Mùi
Hương Trầm
Nguyễn Tường Bách
"Mùi hương trầm" là ký sự du hành tại Ấn Độ, Trung
Quốc và Tây Tạng của tác giả TS. Nguyễn Tường Bách. Tác giả vừa là nhà khoa học
(tiến sĩ Vật lý tại Đức) vừa là một doanh nhân, vừa là một Phật tử mộ đạo. Vì vậy
được hành qua các địa danh lịch sử của Phật giáo làm niềm mơ ước của tác giả.
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời
nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của
ông về thế giới hiện đại.
Có thể nói "Mùi hương trầm" là một quyển sách hay,
nhẹ nhàng giúp độc giả cảm thấy thư thái và như cùng được tác giả lãng du qua
những miền đất thánh của đạo Phật.
(Trích phần viết về Trung Quốc)
PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT
Chương
12: Ánh Sáng Đến Từ Phương Tây
Dưới cánh máy bay là một vùng sa
mạc trắng xóa. Máy bay tôi đi đang bay từ phía tây đến Trung Quốc, vùng đó
chính là sa mạc Gobi mênh mông. Trong vùng đất tưởng như không người đó có một
con đường nhỏ được thiết lập từ đầu công nguyên, đó là một trục lộ mệnh danh là
"Con đường tơ lụa".
Đó là một con đường của thương
nhân nối liền đông tây hai phía. Nhưng tại sao là "tơ lụa"? Người
Trung Quốc có hân hạnh là kẻ đầu tiên tìm ra phép trồng dâu nuôi tằm lấy lụa từ
thế kỷ thứ ba trước công nguyên và xuất khẩu món hàng mượt mà này qua phía tây
cho các bà mệnh phụ vùng Địa Trung Hải.
Con đường tơ lụa được xây dựng
khoảng trong thế kỷ thứ nhất, bắt đầu tại Trường An. Tại Trung Quốc thì nó được
nối thêm đến Bắc Kinh và Thành Đô còn về phía tây thì nó chạy ngang Lan Châu,
Vũ Uy, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, Ngọc Môn quan. Sau Ngọc Môn thì nó chia làm hai đường
nam bắc mà người Trung Quốc gọi là bắc Tây Vực và nam Tây Vực. Đường phía bắc
chạy ngang Turfan, Korla, Kutscha. Đường phía nam chạy qua Charchan, Chotan.
Hai đường nam bắc rẻ ra nhằm tránh sa mạc Takla Makan, lại gặp nhau tại
Kaschgar (Sơ Lặc), ngày nay nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Đặc biệt con đường
phía nam có một nhánh đi về phía nam hướng Ấn Độ. Đó là một nhánh đường thú vị
sẽ nói đến sau. Sau đó đường lại chạy qua Tadschikistan, Kasachstan, Usbekistan
để đến Merv (ngày nay thuộc nước Turkmenian) và chạy về hướng Iran, Irak,
Syrie, cho đến Địa Trung hải.
Thương lái đường dài ngày xưa đi
từ Trung Quốc, mang theo tơ lụa đi bán và mang về lại hột giống, hương liệu, đá
quí và cả ngựa từ Á-rập. Họ đi một chuyến như thế mất đến sáu tới tám năm mới về
đến nhà. Trên đường về nhà họ còn mang một vài thứ kỳ lạ, trong đó có kinh
sách, nói về Phật giáo, Hồi giáo…
Khoảng suốt mười thế kỷ sau công
nguyên, con đường tơ lụa này bị chiến tranh của các nước Bắc Á đe dọa nên mất
vai trò quan trọng nhưng đến thời Mông Cổ trong thế kỷ 12, 13 nó lại được phục
hồi nên Marco Polo mới đi được từ Venedig đến Trung Quốc trong thế kỷ 13.
Trên con đường tơ lụa đầy hiểm
nguy đó không phải chỉ có thương nhân và kẻ thám hiểm mà còn có một số người
khác mà Trung Quốc gọi là "Phạm Tăng". Ngày nay lịch sử truyền bá Phật
giáo từ Ấn Độ qua Trung Quốc đã nằm trong bóng tối của lịch sử, nhưng điều xem
ra chắc chắn nhất là có hai "Phạm tăng" tên là Ca-diếp Ma-đằng và
Trúc Pháp Lan theo con đường tơ lụa này đến Trung Quốc năm 67 sau công nguyên.
Hai vị này mới đi nửa đường đã được sứ giả tiếp đón trọng hậu.
Sứ giả đó là một đoàn 18 người của
nhà vua Hán Minh Đế, vị này nằm mộng mà thấy "người vàng" đầy ánh
sáng từ phương tây tới. Hán Minh Đế cho đoán mộng thì mới hay có thánh nhân xuất
hiện ở phía tây. Vua sai sứ giả qua Tây Vực để cung thỉnh tượng Phật, không ngờ
gặp cả tượng lẫn kinh do hai vị tăng sĩ đó tải bằng ngựa trắng. Vua cho lập chùa
để thờ, tên chùa là Bạch Mã tự để nhớ đến các con ngựa trắng và bộ kinh đầu
tiên được dịch ra là "Tứ thập nhị kinh". Bạch Mã tự là ngôi chùa đầu
tiên của Trung Quốc, kiến lập năm 68, ngày nay vẫn còn, cách Lạc Dương 9km về
hướng đông.
Sau Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp
Lan, nhiều phạm tăng cũng bằng con đường tơ lụa tiếp tục đến Trung Quốc như
An-thế-cao đến Lạc Dương năm 147, Cưu-ma-la-thập đến Trường An năm 401. Cũng
trong thời đại đó có một kẻ đi ngược từ đông sang tây để hành hương và tìm kiếm
kinh điển. Đó là Pháp Hiển, rời Trường An năm 399, đến Ấn Độ tham bái tất cả
các thánh tích và 15 năm sau mới chịu trở về cố hương. Về nhà Pháp Hiển dịch
kinh và viết tập ký sự "Phật quốc ký".
Pháp Hiển còn làm một việc nữa rất
khác thường là ông lấy đường biển trở về, đó là đường rời Calcutta, ghé thăm
Tích Lan, đi vòng xuống phía nam đảo Sumatra, ngược lên biển đông của Việt Nam,
lách giữa lục địa Trung Quốc và Đài Loan mà trở về Thanh Châu miền đông bắc.
Hơn hai trăm năm sau, như chúng ta đã biết, dưới thời nhà Đường thịnh trị, lại
có một thanh niên khôi ngô 26 tuổi tên là Huyền Trang nhắm con đường tơ lụa ra
đi về phía tây. Mười sáu năm sau, ông lại trở về bằng con đường bộ đó, đem theo
hơn 500 bộ kinh, về đến Đôn Hoàng cuối năm 644.
Tại đó ông viết thư thỉnh cầu Đường
Thái Tông [2] tha tội ngày xưa đã vượt biên ra đi không đợi phép vua. Vua tha lỗi
và Huyền Trang dùng hết 20 năm cuối của đời mình để dịch kinh. Cùng với
Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang đã đi vào lịch sử Phật giáo Trung Quốc như những
nhà dịch kinh vĩ đại nhất với một trình độ văn chương tác tuyệt và nội dung
chính xác. Năm 664 đang dịch kinh Bát-nhã, thấy đã đến giờ từ biệt, ông đến
chùa lễ bái lần cuối rồi ngồi kiết già tịch diệt. Trước đó vài giờ ông nhận
linh ảnh sẽ sinh vào trời Đâu-suất nghe Di-lặc giảng pháp.
[2] Năm 598-649, vị vua
đời Đường rất có công với Phật giáo Trung Quốc. Ông đích thân viết bài "Đại
Đường tam tạng thánh giáo tự", là người giúp cho sự nghiệp dịch kinh của
Huyền Trang được thành tựu
Con đường tơ lụa! Ai đã nghĩ ra ngươi,
đó là thương nhân đi buôn bán kiếm lời hay có ai chủ tâm xây dựng ra nó đầu
công nguyên này để mở đường cho Ca-diếp Ma-đằng, Trúc Pháp Lan, An-thế-cao,
Cưu-ma-la-thập, Pháp Hiển, Bồ-đề Đạt-ma, Huyền Trang và vô số những tăng sĩ
khác, đưa Phật giáo vào Trung Quốc?
VẠN
LÝ TRƯỜNG THÀNH
Việc đầu tiên phải làm khi đến Bắc
Kinh là tôi đi xem Trường thành. Ngày nay du khách, thương nhân hay chính trị
gia ai đến thủ đô Trung Quốc cũng đều tham quan Vạn lý trường thành vì công
trình đồ sộ đó là biểu tượng của xứ sở vĩ đại này. May thay nó không nằm quá xa
Bắc Kinh, chỉ cách khoảng 80km nên du khách ai cũng đến được.
Theo nhiều tài liệu, công trình
này đã được bắt đầu xây dựng trong khoảng giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 5 trước công
nguyên. Đến thời Chiến Quốc [475-221] nó được các nhà vua thời đó tiếp tục tu bổ
để phòng vệ chống "rợ Hung Nô" và các "bộ lạc Tây Vực".
Trung Quốc được Tần Thủy Hoàng thống nhất năm 221 trước công nguyên, ông là người
cho hoàn thành Trường thành thành một dãy liền lạc dài trên 5000km. Dưới thời
nhà Hán (khoảng 200 năm trước và sau công nguyên), Trường thành được phát triển
đến 10.000km, dài hơn "vạn lý". Trong đời nhà Minh (1368-1644], Trường
thành được tu bổ thêm và giữ hình thể đó đến ngày hôm nay. Qua thời gian, Trường
thành đã hư hại nhiều nhưng công trình to lớn này cho thấy ý chí ghê gớm của
các vương triều cũng như công lao đầy mồ hôi và xương máu của nhân dân Trung Quốc.
Ngày nay Trường thành dài khoảng
6700km, chạy qua Hồ Bắc, Thiên Tân, Bắc Kinh, Sơn Tây, Nội Mông, Ninh Hạ, Thiểm
Tây và Cam Túc. Gần Bắc Kinh có một chỗ dễ lên Trường thành, đó là Cư Dung
quan. Đây là chỗ Tần Thủy Hoàng kiến lập nhiều làng dân cư sau khi đã hoàn
thành Trường thành nhưng ngày nay các thị trấn đó không còn tồn tại. Tôi đến
đây, leo Trường thành và cảm nhận cái vĩ đại của một công trình lớn trong một xứ
sở lớn. Những bậc cấp ở đây thường cao hơn nửa mét, chỉ việc leo lên một đoạn của
Trường thành đã đủ mệt, không cần nói đến chuyện xây dựng chúng. Làm sao người
xưa có thể đưa những tảng đá to lớn lên những độ cao như thế và không phải chỉ
dài vài chục cây số như tại Vương Xá của Tần-bà-sa-la [3] mà cả vạn dặm trên những
sườn núi cao?
[3] Xem chương
"Vui đẹp thay thành Vương Xá" trong phần hai.
Về sau khi đi khắp Trung Quốc,
tôi hay nhớ lại cái vĩ đại của Trường thành để thấy một điều: đây là một nước lớn
và dân nước đó không chịu nổi những gì có kích thước nhỏ bé. Đó là một nước có
rặng Hy-mã với những đỉnh núi cao nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ. Ngay tại
Tứ Xuyên mà núi của họ đã cao hơn 7000m. Núi non của Trung Quốc không phải chỉ
hùng vĩ, nó là suối nguồn của thơ văn, của nghệ thuật và của đạo giáo. Những bức
tranh thủy mặc chúng ta hay thấy không hề là sự hư cấu của các họa sĩ, chúng
đúng thực như thế, với mây, với núi và với những căn nhà tí hon trên đỉnh.
Sông của họ là những con sông với
nguồn chảy mãnh liệt, nước sông là "thiên thượng thủy", phát khởi từ
cao nguyên Tây Tạng, băng núi non chảy về đông hải. Dương Tử Giang (Trường
Giang) là sông dài nhất châu Á với 6600km, là nguồn sống của mấy trăm triệu dân
từ tây sang đông. Hồ của Trung Quốc kể chung thì lên đến 2000 hồ, từ các hồ nước
mặn ít người biết đến ở các vùng cao nguyên Tây Tạng, Thanh Hải cho đến các hồ
nước ngọt miền đồng bằng tiếng tăm như Động Đình Hồ, Đại Hồ. Đất của Trung Quốc
quá mênh mông nên tuy bờ biển của họ dài đến 20.000km nhưng thực tế toàn bộ đời
sống diễn ra trong vùng đại lục với sông và hồ. Đối với Trung Quốc thì
"tái xuất giang hồ" đã là hạ sơn về lại với thế giới rồi, họ không cần
nói tới biển.
Nền văn hóa Trung Quốc là một cái
nôi của văn minh loài người, đó là một quá trình năm sáu ngàn năm, người ngày
nay không sao dò tới đáy. Từ bốn năm thế kỷ trước công nguyên ở đó đã ra đời bộ
Kinh Dịch với tham vọng tìm hiểu và vẽ nên đường đi của tạo hóa. Cũng từ trước
công nguyên, có lẽ cùng thời với đức Thích-ca tại Ấn Độ và Heraclitus tại Hy Lạp,
hai thánh nhân vĩ đại ra đời, đó là Khổng Tử và Lão Tử, đại diện hai cực
âm-dương tiêu biểu của tư tưởng Trung Quốc.
Người thì luận về hoạt động và trật
tự xã hội, kẻ thì ám chỉ đường đi mầu nhiệm của đạo, tập hợp triết học Trung Quốc
trong một tổng thể lý tưởng "nội thánh ngoại vương chi đạo". Đó là một
đất nước với những con người có những giấc mơ kỳ lạ, dưới tay họ phải phát sinh
những công trình vĩnh viễn, những dự án xây dựng ngất trời, những cuộc phá hủy
tận gốc mà Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành và việc đốt sách, chôn sống học
trò chỉ là một thí dụ xưa cũ. "Ngu Công dời núi" không hề là một chuyện
đùa với họ, xưa cũng như nay, họ sẵn sàng làm nhiều điều đội đá vá trời. Và
trong thời đại ngày nay công trình tiêu biểu cho đầu óc đó là đập thủy điện tại
Trường Giang tam hiệp.
Trong lịch sử Trung Quốc có một
nhà du khảo nổi tiếng, đó là Từ Hà Khách[4] người đời nhà Minh. Suốt cuộc đời,
ông đi được "nửa nước Trung Quốc". Từ đời nhà Minh đến nay Trung Quốc
đã rộng hơn nhiều, Từ Hà Khách có sống lại cũng chỉ được được một phần. Ngày
nay nước Trung Quốc bao gồm một lục địa khổng lồ vươn dài từ đông hải đến phía
tây tận các nước cộng hòa của Liên Xô cũ, từ miền bình nguyên Hoàng hà đến cao
nguyên Tây Tạng. Trong đất nước này ngoài Hán tộc còn biết bao dân tộc khác như
Mãn Châu, Tây Tạng, Mông cổ. Bên cạnh các nền triết học của Khổng Lão, Trung Quốc
đã thu nhiếp Phật Giáo, biến tôn giáo này thành một hệ tư tưởng hầu như đặc thù
của họ.
[4] 1586-1641
Một dân tộc như thế thì còn lâu mới
chấp nhận một tư tưởng ngoại bang làm chủ đạo cho nền học thuật của mình. Làm
sao một triết học phương tây, dù mang màu sắc gì, có thể làm họ lung lay. Làm
sao một nước láng giềng phương bắc, dù nhất thời giàu mạnh hơn họ, có thể làm họ
chịu thua kém. Đầu thế kỷ hai mươi là thời kỳ đánh dấu một giai đoạn đáng đau
buồn của họ. Họ mở mắt và xấu hổ nhìn thấy một đất nước bị xâu xé, một ý thức hệ
xa lạ lên ngôi, một nền kinh tế nghèo nàn trì trệ, một nền khoa học kỹ thuật lạc
hậu.
Không còn nghi ngờ gì, hảo hán của
Trung Quốc sẽ đưa nước họ cất cánh trong thế kỷ 21. Nhiều hiện tượng đặc biệt
đang báo hiệu sự chuyển biến đó, trong đó có cả sự phục hưng của Phật giáo tại
Trung Quốc.