Đặng Thân viết về Nguyễn Huy Thiệp (trên Tiền Vệ)
Đôi giòng:
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn rất nổi tiếng ở Việt Nam (và
cả ở hải ngoại). Nhiều người đọc truyện của ông bị lôi cuốn bởi cái không khí
quay quắt, ma mị, lời văn sống sượng, phũ phàng,…Những truyện ngắn đầu tiên của
ông trên báo Văn Nghệ (VN) bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ gọi là ‘Đổi Mới’ ở VN.
Bài dưới đây của Đặng Thân trên Tiền Vệ là một bài đặc biệt
viết về Nguyễn Huy Thiệp,và một số khiá cạnh liên quan đến nhà văn và tác phẩm
của ông.
HÌNH NHƯ LÀ “CỞI QUẦN”
Xuân đã về, hoa nở khắp
nơi. “Này hoa ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng như thế không?” Đã có
nhiều người đi tìm “hoa ban” bao quản gian nan sau khi Nguyễn Huy Thiệp tung ra
cái câu hỏa mù nghe như có giọng bùa chú ấy. Có kẻ đi rất xa mà chẳng thấy, có
người (như “núi vàng” Nguyễn Hoàng Sơn) ở Hà Nội bảo đã gặp ở Gia Lâm – ngay
bên kia cầu Chương Dương – việc gì phải đi đâu xa mà tìm cho mệt. Ô, người ta
đã làm gì mà phải đi tìm? Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên còn chủ sự cả tập Đi
tìm Nguyễn Huy Thiệp nữa, trong đó ta gặp rất nhiều tiếng nói và những tên tuổi
uy thế như Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Anh Đào, T. L. Filimonova, Greg Lockhart, Lại
Nguyên Ân, Đỗ Văn Khang, Văn Tâm, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Vy Khanh, Vương Trí
Nhàn, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Đức Hiểu,… Viết về anh còn có sự góp mặt đầy tinh thần
và trách nhiệm của những người xa tổ quốc như Trương Hồng Quang, Thụy Khuê hay
Đoàn Cầm Thi; và cũng không thể bỏ qua tiếng nói của Dương Thu Hương. Sơ sơ như
thế đã thấy đây là nhân vật gây ra nhiều hứng thú và mệt mỏi cho văn học.
Tuy mới 20 năm nhưng những năm tháng ấy khác bây giờ xa lắm. Mọi người đều đói, có nhiều nguồn tin là đã có nhiều người chết đói, chính tôi cũng đã có lúc nhịn đói một tuần (nhưng báo Văn nghệ thì bán chạy hơn bây giờ nhiều). Chiến tranh lớn đã qua đi cả thập kỷ nhưng mọi người vẫn phải nghe hàng ngày những từ ngữ đầy khí thế như từ “nắp hầm” trong mỗi bữa ăn, những đôi mắt người “mang hình viên đạn”, “kẻ thù giai cấp”, “âm mưu xâm lược”, “đời người là một khúc quân hành”, cùng những lời hứa hẹn và khích động phát hàng ngày trên loa phóng thanh rải khắp các phường xóm. 10 năm hậu chiến làm được nhiều chuyện mà trước đó hàng mấy chục năm trường không ai tưởng tượng nổi. Con người tha hóa khủng khiếp. Trộm cắp và “trấn lột” (từ này chính thức được phổ biến trong thời kỳ này) như rươi, người ngay sợ kẻ gian. Tất cả hầu như chỉ nghĩ đến tiền và đau khổ vì tiền, sẵn sàng vì tiền mà bất chấp mọi thứ gì liên quan đến tình người. Hàng triệu người lên thuyền di tản đi tìm cuộc sống khác. Cuộc tổng khủng hoảng về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội và con người hậu chiến đã lên đến cực điểm. Vì thế “Đổi Mới” đã là chuyện không thể khác đi, có thể nói “đổi mới hay là chết”. Nghe hai tiếng “đổi mới” có vẻ hoành tráng thật thế nhưng hành động cụ thể lại thường là những việc quá cũ. “Khoán sản phẩm” trong nông nghiệp chẳng hạn. Trước đó mấy chục năm ông Kim Ngọc – một Bí thư Tỉnh ủy – đã bị ông Trường Chinh (các nhà sử học đã xác minh ông thuộc dòng dõi Trần Hưng Đạo!) kỉ luật cách chức vì thực hiện nó trước đấy. Sau khi thực hiện trở lại, nghe nói các cán bộ miền Nam đã không ngần ngại hỏi ông Trường Chinh về chuyện này thì được trả lời ngay: khi đó anh Kim Ngọc đúng, tôi sai. Và chỉ có vậy. Câu chuyện làm ta nhớ Trần Khánh Dư: “chúng ta là chim ưng, dân chúng là vịt trời; con chim ưng ăn thịt con vịt trời là lẽ thường tình.”
Sau một màn “cởi” ngoạn mục đưa anh lên tầm thời đại, Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành hiện tượng quan trọng vào bậc nhất của văn học “Đổi Mới”. Sau “Tướng về hưu” là sự xuất bản một loạt những “Tâm hồn mẹ”, “Huyền thoại phố phường”, “Giọt máu”, “Muối của rừng”, “Không có vua”, “Những người thợ xẻ”, “Những bài học nông thôn”, “Thương nhớ đồng quê”, “Sang sông”, “Chút thoáng Xuân Hương”, “Mưa”, “Nguyễn Thị Lộ”, “Trương Chi”,… mà truyện nào cũng đặc sắc, hình như là đủ đưa anh lên tầm quốc tế. Thế nhưng những truyện được ghi nhận sâu sắc và gây bàn cãi nhất chính là chùm truyện Con gái thủy thần, ba truyện có đề tài lịch sử “Kiếm sắc”, “Vàng lửa”, “Phẩm tiết” và tập truyện núi rừng Những ngọn gió Hua Tát. Nhà văn Hồ Anh Thái thích nhất Con gái thủy thần vì nó dân dã, nó ma quái, nó ám ảnh, nhưng đến phần ba thì anh lại thấy chán ngắt vì Thiệp đã cất cái giọng “nhà quê” lên mà dạy đời. Chùm truyện đề tài lịch sử gây tranh luận ầm ĩ nhất vì nhiều người không hiểu anh định nói gì, chỉ biết là đọc thấy rất lạ rất hút; rất nhiều ông bảo Thiệp bôi nhọ lịch sử, thóa mạ anh hùng hay so sánh quyền lực chính trị với nghệ thuật. Có một nhà văn hóa amateur nghe nhiều những câu như thế đã nóng tiết: “Các ông câm mẹ nó hết đi! Thực ra Thiệp muốn nói lên cái câu của các cụ: Anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường.” Những câu chuyện về cái đề tài này cho đến nay vẫn chưa chấm dứt. Còn rất đông người đã thích mê mẩn Những ngọn gió Hua Tát có lẽ vì cái không gian huyền thoại lãng mạn classique hơn cả classicisme của chúng. Đánh giá cả một sự nghiệp có chừng ấy không khỏi có phần sơ suất, hy vọng sẽ có những luận văn tiến sĩ văn chương bàn sâu hơn, chi tiết hơn cho thỏa lòng yêu Thiệp (và ghét Thiệp) của mọi người.
Một góc sân nhà Nguyễn Huy Thiệp với bức tượng Phật do ông làm cùng nhà điêu khắc Nguyễn Hồng Hải.
Ngày khánh thành pho tượng Phật của anh, anh mời tôi đến đánh chén. Anh hỏi tôi khi đứng ngắm pho tượng: “Anh thấy mặt tượng giống nam hay giống nữ?”. Tôi nói, giống nữ. Thiệp bảo: “Thế là nam tính của anh mạnh. Nếu thấy giống nam là nữ tính mạnh” (Có người lại thấy giống Phạm Thị Hoài). (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)
Truyện anh viết được
in khắp nơi trong và ngoài nước. Anh đi nói chuyện. Anh đi nước ngoài. Anh cho
đắp tượng Phật ngay giữa vườn nhà như thể một điểm níu kéo cho đức tin của
mình. Không biết anh có hay rằng chính Phật cũng không ưa các loại tượng thần,
cho đó là nơi cư ngụ của quỷ dữ. Ở Hà Nội cũng có một người khác đắp tượng Phật
giữa một khuôn viên rộng hàng vạn mét vuông đất nội thành, đó là Nguyễn Bảo
Sinh (có biệt danh Sinh “chó” – ghi danh một cái nghề khét tiếng của anh). Tượng
của Nguyễn Bảo Sinh là tượng Phật Bà Quan Âm đứng ôm bình bồ liễu nhưng lại
theo tỷ lệ 1/6 của Hy Lạp. Anh còn tạc cả thầy trò Đường Tăng để nêu cái ngũ đức
Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín. Sau anh khiêm tốn tạc tượng mình nhỏ nhoi com-lê ca-vát
sau tượng Phật Bà nhưng đứng trên quả địa cầu. Vì thế mà trong dân gian có câu
vui vui:
Bảo Sinh đứng trên quả địa cầu
Sủa gâu gâu
Bảo Sinh có nhiều tài, lại hay thơ. Anh tự gọi thơ mình là “huyền thi” với “những câu thơ đi tắt đón đầu thẳng vào ý thơ mà bỏ qua mọi nhạc tính hay tu từ”. Thiệp thích thơ Sinh nên cũng hay trích “huyền thi” vào truyện của mình, lại còn mang sang đọc bên Mỹ. Nghe nói hai người rất thân nhau, và Nguyễn Huy Thiệp đã có bài giới thiệu Sinh trên báo, gọi anh là “nhà thơ dân gian”.
Nguyễn Huy Thiệp còn có công giới thiệu nhiều người viết khác đến với công chúng.
Đáng nể nhất là anh có nhiều bài viết về thi sỹ đồng quê Đồng Đức Bốn, bạn chí thiết của anh. Anh lăng-xê Bốn bằng một luận đề về thơ và nhà thơ:
Trong thơ ranh giới chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp rất khó xác định. Thơ dân chủ và… bao la đến nỗi có lần nhà văn Phạm Thị Hoài (vốn hóm hỉnh) từng mơ đến việc ra đời nước cộng hòa của các nhà thơ(!). Trong lịch sử Phật giáo đã xảy ra việc chia ra hai môn phái Bắc tông (Thần Tú) và Nam tông (Huệ Năng). Môn phái Bắc tông gọi là tiệm ngộ (giác ngộ dần dần) có phần coi trọng sự học hành kinh điển và tổ chức. Môn phái Nam tông gọi là đốn ngộ (giác ngộ tức khắc) có phần coi trọng trực giác nhiều hơn. Thực ra, hai môn phái ấy đều chung một thầy, đều thờ Phật, đều cùng mục đích hoằng dương Phật pháp. Xét về mặt nào đấy, trong thơ cũng có thể chia ra hai môn phái tiệm ngộ (trí năng) và đốn ngộ (trực năng). Chế Lan Viên, Bằng Việt, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Hoàng Trần Cương v.v… là trí năng chăng? Nguyễn Bính, Bùi Giáng, Đồng Đức Bốn v.v… là trực năng chăng?
Anh có cái lý của
anh, hình như là một nhà tư tưởng theo hướng Duy tâm chủ quan. Tuy nhiên, tôi lại
thấy thích cái quan niệm mà anh mới phát biểu vào ngày cuối cùng của năm ngoái
(xin hãy bỏ qua cái lỗi nhỏ về toán học của người viết văn):
Thú thực, tôi rất mong thơ ca tĩnh lặng. Tôi đã có lần nói về ba loại nhà thơ: loại 1 là của những người trẻ (những trai tân, gái tân), những thiên thần, số này chiếm tỷ lệ 0,1%. Loại 2 là “thi ngôn chí”: thơ nói ra cái chí của con người (chí tình, chí nghĩa, chí anh hùng…), số này chiếm tỷ lệ 0,1%. Còn lại 98% chỉ toàn là thơ nhảm nhí, thơ tuyên truyền, thơ về hưu, thơ thù tạc, thơ tán tỉnh, không ra gì, tĩnh lặng là phải, im miệng là phải.
Đầu Xuân Tân Tị 2001,
anh viết về Bốn:
Đồng Đức Bốn xuất hiện trong làng thơ Việt Nam khoảng 10 năm nay, viết chừng 80 bài thơ, trong đó có tới trên dưới 15 bài thơ được khách sành văn chương xếp vào loại cực hay, tài tử vô địch! Còn lại, thực ra nhiều bài cũng chẳng ra gì.
Lại còn kết luận một
câu chết người:
Tiếc cho Đồng Đức Bốn đọc không nhiều sách, không chịu học hành, đôi khi bừa bãi ngông cuồng, lại không biết viết (anh thường làm thơ trong đầu rồi đọc cho người khác chép), vốn từ vựng có lẽ chỉ ngót nghét có… 600 từ! Nếu không, chúng ta đã có một nhà thơ chân quê hạng nhất!
Xuân Quý Mùi 2003 anh
lại có bài viết về Bốn, nghe đồn lần này là viết theo đơn đặt hàng nên bài viết
rất có “khí”. Nhưng những bài hay nhất của anh về Bốn là vào hồi năm ngoái khi
Bốn mắc bạo bệnh với những cái title thế này: “Một nhân vật hoang đường”, “Một
người bạn hiếm có”… với một câu hết sức ấn tượng:
Thiệp còn viết truyện
“Đưa sáo sang sông” đến hai lần để đưa Bốn vào làm nhân vật. Yêu nhau đến thế
được sao? Tình bạn duo ấy cũng đã để lại cho mọi người những ý tượng lạ lẫm,
đáng yêu, đáng trọng về thơ.
Những luận điểm của
Thiệp luôn gây hấn. Lúc nào anh cũng muốn “lột truồng” mọi bộ mặt, mọi ngụy tạo,
mọi trò hề để đi thẳng vào bản chất mọi vấn đề. Kịch điểm là vụ “Hoa thủy tiên”
đầu năm 2004 (Xin xem thêm bài “Mơ” trên talawas 30.6.2004). Nhưng xin hãy xem
kỹ, những gì anh viết đều có sự tiếp cận chân lý đến hết mình.
“Vợ người thì đẹp. Vợ
mình lại tử tế.”
“Đàn bà rất thích những
ngôi nhà có cửa sổ rộng.”
“Đàn bà là giống phản
trắc, đàn ông là giống đểu cáng.”
“Làm thằng đàn ông đừng
nên xấu hổ vì có con buồi.”
…
Nguyễn Huy Thiệp có
bài viết bảo nhà văn Nguyễn Việt Hà có mỗi cái giọng “túy quyền”. Thế thì Thiệp
còn phải nói là có cái giọng bùa ngải và thuốc phiện. Ta hãy đọc lại những
“Mưa”, “Món hạc quay”, nhất là “Không khóc ở California” sẽ thấy cái luận điệu
quay quắt, phiêu linh, nhạt mờ không thời gian, chỉ còn những hiệu ứng văn
chương quay cuồng trong trí não người đọc.
Để kết thúc bài viết nhỏ nhẹ về một Nguyễn Huy Thiệp “cởi quần” để “đổi mới” xin được nhắc tới một thành quả văn học có tính độc sáng của người “cởi quần” mà không ai có thể quên được: anh là người đầu tiên văng cứt vào văn học Việt Nam một cách trắng trợn, hiệu quả và day dứt nhất. Từ “Trương Chi”, “Phẩm tiết” cho đến “Còn mãi một tình yêu” hay “Chuyện ông Móng”…, cứt hiện lên với mọi hình thái cao quý, hiên ngang, phũ phàng, bộc trực, chân thực, phản kháng, khủng bố và đầy nhân tính của nó. Chính nhờ thế mà anh có một hỗn danh vinh dự có nhẽ còn hơn cả Huân chương Sao vàng mà hình như phải là người thấu hiểu Phật tính mới dám nhận – nhiều người gọi anh là Thiệp “cứt”.[1] Phải chăng đó chính là nền tảng cho tuyên ngôn bất hủ của anh về sáng tạo văn chương:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét