TÂY TẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG
11. Tiếng hát bất tử trên Himalaya
Văn Cầm Hải
Ngày 25 tháng 8 năm
1055, năm Con Rồng Đực lịch Tạng.
Gia đình vợ chồng thầy
phù thuỷ Mila Sharab Gyalten và Karmo Kyen ở vùng Kyang Tsa, sinh hạ đứa hài
nhi tên la Thopaga .
948 năm 8 tháng 20 ngày sau trên dãy Himalaya.
Ngày 21 tháng 9 năm
2003.
Tôi theo mây lên núi Kamala cao 4.852m
ngắm nhìn quê hương của Thopaga. Trong máu xương phơi tràn gió tuyết, tiếng
khóc xa xưa, vốn được ướp xanh trong ngân hàng băng tuyết vĩnh hằng Himalaya, vọng
về thinh không, lọt qua vành tai tôi những âm tiết màu thuỷ ngân mani biến ảo
theo cái nhìn của núi.
Ánh sáng là thể phách của núi, núi là nhục thể của ánh sáng.
Núi trắng thẳm. Núi
xanh lơ. Núi tím sẫm. Núi xám đen. Núi vàng sáng. Có khi núi bổng gần như giọt
lệ bờ mi có lúc núi lại mờ xa như hơi thở bầy trâu Yak thoảng qua trời và âm
thanh cũng theo đó mà lan toả tuỳ theo quán tưởng của mỗi linh hồn khi đối thoại
với Himalaya.
Núi ảo ảnh
Không quán tưởng, không
biến ảo vào màu sắc âm thanh, tôi không thể làm người vô trọng lượng lên đỉnh
Kamala. Nếu đường qua Hải Vân là hiểm trở như đường vào nước Thục trong mắt
chúa Nguyễn Phúc Nguyên thì đường lên đỉnh Kampala con đường dành cho ma quỷ và
thần thánh dạo chơi. Suốt cuộc hành trình, tôi chỉ nhìn lên trời xanh mong ước
tìm đám mây nào đó để trú ẩn nếu xác thân rơi vực thẳm thì cũng được nhìn thấy
nước Việt từ không gian.
Đã vậy, cái thân hình gầy yếu của tôi
còn phải làm một “lama y sĩ” bất đắc dĩ giúp Hong vượt qua cơn sợ hãi ngộp ngạt
thân hình lực lưỡng. Người vệ sỹ Trung Quốc ấy đổ gục xuống ghế, khuôn mặt xanh
tái loáng thoáng kêu cha mẹ, vợ con vô vọng. Tôi bảo Hong hãy nhìn lên cao, hãy
tận hưởng tất cả màu sắc lộng lẫy của Hymalaya, hãy lắng nghe tiếng hát của gió
và mây vờn bay ngoài cửa xe nhưng Hong hai mắt nhắm đen như địa ngục. So với tiền
nhân ngày trước, Hong không xứng làm chiếc lông trâu! Lão Tử ngày xưa thong
dong cưỡi trâu vượt qua Tây Tạng sang Tây Trúc, lòng không những không sợ hãi
mà nhờ cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, ông mới viết ra Đạo Đức Kinh!
Thuyết văn giải tự nói ''đạo là con đường
đã đi vậy” thì con đường ẩn hiện ruột dê dài “trường dương tiểu lộ” vắt vẻo mây
núi tôi vừa đi qua là đạo lớn! Trên con đường, tôi thấy thiên thượng tài sở nhật,
thế thượng dĩ thiên niên - thấy trời chỉ có mấy ngày mà dưới trần gian như
nghìn năm! Đứng trên đỉnh Kamala không cần phóng tầm mắt, nhờ ánh sáng trong suốt,
núi muôn trùng mọc ra từ mắt, lớn dần lên từ dưới vực nhỏ tí “nhất lãm chúng
sơn tiểu” dẫu biết rằng, mỗi ngọn núi bé tí ấy có thể sinh ra một làng quê cho
bao số phận con đen con đỏ trú thân. Nơi này, vô biên chưa đầy vốc, đất trời chợt
ngây thơ, thiên thu trong tầm tay, con người vô trọng lượng, tục luỵ cũng hoan
ca cùng chuyển sinh dòng chảy vũ trụ. Rất hằng viễn hoài thai trước và sau ngày
tôi ra đời, qua bao năm ngủ say trong kinh nghiệm và hoài nghi, chợt mênh mang
bừng nở trước mắt!
Có lẽ cũng như tôi bây
giờ, thuở xa xưa huyền thoại ấy, Lão Tử đã dừng chân trên đỉnh núi này, mắt lắng
động sắc màu địa y mượt vàng, tai cuồn cuộn âm thanh vô ngôn trào dâng lên khoé
núi, ngồi trên lưng trâu mà lĩnh hội từng sát na phiêu linh của vũ trụ thấm dần
qua tâm ào ra thành những dòng đầu tiên của Đạo Đức Kinh truyền lại cho hậu thế!
Cúi đầu núi vừa chớm xanh, ngẩng đầu
núi đã tuyết trắng. Đạo trời khó lường thay Lão Tử! Hạnh phúc hay đau khổ, rồi
cùng nhau thành hư không toàn tính!
Lão Tử thành mây khói
như trạng thái đạo trời không có trạng thái, hình bóng không có hình bóng tồn tại
trong thực tại siêu cảm giác còn đứa bé Thopaga đã biến lời LãoTử trở thành sự
thật bằng chính cuộc đời thiền ca của mình.
Mồ côi cha từ rất sớm.
Gia đình tan nát trước lòng tham lam của họ hàng. Ra đi tìm thầy học phép huyền
thuật trở về tung ra những trận mưa đá kinh hồn trả thù làng xóm. Lội qua máu hận
thù, Thopaga gặp được Marpa thu nhận làm đệ tử. Nhờ Marpa, cuộc đời của nhà huyền
thuật trẻ tuổi Thopaga bắt đầu thay đổi hay nói đúng hơn, lịch sử Phật giáo và
thi ca nhân loại có thêm một tiết điệu trầm hùng!
Tên tuổi Marpa có thể sánh danh với cư
sỹ Anathapindika ở ấn độ. Sinh năm 1012, Marpa được tôn vinh là đại dịch giả
Tây Tạng sau ba lần vượt chết đến Ấn Độ trở về. Marpa học đạo với thầy Naropa
sáu năm. Naropa là một vị hành giả Đại thừa Mật giáo Ân Độ, đã truyền Đại Thủ ấn
và kinh Du già lục pháp cho Marpa. Marpa trở lại Tây Tạng, lấy vợ sinh con, sống
cuộc đời cày cuốc nhưng không quên dịch thuật kinh sách. Trước khi được Marpa
truyền dạy giáo lý huyền bí của phép đại ấn và du già, Thopaga phải chịu đựng
bao nhiêu khổ hình tưởng chừng muốn chết. Sau tám lần leo lên từ hố thẳm thử
thách lòng kiên trì, thật không uổng công nuôi dạy của Marpa, người học trò
Thopaga đã đắc đạo và trở thành chưởng môn của giáo phái Kagyu - một trong 4
phái Mật tông lớn nhất ở Tây Tạng! Từ ngày Milarepa ra đi đến nay, đã có 16 vị
truyền thừa.
Danh từ Kagyu, tiếng Tạng là bka-bgyud
có ý nghĩa “các dòng của 4 vị được uỷ nhiệm” bao gồm dòng "yoga huyễn thân
và chuyển thức”, “yoga đại huyễn và giấc mộng”, “yoga quang minh” và “yoga nội
hoả”, tất cả đều được truyền từ Phật Pháp Thân Vajradhara với giáo huấn
Mahamudra - Đại ấn xuyên suốt con đường tâm linh của Kagyu.
Phép đại ấn là cực điểm
của Kim cương thừa được thực hành qua sáu giáo phép nội hoả, huyễn thân, quang
minh, chuyển thức và trung ấm để tiến tới hoà hợp với Đại Lạc và Tính Không bằng
con đường Thiền định.
Người học trò Rechung kể rằng, khi đã
trở thành một đại thành tựu giả, Thopaga đã bay liệng như chim đại bàng trên
Himalaya. Đôi mắt Thopaga thấu suốt vũ trụ và tâm linh con người. Đó cũng là
lúc Thopaga có tên Milarepa - Vị hành giả mặc áo rách! Một hình ảnh sống của
người Samapatti có nhiệm vụ bảo vệ quỹ gen của loài người ở thế giới Shambhala
trong con mắt của vị bác sỹ nhãn khoa người Nga Muldachev!
Nhưng từ cái tên
Thopaga đến Milarepa là một chẳng đường gian lao dữ dội hơn con đường tôi vừa
đi qua.
Milarepa thân trần vào
thiền định trong các hang động trên dãy Himalaya không phải là để “khổ hạnh” mà
ông luyện phép “nội hoả”.
Phép luyện nội hoả có 4
giai đoạn chính là triệu tỉnh, quán tưởng vị Thầy hướng dẫn tâm linh, hoà nhập
tâm mình với tâm thầy qua tinh tuý thần chú, an trú trong bản tính tự nhiên.
Milarepa đã thực hành và luyện thành công được luồng hoả xà đi qua 5 khu vực
trung tâm thần kinh.
Theo quan niệm Phật giáo, con người được
giới hạn trong 5 trung khu thần kinh và người Tây Tạng chia chúng thành 3 vùng
bao gồm từ cổ lên não, tim và phần dưới là mạng thần kinh thái dương, các cơ
quan sinh thực. Chúng ta sẽ nhìn thấy 3 vùng này qua hình ảnh tương quan giữa lực
tuyến chính làm trung gian và nhận đón hai lực tuyến thái âm và thái dương mang
tính âm dương, tri kiến và sinh sản không khác gì trung khu ở tim nằm trung
gian giữa hai vùng trên dưới, là bệ phóng cho các lực hoà hợp ở trung khu cao
nhất biểu hiện sự thành tựu một con người toàn thiện. Rõ hơn, 3 vùng trung khu ấy
tương quan với 3 bình diện địa cư, vũ trụ và con người giống như nguyên lý
thiên địa nhân hợp nhất trong ý niệm triết học của người Trung Quốc. Con người
trở thành chiếc cầu nối hoà hợp giữa các trật tự thiên nhiên và kẻ nào, kinh
Bhagavad gita dạy, nhờ đạo yoga được hoà đồng, tiểu ngã của hắn được tinh khiết,
quan năng của hắn được chế ngự, kẻ đó được đại ngã soi sáng, nên tiểu ngã của hắn
trở thành đại ngã của tất cả muôn loài. Kẻ đó có tâm định tĩnh, dù khi đang
hành động!
Năm trung khu thần kinh được hình tượng
hoá qua 5 đồ hình, màu sắc và chủng tử âm thanh. Bắt đầu từ trung khu gốc có
hình vuông, màu vàng, tương ứng với yếu tố đất, ký hiệu chủng tử âm AH. Đây là
vùng của định luật nghiệp báo, mọi hoạt động đều bị ràng buộc trong nghiệp lực.
Trung khu rốn là một hình cầu, yếu tố nước, màu trắng, chủng tử âm TRAM là nơi
có chức năng tiêu hoá và dưỡng sinh các yếu tố đất, không khí, lửa. Trung khu ở
tim mang hình tam giác, màu đỏ, chủng tử âm HUM được ví như bàn thờ ngọn lửa
thiêng liêng. Trung khu thứ 4 nằm ở cổ họng với hình cánh cung hay một nửa vòng
tròn, tượng trưng cho không khí, màu lục, chủng tử âm HRI hàm chứa sinh lực và
sự vận chuyển khí. Cuối cùng là trung khu não được thể hiện một giọt xanh chói
loà biểu hiện yếu tố không gian ether, chủng tử âm OM.
Năm trung khu thần kinh liên tục chuyển
động và hoán chuyển các yếu tố do vậy người tu luyện phải biết điều tiết, hướng
dẫn luồng khí lực đi từ gốc lên ngọn và ngược lại theo một chu trình mà phép
luyện nội hoả gọi là tháo mở các gút vươn đến niềm hứng khởi bao la, một sự
sung sướng sâu sắc, trong đó cái đau đớn nhất, cái mờ ám nhất không tạo thành
nghịc cảnh, mà hiện ra như điều kiện sinh khởi, nhân tố kích động, như là màu sắc
cần thiết bên trong một sự tràn đầy ánh sáng như Nietszche miêu tả.
Trong hang động trên dãy Himalaya,
Milarepa không được ngồi trên nệm da sơn dương đặt lên loài cỏ thiêng kusha,
Milarepa ngồi cô tịch tuyết lạnh, áo rách luyện nội hoả cho đến ngày người đệ tử
Rechung nhìn thấy toàn thân Milarepa tràn ngập sự an lạc xuống tấn đến các ngón
chân và một niềm khoái cảm đi lên đến đỉnh đầu cho tới khi trạng thái ấy dung hợp
thì các chỗ gút mắc được tháo mở, tất cả biến đổi thành thực tính của lực tuyến
chính. Sự vận chuyển thông suốt, tháo được nút chặn cho luồng tâm hoả thông
thiên là người luyện đã thành tựu như áo nghĩa thư dạy.
“Khi các gút trung tâm
đều tháo mở
Thì ở đây, trong cuộc sống
con người.
Núi tím
Cái sinh diệt sẽ trở
thành bất tử.
Từ tâm hoả sáng chói, nẩy
sinh ra trật tự và chân lý.
Chúng ta không nên nhìn nhận Yoga và
phép luyện nội hoả bằng con mắt siêu hình thần học hay quan niệm vũ trụ học bởi
đây là một tiến trình kích hoạt tâm lý học sâu sắc của tâm trí. Bằng các biểu
tượng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, con người đã biến các yếu tố sinh học thành
yếu tố tinh thần, các bộ phận máu thịt tự nhiên thành các bộ phận nuôi dưỡng tư
tưởng.
Tôi tin, người ta khi lạy vái trước
bàn thờ là bởi tâm lý quán tưởng đến linh hồn tổ tiên đang hiện hữu trong ly
hương bát nước chứ không phải vì chất men sứ làm nên ly hương bát nước buộc người
ta phải quỳ gối! Những đêm chơi khuya, đi qua mấy ngã ba đường xứ Huế, mùi
hoàng lan thoảng bay trong gói lá cúng cô hồn, tôi có cảm giác mình đang sống
trong xứ mộng của tâm lý.
Một vị hành giả cũng vậy,
bằng trạng thái tự do tâm lý, họ trở thành trở thành chiến sỹ tâm linh có quyền
tự quyết tất cả bằng năng lực tâm lý của riêng mình, “tự coi chính mình và tất
cả những gì trông thấy được như một Mandala thiêng liêng và xem mỗi âm thanh
nghe được như một thần chú, cũng như mỗi tư tưởng hiện ra trong tâm, thì nên
xem nó như là sự nảy nở thần bí của Đại Trí Huệ”.
Sự nảy nở thần bí của Đại
Trí Huệ mà Chú thuật Demchog ngợi ca không chỉ dừng lại trong phép luyện nội hoả.
Trên quê hương của Milarepa, tôi đã nhìn thấy sự nẩy nở thần bí qua nhiều
phương diện để từ đó Tây Tạng trở thành một miền đất triết học và biểu tượng.
Trên cao đỉnh núi này, cùng với bầy
trâu Yak còn có sự sống của màu sắc lá cờ phướn. Cờ phướn là tấm thiếp của người
Tây Tạng gửi đến trời, xuất hiện bất cứ nơi nào, trên núi, dưới sông, trong nhà
ngoài sân, trên hai sừng trâu hay dê núi, thậm chí ngay dưới gốc cây người ta
cũng có thể căng cờ phướn, buộc vải ngũ sắc.
Cờ phướn có 5 màu chủ đạo
đúng như 5 màu của nội hoả là màu trắng biểu tượng phương đông của Aksobhya và
Phật mẫu Bouddharocana; màu lam là trung tâm Phật Vairocana và Phật mẫu
Akasadhatesvari; màu
vàng là phía Nam là lãnh thổ Phật
Ratnasambhava và Phật mẫu
Mamaki, màu đỏ là phương Tây Phật Amibrabha và Phật mẫu Pandaravasini; màu lục
là phương Bắc cho Phật Amoghasddhi và Phật mẫu Samayatara.
Ngoài màu sắc, đường nét mỹ thuật kiến
trúc của tất cả các bảo tháp ở Tây Tạng đều được xây dựng theo quy luật 5 đồ
hình của các trung khu thần kinh. Cũng mang cấu trúc đế to đỉnh nhọn nhưng đứng
trước bảo tháp, không những khởi lòng sùng kính thi hài, thánh tích các vị Lama
mà chính cấu trúc bảo tháp mang đến cho ta ý niệm về sự vận động của vũ trụ với
khối hình vuông ở duới là đất, hình tròn là nước, hình nón là lửa, cái lọng đặt
ở trên là là yếu tố không khí và giọt sáng trên cùng là yếu tố ether là giọt sống
vĩnh hằng!
Milarepa là một giọt sống
vĩnh hằng của Mandala Tây Tạng.
Nếu Nietzsche phải
nương bóng kẻ tiên tri Ba Tư là Zarathustra để rao giảng "khát vọng phóng
về hướng siêu nhân” thì Milarepa, sau khi lĩnh đủ những cú đá văng trời của người
thầy Marpa - nhà đại phiên dịch Tây Tạng đã nguyện cô độc đời mình trong các
hang động trên dãy Himalaya. Milarepa không đòi giết chết Thượng Đế. Milarepa
là một con người bình thường nhưng biết hoà mình vào vũ trụ và sống một đời sống
Thượng Đế trong tâm thân tuyết bay gió thổi áo rách bốn mùa! Milarepa nhận thức
rõ khả năng tồn tại hữu hạn của đời sống. Milarepa không trốn chạy, không mang
theo lời cầu nguyện như người Ai cập đến cõi chết mà bằng lòng nhiệt tâm lắng
nghe tiếng nói vi tế của hiện hữu bằng hành động tâm linh quyết liệt phá tan mọi
giới hạn vô thường để nhìn thẳng và vượt qua cái chết!
Cô gái người Tạng |
Vì sợ chết tôi đi vào núi
Liên tục trầm tư về
tính bất định của giờ chết
Bỗng bắt gặp thành trì
bất tử, vô tận của tâm bản nhiên
Bây giờ tất cả nỗi sợ
chết đều tan biến
Khi nỗi sợ chết tan biến,
từng bước đi, cử chỉ, âm thanh của Milarepa là từng vần thơ thăng hoa Tây Tạng.
Làm thi sĩ triệu người
nhưng thử hỏi mấy ai sống như thơ Làm thi nhân có đôi ba người nhưng thiên hạ
được mấy thánh thi.
Vì lẽ đó, tôi kính
Milarepa! Một cuộc đời tự do!
Hành trình cuộc đời
Milarepa là hành trình tự do. Hành trình của những bài tán ca thay lời thuyết
pháp!
Để biến đời mình thành bản thánh ca tự
do, Milarepa hát rằng “tôi trái nghịch với tất cả những kẻ giả hình muốn làm thầy
tăng để được kẻ khác kính trọng và tôn vinh, họ chỉ mặc áo nhà tu, trong khi họ
vẫn cố gắng thu góp của cải, tìm kiếm danh vọng, và như thế họ cố gắng đạt cho
được những gì tốt đẹp nhất của hai thế giới đó. Họ học thuộc lòng một cuốn sách
vài cuốn kinh rồi họ tan biên mất trong sự xung đột bè phái không có vẻ đạo lý
tý nào.
Hỡi những vị tăng sĩ, há không nghe tiếng
hát của bậc tiền nhân nên hôm nay phải gánh chịu kiếp lưu vong ngay trên mảnh đất
của chính mình! Gần 1000 năm qua, các vị đã làm những gì trên con đường tu tập,
có vị nào dám như Milarepa suốt một đời chỉ hiến dâng đạo pháp, không màng đến
trần gian dù chỉ là một hạt bụi trên cánh đồng Tsampa!
Khi trở về ngôi làng yêu dấu, trong
căn nhà đổ nát xương tàn mẹ đợi con trai về bốc liệm, Milarepa rất đau khổ.
Nhưng từ cõi nát tan ấy, Milarepa chợt nhận ra trần gian là chốn vô thường, rồi
tất cả cũng tan hoang đổ nát, văn minh có thì con người có hạn nên thay vì trả
thù Milarepa quyết chí ra đi, tìm đến những hang động xa xôi để sống trong trạng
thái thiền định bằng phép luyện nội hoả!
Đói rách tả tơi. Thân
thể trần truồng tuyết trắng. Ngày qua ngày, ăn từng ngọn tầm ma. Bọn trộm vào,
thấy nồi tầm ma, chúng không hề hay biết đó là thức ăn của một con người vĩ đại
đang ẩn náu sau bộ xương khô quắt, làn da xanh ngắt màu rau!
“Ta chẳng có gì cả, chỉ
có rau tầm ma thôi”.
Tôi tin, Milarepa đã học
được lòng can đảm từ những ngọn tầm ma. Ngọn tầm ma của Milarepa vẫn còn đó
trên những sườn đá tôi qua như vài giọt xanh rơi trên núi đèo. Bám đá, bấu tuyết,
víu gió, sực mùi mặt trời, cây rau ấy vẫn sống tươi mươi cùng lũ địa y. Rau mọc
đã khó, người hái rau càng khó hơn nếu không có bản lĩnh kiên cường.
Những dây cờ phướn trên núi Yaowang Lhasa
Cho tôi một bầu trời
trong chiếc lá to bằng bàn tay đang thấp thỏm xanh mấy cọng chen ra từ đá trên
đỉnh Kamala tôi cũng đành bó tay nhưng gần 1000 năm trước, cái thân hình gầy yếu
thiếu vải thừa da của Milarepa vẫn thản nhiên như thái độ của con trâu Yak rất
hiền lành náu mình trong hình tướng dữ tợn với bộ lông dài chấm móng, không hề
ngại ngần gió tuyết, tìm nhặt bầy địa y nõn nà lông tơ phủ thắm mặt đất, nuôi
hình bóng mình thảnh thơi trên Himalaya.
Cờ phướn 5 màu xanh, đỏ, vàng, xanh lục, trắng trên đèo Kamala
Ngoài ngọn tầm ma, có hôm được thợ săn
biếu thịt. Milarepa ăn cho đến khi miếng thịt hoá giòi. Ông định bắt những con
giò tuyết ăn nhưng “lại cảm thấy nếu làm thế có khác gì tước đoạt thức ăn của
giòi” vì thế Milarepa dành phần thịt thiu cho chúng và trở lại với ngọn tầm ma
để tiếp tục cuộc tu luyện tự do.
“Thấy rằng một người
không bao giờ biết cái chết bắt đầu khi nào, nên tôi không muốn lãng phí thì giờ
quý báu trong việc đi xin bố thí. Dù cho tôi có phải chết rét thì đó cũng là chết
cho chân lý. Tôi không bao giờ có thể thoả mãn được sự phô trương bề ngoài của
tôn giáo như một nhóm người tụ hội vui chơi chè chén, tự do ăn uống hỉ hả và mặc
thứ quần áo may cắt đẹp đẽ và đắt tiền nhất-tất cả những việc như vậy chỉ đánh
mất lòng sùng tín chân chính mà thôi”.
Một con giòi còn nhận
được lòng bi mẫn huống chi là người, dẫu đó là kẻ thù, Milarepa cũng không đành
lòng chối từ sự chia sẻ!
Ngay trước khi chết, dù biết Lama
Tsapnawa ghen ghét sai tình nhân bỏ thuốc độc, Milarepa vẫn uống. Socrates uống
thuốc độc giả từ thành Aten cho triết lý của mình, còn Milarepa uống thuốc độc,
sẵn sàng lấy cái chết của mình thức tỉnh cho kẻ giết mình thành một vị bồ tát!
Và Milarepa không cần kẻ thù của mình biết ơn mình bởi tất cả nhưng ông đã hát
lên với người con gái Zesay.
Tôi đã biết rằng dù tôi có cả trần
gian này, khi tôi chết tôi cũng không thể mang theo, như thế nếu bây giờ tôi từ
bỏ tất cả mọi vật thì tôi sẽ được hạnh phúc trong cả đời này và trong cả đời
sau. Đó là lý do, Milarepa từ chối tất cả mọi chăm sóc vật chất của người em
gái Peta mặc dù ông biết những miếng cơm tấm vải ấy, người em gái của mình phải
lang thang khất thực khắp nơi.
Từ chối vật chất, từ chối luôn cả tình
yêu của cô gái hàng xóm Zesay dành cho Milarepa từ khi còn là một đứa bé. Trong
Milarepa, tự do là tình yêu vĩ đại nhất. “Tất cả mọi cuộc theo đuổi thế gian đều
chỉ được một quả không thể tránh được là sự phiền não - Milarepa hát cho các đệ
tử - Được kết thúc trong mất. Xây kết thúc trong đổ vỡ. Gặp gỡ kết thúc troing
chia ly; sinh kết thúc trong tử. Biết được điều này, ngay từ đầu người ta phải
viễn ly tất cả những ý tưởng về góp nhặt các đồ vật, về xây cất, về gặp gỡ... bắt
đầu cuộc tu hành của chân lý siêu việt sinh tử!
Tâm hồn của Milarepa trong như nước hồ
Yamdrok dưới chân đèo. Từ trên đỉnh lâu đài nội tâm của vũ trụ này, tôi đã thấy
con mắt của trái đất, đó là con mắt của muôn vàn cư dân ẩn cư trong lòng đất
đang ngước nhìn bầu trời bao la như tấm lòng tôi vượt ra ngoài biên độ không
gian và thời gian. Màu mắt xanh sâu thẳm bào thai của Mẹ, hồ Yamdrok là nguồn
nước thiêng người Tây Tạng dâng lên các thiên thần. Trong chu vi rộng 640 km
vuông của hồ nước này, nơi nào dấu chân Milarepa ngày trước đến đây nhờ hồ nước
dạy phép thanh tịnh.
Mặt hồ ngọc lục bảo,
đưa tay như vớt lên từng sợi ánh sáng nhuộm xanh khí trời!
Mặt hồ mịn màng da bụng
nữ thần Tarâ! Nàng đã sinh hạ cho Tây Tạng một tiếng hát bất khuất trước đau
thương và hạnh phúc!
Nơi nào Milarepa đã rong ca cho tôi vớt
hơi thở Người! Trên những ngọn núi tuyết trầm mặc kia, nơi nào có hang động của
Milarepa cho tôi tìm đến trú thân trong giây lát. Biết tìm đâu thấy giữa mêng
mông Himalaya. Cũng chẳng cần tìm đâu cả bởi lúc chết, sau khi co rút thân hình
để chuyển hoá thành ánh sáng vĩnh cửu trên giàn lửa thiêu, Milarepa không có một
hạt ringsel hay dung - hạt xá lỵ nào cho đệ tử. Khác với các vị đạo sư đạt đến
cảnh giới đại giải thoát, khi chết được Đại chuyển hoá - Pho-ba Chõen-po- thành
thân ánh sáng vi tế sống vĩnh cửu, hay trở thành Thân Thể Cầu Vồng -Jalus để lại
tóc và móng tay, hoặc thi hài vẫn giữ nguyên như các vị Dalai Lama hay Panchen
cất trong các Tschorten cho hậu thế thờ vọng.
Milarepa ra đi chẳng để lại bất cứ cái
gì ngoài những bài thánh ca! Milarepa điềm nhiên nằm trên giàn lửa và ra đi
trong niềm tự do tuyệt đối. Các anh - Các thiên nữ nói với các đệ tử đau buồn
mong ước được Milarepa để lại thánh tích - tất cả các anh há đã chiếm được những
thánh tích quý báu nhất là các diệu lý theo đó các anh có chính pháp thành hình
trong tâm các anh!
Hồ Yamzho Yumco
Tôi không biết, phép luyện nội hoả,
đưa Milarepa bay lang thang qua hàng trăm năm như thế nào nhưng tôi đã nhìn thấy
Milarepa là một người thơ, bằng tình yêu thương và tự do, ông đã biến cuộc đời
này thành bản thánh ca bất tử! Muốn tự do không bị tổn thương, Milarepa có thái
độ sống không cần để ý tuân theo những tiêu chuẩn ước lệ tầm thường về lễ độ
hay không lễ độ. Bất cứ kẻ nào không chân thành đều có một tín ngưỡng khác hẵn
với tôi, và bất cứ người nào chân thành, dù họ có mang bất cứ một nhãn hiệu tôn
giáo nào, họ và tôi đều cùng chung một con đường tín ngưỡng. Tín ngưỡng của
Milarepa là Ngọn Cờ Tình Thương như ông ngợi ca Nếu các con không chế ngự được
dục vọng xấu xa bằng tình thương thì lời khuyên dạy chỉ là những âm thanh trống
rỗng.
Tôi ôm lấy những đứa trẻ Tây Tạng đang
dắt trâu Yak trang trí đủ màu sắc cho du khách cưỡi. Một con phải trả 5 tệ.
Trên đỉnh cao hàng ngàn mét này, tiền vẫn bay cùng mây gió. Những đứa trẻ kia,
vì nông nổi gì không ở nhà đọc kinh sách mà phải lên đây! Chúng có biết, con
trâu đang chăn dắt, giá cho thuê 5 tệ kia xưa kia từng mang Lão Tử sang Tây
Trúc viết nên cuốn Đạo Đức Kinh, chúng có bao giờ nghe tiếng hát Milarepa tìm
lên "trên núi có một con đường đá, nơi đó con người đánh đổi sự luân hồi hỗn
loạn với hạnh phúc thanh tịnh vô biên”!
Khi bò lên đỉnh đèo, tôi bắt gặp một
bé gái lên chừng 15 tuổi, tóc non gió tuyết, ngồi xếp tháp đá. Từng viên đá chồng
lên núi, kéo đỉnh núi cao hơn về trời. Tôi nhặt hòn đá đặt lên tháp đá nhỏ của
em bé, không phải cầu xin điềm lành cho mình, tôi muốn nhờ hòn đá này chuyển lời
thăm hỏi đến Milarepa thay cho những đứa bé nghèo khó quên mất quá khứ. Nhưng
Milarepa và tôi nữa, chúng ta hãy bình tâm! Tôi đã nghe thấy trên đôi môi đứa
bé kia một điệu hát.
Tôi không hiểu điệu gì
cả bèn tuỳ hứng mà gọi tên Milarepa!
Ngọn núi Qomolangma
Milarepa! - Đứa bé thì thầm nhắc lại lời
tôi. Và khi chưa kịp giải thích mà dù muốn cũng không được, tôi đã nghe một điệu
hát nhẹ nhàng vàng lên. Cô bé hát khe khẽ, giọng nhẹ hơn khí trời. Cô bé vừa
hát vừa bốc tuyết thả xuống tháp đá. Milarepa! Có phải đó là Khúc Hát Tuyết Rơi
đã làm tên tuổi ngài lừng danh khắp Tây Tạng! Bất lực ngôn ngữ, tôi chỉ vào môi
chỉ vào bông tuyết rơi trong lòng tay bé nhỏ. Đôi gò má nắng chín, đôi mắt rộng
khoé tổ tiên, cô bé ngân nga hát thay câu trả lời!
Ôi Tây Tạng, 40 triệu năm qua sau ngày
biển dâng, nắng tuyết không thể bào mòn. Từ đôi bàn tay bé bỏng xếp đá, từ tiếng
hát của con người, Tây Tạng đang cao dậy. Trên đỉnh đèo Kamala ngùn ngụt gió lạnh
tràn qua, kỳ lạ thay, tháp đá gập gềnh vẫn đứng vững đến cùng như khát vọng đối
thoại với thần linh không bao giờ tàn lụi trong đôi mắt trẻ thơ Tây Tạng.
Tôi muốn ngã lưng trên
đỉnh Kamala nghe mùa địa y vươn vào máu thịt, cho trời ngắm thấu đáo niềm hạnh
phúc cô độc mơn man tấm thân gió tuyết. Đắm chìm trong cô độc, trời sẽ nghiêng
mình trước vết chân hồng hoang trên tháp đá liêu xiêu để cùng con người nhìn thấy
lịch sử và tự nhiên nương tựa vào nhau ca hát tự do.
Đọng tuyết trên Himalaya
Milarepa! Tiếng hát tự
do như con thú doha lang thang nuôi mình bằng sương khuya và bình minh trên
Himalaya! Xin đừng ai giống các nhà động vật học phương Tây phủ lên một lớp vôi
hoá huyền hoặc loài thú tự do qua cái tên Dakutus montanus calccifondensis!
Có lẽ khi thốt lên cái
từ Thopaga đặt tên cho con trai - tay đánh bạc vô song, thầy phù thuỷ cao tay,
người cha Mila - không thể ngờ, cái từ Thopaga chính là định mệnh gắn liền với
đứa con trai của mình.
Bởi cho đến bây giờ, mỗi
khi rơi xuống vực sâu nỗi buồn, tôi vẫn vươn lên nhờ “vui nghe” tiếng hát của Milarepa!
Không ai như Milarepa! Tiếng hát thuyết pháp của ngài đã trở thành dân gian hoá
trên miền đất Tây Tạng.
Hồi trẻ dại đọc Milarepa, tôi hình
dung ông là một huyền thoại trên dãy núi Himalaya động viên con người vượt qua
khổ đau và khắc nghiệt của thời tiết. Nhưng lúc này đây trên Tây Tạng, thấy những
người Tạng nằm khoả thân phơi mình giữa gió lạnh rực nắng bên vực sông Yarlung
Tsangpo, tôi tin việc Milarepa bất chấp khắc nghiệt cuộc sống để ẩn tu trên
Himalaya, rèn luyện phép nội hoả là điều có thật. Milarepa không còn là huyền
thoại. Ông là một con người, con người nghệ sỹ.
Khi Milarepa giã từ cuộc đời vào tháng
cuối năm con Mèo, tức tháng giêng năm 1135. Trước giờ lên giàn hoả thiêu, ông
đã chia cho đệ tử Upa-Tonpa được chiếc mũ, Shiwa - Wodcây bút gỗ, Ngan là sọ
người, Seban Repa: viên đá lửa và miếng bùi nhùi, Bri Gom là chiếc muỗng xương
và Rechung là cây trúc trượng và tấm áo vải tương truyền là tấm áo của tổ sư
Naropa được thầy Marpa truyền lại cho Milarepa. Đó là tất cả những gì gọi là của
cải trong suốt 84 năm Milarepa tồn tại trên mặt đất này.
Cái gì Milarepa có thì
ông đã chia. Tôi biết xin gì đây ngoài chiếc nồi đất - chiếc nồi đất vỡ tan
hoang sau những ngày tháng luộc rau tầm ma! Chiếc nồi ấy vỡ, một lớp cặn bã màu
xanh đóng cứng trong nồi rớt ra, rơi xuống đất bản sao chiếc nồi đất thứ hai.
Có được chiếc nồi đất ấy, tôi sẽ hái
rau tầm ma trên đỉnh Kamala luộc lên và hát như ngày xưa Milarepa xưng tụng đạo
sư Nồi Đất dạy vô thường sinh tử và trách nhiệm làm người. “Bao lâu trên đầu
các con còn bầu trời, chừng đó vẫn còn các loài hữu hình cần sự giúp đỡ của các
con. Hãy nghĩ đến hiện tại, quá khứ, tương lai chỉ là một!”.
Chiếc nồi tầm ma ấy đã
hoá thân vào đất đai Tây Tạng.
Từ nơi này Himalaya, tiếng
hát của Milarepa lại địa y xanh mướt vọng lên Không nên hy vọng chứng đạo, mà
hãy hành đạo suốt đời bạn!
Tiếng hát hiện sinh mẫu mực ấy sẽ vang mãi cho đến ngày loài người chối từ tự do!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét