ thằng con trai độc tự Biển Lang. Tuổi
xuân rực rỡ của nội khiến bà khát khao được ngả vào lòng một chàng trai vạm vỡ
đàn ông, giải khuây bao nỗi trầm uất, cô tịch trong chiếc kiệu hoa ô uế này. Nội
không chịu nổi cái cảnh tù túng giữa bốn bức màn vải đỏ; với bàn chân nhỏ xíu
nhọn tựa búp măng, bà tách mảnh rèm kiệu thành khe hở và trộm ngó ra bên ngoài,
hai đòn cáng kiệu bóng loáng đè lên bốn tấm vai bạnh của những người phu kiệu,
mà nơi họ bốc ra mùi mồ hôi chua loét, mùi mồ hôi đàn ông quyến rũ nội, khiến từng
vòng, từng vòng sóng xuân lăn tăn, lăn tăn dậy lên nơi lòng bà, rạo rực lạ thường.
Một trong bốn phu kiệu hôm đó sau này là ông nội của tôi, người có tên tư lệnh
Dư Chiêm Ngao lẫy lừng.
Đám phu kiệu đưa nội tôi ra tới đường
cái quan, bao la một cảnh đồng rộng sông dài, những thanh niên lực lưỡng bắt đầu
nghĩ cách trêu chọc cô dâu, họ chạy nhanh làm cho nội ngồi trên kiệu lắc lư,
điên đảo, nôn hết nước xanh nước vàng, bảo họ đi chậm lại thì cả bốn người đều
thưa rằng, phải vượt qua hang Cóc trước lúc trời tối kẻo có cướp. Nội tôi khóc
thút thít không phải vì bốn anh phu kiệu chơi khăm bà, mà vì nghĩ tới người chồng
sẽ động phòng hoa chúc đêm nay - Đơn Biển Lang, một bệnh nhân kinh phong, con
trai độc nhất của Đơn Đình Tú, tay bá hộ giàu lên nhờ nấu rượu cao lương, nhẽ
nào bà lại phải trao thân cho hắn, nội tôi càng nghĩ càng khóc thành tiếng khiến
phu kiệu Dư Chiêm Ngao động lòng trắc ẩn và mơ hồ thấy cả một vầng sáng ngày
mai. Đoàn người vừa đến hang Cóc thì quả nhiên có cướp, một tay thổ phỉ cao to,
lưng mang bao vải đỏ cồm cộm những tiền là tiền, hét lớn: “Mãi lộ!”. Đám phu kiệu
vâng lời có bao nhiêu dốc hết để tìm cách thoát nạn. Nhưng tên cướp vén màn vải
gọi nội tôi bước ra và hạ lệnh: “Đi theo tao xuống ruộng cao lương kia!”. Nội
thản nhiên, cương nghị và liếc nhìn phu kiệu Dư Chiêm Ngao. Hiểu ý người đẹp, họ
Dư bất thần song phi đá lăn tay thổ phỉ, đoàn người xô tới bóp cổ hắn chết
tươi. Dư Chiêm Ngao dìu nội lên kiệu, họ cười với nhau thật huy hoàng và cao
quý, bà xé toang màn kiệu, tự do hít thở không khí, tự do ngắm tấm lưng trần lực
lưỡng đàn ông của Dư Chiêm Ngao, người mà cháu chắt chúng tôi đang ngày đêm
hương khói phụng thờ...
Cha tôi như một liên lạc viên dẫn
đoàn quân luồn giữa ruộng cao lương, tay ông luôn nắm chặt khẩu súng lục to quá
cỡ đeo lủng lẳng bên hông. Họ đến nơi phục kích thì cũng vừa lúc đàng đông ửng
hồng, nhưng trên con lộ vẫn chưa thấy một chiếc xe nào của giặc cả. Dư tư lệnh
bảo mọi người hãy tạm nghỉ trong ruộng cao lương và nói với cha tôi: “Đậu Quan,
quay về nhờ mẹ làm cho ít bánh, khoảng trưa thì đem ra và dặn mẹ con cùng đi nữa
nghe”. Cha tôi chạy một mạch tới nhà, ông ôm lấy nội, người con gái hoàng hoa
thời ấy nay đã là thiếu phụ phong sương. “Mẹ cho nhiều trứng vào bánh nhe”. “Ừ,
bọn giặc vẫn chưa đến à?”. “Chưa mẹ ạ, Dư tư lệnh dặn mẹ gánh bánh ra cho ông
và binh lính đó”. Xong nhiệm vụ, cha tôi chạy như bay về bên tư lệnh báo cáo:
“Trưa nay nhất định có bánh”. Nói chưa dứt lời thì cha tôi phát hiện từ xa bốn
con bọ hung sắt bò trên đường lộ, ông kêu lên: “Tư lệnh xem kìa, xe giặc”.
Nội “nhận lệnh” và liền hô hào con
cái nhào bột làm bánh. Đúng giờ hẹn bà vận chiếc áo màu đỏ thẫm, trên vai kĩu kịt
một gánh những cái bánh còn nóng hổi, thoăn thoắt hướng về cầu đá, nơi tư lệnh
đang chờ. Từ ngày đi lấy chồng, nội tôi vẫn giữ được vẻ yêu kiều của thiếu nữ,
công việc nặng nhọc chẳng mấy đến tay cho nên gánh bánh khao quân đã hằn lên
vai nội một vệt bầm khá sâu, màu tím đỏ, ấy là biểu tượng cho hành vi anh dũng
kháng Nhật mà nội mang theo khi từ giã cõi đời.
Đoàn quân tập trung hỏa lực nhắm vào
xe giặc đang tiến dần tới điểm chết, nhưng bỗng có tiếng súng nổ, đạn từ chiếc
xe đi đầu nã ra, cha tôi ngoái nhìn và trông thấy nội như cánh bướm hồng chấp
chới, ông chưa kịp kêu lên: “Mẹ...” thì nội đã ngã nhào. Cha tôi vọt khỏi ổ phục
kích chạy về phía nội, Dư tư lệnh đành cho nổ súng tiêu diệt đoàn xe. Mặt nội
úp xuống đất, máu đỏ như màu rượu cao lương ọc trào lên từ hai lỗ đạn trên
lưng. Cha tôi lật người nội trở lại, dung mạo vẫn đoan trang, mái tóc vẫn óng
mượt, phẳng phiu dưới hai cái kẹp sừng, vài hạt cao lương bay xuống đậu bên đôi
môi của nội. Cha tôi đặt nội nằm trên những thân cây cao lương, nhìn miệng nội
dần dần biến sắc, cha nấc lên từng tiếng. Nội thì thào: “Cha con đâu?”. “Cha
nào hở mẹ?”. “Dư tư lệnh, cha nuôi ấy”. “Ông đang đánh giặc ở đằng kia”. “Người
đó chính là cha đẻ của con...” - cha tôi gật đầu, lặng nhìn phút lâm chung của
nội. Hai phát đạn từ sau lưng xuyên qua bầu vú, bộ ngực trắng nõn của bà giờ đã
rực hồng, bà vui sướng trông rõ những bông cao lương đung đưa, trông rõ khuôn mặt
người con trai, tác thành bởi một cuộc tình thắm đỏ như cao lương quê hương, bà
mỉm cười e ấp và có vẻ như thẹn thùng xấu hổ nhớ lại quá vãng thật ngọt ngào và
đẹp đẽ...
Đơn Biển Lang quả đã mắc bệnh kinh
phong, hai đêm ở nhà chồng, nội tôi thức trắng với con dao trong tay, sáng ngày
thứ ba cố tôi say túy lúy dẫn nội về, bà giận lắm. Nội tôi ngồi vắt vẻo trên
mình con la, vừa rẽ qua quãng đường cong thì một bóng đen bỗng ào ra, bồng nội
chạy mất hút vào ruộng cao lương ken dày như rừng rậm. Nội không còn sức lực
nào mà vùng vẫy nữa và bà cũng chẳng muốn vùng vẫy làm gì, thậm chí còn quàng
tay qua cổ bóng đen để người ấy bồng bà nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Ba ngày sống
giữa rừng cao lương, nội tôi như qua một giấc mơ, thấm đậm lẽ đời nhân thế. Người
ấy tháo tấm vải đen che mặt, hiện nguyên hình, nội thầm kêu trời ơi và nước mắt
lưng tròng vì sung sướng. Chàng cởi tấm áo trải ra làm chiếu, chân đạp mấy cây
cao lương rạp xuống làm giường, rồi nhẹ nhàng bồng nàng đặt lên đó, nàng nhìn
chàng vạm vỡ, cường tráng, bỗng ngây ngất trong lửa tình rạo rực dồn nén mười
sáu năm qua, chàng mạnh bạo lột mọi xiêm y và nàng mãn nguyện hưởng niềm khoái
lạc. Họ yêu nhau như vậy suốt ba ngày liền và cha tôi chính là kết tinh của cuộc
tình cuồng nhiệt, thống khổ đó. Sau ba ngày đêm ân ái, ông bà tôi chia tay
nhau, ông đưa bà ra đến bờ đường và thoắt một cái đã biến mất giữa muôn trùng
biển máu của cao lương đỏ... để hôm nay trở thành Dư Chiêm Ngao trở về nhận con
và thăm lại tình nhân.
Còn nội, nội vẫn nằm đó trên đệm cây
cao lương như mười mấy năm trước, nhưng đã mệt lắm rồi. Phải chăng cái chết
đang dần tới, phải chăng ta không còn có thể nhìn thấy trời này, đất này nữa
sao, thế còn con ta, người tình của ta? Hỡi trời, người nào có dạy con trinh tiết
là gì, chính chuyên là gì, thế nào là lương thiện, thế nào là ác tà, con chỉ biết
hành động theo cách nghĩ của con. Con yêu hạnh phúc, con yêu sức mạnh, con yêu
cái đẹp, thân này là của con, con có quyền làm chủ nó, con không sợ phạm tội,
con không sợ trừng phạt, con không sợ rơi xuống mười tám tầng địa ngục của người.
Nhưng con không muốn chết, con muốn sống, con muốn nhìn thế giới này...
Nội tôi vẫn không rời mắt những ngọn
cao lương đỏ, đung đưa, mông lung, chúng kỳ ảo, chúng rên la, chúng kêu gọi, có
lúc như người thân, có lúc như ma quỷ, như đàn rắn quẩn quanh người nội, chúng
cười, chúng khóc, xanh đỏ trắng đen biến hóa khôn lường... Cha tôi chạy nhanh về
phía Dư tư lệnh, hốt hoảng, thất thanh: “Mẹ nhớ cha, cha ơi”. “Con ngoan của
ta, hãy cùng cha diệt nốt mấy thằng chó đẻ này đã”. Trận mạc tan khói súng, cha
con họ vội chạy tới bên người thiếu phụ thì bà không còn sống nữa, nhưng khuôn
mặt vẫn rạng rỡ cao quý dành riêng cho tình nhân cao lương đỏ, ông nội tôi vuốt
mắt bà, rồi chặt ngã bao cây cao lương phủ đầy lên thi thể người quá cố.
Nắng chiều chiếu xiên qua chiến trường,
dưới kia dòng sông một màu máu đỏ, trên này cánh đồng cũng đỏ bởi ruộng cao
lương. Cha tôi tha thẩn nơi bờ đê, cúi nhặt chiếc bánh và đưa cho ông nội: “Cha
ơi, cha ăn đi, bánh của mẹ con làm cho cha đó”. Tư lệnh Dư Chiêm Ngao cắn từng
miếng bánh, hòa với dòng lệ tuôn trào, lần đầu tiên người anh hùng đã không cầm
được nước mắt.
Thái Nguyễn Bạch Liên dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét