TÂY TẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG
10. Dặm đường thần chú
Văn Cầm Hải
Một nửa ngày trôi qua
Tây Tạng.
Hoàng hôn vừa xuống,
tôi đã kịp đến Shigatse - thành phố lớn thứ hai Tây Tạng do tỉnh Sơn Đông và
thành phố Thượng Hải góp tiền xây dựng sau ngày Tây Tạng về tay Trung Quốc.
Hoàng hôn Tây Tạng không mềm hoàng hôn
nước Việt, không ướt vàng hoàng hôn Bắc Âu. Hoàng hôn Tây Tạng linh lang ánh
sáng Tôi không thể biết đêm làm sao đến được nơi này khi ngày đã trôi qua nhưng
ánh sạng không chịu già nua. Nắng vàng tươi trong khóe mắt người dân, nắng bừng
lên trên màu áo hồng tía các vị sư tăng, nắng trải rộng trên những đỉnh tuyết
bao quanh thành Shigatse.
Nắng đã làm cho ký ức của tôi rực rỡ
bao nhiêu gương mặt mình đã gặp gỡ và biệt ly, bao nhiêu tấm lòng nuôi dưỡng
tôi lớn rồi bay lang thang vào trời xanh. Shigatse! Hilversum! Hoàng hôn
Shigatse cao 3.900m! Hoàng hôn Hilversum
thấp hơn mức nước biển! Nơi đó, chiều cuối cùng chia tay đất nước Hà Làn, tôi
và Wangdic- người bạn vàng xứ Bhutan nằm bên nhau trên đồng cỏ dại trước mặt
khách sạn Bastion, đếm sao lên sớm trời Bắc Âu.
Wangdi, tay chỉ sao miệng khe khẻ nói như hát: Om mani padme hum!
- Tôi dành cho anh lời nguyện cầu ấy! -
Tôi nhớ ánh mắt thành kính của người bạn Bhutan. Tôi chỉ nhạt nhòa cảm ơn như cảm
ơn bao lời cầu nguyện khác mà người đời dành cho mình.
- Tôi sẽ đến Tây Tạng, sẽ đến Bhutan
thăm anh! Wangdi!
Thật không ngờ câu ước bâng quơ ngày
đó trở thành sự thật! Tôi đang đứng trong hoàng hôn Shigatse và phía sau bóng
sáng mặt trời kia là đất nước Bhutan của Wangdi. Một cánh chim bay, một đường
biên giới rất gần là tôi có thể đặt chân tới Bhutan, tôi sẽ ghé thăm ngôi nhà của
Wangdi nằm trên đồi hoa ngoại ô Thimpu. Tôi sẽ được gặp người vợ không biết chữ
và 3 đứa con gái của Wangdi! Và tôi sẽ nhờ anh giải thích, có phải hôm nay tôi
đến được Tây
Tạng là bởi lời cầu
nguyện của anh rãi đầy lên trời sao hoàng hôn Hilversum. Sao Hilversum xa xăm
ngàn mây, sao Shigatse gần tầm tay hái như hoa đơm áo trời. Trong ánh sáng của
nắng muộn và sao sớm, con người cũng thấy mình là một vì sao soi sáng tâm thức.
chuông Kim Cang là một cặp với Chày Kim Cang. |
11.H1-1
Người đàn Tạng với quả chuông cầu nguyện trên tay
Những ngày sống bên nhau ở vùng
Hilversum, buổi sáng trước khi đến lớp hay đêm về, Wangdi đều cầu nguyện. Trong
căn phòng khách sạn Bastion, tôi ngồi uống từng chuỗi rượu, mắt ngắm nhìn bầy
sóc vàng tha ánh tà dương vào đêm, tai lắng nghe tiếng cầu nguyện lầm rầm bóng
tuyết thì thầm trên mái nhà đêm. Vòng hạt chầm chậm trôi qua mười đầu ngón tay,
hai hàng mi trìu kín đôi mắt, mái tóc khô, khuôn mặt gầy nhỏ giống đất nước
Bhutan lọt thỏm giữa Himalaya và ấn độ bồng bềnh theo những giai điệu trên môi.
Wangdi làm tôi nhớ đến hình ảnh một đạo sỹ hơn người biên tập viên uyên bác nhất
của Đài phát thanh truyền hình Bhutan.
Bánh xe Mani (Kinh luân) |
Người đàn bà Tạng với quả chuông chuyển kinh
Cầu nguyện xong, Wangdi
tươi cười bảo, nhờ chuỗi hạt và lời cầu nguyện, anh vẫn nồng nàn hơi ấm của vợ
con và quê hương
Bhutan. Đích thị vòng hạt
kia là kỷ vật của vợ. Tôi thầm đoán, Wangdi giống người chinh phu, đêm đêm giữa
sa trường, ngồi dưới ánh trăng, ngắm tấm khăn mảnh áo người vợ thêu cho lòng đỡ
cô quạnh vậy.
Nhưng một đêm kia, sau
khi cầu nguyện, tôi nhìn thấy Wangdi tươi sáng lạ kỳ. Anh xúc động:
- Chiều nay tôi gọi điện về Bhutan. Anh
biết tôi nhận được tin gì không - Wangdi đưa hai tay lên ngực - Anh trai tôi vừa
chết cách đây hai ngày rồi!
- Sorry! Wangdi!
- Cảm ơn - Wang di làm tôi giật cả mình
- Chẳng có gì buồn cả. Tôi vừa gặp anh tôi rồi. Anh ấy rất mạnh mẽ và hạnh
phúc. Con gái của anh ấy, vợ chồng tôi sẽ nuôi!
- Anh vừa gặp...?
- Đây, tôi vừa gặp ở đây - Wangdi nâng
vòng hạt lên cao, tay chỉ vào miệng.
Tôi trở lại phòng mình.
Người phóng viên Bhutan, vì quá buồn nên điên hay anh ta là một tay phép thuật
cao siêu. Tôi ném câu hỏi vào ly rượu. Uống cạn nằm chờ bình minh lên.
Hơn một năm qua. Tôi chưa gặp lại
Wangdi. Nhưng tôi đã gặp âm thanh lời cầu nguyện của anh, bay đầy và sáng như
sao trên bầu trời Tây Tạng.
Tôi không thể vượt qua
biên giới để nhờ Wangdi giải thích. Người đàn bà Tây Tạng cũng đã vời xa, chỉ
còn lại trong tôi dòng sữa.
Đôi mắt ngậm chặt bầu vú người đàn bà
Tạng, trái tim nhẫn nại từng nhịp cầu nguyện bí hiểm, tôi trắng đêm Shigatse.
Thế giới sẽ buồn biết
bao nhiêu nếu vắng lời nguyện cầu. Mọi tôn giáo khác gì cây khô mùa hạ khi thiếu
vắng lá hoa cầu nguyện. Cầu nguyện là tiếng nói thừa nhận lòng tôn kính của con
người hướng đến Thượng đế vì như Phúc Âm nói, ban đầu là lời nói, và lời nói ở
bên cạnh Thượng đế; và Thượng đế là lời nói, và lời nói đã làm nên thịt da con
người!
Miền đất nào, tôn giáo nào cũng có lời
cầu nguyện dành riêng cho cõi tâm linh. Tôi cũng có lời nguyện cầu của tôi, rằng
một mai thức dậy, ai đó hãy cho tôi biết lời cầu nguyện cầu của người đàn bà
trong quán Tsangfu trên dãy núi Himalaya, lời cầu nguyện Wangdi trong những đêm
Hilversum hàm chứa những ý nghĩa linh thiêng nào. Tôi muốn biết ngay trên miền
đất đã sinh ra nó.
Lời cầu nguyện của tôi
đã có người lắng nghe!
Không một bậc cao tăng hay đức Phật. Đó chỉ là một con người bình thường. Một lữ khách trên sân tu viện Tashilhunpo.
Tất cả các tu viện, chùa chiền ở Tây tạng
đều có chuông treo trước cổng. Vốn quen âm u minh của những loài chuông xứ Huế,
tôi chờ đợi tiếng ngân nga của chuông Tây Tạng. Nhưng không, chuông Tây Tạng
không phải để gõ, không phải để thức tỉnh trần gian hay âm ty cùng nhau lớn dậy,
chuông Tây Tạng dùng để xoay. Bằng đôi tay, người ta xoay chuông hình dáng như
chiếc thùng rỗng bằng đồng nên người ta gọi chuông ấy là chuông chuyển kinh
thùngmani- tschor-khor.
Mưa nắng và thời gian
đã làm cho hàng chuông trước cổng tu viện Tashilhunpo nhỏ xuống nền đá rặng nước
màu đồng xanh hoen ố bao nhiêu thế kỷ. Nhưng trên thân chuông lại sáng loáng
hàng chữ Tạng bởi dấu vết chuyển xoay của bao nhiêu đôi tay, trong đó có đôi
tay của tôi! Vừa xoay nửa vòng quả chuông đầu tiên, cánh tay tôi đã bị chặn lại!
Một gương mặt dịu ấm hiện ra trên đống
áo lông dê xám. Khuôn mặt ấy mỉm cười với tôi. Người đàn ông Tây Tạng trạc chừng
năm mươi tuổi cầm lấy tay tôi, rồi xoay nhẹ quả chuông theo chiều từ phải sang
trái!
- Anh phải quay theo chiều này mới đúng
- Người đàn ông xa lạ giảng giải - Không nên quay từ trái sang phải. Anh phải
quay từ phải sang trái như trái đất quay quanh mặt trời. Phải quay theo trục
chuyển động của tự nhiên, anh mới hoà điệu cùng vũ trụ!
Theo lời người đàn ông
này, tôi lờ mờ cảm thấy, hàng chuông cổ kính trước mặt mình không đơn thuần là
những quả chuông vàng vang lên âm thanh Phật Pháp.
- Khi đặt tay lên chuông, anh phải đọc
luôn âm đầu tiên của lời niệm chú ghi trên đó! Âm thanh hòa hợp với sự vận chuyển
của quả chuông sẽ tạo ra những sức mạnh mà những người như anh, nếu không biết
đón nhận thì thật là uổng phí! Om mani ped me hum!
Đôi dày lấm bụi. Quần áo cũ nát. Bên
vai đeo túi da dê. Thắt lưng gài cây dao ngắn. Người đàn ông giống thợ săn hơn
là một học giả nhưng lời của ông quá đổi kỳ lạ.
- Om mani padme hum! - Tôi lặp lại lời
ông và xoay chuông.
Một nụ cười thoáng qua
khuôn mặt già.
- Anh bị thần Yi dam đuổi à! Này, nếu có
mười con chó dữ rượt sau lưng anh thì anh phải đọc bằng cả tấm lòng mình. Đọc
chứ không phải là nói. Âm thanh sẽ quở trách ai xem thường nó! - Ngay cả những
âm tiết, người Tạng không đọc thế. Hãy thế này - Người đàn ông bắt đầu ngâm nga
trong cổ - Om Mani Ped Me Hum!
- Om... mani.. pe me hum! - Tôi luống cuống.
- Anh há miệng ra, thu lưỡi về tận cuống
họng rồi bật ra OM. Anh răng hơi khép nhưng phải lộ cho hơi truyền qua rồi ngậm
lại chuyển Pe. Dìm hơi xuống rồi thoát lên Me. Anh kéo dài âm đó như người ta mở
rộng cánh cửa cho linh hồn từ miệng anh bay qua âm Hum đang chờ anh ở cuối cùng
lời chào Châu Báu Trong Hoa Sen này! Người đàn ông nghiêm nghị - Anh phải tập
hàng ngày, cho đến lúc nào anh không nhận ra anh đang đọc từng mẫu tự mà tất cả
là một dòng suối âm thanh, gặp núi cao chảy lên cao, gặp vực sâu thì đổ xoà xuống.
Anh không đọc bằng môi mà anh đọc bằng trái tim, anh mới tôn trọng anh vì âm
thanh là cái của anh nói với thế giới này.
Tây Tạng là một đất nước có nhiều lễ
nghi. Uống một chén trà. Nhận một chén rượu. Nhận một tấm khăn hata chúc phước
lành cũng phải theo nghi lễ. Thậm chí đến nói năng cũng phải tuân thủ phép tắc.
Trong hệ thống phương ngôn Vệ Tạng, Khang và An Đa thuộc hệ Hán Tạng, ngôn ngữ
Tây Tạng tự do không phân biệt danh hay động từ nhưng khi dùng phải theo 3 cách
thức phổ thông, kính trọng và tối kính trọng. Địa vị hai người tương đồng thì
dùng ngôn ngữ phổ thông. Người đối thoại thấp hơn người có địa vị cao thì dùng
kính ngữ. Nếu hai bên quá chênh lệch đẳng cấp phải dùng ngôn ngữ tối kính trọng
nếu không sẽ thất lễ. Khi gặp bậc trưởng bối, người Tạng thường bỏ mũ cầm ở
tay, người cúi xuống khoảng 45 độ để
chào, có khi vừa chắp tay vừa khom lưng hoặc hai tay giơ cao quá đầu biểu thị sự
kính trọng đối với người mình gặp.
Nhưng sự lễ độ với âm
thanh thì lần đầu tiên tôi biết. Âm thanh của ngôn từ ẩn chứa những mật chú
tantra quan trọng vì vậy nó là sự thiền định của Tính Nghe.
Bản thể của vạn vật là đất, bản thể của
đất là nước, cây cối là bản thể của nước, người là bản thể của cây cối và bản
thể của người là lời nói. Lời niệm chú OM MANI PADME HUM là lối vào tâm linh,
lâu đài nội tâm của Tây Tạng. Mỗi âm tự là mỗi khung cửa, khi đọc lên nó sẽ rộng
mở ra những chân trời cho con người được thụ pháp ánh sáng tự nhiên hòa quyện với
ánh sáng tâm trí.
Cánh cửa đầu tiên bước
vào lâu đài tâm linh là vần Om. Trong
Mândukya -Upanisad được chia thành ba
yếu tố phát âm là A. U. M. OM là biểu thức cao nhất của tâm thức: A là tâm thức
thức tỉnh. M là tâm thức ngủ say. U là tâm thức mơ màng. OM là tâm thức vũ trụ,
hàm chứa nhiều biểu tượng siêu hình, là phương thức hỗ trợ tâm lý, là âm toàn vẹn
như Tagore nói, tất cả mọi mặc tưởng của chúng ta trong đạo hạnh đều bắt đầu bằng
vần OM và chấm dứt bằng vần OM. Điều này khiến cho tinh thần tràn đầy linh cảm
về sự hoàn mãn vĩnh cửu. Ma Ni là con đường hợp nhất và đồng hoá vạn hữu. Ma Ni
biểu tượng cho viên ngọc của tinh thần trong sáng, quý giá như giọt thủy ngân
và đá điểm kim, biểu tượng quyền trượng kim cang với tên gọi là ngọc như ý.
Trong các đền đài Tây Tạng, trong các chuông chuyển kinh đều có khảm những hạt
minh châu với ý nghĩa như vậy.
Padme là con đường nẩy
nở của sự thấy biết, là bông hoa sen biểu tượng của sự nảy nở tinh thần.
Hum là con đường thu nhiếp trọn vẹn. Nếu
Om là cái âm sáng tạo mở đầu cái vô biên thì Hum là cái vô biên trong cái hữu hạn,
cái vô thời trong hữu thời, cái vĩnh hằng trong cái khách quan, vô tướng trong
hữu tướng. Om là cửa ngõ của tri thức, Hum là thành tựu viên mãn trong đời mang
âm dâng hiến. Vần “hu” trong phạn ngữ là “hy sinh, dâng hiến một sự hy sinh,
hoàn toàn động tác dâng hiến”. Hum gồm chữ H là hơi thở, là tổng thể của sự sống,
là hoạt khí của bản ngã duới dạng hơi thở. Nguyên âm U là âm của các chiều sâu,
im lặng vô thanh như người Tạng gọi là nó là cửa ngõ của vô thanh.
6
âm biểu tượng cho mandala vĩ đại. Om chứa hình ảnh đức A di đà trong
Pháp thân, ngài đứng giữa trung tâm mandala. Trong Mani, ngài hiện ra dưới hình
thức Vô lượng thọ Phật được trang nghiêm bằng những châu báu màu đỏ sáng ngời
trong Báo thân. Trong Padme, Adida hiện ra trong Hoá thân với sự nảy nở những
hình tướng hoạt động vô tận, như hình ảnh nhân cách hoá Quán Thế Âm có nghìn
cánh tay. Và trong Hum, đức Quán Thế Âm trở thành Thân Kim Cương của nhiệt tâm
bao quát tổng thể của ngài. Hành giả được nâng lên cho đến sự hiện thành nhãn
thân của đức Quán Thế Âm và trở thành Hoá Thân của Adida trong quá trình thiền
định bậc cao.
Nếu hiểu tam mật của Thân, Ngữ, ý thì
câu thần chú lại được biểu thị: trong OM chúng ta cảm nhận Pháp thân và bí mật
của thân phổ biến. Trong Mani là báo thân, bí mật của âm thanh thần chú, khơi dậy
tâm lý chiêm ngưỡng và cảm hứng. Trong Padme là Hoá thân và bí mật của tâm ý biến
đổi tất cả. Trong Hum cảm nhận được thân Kim cang là thân siêu việt tổng hợp
tam mật. Sáu âm của câu thần chú ứng với 6 cõi sống. Khi đọc OM là lúc tâm trí
hướng đến cửa Trời để giải thoát. MA là hướng về cõi Atula, có những chúng sanh
đang vướng bận trong chiến đấu, trong sự thèm muốn ghen tỵ. Ni là cõi người bị
giam tù trong ảo tưởng tự ngã tối cao. Pa hướng về cõi súc sinh trì độn trong
bóng tối. DME hướng về ngạ quỷ, với những linh hồn khổ đau vĩnh viễn đói khát
và Hum hướng đến tất cả chúng sanh đang rên xiết trong địa ngục. Như vậy OM
MANI PADME HUM chứa đựng sự cứu độ, mến thương và con đường giải thoát.
Nhờ đọc lên 6 vần
thiêng ấy mà trong trái tim con người hiện ra hình tướng sáng trong của các đấng
từ bi. Khả ái thay âm thanh bí mật của đức Quán Thế Âm, ở thế giới bên kia! Đó
là giọng điệu căn bản của tổng thể. Nó giống tiếng rì rào đã dịu bớt của biển cả
- Kinh Thủ lăng nghiêm nói - Cái âm thanh bí mật ấy đem lại sự giải thoát và sự
yên lòng cho tất cả chúng sinh đang kêu cứu, trong phút nguy khốn của họ, nó
cho biết một cảm giác lâu dài đối với những ai thành thật tìm kiếm sự yên vui của
Niết Bàn!
Người ta dễ nhầm lẫn,
phía sau một câu thần chú là một kho vàng nên ai cũng muốn mình trở thành
Alibaba! Người Tây Tạng không muốn mình là Alibaba bởi kho tàng thực sự của họ
chính là “cái giọng điệu căn bản của thực tại vang lên như hàng ngàn tiếng sấm
thì sự việc có thể xảy ra là: nó được biến đổi thành giai điệu sáu vẫn như Padmasambhava
giáo huấn trong Bardo Thodol.
Thực tại, chính là đời
sống và người Tây Tạng cảm thụ nó trái tim, bằng tất cả tấm lòng thành, ý thức
và trách nhiệm với bản thân mình và đồng loại. Giai điệu sáu vần ấy là đứa con
sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa ý thức và vô thức, giữa lý trí và tâm linh vì vậy
nó hàm chứa yếu tố tâm lý chứ không phải là những âm thanh vật lý nhảy múa trên
môi. Người Tây Tạng nghe nó bằng trái tim, đọc nó bằng tinh thần quán tưởng miệt
mài để hiện thực hóa một thế giới mà mình hằng vươn đến bằng hành động và cảm
nhận trực giác trong từng sát na như bản nhạc miên viễn.
Một nhà thơ, bằng tinh thần tiên tri
thấu thị, khi sáng tạo ra một âm từ là sáng tạo ra một thế giới có thể trông thấy
trong lời và âm thanh. Nhưng ngôn từ và tiết vận của thơ chỉ tạo ra thế giới
tinh thần trong sự tự do của tinh thần, con người có thể lĩnh hội được còn âm
nhạc lại vượt qua ý nghĩa ngôn từ, nó là nghe bằng trái tim, cảm nhận tận gốc rễ
cội nguồn âm thanh để hòa mình vào cõi vô biên như Novalis từng hát.
Tất cả cái thấy được là
do cái không thấy được.
Tất cả cái nghe được là
do cái không nghe được.
Novalis rất có lý bởi từ Shigatse, tôi
đã hiểu vì sao một người đồng hương của ông, dù bị điếc nhưng vẫn nghe và hiến
dâng cho nhân loại những bản giao hưởng hoành tráng! Beethoven! Ông đã thấy những
âm thanh bằng con mắt của trái tim, ông đã cảm nhận thấu đáo chiều kích hữu
hình và vô hình của âm thanh - một thế giới ta có thể nắm bắt nhưng không thể
trú ngụ mà chỉ có thể tiếp cận những extase mystique - cảm xúc thần bí với sự
hoài cảm và tưởng tượng mênh mông khôn lường!
Như vậy, câu thần chú hay âm nhạc mà bản
thể của nó là âm thanh trở thành một diệu pháp tâm lý sâu sắc, một phương tiện
chuyển tải và liên kết thế giới trong vòng tay của từng cá thể. Đó chính là sức
mạnh đầy uy lực của sáu vần OM MANI PADME HUM, sức mạnh huyền ảo như sấm có thể
xé toang bầu trời nhưng sấm cũng sẵn sàng bò trong thân xác đàn kiến, báo cho
loài côn trung kia biết mưa sắp về. Với ý nghĩa ấy tôi đã hiểu vì sao trên rẻo
cao đỉnh đèo mây trắng, trước thềm cổng tu viện và ngay cả trên giường chiếu,
hiếm khi người Tây Tạng rời bỏ câu kinh OM MANI PADME HUM.
Tri thức xuất hiện
không phải ở sự nhìn thấy mà còn biểu lộ từ sự nghe thấy. Âm thanh là ánh sáng
của thính giác - như sách Kim Hoa nói - của tất cả muôn loài.
Khi bay lên bầu trời theo hình chữ V,
con sếu đầu đàn được tiếp sức bởi “âm thanh động viên” của những con chim đồng
đội bay theo sau nên nó đã vượt qua những chân trời mỏi, dẫn dắt cả đoàn về nơi
trú ẩn an toàn. Dưới sông Amazon bầy cá pexkada có âm thanh như tiếng súng, cá
mandim lại gầm gừ xua đuổi kẻ thù, trên rừng có loài khỉ orangutang đực thích
hát, chúng hát bằng âm thanh đầy cảm xúc của loài khỉ. Bao nhiêu động vật có bấy
nhiêu âm thanh, mỗi loài sử dụng một cách khác nhau để truyền tải thông tin.
“Nhà hùng biện, ca sỹ, hoặc nhạc sỹ bằng âm thanh đa dạng hoặc bằng làn điệu của
giọng nói gợi lên niềm cảm xúc mãnh liệt ở các thính giả, và chắc chắn không ngờ
rằng trong thời đại xa xưa tổ tiên chưa thành người của họ cũng sử sụng những
phương tiện như thế để gợi lên ở đồng loại niềm say đắm trong thời gian kết
thân hoặc tranh tài”.
Hiểu theo lời Dacuyn, trong âm thanh vốn
sẵn có một sức mạnh cảm xúc tự nhiên, vấn đề là chúng ta phải biết sử dụng nó một
cách hữu hiệu để âm thanh trở thành phương tiện giao tiếp và cao hơn, nó còn tạo
ra sự liên lạc cảm xúc mãnh liệt giữa nội tâm và tự nhiên, giữa cá thể và đại
thể, hữu hình và vô hình, vật chất và tinh thần.
Lời niệm chú lao xao ánh nắng, khuôn mặt
khiêm nhẫn, những người dân Tây Tạng dường như đang đối thoại với thiên không,
nơi các vị chư thiên đang ngắm nhìn cho nhân loại! Người ta quay
mani-tschor-khor và cầu niệm không phải cầu nguyện đấng chư thiên vô hình nào
đó ban hồng phúc cho họ mà chính hành động xoay bánh xe theo chiều quay của vũ
trụ ấy là một hành động khơi gợi ý thức thiêng liêng trong bản thân. Khi vận
hành mani-tschorkhor nghĩa là đưa vào vận hành các sức mạnh của quy luật vũ trụ
và đạo lý như hơn 2500 trước, Phật đã quý bánh xe Pháp! Vì vậy cấu tạo quả
chuông của Tây Tạng giống như bánh xe Phổ Pháp. Càng siêu việt và gần gũi hơn
khi người Tạng quan niệm, hành động chuyển pháp này một mình Phật làm chưa đầy
đủ nên mỗi người phải tự mình sáng tạo cách thức giác ngộ trong tâm linh của
chính mình.
Một góc tu viện Tashilhunpo
Quả chuông con trong
tay người Tây Tạng hiển thị cái nhìn từ thế giới kim cương, thế giới của bề
ngoài tan biến như âm thanh. Nó đối lập với vajra sấm sét - yếu tố hàm chứa chủ
động và nam tính, nó cũng là sự khôn ngoan đối lập với phương pháp như là yếu tố
thụ động và nữ tính.
Người Tạng cầm chuông
chuyển kinh trong mọi tư thế. Trước các đền đài, các phật tử nằm lăn lóc cầu
nguyện với chuông cầu nguyện trên tay. Người ta nằm lăn lóc tượng trưng cho việc
kinh qua trạng thái yên nghỉ khi chết, từ đó sinh ra và được tái tạo để cường
tráng đứng lên. Nó gợi nhớ cho ta huyền thoại chết và sống lại trong luận thuyết
luân hồi.
Trước cung Potala, cách xa một khoảng
sân rất rộng, tôi vẫn nhìn thấy những người Tạng nằm lăn lóc, mắt hướng về hai
tòa Bạch cung và Hồng cung để cầu nguyện. Tôi cũng thấy, trên bãi cỏ rộng nắng
chiều, có hai lama nằm ngủ yên bình như hai đốm đỏ dịu dàng! Trong giấc ngủ,
khuôn môi họ vẫn thức với sáu vần câu niệm chú. Cảm giác ở Tây Tạng, không bao
giờ có sự tĩnh lặng tuyệt đối vì trong không gian, tôi vẫn nghe tiếng linh hồn
bay lao xao!
Ôi nhân loại có hề biết, cuộc sống
mình đang được bảo toàn nhờ những câu thần chú kiên trì vang lên từ tấm thân
quê mình lăn lóc trong gió tuyết Himalaya. Một mai đây chiến tranh không còn, nạn
đói cũng lùi xa, có ai biết mà lên Himalaya dâng lời cảm ơn như tôi đang cảm ơn
người đàn ông Tây Tạng xa lạ trên nền sân tu viện Tashilhunpo.
Nhưng nhân loại tôi ơi, câu niệm chú
huyền nhiệm như vậy sao không cứu nổi Tây Tạng để hôm nay Himalaya phải ngậm đắng
nuốt cay nhìn những đứa con mộc mạc của mình đang nguy cơ tàn phai tâm linh.
Thay vì quán tưởng người ta lại xem các vị thần hiền hòa và giận dữ qua ti vi,
thay vì nghe âm thanh phát ra từ trái tim và nhịp chuyển vũ trụ, người ta nghe
di động trên đường phố Lhasa! Thay vì cầm que gỗ gặt từng âm kinh vào lòng, bọn
trẻ nói tiếng Anh như gió để mua bán trên phố Bát Giác. Thiếu nữ Tạng bây giờ
đã biết lái xe tacxi trong bộ âu phục, chẳng còn đâu cái thuở tụt áo xuống mông
cho thân hình tắm nắng! Câu niệm chú không mang Yarlung Tsangshe ra khỏi nhà thổ,
không mang đến một bãi đất trống thanh tịnh cho con kiến già Rigpaba thi triển
tục điểu táng!
- Đất nước nào cũng có nghiệp quả của
mình. Tây Tạng hôm nay cũng vậy - Người đàn ông trả lời tôi - Một văn minh sáng
chói thì phải có nghiệp quả nặng nề! Cũng thường thôi anh bạn. Ngay như giáo lý
của đức Phật Bonpo cũng chỉ có giá trị 30.000 năm! 18.000 năm đã qua, 12.000
năm nữa, giáo lý ngài sẽ là quá khứ. Không phải tôi, chính ngài đã nói như vậy
trong buổi đầu giảng kinh ở Omin Lung Ring! Mọi cái rồi cũng bị hủy diệt, mọi
cái sẽ tái sinh. Tây Tạng sẽ chết nhưng Tây Tạng sẽ tái sinh trên mảnh đất của
chính nó, mảnh đất màu mỡ tâm linh nhờ những câu niệm chú rầm rì khắp nơi.
Không chuẩn bị đất đai và giống, làm sao anh có cây xanh sau này!
Mùi thuốc lá nồng trộn
mùi bơ. Mùi rượu hăng tsampa hòa lẫn mùi mồ hôi tuyết. Người đàn ông xoay quả
chuông cuối cùng nói lời chia tay cuối cùng với tôi, đứa học trò bất chợt ông
chỉ giáo. Và xin mọi người hãy nén cảm xúc để lắng nghe lời chia tay chấn động
này.
- Ai trong mình cũng có một cõi tâm
linh. Và câu niệm chú là sự thức tỉnh thường xuyên cõi sống yêu thương đó. Bởi
anh và ta, chưa đủ trình độ như các bậc tiền nhân-những-con-người-tối-mậtSamapatti-đang-sống-trên-dãy-Himalaya!
Nếu không vịn vào hàng
chuông, tôi đã ngã xuống nền đá Tashilhunpo! Người đàn ông xa lạ, biết đâu ông
chính là người đặc biệt được người Lêmuri và Atlan chọn lựa canh giữ những hang
động Samapatti khu trú ở một bản làng xa xôi nào đó trên dãy Himalaya!
Tôi lục tung túi xanh,
quờ quạng lấy cuốn sổ tay, lật trang giấy giở ra hình đôi mắt Phật mà tôi đã vẽ
trong khi đàm đạo với vị Lama trên mái chùa Đại Chiêu.
Chúng tôi im lặng. Giữa
chúng tôi là những đôi mắt Phật khác thường lung linh nắng vàng.
- Om mani pedme hum! - Tôi thì thào.
- Om Ah Hung Benzaa Guru Péma Siddhi
Hung! - Người đàn ông thì thào.
- Om Mani Padme Hong! - Chen vào chúng
tôi là giọng Hong reo lên - Hải thấy
chưa, là Hong, là Hung chứ không phải Hum đâu nhé !
Người đàn ông lại cười
mỉm cười. Ông không ngờ cái câu niệm chú quán tưởng đến Guru Padmasambhava lại
được Hong hiểu là phép mầu nhiệm có tên của Hong!
Biết đâu khi đưa tên
mình vào Hong sẽ thấy tâm lý thăng bằng hơn. Nhưng chỉ vì cá nhân mình, có lẽ
câu thần chú kia sẽ không tồn tại. Mong sao có nhiều người hồn nhiên như Hong
cho Tây Tạng bình yên.
Câu niệm chú, đã dẫn dắt tôi đi qua một
cõi tâm linh của Tây Tạng. Nó không phải là sự thần bí chỉ dành riêng cho những
câu chuyện cổ tích, nó là phép biện chứng của âm thanh, là phương tiện cho con
người nhận dạng không gian mình và biết đặt lời của mình vào nơi đâu trên hành
trình từ sống tới chết. Lời khấn lặp đi lặp lại, chuyển động cùng bánh xe quay
theo vòng quay vũ trụ trên tay đã tạo thành phương pháp yoga của âm thanh trong
phái Yogachra-Du Già Hạnh mà cơ sở triết học của nó là Duy thức học tồn tại từ
500 năm trước công nguyên cho đến ngày hôm nay, kể từ ngày nhà sư Asanga -Vô
Trước sáng lập ở Gandara nay là bang Peshawar của ấn độ.
Người đàn bà trong quán
Tsangfu. Đích thị bà là một đệ tử của Vô Thước đại sư, một Yoginis - nữ hành giả
Du già luyện thành công phép yoga âm thanh nếu không làm sao bà có thể cấy lại
mầm xanh lên thân thể và tâm hồn tôi bằng tiếng nói như hát của Om mani padme
hum!
Pythagore: Âm thanh
phát ra từ đồng là tiếng nói của ma sống trong đó!
Oken: Cái kêu lên cho
thấy con ma của nó!
Padma Sambhava: Đại giải
thoát bởi tính Nghe!
Tôi không sống vào thời
đại Hyppocrat để nghe tiếng nói trong bụng của những nhà tiên tri. Tôi, một người
Việt, tháng 9 năm 2003, trên sân tu viện Tashilunpo 5000m, và nghe tiếng hát
thơm tho 40 triệu năm mẫn cảm Tây Tạng vang lên trong sáu vần vì con mắt của
trái tim và đôi môi đã “làm cho những quan hệ hoá đá ấy nhảy múa lên bằng hát
cho chúng nghe chính giai điệu riêng của chúng”.
Người đã làm cho những quan hệ hoá đá
phải hát lên, không phải tôi, không phải nhà yoga Tây Tạng nào, chính Karl Marx
- người thầy của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã hát như thế về ngôn ngữ và hiệu
quả âm thanh của nó. Đừng tưởng người Đức lạnh lùng, bởi tôn trọng giá trị huyền
diệu của âm thanh, Novalis, Rilker, Nietzsche, Beethoven và Marx đã làm nên nước
Đức khúc chiết luận lý triết học, nước Đức thăng hoa âm nhạc. Và tư tưởng của họ,
nhân loại vẫn đang đọc và quán tưởng hàng ngày trên nhiều lãnh thổ!
Wangdi, tôi không vượt qua hoàng hôn Shigatse để đến Bhutan thăm anh nhưng tôi tin chúng ta, sẽ thấy nhau như hôm nào anh đã thấy linh hồn anh trai bằng con mắt trái tim trong sáu vần âm thanh niệm chú. Bởi âm thanh đã tạo nên đức tính thiên thần trong con người trần gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét