Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

7. Vị âm công và tục điểu táng

 TÂY TẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG

7. Vị âm công và tục điểu táng

Văn Cầm Hải

Khi bước vào quán trà bơ bên cổng chùa Đại Chiêu, tôi không hề biết mình sẽ được gặp một vị âm công, người có cái nghề bình thường trong mắt Tây Tạng nhưng đối với thế giới là cả một sự kinh hoàng: Nghề xẻ xác người! Xẻ xác người cho chim ăn theo tục điểu táng!

Quán trà ở Lhasa không có nhạc. Tất cả mọi cảm giác lắng lại trong thứ nước ngái ngất màu bơ. Trên những chiếc ghế gỗ lót nệm tím, khách hàng nhẩn nha uống trà. Thế giới này cũng mộc mạc như cái bàn gỗ thấp và đời họ là những bát trà bơ, họ uống trà bơ như mỗi ngày uống cạn đời mình.

Tôi muốn đi nhà vệ sinh nhưng bát trà chưa cạn. Nhớ đến căn nhà vệ sinh uớt luớt thướt vải che thay cửa ngoài phố lạnh, tôi ớn ang không dám trở lại. Tất cả mọi khung cửa ở Tây Tạng đều che rèm vải thay gỗ. Vải mềm che gió lạnh và trang trí dễ dàng các màu sắc mỹ thuật. Mạnh dạn tôi hỏi và được ông lão chủ quán hướng dẫn ra phía sau nhà. Đi ngang qua căn phòng nhỏ, bước chân tê lạnh của tôi cắm chặt xuống nền đá.

Trên tường, ánh sáng từ những gam màu sống động của một bức tranh thanka làm tôi rùng mình. Bức tranh miêu tả một người đàn ông cầm dao múa trên một xác chết. Lạ lùng! Khuôn mặt người đao phủ rất nhẫn nại và chăm chú đường dao nhưng khuôn mặt xác chết lại mỉm cười! Phía sau lưng người ấy là bầy chim mỏ dài tung toé máu tươi! Đường dao trong tranh sà xuống chém ngang đôi chân và tôi không thể nào cất bước đi tiếp. Phía sau lưng mình, ông lão chủ quán cũng đang đứng nhìn tôi và bức tranh.

-     Đó là ta - Ông lão thầm thì. Giọng khuya khoắt tuổi già nhưng vẫn ánh lên bao niềm vui kỳ dị - Người đàn ông múa dao ấy là ta đấy!

-     Ông yêu nghề đào phủ đến mức phải vẽ tranh...

-     Không! Ta không phải là đao phủ. Ta là một âm công còn sót lại ở thành Lhasa này!

-     Âm công! Ông là một âm công! - Tôi rú lên trong căn phòng mờ tối -  Thật sao? Ông là một âm công !

Không trả lời, ông lão bước đến đưa đôi bàn tay sờ lên bức tranh với dáng vẻ đầy nuối tiếc. Từ trong khóe mắt, nước mắt bịn rịn dâng lên tràn đầy. Không nghi ngờ gì nữa, trước mắt tôi chính là một vị âm công, người tạo nên những cuộc tang điểu táng hoành tráng và kinh hoàng nhất trong mắt thế giới!

Trên đường lên Tây Tạng, tôi có bao nhiêu mơ ước nhưng không bao giờ tôi dám mơ rằng mình sẽ gặp được một vị âm binh mà trong ký ức của tôi, họ là truyền thuyết sống. Tôi lập cập trở lại bàn trà và gọi thêm hai bát đầy. Ông lão bước đến theo lời mời nhiệt nồng của tôi. Trong ánh mắt lão, từng đường dao hiện ra và tôi là một tử thi cho lão múa như hôm nào xa xưa vậy!

Tôi im lặng ngắm nhìn mười ngón tay sần sùi màu thời gian của ông lão bưng lấy bát trà. Đôi tay này, dòng máu kia, đã một thời điệu nghệ đường dao xẻ xác người!

-     Trong bức tranh, ta sống không? - Ông lão nhướng mày hỏi.

-     Sống! Rất sống !

-     Điểu táng là một tập tục lâu đời của người Tạng. Người nước ngoài như con cho là mọi rợ nhưng với người Tạng, nó còn cao hơn cả nghệ thuật!

-     Vâng! Nghệ thuật của tự do! - Tôi tiếp lời với mong ước không thể bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này - Ông có thể, nếu được, ông có thể kể cho con nghe!

-     Không chỉ kể, ta sẽ cho con thấy! - Ông lão đứng dậy bước vào trong rồi quay trở lại bàn. Ngoài kia phố nắng trắng nhưng toàn thân tôi là khối băng tuyết từ Himalaya lăn về quán trà bơ. Trên đôi tay ông lão, một cây dạo nhọn, lưỡi cong vút, rực sáng lạnh lùng! Chưa khủng khiếp như con dao ba cạnh dùng trong các nghi lễ Mật tông có hình tam giác gắn lưỡi tầm sét vajra, miệng con thuỷ quái Makara, đầu của vị thần Yi dam giận dữ nuốt chửng tất cả tà ma chúng xuyên qua nhưng con dao của ông lão chủ quán cũng đủ sức làm tôi tự nhiên mà rưới máu trong tim vì cái dáng hình sát thủ đỉnh cao của nó!

-     Con đừng chê ta già - Cánh tay già múa vào không gian một đường ánh sáng không thèm nhìn dám khách lục tục bỏ ghế đứng dậy - Nói thật, ta có nhắm mắt hay đui mù, ta cũng có thể xẻ từng nhát thịt trên thân thể anh ra theo đúng từng mảnh như ý!

Như ý tựa cuộc đời của đứa trẻ thơ Rigpaba sinh ra tại vùng Môn Ngung hơn 90 năm trước. Sau khi ra đời, bố mẹ Rigpaba vui mừng được thầy chiêm tinh bói ràng, Rigpaba sẽ trở thành một lama thầy thuốc của bộ tộc Môn Ba theo cách gọi của người Tạng gọi tộc người sinh ra ở vùng Môn Ngung sống rải rác ở các huyện Mặc Thoát, Lâm Chi, Thố Na miền Nam Tây Tạng. Trong căn nhà nghèo, cũng như bao nhiêu người Môn Ngung khác, chỉ biết sinh sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và săn bắn thì việc đứa con mình sẽ trở thành lama thầy thuốc là diễm phúc của gia đình Rigpaba!

Rigpaba được gửi vào tu viện năm lên 6 tuổi. Từ ngày cha mẹ nhận lọn tóc của đứa con trai mình do tu viện gửi về như một lời chứng chấp nhận Rigpaba được nuôi dạy để trở thành một vị lama, suốt 26 sau ròng rã, gia đình, bè bạn và quảng đời thơ ấu không bao giờ gặp lại Rigpaba nữa. Vượt qua nhiều gian nan thử thách, Rigpaba đã trải qua 5 bậc, từ một cư sỹ phụng sự trong tu viện, trở thành một sa-di thụ giới 36 điều luật lên đến cấp tỉ-kheo có mức thụ giới 150  giới luật rồi đến Gheshe - tiến sỹ Phật học nắm vững Luật tạng,

Thắng pháp tập yếu luận (Abhidharma), kinh Bát nhã ba la mật, Trung quán luận, triết học Tính Không và Nhân Minh Luận. Bước qua ngưởng cửa của tiểu thừa và đại thừa ấy,Rigpaba được đào tạo các phép trong Mật tông, trở thành một Gyupav-vquán đỉnh được truyền dạy bằng phép truyền tâm. Lúc này, Rigpaba mới được gọi là Lama - một đạo sư. Cùng với giáo lý và những ngày luyện phép truyền tâm thực nghiệm, Rigpaba còn phải theo thầy học các cách thức chữa bệnh, hướng dẫn vong linh người chết về cõi giới bên kia.

-     Linh hồn người chị gái của cha con đã ra đi nhẹ nhàng từ tiếng dạ của con! Tiếng dạ ấy là một âm thanh an ủi cuối cùng, là lời cầu nguyện vô tình mang đến cho bà một niềm tin mãnh liệt trước khi bà ra đi - Một Lama Rigpaba ngày xưa ẩn mình trong thân ông lão chủ quán giải thích - Con nên nhớ, con được cấu thành bởi xác thể xương thịt, dục thể với những ham muốn và linh thể là nơi hiển hữu của tâm linh. Xác thể, dục thể sẽ tan thành cát bụi nhưng linh thể, nếu được giải thoát, sẽ được siêu thoát và đầu thai vào một khiếp sống mới! Rất tiếc vì ta hèn kém nên ta chỉ là một thợ mổ xác!

Chưa lần nào trở lại quê nhà nhưng bàn chân của Lama Rigpaba đã xuất hành khắp miền cao núi thẳm để tìm những loại biệt dược mà người thường không bao giờ biết được nhưng với Lama Rigpaba, những buổi ban mai theo đội âm công mang tử thi ra đầu núi xẻ xác đã làm chuyển thay cuộc đời tu hành của ông.

Tiếng hổ gào của cha tôi và những bông hoa vô danh trên vực thẳm

Yarlung Tsangpo lại lả tả rơi theo đường dao xoè sáng ký ức Rigpaba. Lần đầu tiên tôi ý thức nỗi buồn của thân xác là vào một buổi chiều cô đơn trước bầy kiến. Là con út, trông nhà một mình, tôi rất thích chơi với lũ kiến. Kiến đen, kiến đỏ, kiến nâu ngược xuôi tha mồi không nghỉ, chúng như sợi dây đời sống nối dài từ hạt cơm đến tổ. Nhưng chỉ cần giết một con kiến là đường dây ấy có nguy cơ tan vỡ. Lũ kiến rối loạn rồi chúng lại xúm lại đưa xác chết đồng loại về tổ. Tôi bắt đầu ý thức về cái chết từ những hôm cô đơn chơi với kiến nhưng để tường tận cách thức xử lý cái chết ra sao thì cho đến hôm nay mới biết!

Tôi không biết, con kiến sẽ xử lý xác chết đồng loại ra sao vì mọi chuyện diễn ra trong hang tối. Nó sẽ ăn hay chôn lấp như con người. Nếu chôn, nó có tìm núi mà chôn hay chôn nơi thấp ẩm. Bà ngoại tôi mất vào mùa đông giá rét năm 1981. Chưa bao giờ trước đó và sau này, tôi thấy Mẹ khóc nhiều như vậy. Mẹ khóc thương bà không có con trai chỉ hai mụn con gái cô quạnh. Mẹ khóc nhiều hơn vì bão lũ, không được đưa bà qua sông sang chôn bên kia núi mà phải chôn cồn đất thấp cuối làng. Tuổi thơ của tôi, cùng với những ngày nắng lon ton là những buổi sáng ra đứng dưới gốc đa tiễn đưa người làng chết qua sông Nhật Lệ. Gặp nhà nào nằm ở ven sông thì cũng phải khiêng quan tài đi tạm biệt khắp làng rồi mới xuống lại bến sông như lần ông Ngoại tôi mất, quan tài ông được khiêng đi từ xóm trên xuống xóm dưới sau đó về bến nước ngay trước cửa nhà để qua núi.

Con sông trở thành nơi trình diễn của đám tang. Người ta kết nhiều con thuyền lại thành bè lớn, trên đó chở quan tài, cỗ linh xa và đông đảo người thân xa gần. Trước khi chèo ra giữa dòng, dù sóng to gió lớn, thuyền phải đi vài vòng ven bờ để người con trai cả lạy tạ dân làng đứng tiễn đưa trên bến nước.

Người Tạng có sông nhưng không thể chèo được. Gỗ có đâu mà làm thuyền. Thuyền bọc da trâu có ai dám đi lại trên những vực nước sâu hiểm trở. Bởi vậy chỉ có cách chôn tại chỗ nhưng lại gặp đá và đá nên người Tây Tạng dần bỏ tập tục thổ táng, thịnh hành tục điểu táng, hỏa táng và thủy táng. Nhưng không phải bộ tộc nào cũng giống nhau về cách an táng người chết. Trong khi Môn Ba, Lạc Ba có thể dùng cả 3 tục táng kia thì người Đăng cấm kỵ việc thủy táng. Người Đăng cho rằng dìm xác chết xuống nước sẽ mang lại tai họa cho cả nhà.


Tạng ngữ chỉ thân xác là tu - một cái gì ta để lại sau lưng! Con người chỉ là một lữ khách ngụ cư chốc lát trong thân xác. Người Tạng không để tâm vào việc làm cho đời sống có thêm nhiều tiện nghi, với họ chỉ cần một mái nhà, một ít bột tsampa, một ít phân dê khô đốt lửa qua mùa đông gía lạnh là đủ. Đi qua những đèo cao mấy ngàn mét, thấp thoáng vài ba những ngôi nhà trên tuyết, tôi không biết là họ tách rời với thế giới hay họ không màng đến thế giới. Thể xác chỉ là một túi vật chất nuôi nấng linh hồn nên một xác chết chẳng còn giá trị. Và sống trên vùng cao nguyên khô lạnh, nhìn đâu cũng thấy trời xanh, ánh sáng chói lọi thì không có gì tuyệt vời hơn là chôn người vào cõi ánh sáng! Từ ý niệm huy hoàng ấy, tục điểu táng ra đời!

Còn gì vui hơn khi cái thân xác đáng quăng bỏ cũng được ánh sáng bốc liệm!

Chôn vào cõi ánh sáng phải nhờ những con cánh chim mang lên trời cao. Bụng chim trở thành cỗ quan tài sống bay giữa không gian bao la. Để đưa xác thân vào những cỗ quan tài nhỏ bé ấy, người ta phải xẻ ra từng mảnh nhỏ. Việc làm này chỉ dành cho những ai tràn đầy bản lĩnh!

Người mổ xác được gọi là âm công. Họ sống và làm việc một cách cô lập. Họ là một thế giới nằm ngoài thế giới. Họ chỉ đối thoại với cõi âm. Từ người họ, âm khí lảng vảng bay ra khắp nơi. Họ không giống người âm công nước Việt, khi đưa tang người chết, đơn thuần là người khiêng quan tài.

Sau 3 ngày 3 đêm, khi thể xác thực sự chết hẳn và linh hồn đã ra đi theo giáo huấn Bardo Thodol, đội âm công bó xác chết trong tấm vải mang ra vùng đất cách xa làng xóm ít ai dám đến gần.

Tử thi được buộc chặt vào bốn cây cọc và các âm công bắt đầu thi hành việc mổ xác. Từng nhát dao vung lên có trật tự. Rất chuẩn xác từng vết cắt nhát xả cho đến khi tử thi chỉ còn lại một bộ xương! Những mảnh thịt vừa lìa khỏi dao, bầy chim kền kền đã đón lấy không rơi một hạt máu! Con đầu đàn được hưởng quả tim, lần lượt cả đàn hưởng thụ cho đến mảnh thịt cuối cùng. Hết phần da thịt, bộ xương cũng được nghiền nát cho bầy chim mang lên thinh không!

Người âm công phải xẻ nhát dao cẩn trọng như vậy là bởi trong màn trình diễn man nhiên ấy, họ muốn tìm hiểu cặn kẻ nguyên nhân dẫn đến cái chết của tử thi!

Nên nhớ, do luật lệ khắt khe của giáo hội, ở phương Tây việc mổ tử thi mới được tiến hành sau này còn Tây Tạng, ngàn năm qua đây là chuyện thường ngày. Cơ thể học là một phương pháp học bí truyền của người âm công nhằm mục đích tìm hiểu nguyên do của cái chết, nó đã trở thành một thói quen nghề nghiệp không cần ai bắt buộc.

Rigpaba theo đội âm công hơn một năm. Rigpaba cũng trở thành một tay dao lão luyện. Từng nhát xẻ của Rigpaba nhanh hơn tia chớp, chính xác hơn thước đo và tinh xảo hơn một đao phủ. Phía sau những nhát xẻ của Rigpaba, tất cả căn nguyên dẫn đến cái chết đều được phơi bày. Không phải lâu ngày quen tay thành nghiệp bởi với một tu sỹ đã tu luyện lên bậc lama như Rigpaba không thể nào bị ám muội thế giới ngoại cảnh nhưng rồi một ngày Rigpaba đột nhiên từ giã chiếc áo hồng tía tu sỹ Mật tông để trở thành một âm công!

-  Một buổi sáng sớm, ta theo đội âm công xẻ xác người bình thường như bao buổi sáng khác - Ông lão Rigpaba le lói tia mắt nhìn vào quá khứ - Nhưng sao ta bần thần với nhát dao đầu tiên. Quả đúng vậy, khi nhát dao của ta vừa xả xuống thì cái thi thể kia chợt bắn ra một lời thỉnh nguyện, khuyên ta hãy xả thịt với sự thanh thản, đừng run rẩy, đừng bần thần, càng xả đẹp người đó càng nhanh lên thiên không! Bisaso! Trời ơi, hóa ra kẻ đó chưa chết! Có lẽ nhát dao chặt vào da thịt đã thức tỉnh hắn dậy! Cả đội âm công lao đến định gỡ xác chết xuống nhưng thi thể kia lại ngăn cản. Hắn rực lên từng lời vào tai ta. Hắn biết đã đến lúc hắn ra đi và khuyên ta hãy tận tâm mà xẻ xác, xẻ cho đến lúc ta không nhìn thấy được hắn, ta chỉ nhìn thấy hư không thì thôi!...

Ông lão đổ gục xuống bàn như ngày nào ông sụp lạy trước xác chết bởi ông biết kẻ sắp chết chính là một bậc tu hành vô danh thượng thừa! Những lời nói đó chẳng khác gì sự điểm đạo mà không có giáo lý và sự thực hành nào chứng nghiệm được trong tâm linh Rigpaba! 26 năm khổ công tan thành hư không! 26 năm tu luyện không bằng một lời nói của một xác chết!

Sau buổi sáng kinh hoàng đó, hơn 500 xác chết bay lên trời xanh từ tay dao Rigpaba. Ông trở thành một vũ công trên xác chết. Đường dao tinh luyện, thanh thoát, xẻ người như xẻ vào hư không của ông trở thành những vũ điệu làm mê hồn bất cứ kẻ nào chứng kiến thậm chí bầy chim kền kền cũng không đủ nhanh để lượm từng mảnh thịt bay ra như hoa anh đào sa gió xuân!

Rigpaba ngồi đó. Trầm lặng. Bát trà bờ trơ đáy gỗ. Đôi mắt tung ra những đường dao vô hình bay lượn trên thân thể tôi. Này đây tim gan, này đây những suy tư, này đây những đau đớn hành hạ trong tôi và của cả Rigpaba rụng rơi giữa quán trà bơ ngai ngái mùi mỡ trâu Yak! Không chỉ Rigpaba, giờ đây tôi là một tay dao, một âm công trẻ tuổi đang dò thăm thân thể Rigpaba để buông những nhát dao sắc ngọt. Trước mắt tôi, Rigpaba là một xác chết và có lẽ từ đây, trong mắt tôi ai rồi cũng như xác chết cho tôi, được huyền học tung dao khai phá tâm linh!

Tôi không còn ghê sợ con dao trong tay Rigpaba. Nó nằm đấy. Vệt nắng trên bàn gỗ thô kệch. Tôi biết, không phải Rigpaba yêu nghề mổ xác người vứt bỏ kinh kệ mà đối với Rigpaba, hành động xẻ xác trở thành một tuyệt pháp hành thiền chỉ riêng ông có, chỉ riêng ông biết và thành tựu!

Với người Tây Tạng, mọi cử chỉ diễn ra đều ứng với nhịp chuyển lưu của vũ trụ. Tất cả những hành động nhỏ nhặt nhất cũng đều được khiểm soát chặt chẽ bởi ý thức hòa mình cùng vũ trụ chứ không phải tự muốn mà có, tự làm mà hay. Nâng một bát trà, không phải đi liền một hớp. Người Tạng uống trà theo quy cách vừa uống vừa cho thêm vào, uống dần từng ngụm, từng ngụm cho đến cạn bát. Tấm lòng rất hiếu khách của người Tạng sẽ bị xúc phạm nếu khách được mời rượu mà không “tam khẩu nhất bôi”- ba lần cạn chén rượu! Rượu Tsampa, người Tạng gọi là “thương” làm từ bột tsampa có mặt khắp nơi, sưởi ấm mọi lứa tuổi cao nguyên. Uống một bát rượu, đầu tiên là một hớp, đợi chủ thêm rượu vào mới uống hớp thứ hai, lại đợi rượu và uống cạn lần cuối. Ba lần nhấc môi là 3 lần sâu lắng tâm tư với rượu, với tấm lòng của chủ nhà!

Ngày nọ có thiếu phụ đến hỏi Phật làm thế nào để Thiền. Phật chẳng dạy điều gì cao xa cả. Ngài ngắm nhìn đôi tay quen kéo nước từ giếng lên của người thiếu phụ mà dạy rằng:

-  Con hãy chú tâm vào việc kéo nước giếng. Từng động tác phải được thuần thục trong một ý niệm rõ ràng con sẽ thấy tự con trong tâm trạng an lành, nhạy cảm và sáng suốt. Đó chính là Thiền!

Người thiếu phụ ấy tỉnh giấc. Nàng trở về nhà làm theo lời Phật dạy và được giải thoát!

Rigpaba không quay kéo nước giếng như người thiếu phụ. Rigpaba dùng dao xẻ xác để tạo nên một chiêu thức khai ngộ tính Không trong tâm linh ông. Ông bảo, khi xẻ xác là khi xẻ tung sự chết, sự sống ấn chứa trong bản thể, ngay cả bộ xương cũng vào bụng chim về trời, tất cả rồi sẽ thanh tịnh và tự nhiên hoàn thiện bằng những nhát dao thekchod buông xả tự nhiên! Thekchod là một trong hai phần thực hành của giáo lý Nyingma! Thekchod là hành động dứt khoát cắt bỏ mọi ràng buộc của lý trí và tình cảm, phá tan hàng rào ngăn cách con người không vươn đến sự tự do vốn sẵn có trong tâm. Khi Rigpaba vung dao, ông như chặt đứt sợi dây ràng buộc do thân, ngữ, tâm ngăn chướng Phật tính trong người bởi bất cứ cái gì được sinh trong tâm đều không chướng ngại như những đám mây trong bầu trời. Đã hiểu nghĩa đồng nhất trọn vẹn của tất cả hiện tượng, tức là tinh túy của tính Không, bây giờ người ta đi vào trạng thái tham thiền mà không theo những hiện tượng, đây là chân thiền định! Lời dạy của đạo sư Garab Dorje chứng nghiệm qua hành động xẻ xác của Rigpaba!

Những con chim kền kền trong tục điểu táng

-     Từ năm 1950 đến nay, ta không còn được vung dao. Những đàn chim xứ Tạng không còn tươi xanh. Bầu trời cũng không còn âm vang sự chuyển hóa tự do của xác thịt con người nữa! - Rigpaba buông xuôi đôi mắt, ông uống một hớp trà bơ, uống một thời say nồng nhát dao. Và tôi, trong một đêm tuyết khuya xứ Bắc Âu, khi xem một phim về cuộc đời lưu vong của đức Dailai Lama, tôi không ngờ có ngày mình lại ngồi trên phố Bát Giác, con phố ngập máu và khói súng. Những bước chân tu sĩ sột soạt lội trong máu người dân Tây Tạng ngã xuống trên đường phố này lại hiện về trong mắt.

Hàng ngàn tu viện tan hoang dưới bước chân hồng vệ binh. Ngày hôm nay Tây Tạng đã im lặng tiếng súng nhưng trước cung Potala, dưới chân đài tưởng niệm hòa bình Tây Tạng, tôi đã nhìn thấy một người lính Trung Quốc phải bồng súng AK đứng canh gác!

8 .H 3

Điệu múa của ma và linh hồn cầu nguyện hòa bình

-     Họ đã cấm tục điểu táng! Đội âm công tan rã. Tất cả đều đã chết. Còn lại mình ta với những nhát dao thèm thuồng - Rigpaba khô khốc nuối tiếc.

-     Và ông không còn những phút giây thiền hành nữa phải không? Tôi chia sẻ.

-     Không! Ta vẫn còn! - Mắt Rigpaba vụt sáng - Mà sao con biết đó là phương thức thiền hành, một bí mật của đời ta? Ai đã chỉ giáo cho con?

-     Thekchod! - Tôi bí hiểm

-     Thekchod? - Rigpaba vung dao.

Chiều Lhasa trong suốt. Quán trà bơ vắng khách. Tôi nghe rõ tiếng thở toát lên khắp thân thể già nua Rigpaba.

-     Con xứng đáng là người ta cho xem điều này - Rigpaba đứng dậy trở lại căn phòng. Tôi bước theo sau. Một loạt đèn nến thắp lên. Cả căn phòng nhảy múa hàng trăm bức tranh thanka! Cuồng say vô vàn vũ điệu múa dao điểu táng với những gam màu lúc thư thái nhẹ nhàng lúc dữ dội quỷ khốc thần sầu!

Tôi đã trải qua những giờ phút đắm mình trong gam màu lập thể của tranh Picasso dưới hầm viện bảo tàng La Haye, đã từng cuồng say không gian với tranh Van Gohg ở bảo tàng Amsterdam, đã từng bước lang thang trong thế giới đa sắc màu trong bảo tàng Luvre ở Paris nhưng chưa có lúc nào, tâm tư tôi lại bị chao đảo, như con thuyền nát sóng trong buồng tranh thanka!

Tôi nhìn thấy đây hình ảnh thần Yidam Yamankata tay cầm sọ người đầy máu, vị thần chết ghê gớm đến nổi người Tạng phải lấy vải che mặt vì không thể nhìn thẳng vào hung thần đầu trâu mặt ngựa dữ dằn này. Nhưng tôi lại hoang mang vẻ đẹp hồn nhiên của một thiếu nữ Tạng khỏa thân, nơi sâu kín nhất của nàng là khuôn mặt của chính vị thần kia che chở! Tôi cũng chan chứa niềm kính trọng thiêng liêng trước những khuôn mặt bi mẫn của các vị Phật được thể hiện bằng nhiều sắc màu trắng, đỏ, xanh, vàng sặc sỡ. Tất cả đều hướng về người đàn ông khi vung dao tuôn máu, khi bay lượn cùng đàn chim kền kền giữa trời xanh! Đó là Rigpaba! Rigpaba vẫn thiền hành trong những bức thanka.

Trong các tu viện Tây Tạng còn để lại nhiều công trình hội họa đặc sắc. Một tác phẩm hội họa là sản phẩm của một tập thể Lama cao cấp! Dưới sự hướng dẫn của vị Lama trưởng lão, các Lama sẽ tập trung tư tưởng hoàn tất phần tranh của mình, sau đó ráp nối thành một công trình hoàn mỹ. Khi vẽ, các lama đều ở trong trạng thái samadhi - thiền định, trì tụng thần chú, đường nét gam màu của họ biểu hiện những ấn quyết nên nét vẽ tập hợp từ nhiều người mà cứ ngỡ là xuất phát từ một đôi tay, một đôi mắt duy nhất!

Rigpaba, vị lama thầy thuốc, vị âm công, vị lama họa sỹ của tôi vẽ một mình hay với những ai mà tạo ra những bức tranh dữ dội, thôi miên toàn thể tâm tư tôi đến thế!

-          Chỉ một mình ta vẽ - Rigpaba nhìn thấy ý nghĩ của tôi - Ta buông dao thì cầm ngay bút vẽ. Ta vẽ quá khứ lạc phúc của ta mà thôi! Hơn 40 năm nay, ta chỉ có ngần từng ấy.

Ngần ấy nhưng đã đủ thôi miên một đời tôi! Tôi chăm chú từng bức tranh và nhận thấy, dù cũ hay mới, nét vẽ và màu sắc vẫn tinh anh giống nhau, không phải tuổi già mắt kém mà có nét vẽ hư, ngược lại càng ngắm những bức tranh mới, tôi càng thấy màu sắc sống động hơn. Người đàn ông múa dao trong tranh cũng nhanh nhẹn và phiêu linh hơn người đàn ông trong bức vẽ cách đây 40 năm!

-          Thodgal! - Lời tự tin của tôi như ánh nến quét vàng khuôn mặt của Rigpaba.

-          Thodgal! - Tiếng chưa dứt, đường dao của Rigpaba đã lượn vòng sau lưng tôi.

Không đủ sức để nhấc một bát cơm, làm sao tôi có thể tránh được đường dao kia! Nhưng không! Thay vì lãnh trọn nhát dao của vị âm công, cả thân hình tôi rung lên trong vòng tay Rigpaba! - Thod-gal!

tho..d-g...al - Rigpaba chìm dần âm thanh vào huyết quản mình.

Một bức tranh Thanka


Bức thanhka thể hiện hình tượng Đức Phật Sakyamuni
được vẽ vào TK 17, hiện được treo tại Potala Palace.

Những ngày tháng múa dao điểu táng đối với Rigpaba là giai đoạn ông thực hành Thekchod còn lại những tháng năm vẽ tranh là chuyển qua Thodgal, phần thực hành thứ hai trong giáo lý Nyingma! Thodgal nghĩa là “trực tiếp” trong một chuyển dịch tức thời và khoảnh khắc biến đổi từ nơi này sang nơi khác, không có sự can thiệp của thời gian. Thodgal còn siêu việt hơn ý nghĩa nhảy qua mà đây chính là sang-pa, cái nhìn thấy vượt khỏi kích thước tâm thức quán tưởng. Thodgal là sự hòa nhập vào cái nhìn thấy, là sự tự nhiên hoàn thiện trên cơ sở thanh tịnh của bổn nguyên trong mọi sự Thekchod! Tiến trình từ Thekchod đến Thodgal cũng là những phương tiện cơ bản chứng ngộ giáo lý Dzogchen - Đại Toàn Thiện mà đại đạo sư Palmasambhava để lại cho Mật giáo Tây Tạng.

-          Con hãy ở lại đây! Nơi Tây Tạng này! - Rigpaba tay vẫn chưa rời dao - Ta sẽ dạy con múa dao, ta sẽ dạy con vẽ thanka, ta sẽ cho con uống 3 bát trà mỗi ngày với bánh tsampa nếu con không chê! Và khi ta ra đi, con sẽ là người tặng cho ta những nhát dao cho thân xác ta bay lên trời cao trong bụng lũ chim đáng yêu!

Tôi im lặng đón lời của Rigpaba như đứa cháu nhỏ bé nhận đón lời người ông.

-          Ta biết, con không thể ở lại! Nhưng ta tặng con, cây dao quý này. Con hãy cầm về quê hương, không phải để xẻ xác chết mà bất kỳ nơi nào cuộc sống bình thường của con, con hãy nhớ, dù có ở trong xó bếp cũng có thể Thekchod và Thodgal nếu con có tâm trì!

Tôi xúc động. Tay run. Những ngón tay xanh tái vì thiếu máu. Cầm lấy cây dao. Cầm lấy cánh chim tự do! Cầm lấy một quảng đời kinh hãi nhưng siêu thoát của người âm công! Cầm lấy một đại ấn Mật tông!

Tôi bước ra quán trà. Lhasa chiều quá độ. Nắng thênh thang. Người vẫn tấp nập trên phố Bát Giác. Không ai biết, giữa thành Lhasa này có một người âm công đang ẩn tu với những bức thanka mầu nhiệm.

Khi rời Tây Tạng, hải quan ở sân bay Lhasa không cho tôi mang theo cây dao trở về nước Việt. Tôi phải nhờ Hong chuộc tiền để họ gửi cho tôi bằng đường đặc biệt. Hơn 30 ngày sau, tôi đã nhận được cây dao. Suốt chặng đường đi qua bao bưu cục, không ai hay biết, đó là cây dao của một người âm công Tây Tạng, chủ thể của tục điểu táng nổi tiếng trên thế giới.

Con kiến già Rigpaba! Tôi đã biết trong tổ của mình, những con kiến sẽ thản nhiên chết vì khi sống chúng đã có cuộc sống tận tuỵ, gắn bó và khéo léo hết mực với những gì chúng có được trên mặt đất.

Trong góc phố Lhasa, rồi Rigpaba sẽ ra đi mà không cần ai xẻ xác. Vì tận tâm tu luyện, thân thể thô tháp hơn 90 năm của ông sẽ được co rút nhỏ lại để tan biến vào ánh sáng bất tử mà người Tây Tạng gọi là Sự Tan Biến Vào Thân Thể Cầu Vồng.

Không biết trong buồng tranh Thanka, ai có diễm phúc nhặt được tóc và móng tay của Rigpaba để lại như những di vật linh thiêng hay nó sẽ tan biến dưới một nhát chổi của người lính nào đó!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét